Bible in 90 Days
Tạo Dựng Trời Ðất
1 Ban đầu Ðức Chúa Trời dựng nên trời và đất. 2 Thuở ấy đất hoang vắng và trống không. Bóng tối bao phủ trên mặt vực thẳm. Thần[a] của Ðức Chúa Trời vận hành trên mặt nước.
3 Ðức Chúa Trời phán, “Phải có ánh sáng,” thì có ánh sáng. 4 Ðức Chúa Trời thấy ánh sáng là tốt đẹp. Ðức Chúa Trời phân rẽ giữa ánh sáng và bóng tối. 5 Ðức Chúa Trời gọi ánh sáng là ngày và bóng tối là đêm. Vậy có hoàng hôn và bình minh – ngày thứ nhất.
6 Ðức Chúa Trời phán, “Phải có bầu trời ở giữa nước; hãy để nó phân cách nước với nước.” 7 Vậy Ðức Chúa Trời tạo dựng bầu trời và phân cách nước ở dưới bầu trời với nước ở trên bầu trời, thì có như vậy. 8 Ðức Chúa Trời gọi bầu trời là không trung. Vậy có hoàng hôn và bình minh – ngày thứ nhì.
9 Ðức Chúa Trời phán, “Nước ở dưới không trung phải tụ lại một chỗ, và phải có đất khô xuất hiện,” thì có như vậy. 10 Ðức Chúa Trời gọi nơi khô cạn là đất và nơi nước tụ lại là biển. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp.
11 Ðức Chúa Trời lại phán, “Ðất phải sinh thảo mộc; cây cỏ phải có hạt giống, cây ra trái phải sinh trái có hạt giống tùy theo loại trên mặt đất,” thì có như vậy. 12 Ðất sinh thảo mộc: cây cỏ đều có hạt giống tùy theo loại, và cây ra trái đều sinh trái có hạt giống tùy theo loại. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp. 13 Vậy có hoàng hôn và bình minh – ngày thứ ba.
14 Ðức Chúa Trời phán, “Phải có các vì sáng trên không trung trong bầu trời để phân rẽ ngày và đêm;[b] chúng phải trở thành những dấu hiệu để quy định mùa, ngày, và năm; 15 chúng phải trở thành những vì sáng trong bầu trời để soi sáng trái đất,” thì có như vậy. 16 Ðức Chúa Trời tạo dựng hai vì sáng lớn; vì sáng lớn hơn chi phối ban ngày, vì sáng nhỏ hơn chi phối ban đêm. Ngài cũng dựng nên các vì sao. 17 Ðức Chúa Trời đặt chúng trên không trung trong bầu trời để soi sáng trái đất, 18 để chi phối ban ngày và ban đêm, và để phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp. 19 Vậy có hoàng hôn và bình minh – ngày thứ tư.
20 Ðức Chúa Trời phán, “Nước phải có đầy các sinh vật; trên mặt đất phải có chim bay trên không trung trong bầu trời.” 21 Vậy Ðức Chúa Trời tạo dựng các đại thủy quái,[c] các sinh vật di động và sinh sản trong nước tùy theo loại, và các loài chim có cánh tùy theo loại. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp. 22 Ðức Chúa Trời ban phước cho chúng rằng, “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều và làm đầy dẫy trong nước các đại dương; các chim chóc cũng hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều trên đất.” 23 Vậy có hoàng hôn và bình minh – ngày thứ năm.
24 Ðức Chúa Trời phán, “Ðất phải sinh các sinh vật tùy theo loại; các súc vật, các sinh vật bò sát mặt đất, và các thú rừng trên đất tùy theo loại,” thì có như vậy. 25 Ðức Chúa Trời dựng nên các thú rừng trên đất tùy theo loại, các súc vật tùy theo loại, và mọi sinh vật bò sát mặt đất tùy theo loại. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp.
26 Ðức Chúa Trời phán, “Chúng Ta hãy dựng nên loài người theo hình ảnh Chúng Ta, và theo hình dạng Chúng Ta, để chúng quản trị các cá biển, các chim trời, các súc vật, các thú rừng trên đất, và mọi sinh vật bò sát mặt đất.” 27 Vậy Ðức Chúa Trời dựng nên loài người theo hình ảnh Ngài. Ngài dựng nên loài người theo hình ảnh Ðức Chúa Trời. Ngài dựng nên người nam và người nữ. 28 Ðức Chúa Trời ban phước cho họ. Ngài phán với họ, “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, hãy làm cho loài người đầy dẫy khắp đất, và hãy chế ngự nó. Hãy quản trị cá biển, chim trời, và mọi sinh vật di động trên đất.” 29 Ðức Chúa Trời phán, “Nầy, Ta ban cho các ngươi mọi thứ thảo mộc có hạt giống trên mặt đất, mọi thứ cây ra trái và có hạt giống; các ngươi sẽ dùng chúng làm thức ăn. 30 Còn mọi thú vật trên đất, mọi loài chim trên trời, và mọi sinh vật bò sát mặt đất, tức mọi loài có sinh khí, Ta ban cho chúng mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn,” thì có như vậy. 31 Ðức Chúa Trời thấy mọi việc Ngài đã làm đều rất tốt đẹp. Vậy có hoàng hôn và bình minh – ngày thứ sáu.
Ðức Chúa Trời Biệt Riêng Ngày Thứ Bảy Ra Thánh
2 Ấy vậy công cuộc tạo dựng trời, đất, và muôn loài thọ tạo đã hoàn tất. 2 Ðến ngày thứ bảy Ðức Chúa Trời hoàn tất công việc Ngài đã làm, và ngày thứ bảy Ngài nghỉ, không làm mọi việc Ngài đã làm. 3 Ðức Chúa Trời ban phước cho ngày thứ bảy và biệt riêng ngày ấy ra thánh, vì trong ngày đó Ðức Chúa Trời đã nghỉ, không làm những việc Ngài đã làm trong cuộc sáng tạo.
4 Ấy là gốc tích của trời và đất khi chúng được dựng nên.
Một Số Chi Tiết Khác về Công Cuộc Tạo Dựng
Trong ngày Chúa Ðức Chúa Trời[d] dựng nên đất và trời 5 – trước khi cây cối ngoài đồng có trên mặt đất và trước khi rau cỏ ngoài đồng mọc lên, vì Chúa Ðức Chúa Trời chưa ban mưa xuống đất, và cũng chưa có loài người để canh tác trên mặt đất, 6 nhưng có hơi nước từ dưới đất bốc lên và thấm nhuần khắp mặt đất– 7 Chúa Ðức Chúa Trời dùng bụi đất nắn nên con người, rồi hà sinh khí vào lỗ mũi, con người trở nên một sinh vật có linh hồn.
8 Chúa Ðức Chúa Trời cũng lập một vườn tại Ê-đen, ở phía đông, rồi đặt con người Ngài đã dựng nên vào đó.
9 Từ dưới mặt đất Chúa Ðức Chúa Trời cho mọc lên những cây thật đẹp mắt, trái chúng dùng làm thực phẩm rất ngon; ở giữa vườn cũng có cây sự sống và cây biết thiện và ác.
10 Có một con sông từ Ê-đen chảy ra tưới vườn; con sông đó tẻ ra bốn nhánh. 11 Nhánh thứ nhất tên là Pi-sôn; đó là sông chảy quanh khắp xứ Ha-vi-la, nơi có vàng. 12 Vàng ở xứ đó có phẩm chất tốt; nơi đó cũng có dược liệu thơm hiếm có và đá quý. 13 Nhánh thứ hai là Ghi-hôn; đó là sông chảy quanh khắp xứ Cút. 14 Tên của nhánh thứ ba là Khít-đê-ken,[e] chảy về hướng đông của A-sy-ri. Nhánh thứ tư là Ơ-phơ-rát.
15 Chúa Ðức Chúa Trời đem con người đặt trong Vườn Ê-đen để trồng trọt và giữ vườn. 16 Chúa Ðức Chúa Trời ra lịnh cho con người, “Ngươi được tự do ăn mọi cây trái trong vườn, 17 nhưng về cây biết thiện và ác ngươi chớ ăn, vì hễ ngày nào ngươi ăn trái cây ấy, ngươi sẽ chết.”
18 Bấy giờ Chúa Ðức Chúa Trời phán, “Con người[f] ở một mình không tốt. Ta sẽ dựng nên một bạn đời thích hợp để giúp đỡ nó.”
19 Chúa Ðức Chúa Trời lấy đất làm nên mọi thú đồng và mọi chim trời, rồi đem chúng đến A-đam, để xem ông gọi chúng thế nào; hễ A-đam gọi mỗi sinh vật là gì thì nó sẽ trở thành tên của sinh vật đó. 20 A-đam đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời, và mọi thú đồng, nhưng chính A-đam, ông không tìm được ai làm bạn đời thích hợp để giúp đỡ ông. 21 Vì thế Chúa Ðức Chúa Trời khiến A-đam ngủ mê, và ông ngủ mê man. Ngài lấy một xương sườn của A-đam rồi lấp thịt thế vào chỗ ấy. 22 Kế đó Chúa Ðức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi A-đam tạo nên một người nữ, rồi đem nàng đến với A-đam. 23 Bấy giờ A-đam nói,
“Cuối cùng tôi cũng có được một người;
Người nầy có xương từ xương tôi mà ra, và thịt từ thịt tôi mà ra;
Người nầy sẽ được gọi là người nữ,[g]
Vì người nầy đã từ người nam mà ra.”
24 Bởi vậy người nam sẽ rời cha mẹ để kết hợp với vợ mình, và hai người sẽ trở nên một thịt. 25 Thuở ấy cả A-đam và vợ ông đều trần truồng, nhưng họ không hề cảm thấy e thẹn.
Loài Người Phạm Tội
3 Bấy giờ con rắn là con vật quỷ quyệt hơn những sinh vật khác mà Chúa Ðức Chúa Trời đã dựng nên trên đất. Nó nói với người nữ, “Có thật Ðức Chúa Trời bảo, ‘Các ngươi không được ăn trái của bất cứ cây nào trong vườn’ chăng?”
2 Người nữ trả lời con rắn, “Chúng tôi có thể ăn các trái cây trong vườn; 3 nhưng Ðức Chúa Trời đã dặn, ‘Các ngươi không được ăn trái của cây ở giữa vườn; các ngươi cũng không được đụng đến nó, nếu không các ngươi sẽ chết.’”
4 Con rắn nói với người nữ, “Các người sẽ không chết đâu, 5 bởi vì Ðức Chúa Trời biết rằng ngày nào các người ăn trái cây ấy, mắt các người sẽ mở ra, và các người sẽ trở nên giống như Ðức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác.”
6 Người nữ thấy trái cây ấy coi bộ ăn ngon, trông đẹp mắt, và quý, vì nó có thể làm cho người ta khôn ra; nàng liền hái trái cây ấy và ăn, rồi đưa cho chồng nàng đang ở đó ăn. 7 Bấy giờ mắt hai người mở ra; họ nhận biết họ đang trần truồng, nên họ lấy lá vả khâu lại làm khố che thân.
8 Vào khoảng chiều tối, khi gió thổi hiu hiu, họ nghe tiếng Ðức Chúa Trời đi dạo trong vườn, A-đam và vợ trốn vào giữa lùm cây trong vườn, để tránh mặt Chúa Ðức Chúa Trời. 9 Bấy giờ Chúa Ðức Chúa Trời gọi A-đam và hỏi, “Ngươi ở đâu?”
10 Ông đáp, “Con có nghe tiếng Ngài trong vườn và con sợ, nên con lẩn tránh, vì con đang trần truồng.”
11 Ngài hỏi, “Ai bảo cho ngươi biết ngươi đang trần truồng? Ngươi có ăn trái cây Ta đã truyền cho ngươi không được ăn chăng?”
12 A-đam đáp, “Người nữ Ngài ban để sống với con, nàng đã cho con trái cây ấy, và con đã ăn rồi.”
13 Bấy giờ Chúa Ðức Chúa Trời hỏi người nữ, “Ngươi đã làm gì?”
Ngươi nữ thưa, “Con rắn đã gạt con, và con đã ăn rồi.”
14 Chúa Ðức Chúa Trời phán với con rắn,
“Bởi vì ngươi đã làm điều ấy,
Nên ngươi bị nguyền rủa hơn mọi súc vật và mọi thú rừng.
Ngươi sẽ bò bằng bụng, và ngươi sẽ ăn bụi đất suốt đời.
15 Ta sẽ để một mối nghịch thù giữa ngươi và người nữ,
Giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người nữ.
Người sẽ giày đạp đầu ngươi, và ngươi sẽ cắn gót chân Người.”
16 Ðoạn Ngài nói với người nữ,
“Ta sẽ tăng thêm nỗi khổ cực cho ngươi trong khi thai nghén;
Ngươi phải chịu đau đớn mỗi lần sinh con.
Dục vọng của ngươi sẽ bị lệ thuộc nơi chồng ngươi;
Nó sẽ có quyền trên ngươi.”
17 Ngài cũng nói với người nam,[h]
“Vì ngươi đã nghe lời vợ mà ăn trái cây Ta đã truyền,
‘Ngươi không được ăn,’
Nên đất sẽ vì ngươi bị nguyền rủa;
Suốt đời ngươi, ngươi phải làm lụng vất vả mới có mà ăn.
18 Gai góc và bụi gai sẽ mọc lên cho ngươi;
Ngươi sẽ ăn hoa màu của ruộng đồng.
19 Ngươi phải đổ mồi hôi trán mới có cơm bánh[i] để ăn,
Cho đến khi ngươi trở về cùng bụi đất, vì ngươi đã ra từ bụi đất;
Ngươi là cát bụi, nên ngươi sẽ trở về cùng cát bụi.”
20 A-đam gọi vợ ông là Ê-va,[j] vì bà là mẹ của cả loài người. 21 Chúa Ðức Chúa Trời lấy da thú làm y phục cho A-đam và vợ ông, rồi mặc cho họ.
22 Ðoạn Chúa Ðức Chúa Trời phán, “Nầy, con người đã trở thành một bậc như Chúng Ta, biết điều thiện và điều ác. Vậy bây giờ hãy coi chừng, kẻo nó đưa tay hái trái cây sự sống và ăn, rồi được sống đời đời chăng.” 23 Vậy Chúa Ðức Chúa Trời đuổi loài người ra khỏi Vườn Ê-đen, để cày cấy đất đai là thứ đã được dùng để dựng nên loài người. 24 Thế là Ngài đuổi loài người ra khỏi vườn. Ở phía đông của Vườn Ê-đen, Ngài đặt các thiên thần chê-ru-bim và một thanh gươm sáng lòa, liên tục biến chuyển mọi hướng, để canh giữ con đường đến cây sự sống.
Ca-in Giết A-bên
4 A-đam biết Ê-va vợ ông; bà thọ thai và sinh Ca-in. Bà nói, “Nhờ Chúa giúp đỡ, tôi đã sinh được một người.” 2 Sau đó bà sinh A-bên em trai Ca-in. A-bên làm nghề chăn chiên, còn Ca-in làm nghề nông. 3 Một ngày kia Ca-in đem dâng lên Chúa hoa quả của ruộng vườn do ông canh tác. 4 Về phần A-bên, ông dâng các con chiên đầu lòng trong bầy của ông cùng với mỡ của chúng. Chúa đoái đến A-bên và nhậm lễ vật của ông, 5 nhưng Ngài không đoái đến Ca-in và lễ vật của ông ấy. Vì thế Ca-in rất giận và gằm nét mặt. 6 Chúa phán với Ca-in, “Tại sao ngươi giận, và tại sao ngươi gằm nét mặt? 7 Nếu ngươi có thái độ tốt, Ta há không nhậm lễ vật của ngươi sao? Còn nếu ngươi có thái độ không tốt, tội lỗi đang nằm rình trước cửa ngươi. Nó đang thèm ngươi, nhưng ngươi phải chế ngự nó.”
8 Ca-in nói với A-bên em ông, “Chúng ta hãy ra ngoài đồng.”[k] Ðang khi hai người ở ngoài đồng Ca-in xông vào A-bên em ông và giết chết ông ấy. 9 Chúa hỏi Ca-in, “A-bên, em ngươi đâu?”
Ông đáp, “Tôi không biết; bộ tôi là người giữ em tôi sao?”
10 Chúa phán, “Ngươi đã làm gì? Tiếng của máu em ngươi từ dưới đất kêu thấu đến Ta. 11 Bây giờ đất sẽ nguyền rủa ngươi, đất đã mở miệng nhận lấy máu của em ngươi do tay ngươi làm đổ ra. 12 Khi ngươi canh tác, đất sẽ không sinh hoa lợi cho ngươi nữa. Ngươi sẽ thành một kẻ trốn tránh và một kẻ đi lang thang khắp đất.”
13 Ca-in thưa với Chúa, “Hình phạt dành cho tôi nặng quá, tôi mang không nổi! 14 Ngày nay Ngài đuổi tôi ra khỏi xứ nầy. Tôi sẽ phải trốn khỏi mặt Ngài suốt đời. Tôi phải làm một kẻ trốn tránh và kẻ đi lang thang khắp đất; rồi nếu ai gặp tôi, người ấy có thể giết tôi.”
15 Chúa phán với ông, “Không đâu. Nếu ai giết Ca-in, kẻ ấy sẽ bị báo thù bảy lần.” Chúa đánh dấu trên người Ca-in, để ai gặp ông sẽ không giết ông. 16 Ca-in ra đi khỏi mặt Chúa và định cư ở xứ Nốt,[l] về phía đông của Ê-đen.
Nền Văn Minh Cổ Ðại
17 Ca-in biết vợ ông; nàng thọ thai và sinh Ê-nóc. Ca-in xây một thành và đặt tên là Ê-nóc, theo tên của Ê-nóc con trai ông. 18 Ê-nóc sinh một con trai tên I-rát. I-rát sinh Mê-hu-gia-ên. Mê-hu-gia-ên sinh Mê-thu-sa-ên. Mê-thu-sa-ên sinh La-méc. 19 La-méc cưới hai vợ, một bà tên A-đa, còn bà kia tên Xinh-la. 20 A-đa sinh Gia-banh. Ông ấy là tổ phụ của những người sống trong lều trại và chăn bầy súc vật. 21 Em trai ông ấy tên Giu-banh. Ông nầy là tổ phụ của những người đánh đàn và thổi kèn. 22 Xinh-la sinh Tu-banh Ca-in, người chế tạo các dụng cụ bằng đồng và bằng sắt. Em gái của Tu-banh Ca-in là Na-a-ma. 23 La-méc nói với hai vợ của ông,
“Hỡi A-đa và Xinh-la, hãy nghe anh nói;
Nầy, hai vợ của La-méc, hãy nghe lời anh trình bày,
Anh đã giết một người gây cho anh bị thương,
Tức một người trai trẻ đã đánh anh.
24 Nếu Ca-in được báo thù bảy lần,
La-méc sẽ được báo thù bảy mươi bảy lần.”
25 A-đam biết vợ ông nữa; bà sinh cho ông một con trai và đặt tên là Sết, vì bà nói, “Ðức Chúa Trời đã cho tôi một con trai khác, để thay thế A-bên, vì nó đã bị Ca-in giết.” 26 Sết cũng sinh một con trai, ông đặt tên con trai ông là Ê-nốt. Ðến lúc ấy người ta mới bắt đầu kêu cầu danh Chúa.
Dòng Dõi A-đam Ðến Ðời Con Cháu Nô-ê
5 Ðây là gia phả của dòng dõi A-đam. Khi Ðức Chúa Trời dựng nên loài người, Ngài dựng nên họ theo hình ảnh của Ðức Chúa Trời. 2 Ngài dựng nên người nam và người nữ. Ngài ban phước cho họ, và trong ngày Ngài dựng nên họ, Ngài gọi họ là “Loài Người.”[m]
3 Khi A-đam sống được một trăm ba mươi tuổi, ông sinh một con trai, hình dạng giống như ông, gương mặt giống hệt ông; ông đặt tên cho con trai đó là Sết. 4 Sau khi sinh Sết, A-đam sống thêm tám trăm năm, sinh các con trai và các con gái. 5 Như vậy A-đam hưởng thọ chín trăm ba mươi tuổi, rồi qua đời.
6 Khi Sết sống được một trăm lẻ năm tuổi, ông sinh Ê-nốt. 7 Sau khi sinh Ê-nốt, Sết sống thêm tám trăm lẻ bảy năm, sinh các con trai và các con gái. 8 Như vậy Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi, rồi qua đời.
9 Khi Ê-nốt sống được chín mươi tuổi, ông sinh Kê-nan. 10 Sau khi sinh Kê-nan, Ê-nốt sống thêm tám trăm mười lăm năm, sinh các con trai và các con gái. 11 Như vậy Ê-nốt hưởng thọ chín trăm lẻ năm tuổi, rồi qua đời.
12 Khi Kê-nan sống được bảy mươi tuổi, ông sinh Ma-ha-la-lên. 13 Sau khi Kê-nan sinh Ma-ha-la-lên, ông sống thêm tám trăm bốn mươi năm, sinh các con trai và các con gái. 14 Như vậy Kê-nan hưởng thọ chín trăm mười tuổi, rồi qua đời.
15 Khi Ma-ha-la-lên sống được sáu mươi lăm tuổi, ông sinh Gia-rết. 16 Sau khi sinh Gia-rết, Ma-ha-la-lên sống thêm tám trăm ba mươi năm, sinh các con trai và các con gái. 17 Như vậy Ma-ha-la-lên hưởng thọ tám trăm chín mươi lăm tuổi, rồi qua đời.
18 Khi Gia-rết sống được một trăm sáu mươi hai tuổi, ông sinh Ê-nóc. 19 Sau khi sinh Ê-nóc, Gia-rết sống thêm tám trăm năm, sinh các con trai và các con gái. 20 Như vậy Gia-rết hưởng thọ chín trăm sáu mươi hai tuổi, rồi qua đời.
21 Khi Ê-nóc sống được sáu mươi lăm tuổi, ông sinh Mê-thu-sê-la. 22 Sau khi sinh Mê-thu-sê-la, Ê-nóc đi với Ðức Chúa Trời trong ba trăm năm, và sinh các con trai và các con gái. 23 Như vậy Ê-nóc sống ở đời chỉ ba trăm sáu mươi lăm năm. 24 Ê-nóc đi với Ðức Chúa Trời, rồi biệt tích, vì Ðức Chúa Trời đã cất ông đi.
25 Khi Mê-thu-sê-la sống được một trăm tám mươi bảy tuổi, ông sinh La-méc. 26 Sau khi sinh La-méc, Mê-thu-sê-la sống thêm bảy trăm tám mươi hai năm, sinh các con trai và các con gái. 27 Như vậy Mê-thu-sê-la hưởng thọ chín trăm sáu mươi chín tuổi, rồi qua đời.
28 Khi La-méc sống được một trăm tám mươi hai tuổi, ông sinh một con trai. 29 Ông đặt tên cho con trai đó là Nô-ê và bảo rằng, “Từ trong đất đã bị Chúa nguyền rủa, đứa trẻ nầy sẽ đem đến chúng ta niềm an ủi cho công lao khó nhọc của chúng ta và cho công sức vất vả của đôi tay chúng ta.” 30 Sau khi sinh Nô-ê, La-méc sống thêm năm trăm chín mươi lăm năm, sinh các con trai và các con gái. 31 Như vậy La-méc hưởng thọ bảy trăm bảy mươi bảy tuổi, rồi qua đời.
32 Còn Nô-ê, khi được năm trăm tuổi, Nô-ê sinh Sem, Cham, và Gia-phết.
Tội Lỗi của Nhân Loại
6 Khi ấy loài người bắt đầu gia tăng nhiều trên mặt đất; họ sinh các con gái. 2 Các con trai Ðức Chúa Trời[n] thấy các con gái loài người xinh đẹp; họ thích cô nào, họ lấy cô ấy làm vợ. 3 Bấy giờ Chúa phán, “Thần linh Ta sẽ không ở trong loài người mãi mãi nữa, vì chúng chỉ là loài xác thịt. Ðời chúng sẽ chỉ chừng một trăm hai mươi tuổi mà thôi.”
4 Thuở ấy trên mặt đất có những người khổng lồ,[o] về sau vẫn còn có những người ấy, vì khi các con trai Ðức Chúa Trời đến với các con gái loài người, các bà ấy sinh con cho họ. Ðó là những anh hùng thời xưa, những người nổi danh một thời.
5 Bấy giờ Chúa thấy tội ác của loài người quá nhiều trên mặt đất. Lòng người nào cũng mải mê toan tính những chuyện xấu xa tội lỗi. 6 Chúa lấy làm ân hận vì đã dựng nên loài người trên mặt đất. Lòng Ngài buồn bã âu sầu. 7 Vì thế Chúa phán, “Ta sẽ xóa sạch loài người Ta đã dựng nên khỏi mặt đất – loài người, loài súc vật, loài bò sát, và luôn cả loài chim bay trên trời. Ta lấy làm ân hận vì đã dựng nên chúng.” 8 Nhưng Nô-ê lại được ơn trước mặt Chúa.
Ðức Chúa Trời Ra Lịnh cho Nô-ê
9 Ðây là dòng dõi của Nô-ê. Nô-ê là một người công chính; so với những người đồng thời với ông, ông là một người trọn vẹn. Nô-ê bước đi với Ðức Chúa Trời. 10 Nô-ê sinh được ba con trai là Sem, Cham, và Gia-phết.
11 Khi ấy thế giới đã trở nên băng hoại trước mặt Ðức Chúa Trời, và mặt đất đầy dẫy những bạo ngược. 12 Ðức Chúa Trời nhìn vào thế giới, này, nó đã băng hoại quá mức, và đường lối của mọi loài xác thịt đều sa đọa trên mặt đất. 13 Ðức Chúa Trời phán với Nô-ê, “Ta quyết định xóa sạch mọi loài xác thịt, vì do chúng mà đất đã dẫy đầy bạo ngược. Nầy, Ta sẽ xóa sạch chúng cùng với những gì trên mặt đất. 14 Hãy đóng cho ngươi một chiếc tàu bằng gỗ trét nhựa chai. Hãy đóng chiếc tàu có nhiều phòng, rồi lấy nhựa đen trét cả trong lẫn ngoài. 15 Hãy đóng chiếc tàu ấy như thế nầy: chiều dài của tàu một trăm năm mươi mét,[p] chiều rộng hai mươi lăm mét,[q] và chiều cao mười lăm mét.[r] 16 Hãy làm một cái mui cao nửa mét[s] phủ lên trên. Ngươi hãy đặt cửa tàu ở bên hông. Ngươi hãy đóng cho tàu có tầng dưới, tầng giữa, và tầng trên. 17 Còn Ta, Ta sẽ đem nước lụt đến phủ trên mặt đất, để xóa sạch mọi loài xác thịt có hơi thở ở dưới trời; rồi mọi loài trên mặt đất sẽ chết hết. 18 Nhưng Ta sẽ lập một giao ước với ngươi. Ngươi sẽ vào tàu – ngươi, các con trai ngươi, vợ ngươi, và vợ của các con trai ngươi. 19 Ngươi sẽ mang vào tàu các sinh vật của mọi loài xác thịt, mỗi thứ một cặp, để giữ chúng được sống còn với ngươi; mỗi thứ phải có một con đực và một con cái. 20 Các chim trời tùy theo loại, các súc vật tùy theo loại, các sinh vật bò sát mặt đất tùy theo loại, mỗi thứ hai con sẽ đến với ngươi, để ngươi giữ chúng được sống còn. 21 Ngươi cũng hãy đem theo với ngươi mọi thứ có thể ăn được, để dùng làm thực phẩm. Hãy tích trữ chúng trong tàu. Những thứ ấy sẽ được dùng làm thực phẩm cho ngươi và cho các sinh vật ấy.” 22 Nô-ê làm y như vậy. Ông làm theo mọi điều Ðức Chúa Trời đã truyền cho ông.
Cơn Ðại Hồng Thủy
7 Bấy giờ Chúa truyền cho Nô-ê, “Ngươi hãy vào tàu, ngươi và mọi người trong gia đình ngươi, vì Ta thấy rằng giữa thế hệ nầy chỉ có ngươi là ngay lành trước mặt Ta. 2 Hãy đem theo ngươi bảy cặp mọi thứ thú vật thanh sạch, có đực có cái; còn những thú vật không thanh sạch mỗi thứ một cặp, có đực có cái. 3 Các chim trời cũng vậy, mỗi thứ bảy cặp, có trống có mái, để bảo tồn mạng sống của chúng trên khắp mặt đất. 4 Vì trong bảy ngày nữa Ta sẽ cho mưa xuống đất trong bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, rồi Ta sẽ xóa sạch khỏi mặt đất mọi sinh vật Ta đã dựng nên.” 5 Nô-ê làm theo mọi điều Chúa đã truyền cho ông.
6 Nô-ê được sáu trăm tuổi khi nước lụt tràn trên mặt đất. 7 Nô-ê với các con trai ông, vợ ông, và vợ của các con trai ông đều vào trong tàu để tránh lụt. 8 Các thú vật thanh sạch, các thú vật không thanh sạch, các chim trời, và mọi sinh vật bò sát trên đất, 9 từng đôi từng cặp, đực và cái, cùng vào tàu với Nô-ê, như Ðức Chúa Trời đã truyền cho Nô-ê. 10 Sau bảy ngày, nước lụt bắt đầu tuôn tràn trên mặt đất.
11 Vào ngày mười bảy, tháng hai, năm sáu trăm của đời Nô-ê, trong chính ngày ấy, mọi nguồn nước của các đại vực thẳm vỡ tung, các cửa sổ trên trời mở toang. 12 Mưa tuôn đổ xuống đất bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. 13 Trong chính ngày ấy, Nô-ê cùng các con trai ông là Sem, Cham, và Gia-phết, vợ của Nô-ê, và ba người vợ của các con trai ông vào trong tàu. 14 Họ và mọi thứ thú rừng tùy theo loại, mọi thứ gia súc tùy theo loại, mọi thứ sinh vật bò sát mặt đất tùy theo loại, mọi thứ chim trời tùy theo loại, tức mọi thứ chim và mọi loài vật có cánh. 15 Mọi loài xác thịt có sinh khí đều vào trong tàu với Nô-ê, từng đôi từng cặp. 16 Sau khi tất cả sinh vật của mọi loài xác thịt, có đực có cái, đã vào trong tàu, theo như Ðức Chúa Trời đã truyền cho Nô-ê, Chúa đóng cửa tàu lại, để ông ở bên trong.
17 Nước lụt tuôn đổ liên tục bốn mươi ngày trên đất. Mặt nước dâng cao, nâng chiếc tàu lên, khiến tàu nổi cao trên mặt đất. 18 Mặt nước cứ tiếp tục dâng cao và gia tăng nhiều vô kể trên đất. Chiếc tàu nổi bồng bềnh trên mặt nước. 19 Nước cứ tiếp tục dâng cao khủng khiếp trên đất, đến nỗi tất cả các ngọn núi cao ở dưới trời đều bị nước phủ ngập. 20 Nước dâng cao hơn các ngọn núi, khiến chúng chìm sâu bảy mét rưỡi[t] dưới mặt nước. 21 Mọi loài xác thịt di động trên đất đều chết hết, nào chim trời, gia súc, thú rừng, mọi sinh vật bò lúc nhúc trên đất, và mọi người. 22 Tất cả loài vật sống trên cạn và có sinh khí trong lỗ mũi đều chết hết. 23 Ngài xóa sạch mọi sinh vật trên mặt đất, từ loài người đến thú vật, từ loài bò sát đến các giống chim bay trên trời. Chúng thảy đều bị xóa sạch khỏi mặt đất, chỉ còn lại Nô-ê cùng những người và những thú vật ở trong tàu với ông. 24 Mặt nước cứ dâng cao trên đất như vậy suốt một trăm năm mươi ngày.
Nước Lụt Hạ Xuống
8 Ðức Chúa Trời nhớ đến Nô-ê, cùng mọi thú rừng, và mọi gia súc đang ở trong tàu với ông. Ðức Chúa Trời khiến một trận gió thổi qua mặt đất, nước bèn hạ xuống. 2 Các nguồn vực thẳm và các cửa sổ trên trời đóng lại; mưa từ trời tạnh hẳn. 3 Nước từ từ rút khỏi mặt đất. Sau một trăm năm mươi ngày, nước hạ xuống. 4 Vào ngày mười bảy, tháng bảy, chiếc tàu hạ xuống trên Núi A-ra-rát. 5 Nước cứ tiếp tục hạ xuống cho đến tháng mười. Ðến ngày mồng một tháng mười, các đỉnh núi mới bắt đầu lộ ra.
6 Sau bốn mươi ngày, Nô-ê mở cánh cửa sổ của chiếc tàu ông đã đóng, 7 và thả một con quạ bay ra. Nó lượn tới lượn lui cho đến khi nước rút khỏi mặt đất. 8 Ðoạn ông thả một con bồ cầu bay ra, để xem nước đã rút hẳn khỏi mặt đất chưa. 9 Nhưng con bồ câu không tìm được một nơi nào để đậu, nên nó bay về lại chiếc tàu với ông, vì nước vẫn còn lai láng trên khắp mặt đất. Ông đưa tay ra, đón nó, và đem nó vào lại trong tàu với ông. 10 Ông đợi thêm bảy ngày, rồi thả con bồ câu ra khỏi tàu một lần nữa. 11 Ðến chiều tối, con bồ câu bay về, và kìa, trong mỏ nó có một lá ô-liu non. Thế là Nô-ê biết nước đã rút khỏi mặt đất. 12 Ông đợi thêm bảy ngày nữa rồi thả con bồ cầu ra, lần nầy con bồ câu không trở về với ông nữa.
13 Vào ngày mồng một, tháng giêng, năm sáu trăm lẻ một của đời Nô-ê, nước đã rút khỏi mặt đất. Nô-ê dỡ mui tàu và nhìn; ông thấy mặt đất đang khô ráo. 14 Ðến ngày hai mươi bảy, tháng hai, mặt đất đã khô hẳn. 15 Ðức Chúa Trời phán với Nô-ê, 16 “Ngươi hãy ra khỏi tàu – ngươi, vợ ngươi, các con trai ngươi, và vợ của các con trai ngươi. 17 Hãy đem ra với ngươi mọi sinh vật của mọi loài xác thịt đã ở với ngươi, nào chim chóc, thú vật, và mọi loài bò sát mặt đất, để chúng gia tăng đông đúc trên đất. Chúng phải sinh sôi nảy nở thêm nhiều trên đất.” 18 Vậy Nô-ê cùng các con trai ông, vợ ông, và vợ của các con trai ông ra khỏi tàu. 19 Rồi mọi thú vật, mọi sinh vật bò sát, mọi chim trời, mọi loài di động trên đất đều ra khỏi tàu, theo từng loài một.
Ðức Chúa Trời Hứa với Nô-ê
20 Bấy giờ Nô-ê lập một bàn thờ để thờ Chúa, rồi ông bắt một con trong các thú vật thanh sạch và một con trong các thứ chim thanh sạch làm của lễ thiêu dâng trên bàn thờ. 21 Khi Chúa ngửi mùi thơm, Chúa tự nhủ, “Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất vì cớ loài người nữa, vì lòng dạ của loài người đã có khuynh hướng xấu từ khi còn trẻ. Ta cũng sẽ không tiêu diệt mọi sinh vật như Ta đã làm nữa.
22 Hễ ngày nào trái đất còn,
Mùa gieo và mùa gặt,
Trời lạnh và trời nóng,
Mùa hạ và mùa đông,
Ngày và đêm,
Sẽ không ngừng tiếp diễn.”
Giao Ước với Nô-ê
9 Ðức Chúa Trời ban phước cho Nô-ê và các con trai ông. Ngài phán với họ, “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều và làm đầy khắp đất. 2 Tất cả loài thú trên đất, loài chim trên trời, loài vật bò sát mặt đất, và mọi loài cá biển sẽ khiếp sợ và kinh hãi các ngươi; chúng sẽ bị phó vào tay các ngươi. 3 Mọi sinh vật di động sẽ được dùng làm thực phẩm cho các ngươi. Như trước kia Ta đã cho các ngươi rau trái để làm thức ăn, thì nay Ta cho các ngươi được ăn mọi thứ. 4 Duy chỉ một điều: các ngươi không được ăn thịt với mạng sống của nó, tức với máu nó.[u] 5 Vì mạng sống của các ngươi, Ta bắt phải có sự đền mạng. Nếu một con thú làm người nào bị chết, con thú ấy phải đền mạng. Nếu một người làm người nào chết, người ấy phải đền mạng; kẻ nào sát nhân, kẻ ấy phải đền mạng. Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng cho mạng sống của người bị mình hại chết.
6 Ai làm đổ máu người ta, máu nó sẽ bị người ta làm đổ lại,
Vì Ðức Chúa Trời đã dựng nên loài người theo hình ảnh Ngài.
7 Về phần các ngươi, các ngươi hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều. Hãy lan tràn ra khắp đất và sinh sản cho nhiều trên đất.”
8 Ðức Chúa Trời lại phán với Nô-ê và các con trai ông, 9 “Về phần Ta, Ta lập một giao ước với các ngươi và với dòng dõi các ngươi sau này, 10 và với mọi sinh vật đang sống với các ngươi, tức với mọi loài chim, mọi loài gia súc, mọi loài thú vật đang sống trên đất với các ngươi, tức những sinh vật đã ra khỏi tàu. 11 Ta lập giao ước Ta với các ngươi: Ta sẽ không bao giờ tiêu diệt mọi loài xác thịt bằng nước lụt nữa và sẽ không bao giờ có một trận đại hồng thủy để hủy diệt trái đất nữa.” 12 Ðức Chúa Trời phán, “Ðây là dấu hiệu để chỉ về giao ước Ta đã lập giữa Ta với các ngươi và với mọi sinh vật đang sống với các ngươi, cho đến muôn vàn thế hệ về sau: 13 Ta đã đặt cầu vồng của Ta ở trong mây, để nó sẽ làm một dấu hiệu chỉ về giao ước của Ta với trái đất. 14 Mỗi khi Ta cho mây giăng trên đất, chiếc cầu vồng sẽ xuất hiện trong mây; 15 bấy giờ Ta sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi và với mọi sinh vật của mọi loài xác thịt, và nước sẽ không bao giờ trở thành một cơn đại hồng thủy để tiêu diệt mọi loài xác thịt nữa. 16 Khi chiếc cầu vồng xuất hiện trong mây, Ta sẽ trông thấy nó, và sẽ nhớ lại giao ước đời đời giữa Ðức Chúa Trời và mọi sinh vật của mọi loài xác thịt sống trên đất.” 17 Ðức Chúa Trời phán với Nô-ê, “Ðó là dấu hiệu của giao ước Ta đã lập giữa Ta và mọi loài xác thịt sống trên đất.”
Nô-ê và Các Con Trai Ông
18 Các con trai của Nô-ê đã ra khỏi tàu là Sem, Cham, và Gia-phết. Cham là cha của Ca-na-an. 19 Ba người ấy là các con trai của Nô-ê. Từ ba người ấy, loài người đã lan tràn khắp mặt đất.
20 Nô-ê là một nông gia. Ông là người đầu tiên lập một vườn nho. 21 Ông uống rượu và say. Ông nằm trần truồng trong lều của mình. 22 Cham cha của Ca-na-an thấy cha ông trần truồng bèn đi ra nói cho anh và em của ông hay. 23 Nghe vậy Sem và Gia-phết lấy một chiếc áo choàng, mỗi người giữ một vạt áo trên vai mình, rồi đi giật lùi vào trong lều, và đậy thân thể lõa lồ của cha họ. Mặt họ quay đi hướng khác, nên họ không hề trông thấy sự lõa lồ của cha họ. 24 Khi Nô-ê tỉnh rượu và biết được những gì đứa con thứ hai của ông đã làm cho mình, 25 ông nói
“Ca-na-an thật đáng bị nguyền rủa!
Nó sẽ làm đầy tớ cho các đầy tớ của anh em nó.”
26 Ông lại nói,
“Sem sẽ được Chúa Ðức Chúa Trời của ta ban phước;
Hãy để Ca-na-an làm tôi cho nó.
27 Cầu xin Ðức Chúa Trời mở rộng bờ cõi của Gia-phết;
Hãy để cho nó được ở trong các lều trại của Sem,
Và hãy để Ca-na-an làm tôi cho nó.”
28 Sau cơn đại hồng thủy, Nô-ê sống thêm ba trăm năm mươi năm nữa. 29 Như vậy Nô-ê hưởng thọ chín trăm năm mươi tuổi, rồi qua đời.
Các Dân Tộc Ra từ Nô-ê
10 Ðây là dòng dõi của các con trai Nô-ê, tức của Sem, Cham, và Gia-phết. Sau cơn đại hồng thủy họ sinh được các con cháu sau đây:
2 Các con cháu của Gia-phết là Gô-me, Ma-gót, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-séc, và Ti-ra. 3 Các con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Ri-phát, và Tô-gạc-ma. 4 Các con trai của Gia-van là Ê-li-sa, Tạt-si,[v] Kít-tim,[w] và Rô-đa-nim.[x] 5 Con cháu những người nầy phân tán thành những dân sống trên các hải đảo. Mỗi dân có lãnh thổ riêng, tùy theo ngôn ngữ và gia tộc, mà lập các quốc gia riêng của họ.
6 Các con cháu của Cham là Cút, Ai-cập,[y] Pút, và Ca-na-an. 7 Các con cháu của Cút là Sê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-a-ma, và Sáp-tê-ca. Các con cháu của Ra-a-ma là Sê-ba và Ðê-đan. 8 Cút sinh Nim-rốt. Nim-rốt là anh hùng đầu tiên trên mặt đất. 9 Ông là một thợ săn dũng mãnh trước mặt Chúa. Vì thế người ta đã có câu tục ngữ, “Giống như Nim-rốt, một thợ săn dũng mãnh trước mặt Chúa.” 10 Vương quốc của ông khởi đầu tại Ba-bên, Ê-réc, Ạc-cát, và Canh-nê; tất cả những nơi ấy đều nằm trong xứ Si-na. 11 Từ xứ ấy, ông tiến về A-sy-ri và xây dựng Ni-ni-ve, Rê-hô-bốt I-rơ, Ca-la, 12 và Rê-sen. Rê-sen là một thành lớn, nằm giữa Ni-ni-ve và Ca-la.
13 Ai-cập sinh ra các dân Lút, A-nam, Lê-háp, Náp-tu, 14 Pát-ru, Các-lu, và Cáp-tô. Từ dân Các-lu sinh ra dân Phi-li-tin.
15 Ca-na-an sinh con trai đầu lòng là Si-đôn, rồi sinh Hết, 16 và tổ các dân Giê-bu-si, A-mô-ri, Ghi-ga-si, 17 Hi-vi, Ạc-ki, Si-ni, 18 Ạc-va-đi, Xê-ma-ri, và Ha-ma-thi. Sau đó các gia tộc của dân Ca-na-an đều phân tán ra khắp nơi. 19 Lãnh thổ của dân Ca-na-an kéo dài từ Si-đôn; về hướng Ghê-ra thì đến tận miền Ga-xa, còn về hướng Sô-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma, và Xê-boi-im thì đến tận miền La-sa. 20 Ðó là dòng dõi của Cham, theo các gia tộc, các ngôn ngữ, các xứ sở, và các quốc gia của họ.
21 Sem cũng vậy, ông là tổ phụ của các con cháu của Ê-be. Anh cả của Gia-phết cũng sinh được các con. 22 Dòng dõi của Sem là Ê-lam, Át-sua, Ạc-pác-sát, Lút, và A-ram. 23 Dòng dõi của A-ram là U-xơ, Hun, Ghê-the, và Mách. 24 Ạc-pác-sát sinh Sê-la; Sê-la sinh Ê-be. 25 Ê-be sinh được hai con trai; một người tên Pê-léc,[z] vì trong thời của ông đất đai bị phân chia, còn em trai ông tên Giốc-tan. 26 Giốc-tan sinh An-mô-đác, Sê-lép, Ha-xa-ma-vết, Giê-ra, 27 Ha-đô-ram, U-xanh, Ðiết-la, 28 Ô-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba, 29 Ô-phia, Ha-vi-la, và Giô-báp. Tất cả những người ấy là con cháu của Giốc-tan. 30 Lãnh thổ họ ở chạy từ Mê-sa trải dài về hướng Sê-pha, là miền đồi núi phía đông. 31 Ðó là dòng dõi của Sem, theo các gia tộc, các ngôn ngữ, các xứ sở, và các quốc gia của họ.
32 Trên đây là các dòng dõi của các con trai Nô-ê, theo gia phả của họ, trong các dân tộc của họ. Sau cơn đại hồng thủy, những người ấy đã phân tán và trở thành những quốc gia khắp mặt đất.
Tháp Ba-bên
11 Thuở ấy cả thế giới chỉ có một ngôn ngữ và mọi người đều nói một thứ tiếng. 2 Từ phương đông họ lan dần ra khắp nơi; họ đến một đồng bằng trong xứ Si-na, và quyết định định cư tại đó. 3 Họ bảo nhau, “Hãy đến, chúng ta hãy đúc gạch và nung chúng trong lửa thật kỹ.” Họ lấy gạch thay cho đá và dùng nhựa đen thế cho hồ. 4 Họ nói, “Hãy đến, hãy xây cho chúng ta một thành và một ngọn tháp có đỉnh cao đến tận trời. Hãy làm rạng danh chúng ta, kẻo chúng ta bị tản lạc khắp mặt đất.”
5 Chúa ngự xuống xem cái thành và ngọn tháp do con cái loài người đang xây cất. 6 Bấy giờ Chúa phán, “Nầy, cả nhân loại đều là một dân, và chúng nói một ngôn ngữ. Ðây mới chỉ là việc chúng khởi sự làm. Từ nay chẳng có gì chúng trù tính mà sẽ không thực hiện được. 7 Hãy đến, Chúng Ta hãy xuống và làm rối loạn ngôn ngữ của chúng, để chúng không thể hiểu tiếng nói của nhau.”
8 Vậy Chúa đã làm cho họ phải từ đó tản mát khắp mặt đất, và họ đành phải ngưng công cuộc xây dựng thành. 9 Vì thế người ta gọi thành ấy là Ba-bên, vì nơi đó Chúa đã làm lộn xộn ngôn ngữ của mọi người trên đất, và từ đó Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất.
Dòng Dõi Sem
(1 Sử 1:24-27)
10 Ðây là dòng dõi của Sem: Hai năm sau cơn đại hồng thủy, Sem được một trăm tuổi và sinh Ạc-pác-sát. 11 Sau khi sinh Ạc-pác-sát, Sem sống thêm năm trăm năm nữa, sinh các con trai và các con gái.
12 Khi Ạc-pác-sát được ba mươi lăm tuổi, ông sinh Sê-la. 13 Sau khi sinh Sê-la, Ạc-pác-sát sống thêm bốn trăm lẻ ba năm nữa, sinh các con trai và các con gái.
14 Khi Sê-la được ba mươi tuổi, ông sinh Ê-be. 15 Sau khi sinh Ê-be, Sê-la sống thêm bốn trăm lẻ ba năm nữa, sinh các con trai và các con gái.
16 Khi Ê-be được ba mươi bốn tuổi, ông sinh Pê-léc. 17 Sau khi sinh Pê-léc, Ê-be sống thêm bốn trăm ba mươi năm nữa, sinh các con trai và các con gái.
18 Khi Pê-léc được ba mươi tuổi, ông sinh Rê-u. 19 Sau khi sinh Rê-u, Pê-léc sống thêm hai trăm lẻ chín năm nữa, sinh các con trai và các con gái.
20 Khi Rê-u được ba mươi hai tuổi, ông sinh Sê-rúc. 21 Sau khi sinh Sê-rúc, Rê-u sống thêm hai trăm lẻ bảy năm nữa, sinh các con trai và các con gái.
22 Khi Sê-rúc được ba mươi tuổi, ông sinh Na-hô. 23 Sau khi sinh Na-hô, Sê-rúc sống thêm hai trăm năm nữa, sinh các con trai và các con gái.
24 Khi Na-hô được hai mươi chín tuổi, ông sinh Tê-ra. 25 Sau khi sinh Tê-ra, Na-hô sống thêm một trăm mười chín năm nữa, sinh các con trai và các con gái.
26 Khi Tê-ra được bảy mươi tuổi, ông sinh Áp-ram, Na-hô, và Ha-ran.
Dòng Dõi Tê-ra
27 Ðây là dòng dõi của Tê-ra: Tê-ra sinh Áp-ram, Na-hô, và Ha-ran. Ha-ran sinh Lót. 28 Ha-ran qua đời trước Tê-ra cha của ông, tại quê hương của ông ở U-rơ, trong xứ của người Canh-đê. 29 Áp-ram và Na-hô đều cưới vợ. Vợ của Áp-ram tên Sa-rai, còn vợ của Na-hô tên Minh-ca con gái của Ha-ran. Ha-ran là cha của Minh-ca và Ích-ca. 30 Sa-rai hiếm muộn và không con.
31 Tê-ra dẫn Áp-ram con trai của ông, Lót cháu nội của ông, tức con trai của Ha-ran, và Sa-rai vợ của Áp-ram, tức dâu của ông, ra khỏi U-rơ, xứ của người Canh-đê, để đến xứ Ca-na-an. Nhưng khi đến Cha-ran, họ định cư tại đó. 32 Tê-ra hưởng thọ hai trăm lẻ năm tuổi, rồi qua đời tại Cha-ran.
Áp-ram Ðược Chúa Chọn
12 Bấy giờ Chúa phán với Áp-ram, “Hãy rời khỏi xứ sở ngươi, bà con ngươi, và nhà cha ngươi, để đi đến xứ Ta sẽ chỉ cho. 2 Ta sẽ làm cho ngươi trở nên một dân lớn. Ta sẽ ban phước cho ngươi và làm nổi danh ngươi. Ngươi sẽ thành một nguồn phước. 3 Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, và sẽ nguyền rủa kẻ nào nguyền rủa ngươi. Mọi dân trên thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước.”
4 Áp-ram ra đi như Chúa đã phán với ông và Lót đi với ông. Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi khi ông rời khỏi Cha-ran. 5 Áp-ram dẫn Sa-rai vợ ông và Lót cháu ông; họ đem theo mọi tài sản họ đã tạo được và mọi gia nhân họ có được tại Cha-ran và lên đường đi đến xứ Ca-na-an, và họ đã đến được xứ đó.
6 Áp-ram đi ngang qua xứ ấy và đến một nơi tại Si-chem, nơi có cây sồi của Mô-rê. Lúc ấy dân Ca-na-an đang sống trong xứ. 7 Bấy giờ Chúa hiện ra với Áp-ram và phán, “Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi xứ nầy.” Ông bèn xây tại đó một bàn thờ để thờ phượng Chúa, Ðấng đã hiện ra với ông.
8 Từ đó ông di chuyển về miền đồi núi ở phía đông của Bê-tên,[aa] rồi hạ trại tại đó; đó là nơi phía tây có Bê-tên và phía đông có Ai. Tại đó ông xây một bàn thờ để thờ phượng Chúa và kêu cầu danh Chúa. 9 Sau đó Áp-ram lại tiếp tục lên đường, đi từng chặng một, dần dần tiến về Miền Nam.[ab]
Áp-ram Kiều Ngụ tại Ai-cập
10 Bấy giờ trong xứ bị một nạn đói, nên Áp-ram đi xuống Ai-cập để kiều ngụ tại đó, vì nạn đói trong xứ quá khốc liệt. 11 Khi sắp sửa vào xứ Ai-cập, ông nói với Sa-rai vợ ông, “Em à, anh biết em là một phụ nữ xinh đẹp; 12 do đó khi người Ai-cập thấy em, thế nào họ cũng sẽ nói, ‘Vợ hắn đấy!’ Rồi họ sẽ giết anh và để em sống. 13 Vì vậy anh xin em cứ nói em là em gái của anh, để vì cớ em, người ta sẽ đối xử tốt với anh, và nhờ em, anh sẽ bảo tồn được mạng sống.”
14 Khi Áp-ram vừa đến Ai-cập, người Ai-cập trông thấy bà quả là một phụ nữ cực kỳ xinh đẹp. 15 Các thượng quan của Pha-ra-ôn trông thấy bà, họ trầm trồ khen ngợi nét đẹp của bà trước mặt Pha-ra-ôn. Thế là bà bị bắt đưa vào cung điện của Pha-ra-ôn. 16 Vì cớ bà, nhà vua đối xử với Áp-ram rất trọng hậu. Ông được ban cho nhiều chiên, bò, lừa đực, tôi trai, tớ gái, lừa cái, và lạc đà.
17 Nhưng vì cớ Sa-rai vợ Áp-ram, Chúa giáng các tai họa lớn trên Pha-ra-ôn và cả hoàng tộc. 18 Pha-ra-ôn bèn triệu Áp-ram vào và hỏi, “Ngươi đã làm gì cho ta vậy? Tại sao ngươi không nói cho ta biết nàng là vợ ngươi? 19 Tại sao ngươi bảo, ‘Nàng là em gái tôi,’ khiến ta đã bắt nàng để làm vợ ta? Bây giờ vợ ngươi đây, hãy nhận lại, và đi đi.”
20 Vậy Pha-ra-ôn truyền lịnh cho thuộc hạ của ông dẫn độ Áp-ram, vợ ông, và tất cả những gì thuộc về ông ra khỏi xứ.
Áp-ram và Lót Chia Tay
13 Áp-ram từ Ai-cập đi lên; ông dẫn vợ ông và đem theo các tài vật ông có trở lên Miền Nam;[ac] cũng có Lót đi với ông.
2 Bấy giờ Áp-ram đã trở thành một người rất giàu. Ông có nhiều súc vật, bạc, và vàng. 3 Ông cứ đi từng chặng một, từ Miền Nam tiến dần về Bê-tên, trở về nơi ông đã hạ trại ban đầu, tức khoảng giữa Bê-tên và Ai, 4 nơi khi trước ông đã xây một bàn thờ, nơi Áp-ram đã kêu cầu danh Chúa.
5 Bấy giờ Lót, người cháu đi theo Áp-ram, cũng có nhiều bầy chiên, bầy bò, và lều trại. 6 Xứ đó không đủ chỗ cho họ ở chung, bởi tài sản của họ quá nhiều đến nỗi không thể ở chung với nhau được. 7 Bấy giờ giữa những người chăn bầy cho Áp-ram và những người chăn bầy cho Lót lại có cuộc tranh giành cãi cọ với nhau. Lúc đó dân Ca-na-an và dân Pê-ri-xi vẫn còn trú ngụ trong xứ ấy.
8 Áp-ram nói với Lót, “Ðừng để cho có chuyện tranh chấp giữa bác cháu mình, giữa những người chăn bầy của cháu và những người chăn bầy của bác, vì chúng ta là bà con ruột thịt với nhau. 9 Chẳng phải cả xứ đều ở trước mặt cháu đấy sao? Thôi thì chúng ta hãy chia tay nhau. Nếu cháu chọn bên trái, bác sẽ dọn qua bên phải; nếu cháu chọn bên phải, bác sẽ dọn qua bên trái.”
10 Lót ngước mắt lên và thấy cả vùng đồng bằng Sông Giô-đanh, chỗ nào cũng có nước. Ðó là quang cảnh trước khi Chúa tiêu diệt Sô-đôm và Gô-mô-ra. Toàn vùng đó, chạy dài cho đến Xô-a, đều xanh tươi tốt đẹp, như vườn của Chúa, giống như xứ Ai-cập. 11 Lót bèn chọn cho ông cả vùng đồng bằng Sông Giô-đanh, và Lót dọn về phía đông. Thế là họ chia tay nhau.
12 Áp-ram sống trong xứ Ca-na-an, còn Lót đến ở giữa các thành trong vùng đồng bằng, và di chuyển trại ông đến gần Sô-đôm. 13 Vả dân Sô-đôm là những kẻ gian ác và phạm tội nặng đối với Chúa.
14 Sau khi Lót chia tay với Áp-ram, Chúa phán với ông, “Hãy ngước mắt lên, từ chỗ ngươi đang ở hãy nhìn về hướng bắc, hướng nam, hướng đông, và hướng tây, 15 vì Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi tất cả đất ngươi thấy vĩnh viễn. 16 Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi đông như bụi trên đất, đến nỗi nếu ai có thể đếm được bụi trên đất sẽ đếm được dòng dõi ngươi. 17 Hãy đứng dậy, hãy đi quan sát suốt chiều dọc và chiều ngang của xứ nầy, vì Ta sẽ ban nó cho ngươi.” 18 Vậy Áp-ram di chuyển trại của ông và đến hạ trại tại đám sồi của Mam-rê, trong vùng Hếp-rôn. Tại đó ông xây một bàn thờ để thờ phượng Chúa.
Lót Bị Giặc Bắt và Ðược Cứu
14 Trong thời của Am-ra-phên vua Si-na, A-ri-ốt vua Ên-la-sa, Kê-đô-lao-me vua Ê-lam, và Ti-đanh vua Gô-im,[ad] 2 các vua ấy liên kết với nhau để giao tranh với Bê-ra vua Sô-đôm, Bích-sa vua Gô-mô-ra, Si-náp vua Át-ma, Sê-mê-be vua Xê-boi-im, và Bê-la vua Xô-a.
3 Tất cả các vua ấy tập trung quân đội trong Thung Lũng Sít-đim, thuộc vùng Biển Muối. 4 Số là trong mười hai năm họ thần phục Vua Kê-đô-lao-me, nhưng đến năm thứ mười ba họ làm phản. 5 Qua năm thứ mười bốn, Kê-đô-lao-me cùng các vua trong liên minh của ông kéo đến đánh bại dân Rê-pha ở Ách-tê-rốt Ca-na-im, dân Xu-xim ở Ham, dân Ê-mim ở Sa-vê Ki-ri-a-tha-im, 6 dân Hô-ri ở miền đồi núi Sê-i-rơ cho đến tận Ên Pa-ran, nơi giáp ranh với đồng hoang. 7 Sau đó họ trở về và đến tại Ên Mích-pát, tức Ca-đe, và triệt hạ cả xứ của dân A-ma-léc và dân A-mô-ri đang sống trong vùng Ha-xa-xôn Ta-ma. 8 Bấy giờ vua Sô-đôm, vua Gô-mô-ra, vua Át-ma, vua Xê-boi-im, và Vua Bê-la của Xô-a liên minh với nhau rồi kéo quân ra dàn trận tại Thung Lũng Sít-đim 9 để giao tranh với Kê-đô-lao-me vua Ê-lam, Ti-đanh vua Gô-im, Am-ra-phên vua Si-na, và A-ri-ốt vua Ên-la-sa; bốn vua đấu với năm vua. 10 Thuở ấy Thung Lũng Sít-đim có đầy những hố nhựa đen. Hai vua Sô-đôm và Gô-mô-ra bại trận, chạy trốn, và bị rơi vào hố, còn những người khác chạy thoát được đều trốn trên núi. 11 Quân thắng trận tiến vào Sô-đôm và Gô-mô-ra cướp tất cả của cải và lấy hết thảy lương thực ở hai nơi đó, rồi rút đi. 12 Họ cũng bắt Lót cháu của Áp-ram, đang sống tại Sô-đôm, và lấy tất cả của cải của ông, rồi rút đi.
13 Có một người thoát được đến báo cho Áp-ram người Hê-bơ-rơ lúc ấy đang ngụ tại đám sồi của Mam-rê người A-mô-ri, anh của hai ông Ếch-côn và A-ne; những người ấy là đồng minh của Áp-ram. 14 Khi Áp-ram nghe tin cháu mình đã bị bắt làm tù binh, ông trang bị vũ khí cho ba trăm mười tám gia nhân đã được tập luyện, tức những tôi tớ đã sinh ra trong nhà ông, và đuổi theo quân giặc đến tận Ðan. 15 Ông chia những người đi với ông ra và thừa lúc đêm tối tấn công vào trại giặc. Ông và các tôi tớ ông đánh chúng và rượt đuổi chúng đến tận Khô-ba, về phía bắc của Ða-mách. 16 Ðoạn ông đem về tất cả những của cải đã bị giặc cướp; ông cũng đem Lót cháu ông, cùng tất cả của cải của ông ấy, các phụ nữ, và dân đã bị giặc bắt trở về.
Áp-ram và Mên-chi-xê-đéc
17 Sau khi Áp-ram chiến thắng Kê-đô-lao-me và các vua đồng minh của vua ấy trở về, vua Sô-đôm đi ra nghênh đón ông ở Thung Lũng Sa-vê, tức Thung Lũng Nhà Vua. 18 Mên-chi-xê-đéc vua Sa-lem mang bánh và rượu đến đón ông. Vua ấy là tư tế của Ðức Chúa Trời Tối Cao.[ae] 19 Vua ấy chúc phước cho ông và nói,
“Cầu xin Ðức Chúa Trời Tối Cao,
Ðấng dựng nên trời và đất, ban phước cho Áp-ram.
20 Chúc tụng Ðức Chúa Trời Tối Cao,
Ðấng đã trao vào tay ông những kẻ thù của ông.”
Áp-ram bèn lấy một phần mười trong tất cả chiến lợi phẩm tặng vua ấy. 21 Bấy giờ vua Sô-đôm nói với Áp-ram, “Cho tôi xin lại những người ông đã cứu; còn các chiến lợi phẩm, xin ông giữ lấy.”
22 Nhưng Áp-ram đáp lại với vua Sô-đôm, “Tôi đã đưa tay lên thề trước mặt Chúa, Ðức Chúa Trời Tối Cao, Ðấng dựng nên trời và đất, 23 rằng tôi sẽ không lấy bất cứ vật chi, dù là một sợi chỉ hay một quai dép. Tôi sẽ không lấy một vật chi thuộc về ngài, để ngài sẽ không thể nói, ‘Nhờ ta mà Áp-ram được giàu có,’ 24 ngoại trừ những gì các trai tráng theo tôi đã ăn rồi. Tuy nhiên đối với những người đã đi với tôi là A-ne, Ếch-côn, và Mam-rê, xin ngài để họ được lấy phần của họ.”
Giao Ước của Ðức Chúa Trời với Áp-ram
15 Sau các việc đó lời của Chúa đã đến với Áp-ram trong một khải tượng, “Hỡi Áp-ram, đừng sợ. Ta là thuẫn che chở ngươi. Phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn.”
2 Nhưng Áp-ram thưa lại, “Lạy Chúa Ðức Chúa Trời,[af] Ngài sẽ ban cho con điều gì, vì con vẫn còn sống cuộc đời của kẻ không con nối dõi, và người sẽ thừa kế gia tài của con sẽ là Ê-li-ê-xe người Ða-mách?” 3 Áp-ram thưa tiếp, “Nầy, cho đến bây giờ Ngài vẫn chưa cho con có con nối dõi, nên một người nô lệ sinh ra trong nhà con sẽ thừa hưởng gia tài của con.”
4 Nhưng lời Chúa đến với ông, “Kẻ ấy không phải là người thừa kế của ngươi đâu, nhưng đứa con do chính ngươi sinh ra mới là người thừa kế của ngươi.” 5 Ngài dẫn ông ra bên ngoài và phán, “Ngươi hãy nhìn lên trời và đếm các vì sao, liệu ngươi có thể đếm hết chăng.” Ðoạn Ngài phán với ông, “Dòng dõi ngươi rồi cũng sẽ đông như vậy.” 6 Ông tin Chúa, bởi thế ông được Ngài xem là công chính.
7 Ðoạn Ngài phán tiếp với ông, “Ta là Chúa, Ðấng đã dẫn ngươi ra khỏi U-rơ xứ của người Canh-đê, để ban cho ngươi vùng đất nầy, hầu ngươi làm chủ.”
8 Ông thưa, “Lạy Chúa ĐỨC CHÚA TRỜI,[ag] làm sao con biết được con sẽ làm chủ miền đất nầy?”
9 Ngài phán với ông, “Hãy mang đến cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con chiên đực ba tuổi, một con chim gáy, và một con bồ câu con.” 10 Ông mang tất cả những con vật ấy đến Ngài. Ông sả thịt chúng ra làm đôi, xẻ ngay ở giữa, rồi đặt một nửa bên nầy và một nửa bên kia, đối diện với nhau, nhưng ông không sả thịt các con chim ra. 11 Hễ những chim săn mồi sà xuống gần xác những con thú được dâng làm những con vật hiến tế thì Áp-ram đuổi chúng đi.
12 Bấy giờ mặt trời đang từ từ lặn xuống, Áp-ram đột nhiên buồn ngủ và chìm vào một giấc ngủ mê man. Nầy, một cơn kinh hãi và bóng tối mịt mùng bao trùm lấy ông. 13 Bấy giờ Ngài phán với Áp-ram, “Hãy biết rõ điều nầy: Dòng dõi ngươi sẽ làm kiều dân trong một xứ không phải là xứ của chúng. Chúng sẽ làm tôi mọi cho người ta, và người ta sẽ hành hạ chúng trong bốn trăm năm. 14 Nhưng Ta sẽ thi hành sự đoán phạt trên đất nước mà chúng sẽ làm tôi mọi. Sau đó chúng sẽ ra đi với rất nhiều của cải. 15 Còn ngươi, ngươi sẽ quy về với các tổ tiên ngươi trong bình an; ngươi sẽ được chôn cất sau khi đã tận hưởng tuổi già đầy phước hạnh. 16 Ðến thế hệ thứ tư, dòng dõi ngươi sẽ trở về đây, vì tội ác của dân A-mô-ri chưa đầy trọn.”
17 Khi mặt trời đã lặn hẳn và bóng đêm bao trùm vạn vật, kìa, một lò lửa tỏa khói nghi ngút đột nhiên xuất hiện, rồi một ngọn lửa từ lò lửa đó loè ra, xuyên qua hai đống thịt các con vật hiến tế. 18 Ngày hôm đó Chúa đã lập một giao ước với Áp-ram rằng, “Ta ban cho dòng dõi ngươi đất nầy, từ Sông Ai-cập đến Sông Cả, tức Sông Ơ-phơ-rát, 19 đó là xứ của dân Kê-ni, Kê-ni-xi, Cát-mô-ni, 20 Hít-ti, Pê-ri-xi, Rê-pha-im, 21 A-mô-ri, Ca-na-an, Ghi-ga-si, và Giê-bu-si.”
Ích-ma-ên Ðược Sinh Ra
16 Khi ấy Sa-rai vợ Áp-ram vẫn không sinh cho ông được người con nào. Bà có một nữ tỳ người Ai-cập tên là Ha-ga. 2 Sa-rai nói với Áp-ram, “Anh xem đấy, Chúa đã buộc dạ em, không cho em sinh con cho anh; bây giờ anh hãy đến với nữ tỳ của em; biết đâu nhờ nó em sẽ có con.” Áp-ram nghe theo lời của Sa-rai.
3 Sau mười năm Áp-ram kiều ngụ trong xứ Ca-na-an, Sa-rai vợ Áp-ram đem Ha-ga người Ai-cập, nữ tỳ của bà, đến cho Áp-ram chồng bà để nàng làm vợ ông. 4 Ông đến với Ha-ga, và nàng mang thai. Khi Ha-ga thấy mình có thai, nàng khinh bỉ bà chủ của nàng ra mặt. 5 Bấy giờ Sa-rai nói với Áp-ram, “Em bị nhục là tại anh đó! Em đã trao nữ tỳ của em cho anh ôm ấp; thế mà từ khi nó thấy nó có thai, nó lại nhìn em với cặp mắt khinh bỉ. Nguyện Chúa đoán xét giữa anh và em.”
6 Áp-ram nói với Sa-rai, “Kìa, nữ tỳ của em đang ở trong tay em. Em muốn làm gì với nó thì làm.” Sa-rai bèn đối xử cay nghiệt với Ha-ga; nàng đành phải bỏ bà chủ của nàng mà trốn đi. 7 Thiên Sứ của Chúa thấy nàng đang ở bên một dòng suối trong đồng hoang, tức bên suối trên con đường đi đến Su-rơ. 8 Thiên Sứ nói với nàng, “Hỡi Ha-ga nữ tỳ của Sa-rai, ngươi từ đâu đến đây, và ngươi tính sẽ đi đâu?
Nàng đáp, “Con bỏ bà chủ của con là Sa-rai mà trốn đi.”
9 Thiên Sứ của Chúa nói với nàng, “Hãy trở về với bà chủ của ngươi và thuận phục dưới tay bà ấy.” 10 Thiên Sứ của Chúa lại nói tiếp với nàng, “Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi trở nên đông đúc, đông đến nỗi không thể đếm hết.” 11 Thiên Sứ của Chúa lại nói với nàng,
“Bây giờ ngươi đang có thai,
Ngươi sẽ sinh một con trai,
Hãy đặt tên cho nó là Ích-ma-ên,[ah]
Bởi vì Chúa đã nghe rõ nỗi khổ của ngươi.
12 Ðứa con ngươi rồi sẽ như một con lừa rừng,
Nó sẽ đưa tay ra chống lại mọi người,
Và tay của mọi người sẽ chống lại nó;
Nó sẽ sống đối nghịch với tất cả các em nó.”
13 Ha-ga gọi danh Chúa, Ðấng đã phán với nàng, là “Ðức Chúa Trời, Ðấng Thấy Tôi,”[ai] vì nàng nói, “Phải chăng ở nơi đây tôi đã được nhìn thấy Ðấng đã thấy tôi?” 14 Vì thế người ta đã gọi giếng đó là Giếng La-khai Roi.[aj] Giếng ấy nằm ở giữa khoảng Ca-đe và Bê-rết.
15 Ha-ga sinh cho Áp-ram một con trai. Áp-ram đặt tên cho con trai ông do Ha-ga sinh ra là Ích-ma-ên. 16 Áp-ram được tám mươi sáu tuổi khi Ha-ga sinh Ích-ma-ên cho Áp-ram.
Copyright © 2011 by Bau Dang