Thánh Thi 73-83
New Vietnamese Bible
Thánh Thi A-sáp
73 Đức Chúa Trời thật là tốt lành đối với Y-sơ-ra-ên
Và đối với những người có lòng trong sạch.
2 Còn tôi, khi chân tôi gần muốn vấp,
Các bước tôi suýt trượt ngã.
3 Vì khi tôi thấy kẻ ác thịnh vượng[a]
Thì ganh tị với kẻ kiêu ngạo.
4 Vì chúng nó không bị đau đớn[b] khi qua đời,
Thân thể chúng mập mạnh.[c]
5 Chúng nó không gặp gian nan như nhiều người,
Cũng không bị tai họa như bao người khác.
6 Cho nên chúng lấy sự kiêu ngạo làm dây chuyền vàng đeo nơi cổ
Và lấy bạo lực làm áo dài mặc che thân.
7 Mắt chúng nó híp lại vì mập phì,
Lòng chúng nó tràn đầy sự ngu dại.
8 Chúng nhạo báng, ăn nói độc ác,
Chúng huênh hoang đe dọa đàn áp người ta.
9 Miệng nói nghịch thiên thượng,
Lưỡi nói hành[d] thế nhân.
10 Cho nên dân chúng quay lại cùng bọn chúng nó,
Chấp nhận nhiều điều chúng đề ra.[e]
11 Chúng nói rằng: “Làm sao Đức Chúa Trời hiểu nổi,
Thể nào Đấng Chí Cao biết được?”
12 Những kẻ ác là như thế;
Chúng luôn luôn yên ổn, giàu có càng thêm lên.
13 Thật uổng công cho tôi cứ giữ lòng trong sạch,
Rửa tay trong sự vô tội.
14 Vì hằng ngày tôi bị tai họa,
Mỗi buổi sáng tôi bị trừng phạt.
15 Nếu tôi nói rằng: Tôi sẽ tuyên bố như thế,
Thì tôi đã phạm tội bất trung với thế hệ con dân Ngài.
16 Nhưng khi tôi suy gẫm để hiểu thấu điều ấy,
Thì nó là nan đề khó giải cho tôi.[f]
17 Cho đến khi tôi vào trong Nơi Thánh của Đức Chúa Trời,
Thì tôi nhận ra kết cuộc của chúng.
18 Thật vậy, Ngài đặt chúng tại nơi trơn trợt,
Ngài làm chúng sụp ngã xuống chỗ diệt vong.
19 Thể nào chúng bị hủy diệt trong giây phút,
Chúng nó bị càn quét trong sự kinh hoàng.
20 Lạy Chúa, như cơn mộng sau khi tỉnh giấc thế nào,
Thì Ngài sẽ quên[g] hình bóng chúng
Khi Ngài thức dậy thể ấy.
21 Vì khi tâm hồn tôi cay đắng,
Lòng dạ tôi đớn đau,
22 Thì tôi ngu dại, thiếu hiểu biết,
Tôi như thú vật trước mặt Ngài.
23 Tuy vậy, tôi vẫn tiếp tục khắng khít với Ngài,
Và Ngài nắm lấy tay phải tôi.
24 Ngài dùng sự giáo huấn để hướng dẫn tôi,
Và sau đó tiếp nhận tôi trong vinh quang.
25 Trên trời, tôi có ai trừ ra Chúa.
Dưới đất, tôi cũng không ước ao ai ngoài Ngài.
26 Tâm hồn và thể xác tôi có thể tàn tạ,
Nhưng Đức Chúa Trời là sức lực[h] của lòng tôi
Và là phần cơ nghiệp của tôi muôn đời.
27 Vì kìa, những kẻ xa cách Ngài sẽ bị hư vong,
Ngài sẽ hủy diệt tất cả những kẻ bất trung[i] với Ngài.
28 Còn tôi, thật là phúc lành cho tôi được ở gần Đức Chúa Trời,
Tôi đã nhờ CHÚA làm nơi trú ẩn của tôi
Để tôi công bố mọi công việc Ngài.
Thơ A-sáp Để Dạy Dỗ
74 Lạy Đức Chúa Trời, sao Ngài từ bỏ chúng tôi mãi mãi,
Sao Ngài nổi giận cùng đàn chiên của đồng cỏ Ngài?
2 Xin nhớ lại dân Ngài, là dân Ngài đã mua chuộc từ ngàn xưa,
Bộ tộc đã được Ngài cứu chuộc, để làm cơ nghiệp của Ngài.
Xin nhớ lại núi Si-ôn này, nơi Ngài đã ngự.
3 Xin hãy bước chân đến chỗ đổ nát hoàn toàn,[j]
Mà kẻ thù đã hủy phá tất cả trong đền thánh.[k]
4 Các kẻ thù đã gầm thét giữa nơi thờ phượng Ngài,[l]
Chúng đã dựng cờ lên làm dấu hiệu.
5 Chúng nó giống như kẻ
Giơ rìu lên chặt cây.
6 Rồi chúng dùng dao và búa đập bể
Các trần gỗ chạm khắc.
7 Chúng lấy lửa thiêu hủy đền thánh Ngài đến tận đất,
Chúng làm cho nơi danh Ngài ngự thành ô uế.
8 Chúng tự bảo trong lòng rằng: “Chúng ta sẽ đè bẹp.”
Chúng thiêu đốt mọi nơi thờ phượng Đức Chúa Trời trên đất.[m]
9 Chúng tôi không thấy dấu hiệu,
Cũng không còn tiên tri nào;
Không ai trong chúng tôi biết việc này kéo dài bao lâu nữa.
10 Lạy Đức Chúa Trời, kẻ thù sẽ chế giễu cho đến bao giờ?
Kẻ nghịch sẽ nhục mạ danh Ngài mãi sao?
11 Sao Ngài rút tay lại, tức là tay phải Ngài?
Xin hãy giang tay ra khỏi lòng và hủy diệt chúng.
12 Nhưng Đức Chúa Trời là vua của tôi từ ngàn xưa,
Ngài thực hiện các sự giải cứu[n] khắp trên đất.
13 Chính Ngài bởi quyền năng mình phân rẽ biển cả,
Đập bể đầu quái vật dưới nước.
14 Chính Ngài chà nát đầu Lê-vi-a-than,
Ban chúng làm đồ ăn cho dân trong sa mạc.
15 Chính Ngài khai nguồn, mở suối nước,
Ngài làm khô cạn dòng sông đang chảy.
16 Ban ngày thuộc về Ngài, ban đêm cũng thuộc về Ngài.
Ngài đã thiết lập mặt trời và các tinh tú.
17 Ngài phân định tất cả bờ cõi trên đất,
Lập ra mùa hè, mùa đông.
18 Lạy CHÚA, xin nhớ điều này:
Kẻ thù chế giễu, dân ngu dại sỉ vả danh Ngài.
19 Xin đừng trao mạng sống chim bồ câu của Chúa cho thú dữ;
Xin đừng quên mạng sống những kẻ cùng khốn của Chúa đời đời.
20 Xin nhớ đến giao ước Ngài
Vì những nơi tối tăm trong xứ đầy những sự bạo tàn.
21 Xin chớ để kẻ bị đàn áp chịu xấu hổ;
Nguyện những kẻ khốn cùng và nghèo khổ ca tụng danh Ngài.
22 Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy đứng lên, bênh vực cho lý do của Ngài.
Xin nhớ rằng những kẻ ngu dại xúc phạm đến Ngài mỗi ngày.
23 Xin đừng quên tiếng của các kẻ thù Ngài,
Là tiếng gầm thét không ngừng nổi lên chống lại Ngài.
Thánh Thi Của A-sáp, Theo Điệu Chớ Hủy Diệt, Bài Ca Cho Nhạc Trưởng
75 Lạy Đức Chúa Trời, chúng tôi cảm tạ Ngài, chúng tôi cảm tạ Chúa.[o]
Vì danh Ngài thật gần chúng tôi,[p]
Mọi người tường thuật những việc diệu kỳ Ngài làm.
2 Khi đến thời điểm Ta đã định,
Thì Ta sẽ phán xét công bình.
3 Khi trái đất và cả dân cư trên ấy run rẩy rúng động,[q]
Thì chính Ta sẽ giữ vững nền móng nó. Sê-la
4 Ta phán cùng kẻ kiêu ngạo rằng: Chớ kiêu ngạo,
Cùng kẻ ác rằng: Chớ khoe khoang sức mạnh.[r]
5 Chớ khoa trương sức mạnh nghịch trời cao,
Cũng đừng giương cổ[s] tranh cãi.
6 Vì không phải từ phương đông hay phương tây,
Cũng không phải từ sa mạc mà có sự tôn trọng.[t]
7 Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng phán xét,
Ngài hạ kẻ này xuống, nhắc kẻ kia lên.
8 Vì CHÚA cầm chén trong tay,
Chén đầy rượu pha, sủi bọt.
Ngài đổ rượu ra, tất cả những kẻ ác trên đất sẽ uống rượu ấy,
Thật vậy, chúng sẽ phải uống cạn cả cặn.
9 Còn tôi, tôi sẽ luôn luôn công bố về điều đó,[u]
Tôi sẽ ca ngợi Đức Chúa Trời của Gia-cốp.
10 Và Chúa sẽ hủy diệt hết sức mạnh[v] của kẻ ác,
Còn sức mạnh của người công chính sẽ được thêm lên.[w]
Thánh Thi Của A-sáp. Bài Ca Cho Nhạc Trưởng, Dùng Với Nhạc Cụ Bằng Dây
76 Nơi Giu-đa người ta biết rõ Đức Chúa Trời;
Danh Ngài thật vĩ đại trong Y-sơ-ra-ên.
2 Đền tạm của Ngài ở Sa-lem;
Nơi ở của Ngài là Si-ôn.
3 Tại đó Ngài bẻ gãy cung tên lửa,
Khiên, gươm giáo và vũ khí chiến tranh. Sê-la
4 Ngài rực rỡ uy nghi
Trên[x] núi chiến thắng.[y]
5 Những kẻ gan dạ đã bị tước đoạt khí giới;
Chúng chìm vào giấc ngủ đời đời;[z]
Mọi kẻ mạnh mẽ của chúng
Đều không nhấc nổi tay mình lên.[aa]
6 Lạy Đức Chúa Trời của Gia-cốp, khi Ngài quở trách,
Ngựa và xe chiến mã đều ngã chết.[ab]
7 Lạy Chúa, chính Ngài thật đáng sợ!
Ai có thể đứng nổi trước mặt Ngài khi Ngài nổi giận?
8 Từ trời cao Ngài tuyên bố phán quyết;
Đất run sợ và im lặng,
9 Khi Đức Chúa Trời đứng dậy phán xét
Để giải cứu tất cả những kẻ khốn cùng trên đất. Sê-la
10 Thật vậy, ngay cả cơn giận của loài người cũng làm Chúa được ca ngợi;
Những kẻ sống sót qua cơn giận sẽ hành hương dự lễ.[ac]
11 Hãy khấn nguyện và hoàn thành lời khấn nguyện với CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi.
Hỡi mọi dân tộc chung quanh Ngài,
Hãy dâng cống lễ cho Đấng đáng kính sợ.
12 Ngài vứt bỏ sự kiêu căng[ad] của những kẻ cai trị;
Khiến các vua trên đất đều kính sợ Ngài.
Niềm An Ủi Nơi Đức Chúa Trời
77 Tôi lớn tiếng cầu khẩn Đức Chúa Trời;
Tôi cầu khẩn Đức Chúa Trời và Ngài lắng tai nghe tôi.
2 Trong ngày gian truân tôi tìm kiếm Chúa;
Ban đêm tôi giơ tay cầu khẩn Ngài không mệt mỏi;
Tâm hồn[ae] tôi không chịu ai an ủi.
3 Tôi nhớ đến Đức Chúa Trời và than vãn;
Tôi suy tư và tâm linh tôi kiệt quệ. Sê-la
4 Ngài giữ cho mí mắt tôi cứ mở ra;
Tôi quá bối rối không thể nói nên lời.
5 Tôi nghĩ đến những ngày thời đại trước,
Vào những năm xa xưa.
6 Ban đêm tôi nhớ lại bài ca của tôi;[af]
Tôi suy tư trong lòng và tâm linh tự vấn.
7 Lẽ nào Chúa sẽ từ bỏ chúng ta đời đời
Và không bao giờ ban ơn cho chúng ta nữa?
8 Lẽ nào tình thương của Ngài đã chấm dứt mãi mãi,
Những lời hứa của Ngài đã không còn đời đời?
9 Lẽ nào Đức Chúa Trời đã quên ban ơn?
Hay trong cơn giận Ngài đã khép lòng thương xót? Sê-la
10 Và tôi nói: Điều đau đớn cho tôi là:
Cánh tay phải[ag] của Đấng Chí Cao đã thay đổi![ah]
11 Tôi sẽ nhắc lại những công việc của CHÚA
Và tôi nhớ đến những phép lạ của Ngài thuở xưa.
12 Tôi sẽ suy gẫm về tất cả những phép lạ của Ngài
Và suy tư về những công việc Ngài đã làm.
13 Lạy Đức Chúa Trời, đường lối của Ngài là thánh khiết;[ai]
Có Thần nào vĩ đại như Đức Chúa Trời chăng?
14 Ngài là Đức Chúa Trời, Đấng làm phép lạ;
Ngài bày tỏ quyền năng Ngài giữa các dân.
15 Ngài đã đưa tay cứu chuộc con dân Ngài,
Tức là dòng dõi[aj] Gia-cốp và Giô-sép. Sê-la
16 Lạy Đức Chúa Trời,
Dòng nước thấy Ngài thì sợ hãi;
Vực thẳm thấy Ngài thì run rẩy.
17 Các tầng mây làm đổ cơn mưa,
Bầu trời phát ra tiếng sấm;
Những chớp nhoáng của Ngài lóe lên.
18 Tiếng sấm của Ngài ở trong cơn gió lốc;
Chớp nhoáng chiếu sáng thế gian;
Quả đất rung chuyển và lay động.
19 Con đường của Ngài xuyên qua biển cả;
Các lối đi của Ngài vượt qua biển sâu;
Nhưng không ai tìm thấy[ak] được vết chân Ngài.
20 Ngài dùng tay Môi-se và A-rôn
Dẫn dắt dân Ngài như một đàn chiên.
Thơ Của A-sáp Để Dạy Dỗ
78 Hỡi dân ta, hãy lắng tai nghe lời dạy dỗ của ta;
Hãy nghiêng tai nghe lời từ miệng ta.
2 Ta sẽ mở miệng nói lời châm ngôn,
Giải câu đố của thời cổ xưa,
3 Là điều chúng ta đã nghe, đã biết
Và tổ phụ đã thuật lại cho chúng ta.
4 Chúng ta sẽ không giấu giếm những điều này với con cháu mình,
Nhưng thuật lại cho hậu thế
Những điều đáng ca ngợi của CHÚA,
Quyền năng của Ngài cùng những phép lạ Ngài đã làm.
5 Ngài lập luật lệ của Ngài nơi Gia-cốp
Và định Kinh Luật của Ngài trong Y-sơ-ra-ên.
Ngài truyền tổ tiên chúng ta
Phải dạy Kinh Luật cho con cháu họ,
6 Để hậu thế, tức là những con cháu sẽ sinh ra, biết Kinh Luật,
Rồi đến phiên chúng tiếp tục[al]
Thuật lại cho con cháu mình.
7 Hầu cho chúng nó để lòng trông cậy Đức Chúa Trời,
Không quên những công việc Ngài đã làm
Và gìn giữ các điều răn Ngài.
8 Để chúng sẽ không như tổ tiên mình,
Là thế hệ cứng đầu, phản loạn;
Một thế hệ có lòng không kiên định,
Tâm thần không trung tín cùng Đức Chúa Trời.
9 Con cháu Ép-ra-im vũ trang cung tên
Nhưng bỏ chạy trong ngày lâm trận.
10 Chúng không giữ giao ước của Đức Chúa Trời,
Từ chối sống theo Kinh Luật.
11 Chúng quên đi những công việc Ngài đã làm
Và những phép lạ Ngài đã bày tỏ cho chúng.
12 Ngài đã làm phép lạ trước mắt tổ tiên họ tại nước Ai-cập,
Nơi đồng bằng Xô-an.
13 Ngài rẽ nước biển cho họ đi xuyên qua
Và làm cho nước đứng lại như bức tường.
14 Ban ngày Ngài hướng dẫn họ bằng đám mây;
Suốt đêm Ngài hướng dẫn họ qua ánh sáng của lửa.
15 Ngài chẻ đá trong sa mạc
Và cho họ uống nước thỏa thích như từ vực sâu.
16 Ngài làm suối tuôn ra từ tảng đá
Và nước chảy ra như dòng sông.
17 Nhưng chúng cứ tiếp tục phạm tội với Ngài,
Phản loạn cùng Đấng Chí Cao trong sa mạc.
18 Chúng cố ý[am] thử Đức Chúa Trời,
Đòi thức ăn mà họ thích.[an]
19 Chúng nói nghịch cùng Đức Chúa Trời rằng:
“Đức Chúa Trời có thể đãi tiệc trong sa mạc được không?
20 Kìa, Ngài đã đập tảng đá cho nước phun ra
Và suối nước tuôn tràn;
Nhưng Ngài có thể cũng ban bánh
Hay cung cấp thịt cho dân Ngài chăng?”
21 Cho nên khi CHÚA nghe như thế Ngài rất tức giận;
Lửa bốc lên thiêu[ao] Gia-cốp;
Ngài cũng nổi giận cùng Y-sơ-ra-ên;
22 Vì chúng không tin tưởng nơi Đức Chúa Trời,
Cũng không tin cậy vào sự giải cứu của Ngài.
23 Dầu vậy, Ngài ra lệnh cho các tầng trời trên cao;
Ngài mở cửa trời;
24 Đổ mưa ma-na[ap] xuống cho họ ăn,
Ban thóc từ trời cho họ.
25 Mỗi người đều ăn bánh của thiên sứ;
Ngài gởi thức ăn cho chúng đầy đủ.
26 Ngài tạo gió đông từ trời
Và bởi quyền năng mình dẫn gió nam đến.
27 Ngài làm mưa thịt rơi trên chúng như bụi đất
Và ban chim có cánh như cát bãi biển;
28 Ngài cho chim rơi vào giữa trại,
Xung quanh lều họ ở.[aq]
29 Nên họ ăn thịt chim no nê
Vì Ngài đem cho họ vật họ thích.
30 Nhưng trước khi chán chê[ar] vật họ thích;
Khi thịt vẫn còn trong miệng;
31 Đức Chúa Trời nổi giận cùng họ;
Ngài giết những kẽ mạnh mẽ nhất của chúng;
Ngài hạ sát những thanh niên của Y-sơ-ra-ên.
32 Mặc dù như thế họ vẫn phạm tội,
Vẫn không tin các phép lạ Ngài làm.
33 Cho nên Ngài làm cho ngày tháng chúng nó tiêu tan như hơi thở,[as]
Cho năm tháng chúng nó tận cùng trong kinh hoàng.[at]
34 Khi Ngài sát hại chúng, chúng mới tìm kiếm Ngài,
Ăn năn[au] và cầu khẩn Đức Chúa Trời.
35 Chúng nhớ lại rằng Đức Chúa Trời là vầng đá của mình,
Đức Chúa Trời Chí Cao là Đấng Cứu Chuộc họ.
36 Nhưng chúng chỉ đãi bôi ngoài miệng với Ngài,
Lưỡi chúng nó dối trá cùng Ngài.
37 Lòng chúng nó không kiên định cùng Ngài,
Cũng không trung tín với giao ước Ngài.
38 Nhưng Ngài vì lòng thương xót,
Tha thứ sự gian ác,
Không hủy diệt họ.
Nhiều lần Ngài kiềm chế cơn giận mình,
Không tỏ hết cơn thịnh nộ Ngài,
39 Vì Ngài nhớ lại rằng chúng nó chỉ là người phàm,[av]
Là cơn gió[aw] thoáng qua và không trở lại.
40 Đã bao nhiêu lần chúng phản loạn cùng Ngài trong sa mạc,
Làm buồn lòng Ngài nơi đồng hoang.
41 Rồi chúng lại thử Đức Chúa Trời
Và khiêu khích Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
42 Chúng nó không nhớ đến quyền năng Ngài,[ax]
Hay ngày Ngài giải cứu chúng khỏi kẻ áp bức;
43 Thể nào Ngài đã tỏ các dấu lạ tại Ai-cập,
Làm những phép màu nơi đồng bằng Xô-an.
44 Ngài biến các sông của người Ai-cập thành máu
Nên họ không thể uống từ các nguồn nước mình.
45 Ngài sai bầy sâu bọ đến cắn phá chúng
Và ếch nhái đến phá hại chúng.
46 Ngài ban mùa màng họ cho châu chấu
Và hoa quả của họ cho cào cào.
47 Ngài phá hủy vườn nho của họ bằng mưa đá
Và cây vả bằng tuyết giá.
48 Ngài phó súc vật của họ cho mưa đá
Và chiên của họ cho sấm sét.
49 Ngài đổ xuống trên họ cơn giận dữ, thịnh nộ,
Căm phẫn và khốn khổ,
Tức là một đoàn sứ giả hủy diệt.
50 Ngài mở đường cho cơn giận Ngài,
Không dung thứ linh hồn họ khỏi chết
Nhưng phó mạng sống họ cho nạn dịch.
51 Ngài đánh chết tất cả con đầu lòng trong Ai-cập,
Tức là sinh lực đầu tiên trong các trại của Cham.[ay]
52 Ngài dẫn dân Ngài ra như đàn chiên,
Ngài hướng dẫn họ trong sa mạc như dẫn đàn súc vật.
53 Ngài hướng dẫn họ an toàn, họ không sợ hãi;
Nhưng biển tràn ngập kẻ thù họ.
54 Ngài đem họ vào vùng đất thánh,
Đến núi mà cánh tay phải Ngài đã chiếm được.
55 Ngài đánh đuổi các nước khỏi trước mặt họ;
Bắt thăm phân chia ruộng đất của chúng làm sản nghiệp;
Ngài cho các bộ tộc Y-sơ-ra-ên định cư trong nhà cửa[az] của các dân ấy.
56 Nhưng họ đã thử,
Đã phản loạn cùng Đức Chúa Trời Chí Cao
Và không tuân giữ các luật lệ của Ngài.
57 Họ trở mặt, bội bạc như tổ tiên mình;
Họ có hành động không đáng tin cậy như cây cung gãy.[ba]
58 Chúng khiêu khích Ngài tức giận vì những miếu thờ;
Chúng làm Ngài bực mình[bb] vì những tượng thần của chúng.
59 Khi Đức Chúa Trời nghe như thế, Ngài rất tức giận;
Ngài hoàn toàn từ bỏ Y-sơ-ra-ên;
60 Ngài rời bỏ nơi ngự của Ngài ở Si-lô,
Tức là đền tạm nơi Ngài ngự giữa loài người.
61 Ngài để uy lực của Ngài bị bắt cầm tù
Và giao huy hoàng[bc] của Ngài vào tay kẻ thù nghịch.
62 Ngài bỏ dân Ngài cho gươm giáo
Và vô cùng tức giận cùng họ;[bd]
63 Các thanh niên bị binh lửa ăn nuốt
Cho nên những thiếu nữ không còn người cưới mình;[be]
64 Những thầy tế lễ gục ngã vì gươm giáo
Nhưng các quả phụ của họ không thể khóc than.
65 Thế rồi Chúa thức dậy như từ giấc ngủ,
Như dũng sĩ hăng say[bf] vì rượu.
66 Ngài đẩy lui[bg] quân thù,
Làm cho họ nhục nhã đời đời.
67 Ngài từ bỏ giòng họ[bh] Giô-sép,
Không chọn bộ tộc Ép-ra-im.
68 Nhưng Ngài chọn bộ tộc Giu-đa
Và núi Si-ôn là nơi Ngài chuộng.
69 Ngài xây đền thánh của Ngài như trời cao,
Như quả đất mà Ngài đã lập đời đời.
70 Ngài chọn Đa-vít làm tôi tớ mình;
Ngài rút ông ra khỏi chuồng chiên;
71 Từ việc chăm sóc đàn chiên,
Ngài cất ông lên chăn giữ nhà Gia-cốp, dân Ngài
Và chăn giữ Y-sơ-ra-ên, cơ nghiệp Ngài.
72 Đa-vít đã lấy lòng thành thật chăn dắt họ
Và dùng tài năng[bi] khéo léo lãnh đạo họ.
Cầu Nguyện Cho Giê-ru-sa-lem Và Dân Tộc Do Thái
79 Lạy Đức Chúa Trời, các nước đã xâm phạm cơ nghiệp Ngài;
Làm cho đền thánh Ngài thành ô uế;
Và gây cho Giê-ru-sa-lem đổ nát.
2 Chúng vứt thây các tôi tớ Ngài cho chim trời ăn thịt;
Và bỏ xác những người trung tín của Ngài
Cho thú rừng trên đất.
3 Chúng làm đổ máu họ như nước chảy
Quanh khắp Giê-ru-sa-lem,
Nhưng không có ai chôn cất.
4 Chúng tôi trở thành cớ chế giễu cho các dân láng giềng;
Là lời chế nhạo, vật đáng khinh cho những nước chung quanh.
5 Lạy CHÚA, cho đến bao giờ? Ngài sẽ giận đến đời đời ư?
Cơn thịnh nộ ghen tương của Ngài vẫn cháy như lửa chăng?
6 Xin hãy đổ cơn giận Ngài trên các nước
Không nhận biết Ngài;
Và trên các vương quốc
Không cầu khẩn danh Ngài;
7 Vì chúng đã ăn nuốt Gia-cốp,[bj]
Và phá hủy quê hương người.
8 Xin chớ ghi nhớ tội lỗi trước kia[bk] của chúng tôi;
Xin lòng thương xót Ngài mau mau đến giúp chúng tôi
Vì chúng tôi mòn mỏi vô cùng.
9 Lạy Đức Chúa Trời, Đấng Cứu Rỗi chúng tôi,
Xin giúp đỡ chúng tôi vì vinh quang của Danh Ngài;
Xin cứu chuộc và tha thứ tội lỗi chúng tôi
Vì cớ Danh Ngài.
10 Tại sao các nước dám hỏi:
Đức Chúa Trời của chúng nó ở đâu?
Ngay trước mắt chúng tôi, nguyện các nước nếm biết
Sự báo thù huyết mà các tôi tớ Ngài đã đổ ra.
11 Nguyện tiếng than thở của những kẻ tù đày thấu đến trước mặt Ngài;
Tùy quyền năng vĩ đại của Ngài,
Xin hãy cứu thoát[bl] những kẻ bị đầy đọa cho chết.
12 Lạy Chúa, xin hãy báo trả gấp bảy lần vào lòng những nước láng giềng
Về lời chế giễu mà họ đã chế giễu Ngài.
13 Còn chúng tôi là dân của Ngài,
Là đàn chiên của đồng cỏ Ngài;
Chúng tôi sẽ cảm tạ Ngài mãi mãi,
Sẽ tiếp tục ca ngợi Ngài đời đời.
Theo Điệu Hoa Huệ; Cho Nhạc Trưởng
80 Lạy Đấng chăn giữ Y-sơ-ra-ên,
Đấng hướng dẫn dòng dõi Giô-sép như đàn chiên,
Xin hãy lắng tai nghe.
Lạy Đấng ngự trên Chê-ru-bim, xin hãy chiếu sáng
2 Trước mặt Ép-ra-im, Bên-gia-min và Ma-na-se.
Xin hãy tỏ quyền năng của Ngài ra
Và đến giải cứu chúng tôi.
3 Lạy Đức Chúa Trời,
Xin hãy phục hồi chúng tôi lại;
Xin ân sủng[bm] Ngài tỏa sáng thì chúng tôi sẽ được cứu rỗi.
4 Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân,
Ngài giận dữ, không nghe lời cầu nguyện của dân Ngài cho đến bao giờ?
5 Ngài đã cho họ ăn bánh giọt lệ,
Và uống đầy nước mắt.
6 Ngài làm chúng tôi thành vật tranh giành giữa các nước láng giềng;
Các kẻ thù cùng nhau cười nhạo chúng tôi.[bn]
7 Lạy Đức Chúa Trời Vạn Quân,
Xin hãy phục hồi chúng tôi trở lại;
Xin ân sủng Ngài tỏa sáng thì chúng tôi sẽ được cứu rỗi.
8 Ngài đã đem cây nho[bo] ra khỏi Ai-cập;
Ngài đánh đuổi các nước đi và trồng nó.
9 Ngài sửa soạn đất sạch sẽ cho cây nho;
Nó đâm rễ và mọc đầy trên đất;
10 Bóng cây che các núi đồi
Và cành nó che phủ các cây tùng của Đức Chúa Trời.[bp]
11 Các cành nho vươn ra tận biển,[bq]
Chồi nó lan rộng đến tận sông.[br]
12 Sao Ngài lại phá đổ tường rào nó?
Để mọi kẻ qua lại hái trộm nho?
13 Để heo rừng cắn phá,
Và thú đồng phá hại?
14 Lạy Đức Chúa Trời Vạn Quân, xin hãy trở lại;
Từ trên trời xin Ngài nhìn xuống,
Đoái xem và chăm sóc cây nho này,
15 Là cây mà tay Ngài đã trồng,
Là con trai[bs] mà Ngài đã nuôi dưỡng cho mình.
16 Cây nho bị lửa đốt và bị chặt đi.
Họ bị hủy diệt vì nét mặt trách mắng của Ngài.
17 Nguyện tay Ngài phù hộ người ngồi bên[bt] tay phải Ngài,
Là con người mà Ngài đã nuôi dưỡng cho mình.
18 Chúng tôi sẽ không từ bỏ Ngài nữa.
Xin Ngài cho chúng tôi sống, thì chúng tôi sẽ cầu khẩn danh Ngài.
19 Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời Vạn Quân,
Xin hãy làm cho chúng tôi quay trở lại.
Xin ân sủng Ngài tỏa sáng, thì chúng tôi sẽ được cứu rỗi.
Lời Kêu Gọi Vâng Phục Chúa
81 Hãy lớn tiếng ca ngợi Đức Chúa Trời, là sức lực chúng ta;
Hãy reo hò vui vẻ cho Đức Chúa Trời của Gia-cốp.
2 Hãy bắt đầu âm nhạc, hãy đánh trống cơm,
Hãy khảy đàn hạc du dương hòa cùng đàn lia.
3 Hãy thổi tù và vào ngày trăng mới,
Và ngày trăng tròn để báo hiệu các ngày lễ của chúng ta.
4 Vì ấy là một quy luật cho Y-sơ-ra-ên,
Luật từ Đức Chúa Trời của Gia-cốp;
5 Một sắc luật[bu] Ngài lập với Giô-sép
Khi Ngài đi ra đánh[bv] nước Ai-cập;
Nơi mà tiếng nói tôi nghe nhưng không hiểu.[bw]
6 Ta đã cất đi gánh nặng khỏi vai ngươi[bx]
Và tay ngươi khỏi xách giỏ.
7 Khi gian truân, ngươi cầu khẩn và Ta giải cứu ngươi;
Ta đã đáp lời ngươi từ nơi bí ẩn của sấm sét;
Ta đã thử ngươi nơi mạch nước Mê-ri-ba. Sê-la
8 Hỡi dân Ta, hãy lắng tai nghe lời Ta khuyên;
Hỡi Y-sơ-ra-ên, ước gì ngươi lắng tai nghe Ta.
9 Chớ có một thần lạ nào giữa vòng các ngươi,
Cũng không được thờ lạy một thần ngoại quốc nào.
10 Chính Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi;
Ta đã đem ngươi ra khỏi đất Ai-cập.
Hãy há to miệng ra, Ta sẽ đút đầy.
11 Nhưng dân Ta không nghe lời Ta;
Y-sơ-ra-ên không muốn vâng phục Ta.
12 Nên Ta để chúng nó đi theo tấm lòng ương ngạnh của chúng nó;
Theo mưu ý riêng của mình.
13 Ước gì dân Ta nghe Ta;
Ước gì Y-sơ-ra-ên đi theo đường lối Ta;
14 Thì Ta sẽ sớm chinh phục kẻ thù của chúng
Và đưa tay chống lại địch thủ của chúng nó.
15 Những kẻ ghét CHÚA sẽ phải quy phục Ngài[by]
Chúng sẽ phải quy phục[bz] Ngài đời đời.
16 Nhưng Ngài sẽ lấy lúa mì tốt nhất để nuôi Y-sơ-ra-ên,[ca]
Và lấy mật từ đá làm chúng thỏa dạ.[cb]
Thơ A-sáp
82 Đức Chúa Trời ngự trong hội đồng Ngài;
Ngài phán xét giữa các thần.
2 Các ngươi sẽ xét xử bất công
Và thiên vị kẻ ác cho đến bao giờ? Sê-la
3 Hãy xét xử ngay thẳng cho những người yếu kém và kẻ mồ côi;
Hãy giữ lẽ công bình cho kẻ khốn cùng và người nghèo khó.
4 Hãy cứu vớt kẻ yếu kém và nghèo khổ;
Giải cứu họ khỏi tay những kẻ ác.
5 Các ngươi[cc] không biết cũng không hiểu;
Các ngươi đi lại trong tối tăm;
Mọi nền tảng của quả đất đều xiêu vẹo.
6 Ta bảo: “Các ngươi là thần;
Tất cả các ngươi đều là con của Đấng Chí Cao;
7 Nhưng các ngươi sẽ chết như người phàm,
Sẽ ngã quỵ như một trong những vua chúa cai trị.”
8 Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy đứng dậy và phán xét thế gian
Vì tất cả các dân tộc đều là cơ nghiệp của Ngài.
Thơ A-sáp, Bài Hát
83 Lạy Đức Chúa Trời, xin chớ im lặng!
Lạy Đức Chúa Trời, xin đừng nín lặng, xin chớ điềm nhiên.
2 Vì kìa, những kẻ thù của Ngài náo động,
Những kẻ ghét Ngài vênh mặt lên.[cd]
3 Chúng lập mưu nham hiểm chống dân Chúa,
Chúng bàn kế hại những kẻ Ngài bảo vệ.[ce]
4 Chúng bảo: “Chúng ta hãy đến, tiêu diệt dân tộc chúng nó,
Để không ai còn nhớ đến tên Y-sơ-ra-ên nữa.”
5 Vì chúng đồng âm mưu,
Chúng kết ước chống lại Ngài:
6 Các dân[cf] Ê-đôm và Ích-ma-ên,
Mô-áp và Ha-ga-rít,
7 Ghê-banh, A-môn, A-ma-léc,
Phi-li-tin và dân Ty-rơ;
8 Dân A-si-ri cũng hiệp với chúng nó
Mà hỗ trợ cho con cháu Lót.
9 Xin hãy làm cho chúng nó như Ngài đã làm cho Ma-đi-an,
Cho Si-sê-ra, cho Gia-bin tại sông Ki-sôn;
10 Chúng nó bị tiêu diệt tại Ên-đô-rơ,
Bị làm phân bón đất.
11 Hãy làm cho những hạng thượng lưu chúng nó ra như Ô-rếp và Xê-ép;
Cùng tất cả hoàng tử chúng nó giống như Xê-bách và Xanh-mu-na;
12 Vì chúng nó nói rằng chúng ta hãy chiếm lấy cho mình
Đất đai của Đức Chúa Trời.
13 Đức Chúa Trời tôi ôi! Xin hãy làm cho chúng nó
Như bụi trong cơn gió lốc; như rơm rạ trước cơn gió.
14 Như lửa thiêu hủy rừng,
Như ngọn lửa đốt cháy các núi thể nào;
15 Xin Ngài dùng bão táp đuổi bắt chúng nó,
Và lấy dông tố làm chúng kinh hoàng thể ấy.
16 Lạy CHÚA, xin Ngài làm cho mặt chúng đầy dẫy nhuốc nhơ;
Để chúng nó tìm cầu danh Ngài.
17 Nguyện chúng nó bị hổ thẹn và kinh hoàng đời đời,
Nguyện chúng nó bị nhục nhã và hủy diệt;
18 Nguyện chúng nó biết rằng chỉ một mình Ngài, danh là CHÚA,
Là Đấng Tối Cao tể trị trên cả thế gian.
Footnotes
- 73:3 Nt: bình an
- 73:4 Nt: trói buộc, xiềng xích
- 73:4 Ctd: bụng có mỡ
- 73:9 Nt: đi băng qua đất
- 73:10 Nt: câu này không rõ nghĩa
- 73:16 Nt: quá mệt nhọc cho mắt tôi
- 73:20 Nt: khinh bỉ
- 73:26 Nt: núi đá của lòng tôi
- 73:27 Nt: ngoại tình, không chung thủy
- 74:3 Nt: tiếp tục
- 74:3 Nt: Nơi Thánh
- 74:4 Ctd: nơi Ngài gặp mặt
- 74:8 Ở đây chỉ đất hứa, nước Do Thái
- 74:12 Ctd: các sự chiến thắng
- 75:1 Ctd: chúng tôi cảm tạ vì danh Ngài ở gần
- 75:1 Các bản dịch cổ LXX và Syr: và kêu cầu danh Ngài. Người ta kể lại
- 75:3 Ctd: tan rã
- 75:4 Nt: giương sừng lên
- 75:5 Ctd: cứng cổ
- 75:6 Ctd: “… từ phương nam hay phương bắc” hoặc “từ sa mạc hay núi non.”
- 75:9 LXX: vui mừng
- 75:10 Nt: chặt hết các sừng
- 75:10 Nt: sừng của người công chính sẽ được nâng lên
- 76:4 Nt: từ
- 76:4 Các bản dịch cổ LXX và Syr: núi đời đời
- 76:5 Nt: ngủ giấc ngủ của chúng
- 76:5 Nt: không tìm thấy tay mình
- 76:6 Nt: đi vào giấc ngủ
- 76:10 Câu này không rõ ý nghĩa. Dịch theo LXX
- 76:12 Ctd: Ngài đập tan tinh thần kiêu ngạo
- 77:2 Nt: linh hồn
- 77:6 Các bản dịch cổ LXX và Syr: tôi suy tư
- 77:10 Nt: cánh tay phải thường để chỉ quyền năng
- 77:10 Ctd: các năm của cánh tay phải; câu này trong nguyên văn không rõ nghĩa
- 77:13 Ctd: ở Nơi Thánh
- 77:15 Nt: các con trai
- 77:19 Nt: biết
- 78:6 Nt: đứng lên
- 78:18 Nt: trong lòng
- 78:18 Nt: cho linh hồn họ
- 78:21 Nt: nghịch
- 78:24 Thức ăn Chúa ban cho người Do Thái khi họ ở trong sa mạc. Xuất 16:15
- 78:28 Theo ý các bản dịch cổ. Nt: trại người, lều người; có thể hiểu là trại và nơi ngự của Chúa
- 78:30 Nt: tránh xa
- 78:33 Ctd: như không
- 78:33 Ctd: tai họa bất ngờ
- 78:34 Ctd: quay trở lại
- 78:39 Nt: xác thịt
- 78:39 Ctd: hơi thở
- 78:42 Nt: Tay Ngài
- 78:51 Cham là một trong ba con trai của Nô-ê, được coi là tổ tiên của người Ai-cập
- 78:55 Nt: Trại
- 78:57 Ctd: lừa dối
- 78:58 Ctd: ghen
- 78:61 Uy lực và huy hoàng ở đây ám chỉ Rương Giao Ước; 1Sa 4:1-22
- 78:62 Nt: cơ nghiệp
- 78:63 Nt: được ca ngợi. Ở đây ám chỉ các thiếu nữ thường được ca ngợi trong đám cưới
- 78:65 Ctd: reo hò
- 78:66 Ctd: đánh vào lưng
- 78:67 Nt: trại
- 78:72 Nt: bàn tay
- 79:7 Dòng dõi Gia-cốp hay dân Do Thái
- 79:8 Ctd: tổ tiên
- 79:11 Ctd: bảo vệ, gìn giữ
- 80:3 Nt: mặt
- 80:6 Dịch theo một số bản dịch cổ
- 80:8 “cây nho” là biểu tượng cho tuyển dân của Chúa
- 80:10 Ctd: cây tùng vĩ đại, quyền năng
- 80:11 Biển Địa Trung Hải
- 80:11 Sông Ê-phơ-rát ở I-rắc
- 80:15 Ctd: chồi hay cây non
- 80:17 Từ “người” và “con người” ở câu này có thể chỉ dân Do Thái hay vị vua của họ
- 81:5 Ctd: lời chứng
- 81:5 Ctd: ra khỏi
- 81:5 Câu này có thể dùng làm câu đầu giới thiệu đoạn kế tiếp 6-16: “Tôi nghe tiếng mà tôi không hiểu.”
- 81:6 Nt: người
- 81:15 có thể hiểu là “Y-sơ-ra-ên”
- 81:15 Nt: thì giờ của chúng
- 81:16 Nt: nó
- 81:16 Nt: và ta sẽ lấy mật từ đá làm ngươi thỏa dạ
- 82:5 Nt: Chúng nó
- 83:2 Nt: đầu
- 83:3 Ctd: những kẻ Ngài quí trọng
- 83:6 Nt: trại
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)