Bible in 90 Days
Phong Chức cho Các Tư Tế
(Lê 8:1-36)
29 Ðây là những điều ngươi sẽ làm để biệt riêng chúng ra thánh, hầu chúng sẽ làm những tư tế phục vụ Ta. Hãy bắt một con bò tơ và hai con chiên đực vẹn toàn, 2 cùng với bánh mì không men, bánh ngọt làm bằng bột không men nhồi dầu, và bánh tráng không men thoa dầu. Ngươi hãy lấy bột lúa mì thượng hạng làm các bánh ấy. 3 Ngươi sẽ để các bánh ấy vào một cái rổ, rồi bưng rổ bánh ấy đến dâng, cùng với con bò tơ và hai con chiên đực.
4 Ngươi hãy đem A-rôn và các con trai ông đến cửa Lều Hội Kiến, rồi dùng nước thanh tẩy chúng. 5 Sau đó ngươi hãy lấy bộ lễ phục mặc cho A-rôn; đó là áo lễ dài, áo choàng dưới ê-phót, ê-phót, túi đeo ngực, rồi ngươi hãy lấy đai của ê-phót đã được thêu đan mỹ thuật thắt cho ông. 6 Ngươi hãy đội mũ tế lên đầu ông, rồi gắn thẻ thánh trên mũ tế. 7 Ðoạn ngươi hãy lấy dầu dùng cho phép xức dầu đổ lên đầu ông và xức dầu cho ông.
8 Sau đó ngươi hãy đem các con trai ông đến, mặc áo lễ cho chúng. 9 Ngươi hãy lấy đai lưng thắt vào cho A-rôn và các con trai ông, rồi lấy mũ đội lên đầu chúng. Như thế chức tư tế sẽ thuộc về chúng, và đó là một luật muôn đời. Ngươi sẽ phong chức cho A-rôn và các con trai ông như vậy.
10 Ngươi sẽ dắt một con bò đến trước Lều Hội Kiến. A-rôn và các con trai ông sẽ đặt tay chúng trên đầu con bò ấy, 11 rồi ngươi sẽ giết con bò ấy trước mặt Chúa, trước cửa Lều Hội Kiến. 12 Ngươi sẽ lấy một ít máu con bò, dùng ngón tay bôi trên các sừng bàn thờ. Tất cả máu còn lại ngươi hãy đổ xuống nơi chân bàn thờ. 13 Ngươi sẽ lấy tất cả lớp mỡ bọc bộ lòng, lớp mỡ dính với lá gan, hai trái cật và lớp mỡ bọc hai trái cật, đem thiêu trên bàn thờ để trở thành khói thơm. 14 Nhưng thịt con bò, da nó, và phân nó, ngươi hãy đem ra ngoài doanh trại, rồi dùng lửa thiêu rụi chúng. Ðó là của lễ chuộc tội.
15 Kế đến ngươi hãy bắt một trong hai con chiên đực; A-rôn và các con trai ông sẽ đặt tay trên đầu con chiên ấy. 16 Ngươi sẽ giết con chiên ấy, rồi lấy máu nó rảy chung quanh bàn thờ. 17 Ðoạn ngươi sẽ chặt con chiên ấy ra từng mảnh, đem bộ lòng và bốn chân nó rửa sạch, xong sắp tất cả những mảnh thịt và đầu nó 18 trên bàn thờ, rồi thiêu rụi cả con chiên ấy thành khói. Ðó là của lễ thiêu dâng lên Chúa, một của lễ có mùi thơm, dùng lửa dâng lên Chúa.
19 Ngươi sẽ bắt con chiên đực còn lại. A-rôn và các con trai ông sẽ đặt tay chúng trên đầu con chiên ấy. 20 Ngươi sẽ giết con chiên ấy, rồi lấy một ít máu bôi vào trái tai phải của A-rôn, trái tai phải của các con trai ông, ngón cái tay phải của chúng, và ngón cái chân phải của chúng. Rồi ngươi lấy máu còn lại rảy chung quanh bàn thờ. 21 Ðoạn ngươi hãy lấy một ít máu trên bàn thờ và một ít dầu dùng cho phép xức dầu rảy chúng trên A-rôn và trên bộ lễ phục của ông, trên các con trai ông và trên các bộ lễ phục của chúng. Như vậy ông và lễ phục của ông cùng các con trai ông và lễ phục của chúng sẽ trở nên thánh.
22 Ngươi hãy lấy mỡ của con chiên đực, gồm cái đuôi luôn với mỡ dính trong đuôi, lớp mỡ bọc bộ lòng, lớp mỡ dính với lá gan, hai trái cật với lớp mỡ bọc hai trái cật, cái đùi phải của nó (vì đó là con chiên đực được dâng trong lễ tấn phong), 23 một ổ bánh mì, một cái bánh ngọt có dầu, và một cái bánh tráng trong rổ đựng bánh không men để trước mặt Chúa. 24 Ngươi hãy để tất cả những món đó trên hai bàn tay A-rôn và trên hai bàn tay các con trai ông, rồi ngươi bảo chúng giơ cao lên làm của lễ kính dâng lên trước mặt Chúa. 25 Ðoạn ngươi hãy lấy các món ấy từ tay chúng, đem đặt trên bàn thờ để làm một của lễ thiêu, rồi thiêu chúng thành khói có mùi thơm trước mặt Chúa. Ðó là của lễ dùng lửa dâng lên Chúa.
26 Ngươi hãy lấy cái ức của con chiên dùng cho lễ tấn phong A-rôn giơ cao lên làm của lễ kính dâng trước mặt Chúa, rồi phần đó sẽ thuộc về ngươi. 27 Ngươi hãy biệt riêng ra thánh cái ức đã được giơ cao lên làm của lễ kính dâng, và cái đùi của con chiên dùng cho lễ tấn phong đã được giơ cao lên làm của lễ kính dâng. Các phần đó sẽ thuộc về A-rôn và các con trai ông. 28 Sự chia phần của tế lễ cho A-rôn và các con cháu ông sau nầy sẽ là một thông lệ muôn đời cho dân I-sơ-ra-ên, vì đó là của lễ chúng đã dâng lên Ta.[a] Mỗi khi dân I-sơ-ra-ên đem dâng các của lễ cầu an lên Chúa, chúng phải hiểu rằng một phần trong các của dâng sau đó sẽ thuộc về các tư tế, vì đó là của lễ chúng đã dâng lên Ta rồi.
29 Bộ lễ phục thánh của A-rôn sẽ được truyền lại cho các con cháu ông đến sau ông. Chúng sẽ mặc bộ lễ phục đó khi nhận phép xức dầu và khi được phong chức. 30 Con cháu nào của ông khi được làm tư tế thay thế chức vụ ông sẽ được mặc bộ lễ phục đó bảy ngày, khi đi vào trong Lều Hội Kiến để thi hành chức vụ trong Nơi Thánh.
31 Ngươi hãy lấy thịt con chiên đực đã dâng trong lễ tấn phong đem nấu chín trong Nơi Thánh, 32 rồi A-rôn và các con trai ông sẽ ăn thịt đó và các bánh trong rổ, trước cửa vào Lều Hội Kiến. 33 Chính chúng phải ăn các thực phẩm đã dâng lên để chuộc tội, phong chức, và biệt riêng chúng ra thánh, nhưng không ai khác được ăn các món đó, bởi vì chúng đã thành vật thánh rồi. 34 Nếu thịt con vật hiến tế dùng cho lễ tấn phong hay bánh đã dâng còn thừa lại đến sáng hôm sau, ngươi phải đem thiêu tất cả những gì còn lại đó trong lửa. Không ai được phép ăn những món ấy, vì chúng là những vật thánh.
35 Ðó là những điều ngươi phải làm cho A-rôn và các con trai ông, như Ta đã truyền cho ngươi. Ngươi phải làm lễ tấn phong chúng trong bảy ngày. 36 Cứ mỗi ngày ngươi sẽ dâng một con bò đực làm của lễ chuộc tội. Ngươi cũng hãy dâng một của lễ chuộc tội cho bàn thờ. Ngươi phải chuộc tội cho bàn thờ, xức dầu cho bàn thờ, và biệt riêng bàn thờ ra thánh. 37 Liên tục trong bảy ngày, ngươi sẽ dâng lễ chuộc tội cho bàn thờ, biệt riêng nó ra thánh, rồi bàn thờ sẽ thành vật chí thánh; bất cứ những gì chạm vào bàn thờ đều sẽ trở thành thánh.
Của Lễ Dâng Hằng Ngày
(Dân 28:3-8)
38 Ðây là những gì ngươi sẽ dâng trên bàn thờ thường xuyên mỗi ngày: hai con chiên một tuổi. 39 Một con ngươi sẽ dâng vào buổi sáng, còn con kia ngươi sẽ dâng vào chiều tối. 40 Cùng với con chiên thứ nhất, ngươi sẽ dâng hai lít[b] bột thượng hạng, trộn với một lít[c] dầu ép ra từ trái ô-liu, và một lít[d] rượu nho để làm của lễ quán.[e]
41 Còn con chiên kia ngươi sẽ dâng vào chiều tối. Cùng dâng với nó là một của lễ chay và một của lễ quán giống như buổi sáng, để làm một mùi thơm dùng lửa dâng lên Chúa. 42 Ðó là của lễ thiêu dâng lên thường xuyên, trải qua các đời, trước cửa vào Lều Hội Kiến trước mặt Chúa, nơi Ta sẽ gặp các ngươi và nói chuyện với ngươi. 43 Ta sẽ gặp dân I-sơ-ra-ên tại đó, và vinh quang Ta sẽ làm nơi đó trở nên thánh. 44 Ta sẽ biệt riêng ra thánh Lều Hội Kiến và bàn thờ. Ta cũng sẽ biệt riêng ra thánh A-rôn và các con trai ông, để làm những tư tế phục vụ Ta. 45 Ta sẽ ngự giữa dân I-sơ-ra-ên, và Ta sẽ làm Thần[f] của chúng. 46 Chúng sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng, Ðấng đã đem chúng ra khỏi xứ Ai-cập để Ta ngự giữa chúng. Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng.
Bàn Thờ Dâng Hương
(Xuất 37:25-28)
30 Ngươi hãy làm một bàn thờ để dâng hương trên đó. Ngươi hãy làm bàn thờ ấy bằng gỗ si-tim. 2 Bàn thờ ấy sẽ có chiều ngang nửa mét, chiều dọc nửa mét, tức hình vuông, và cao một mét.[g] Các sừng ở bốn góc bàn thờ phải liền một khối với bàn thờ. 3 Ngươi hãy lấy vàng ròng bọc kín trên mặt, bốn mặt chung quanh, và các sừng của bàn thờ. Ngươi hãy làm một đường viền bằng vàng quanh bàn thờ. 4 Ngươi hãy làm hai khoen bằng vàng, gắn vào hai bên, ở dưới đường viền. Ngươi hãy làm như thế cho mỗi bên của hai bên hông bàn thờ, để người ta xỏ các đòn khiêng vào khiêng nó. 5 Ngươi sẽ làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim, rồi lấy vàng bọc chúng lại. 6 Ngươi hãy để bàn thờ ấy phía trước bức màn che Rương Giao Ước, tức trước Nắp Thi Ân trên Giao Ước, nơi Ta sẽ gặp ngươi.
7 Mỗi buổi sáng A-rôn sẽ dâng hương thơm trên bàn thờ đó. Sau khi ông chăm sóc cây đèn, ông sẽ dâng hương trên bàn thờ ấy. 8 Lúc chiều tối, sau khi A-rôn thắp đèn, ông cũng sẽ dâng hương trên bàn thờ ấy. Ðó là sự dâng hương đều đặn mỗi ngày trước mặt Chúa trải qua các đời.
9 Ngươi không được dâng bất cứ thứ hương nào không phải là hương thánh trên bàn thờ đó. Ngươi không được dâng của lễ thiêu hay của lễ chay trên đó. Ngươi cũng không được rưới của lễ quán trên đó. 10 Mỗi năm một lần A-rôn sẽ cử hành nghi thức chuộc tội trên các sừng của bàn thờ. Trải qua các đời, mỗi năm một lần, tư tế sẽ cử hành nghi thức chuộc tội cho bàn thờ bằng cách dùng máu của con vật hiến tế dâng trong lễ chuộc tội. Bàn thờ ấy là vật cực thánh cho Chúa.”
Thuế Thân cho Ðền Tạm
11 Chúa phán với Môi-se, 12 “Khi ngươi thực hiện việc thống kê dân số cho dân I-sơ-ra-ên; lúc ghi danh, mỗi người sẽ đóng cho Chúa một món tiền chuộc mạng, hầu sẽ không có ôn dịch nào xảy ra khi thực hiện việc thống kê. 13 Ðây là số tiền mỗi người dân đến đăng bạ sẽ phải đóng: nửa sê-ken[h] theo cân lượng của Nơi Thánh (một sê-ken bằng hai mươi ghê-ra[i]); nửa sê-ken đó là tiền cúng hiến lên Chúa. 14 Bất cứ ai đến đăng bạ, từ hai mươi tuổi trở lên, đều cúng hiến số tiền ấy lên Chúa. 15 Người giàu sẽ không đóng hơn, và người nghèo sẽ không đóng thiếu số tiền nửa sê-ken ấy. Ðó là tiền mỗi người sẽ cúng hiến lên Chúa, để làm tiền chuộc mạng cho mình. 16 Ngươi sẽ lấy tiền chuộc mạng ấy từ dân I-sơ-ra-ên, và biệt riêng nó ra, để dùng vào việc phục vụ trong Lều Hội Kiến. Trước mặt Chúa, số tiền ấy sẽ là một kỷ niệm cho dân I-sơ-ra-ên nhớ rằng các ngươi đã đóng tiền chuộc mạng cho mình.”
Ðỉnh Ðồng
17 Chúa phán với Môi-se, 18 “Ngươi hãy làm một cái đỉnh bằng đồng có đế bằng đồng để dùng vào việc tẩy rửa. Ngươi hãy để đỉnh ấy ở khoảng giữa Lều Hội Kiến và bàn thờ, rồi ngươi sẽ đổ nước vào trong đỉnh ấy. 19 A-rôn và các con trai ông sẽ dùng nước ấy rửa tay chân. 20 Mỗi khi chúng sắp vào Lều Hội Kiến, hoặc mỗi khi chúng đến gần bàn thờ để hành lễ, tức để dùng lửa dâng của tế lễ lên Chúa; chúng phải lấy nước ấy mà tẩy rửa, để chúng khỏi phải chết. 21 Chúng phải tẩy rửa tay chân mình để chúng khỏi phải chết. Ðó là quy luật muôn đời cho chúng, tức cho A-rôn và dòng dõi ông trải qua các đời.”
Dầu Thánh
22 Chúa phán với Môi-se, 23 “Ngươi hãy lấy những hương liệu thượng hạng, gồm sáu ký[j] mộc dược lỏng, một nửa số lượng, tức ba ký[k] hương nhục quế, ba ký hương quế thanh, 24 sáu ký quế bì, tính theo cân lượng Nơi Thánh, và bốn lít[l] dầu ô-liu. 25 Ngươi hãy nhờ các thợ chế biến hương liệu dùng các chất liệu nầy chế biến thành một thứ dầu thánh để dùng cho phép xức dầu. Dầu đó sẽ trở thành dầu thánh. 26 Ngươi sẽ dùng dầu đó xức dầu cho Lều Hội Kiến, Rương Giao Ước, 27 bàn để bánh thánh và các đồ phụ tùng của bàn ấy, bàn thờ dâng hương, 28 bàn thờ dâng của lễ thiêu và các đồ phụ tùng của bàn thờ ấy, và đỉnh đồng với đế đỉnh. 29 Ngươi hãy biệt riêng chúng ra thánh, hầu chúng trở thành những vật chí thánh; phàm những gì chạm vào chúng đều sẽ trở nên thánh. 30 Ngươi sẽ xức dầu cho A-rôn và các con trai ông, và biệt riêng chúng ra thánh, để chúng làm các tư tế phục vụ Ta. 31 Ngươi hãy nói với dân I-sơ-ra-ên, ‘Ðây sẽ là dầu thánh của Ta, dùng cho phép xức dầu trải qua các đời. 32 Dầu ấy không được phép dùng để xức trên cơ thể người thường.[m] Các ngươi không được dùng công thức đó để pha chế một thứ dầu khác tương tự như dầu ấy. Dầu ấy là dầu thánh, và các ngươi phải coi đó là một của thánh. 33 Kẻ nào chế biến một thứ dầu nào khác tương tự như dầu ấy, hoặc đem dầu ấy xức trên kẻ không xứng đáng sẽ bị khai trừ khỏi dân.’”
Hương Thánh
34 Chúa phán với Môi-se, “Ngươi hãy lấy những hương thơm, gồm tô hợp hương, loa yểm hương, và phong tử hương; ngươi hãy lấy các thứ hương thơm ấy và nhũ hương nguyên chất; mỗi thứ với cân lượng bằng nhau. 35 Ngươi hãy nhờ thợ chế hương dùng các thứ hương ấy chế biến theo nghệ thuật làm hương, để khi bỏ muối vào nó sẽ thành một thứ hương thơm tinh khiết và thánh. 36 Ngươi hãy lấy một phần sản phẩm ấy tán thành bột, rồi lấy một ít đặt phía trước Rương[n] Giao Ước trong Lều Hội Kiến, nơi Ta sẽ gặp ngươi. Bột hương ấy sẽ là vật chí thánh cho các ngươi. 37 Các ngươi không được phép dùng công thức ấy để chế biến một thứ hương tương tự dùng cho mình; đối với các ngươi, hương đó là một vật thánh, chỉ dành riêng cho Chúa. 38 Kẻ nào chế biến hương như thế để ngửi mùi thơm sẽ bị khai trừ khỏi dân.”
Bê-xanh-ên và Ô-hô-li-áp
(Xuất 35:30-36:1)
31 Chúa phán với Môi-se, 2 “Nầy, Ta đã gọi đích danh Bê-xanh-ên con trai U-ri, cháu Hu-rơ, trong chi tộc Giu-đa. 3 Ta đã ban cho nó đầy dẫy Thần của Ðức Chúa Trời, để nó thành một người khôn ngoan, thông minh, và có tri thức trong mọi lãnh vực của ngành chế tạo, 4 hầu nó phác họa những tác phẩm nghệ thuật, rồi làm những đồ vật bằng vàng, bằng bạc, và bằng đồng, 5 luôn cả việc cắt mài ngọc để khảm vào khuôn, chạm khắc gỗ, và mọi công việc đòi hỏi kỹ năng. 6 Nầy, Ta đã chọn Ô-hô-li-áp con trai A-hi-sa-mách trong chi tộc Ðan làm người phụ tá cho nó. Ta cũng ban cho tất cả thợ làm việc với chúng lòng trí khôn ngoan để chúng thực hiện tất cả những gì Ta đã truyền cho ngươi: 7 Lều Hội Kiến, Rương Giao Ước, Nắp Thi Ân trên rương, mọi đồ đạc trong lều, 8 bàn để bánh thánh và mọi đồ phụ tùng cho bàn, cây đèn bằng vàng ròng và mọi đồ phụ tùng cho cây đèn, bàn thờ dâng hương, 9 bàn thờ dâng của lễ thiêu và mọi đồ phụ tùng của bàn thờ, cái đỉnh cùng đế đỉnh, 10 các bộ lễ phục gồm bộ lễ phục thánh cho Tư Tế A-rôn và các bộ lễ phục cho các con trai ông để chúng mặc vào khi thi hành chức vụ tư tế, 11 dầu thánh dùng cho phép xức dầu, và hương thơm thánh cho Nơi Thánh. Chúng sẽ thực hiện mọi điều đó y như Ta đã truyền cho ngươi.”
Luật Ngày Sa-bát
12 Chúa phán với Môi-se, 13 “Chính ngươi phải nói với dân I-sơ-ra-ên: ‘Các ngươi phải giữ ngày Sa-bát của Ta, vì đây là dấu hiệu giữa Ta và các ngươi trải qua các đời, để các ngươi biết rằng Ta, Chúa, làm cho các ngươi ra thánh. 14 Các ngươi phải giữ ngày Sa-bát, vì là ngày thánh cho các ngươi. Kẻ nào làm cho ngày ấy ra uế tục sẽ bị xử tử. Kẻ nào làm bất cứ việc gì trong ngày ấy sẽ bị loại trừ khỏi dân. 15 Các ngươi sẽ làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát để nghỉ ngơi và biệt riêng ra thánh cho Chúa; phàm ai làm bất cứ việc gì trong ngày Sa-bát sẽ bị xử tử. 16 Vậy dân I-sơ-ra-ên phải giữ ngày Sa-bát, tuân theo luật ngày Sa-bát trải qua các đời, như một giao ước đời đời. 17 Ðó là dấu hiệu đời đời giữa Ta và dân I-sơ-ra-ên, vì Chúa đã dựng nên trời đất trong sáu ngày, đến ngày thứ bảy Ngài ngưng công việc và nghỉ ngơi.”
Hai Bảng Giao Ước
18 Khi Ðức Chúa Trời[o] nói với Môi-se trên Núi Si-nai xong, Ngài trao cho ông hai bảng giao ước. Ðó là hai bảng bằng đá do chính ngón tay của Ðức Chúa Trời viết.
Thờ Bò Con Bằng Vàng
(Phục 9:6-29)
32 Khi dân thấy đã khá lâu mà Môi-se vẫn chưa từ trên núi xuống, dân tụ họp lại quanh A-rôn và nói với ông, “Xin ông đứng dậy, làm cho chúng tôi một vị thần,[p] để đi trước dẫn đầu chúng tôi, vì Môi-se, người đã đem chúng tôi ra khỏi xứ Ai-cập, chúng tôi không biết đã có chuyện gì xảy ra cho ông ấy.”
2 A-rôn nói với họ, “Hãy gỡ các khuyên vàng mà vợ, con trai, và con gái các anh em đeo trên tai, rồi mang chúng đến tôi.” 3 Vậy toàn dân gỡ những khuyên vàng họ đeo nơi tai và đem đến A-rôn. 4 Ông lấy vàng từ các khuyên ấy, rồi dùng dụng cụ làm một cái khuôn và đúc thành tượng một con bò con. Bấy giờ họ nói, “Hỡi I-sơ-ra-ên, đây là thần của anh chị em, đấng đã đem anh chị em ra khỏi xứ Ai-cập!” 5 Khi A-rôn thấy vậy, ông dựng một bàn thờ trước tượng con bò con ấy. Ðoạn A-rôn tuyên bố rằng, “Ngày mai sẽ có lễ thờ phượng Chúa.”
6 Hôm sau họ thức dậy sớm và dâng những của lễ thiêu và của lễ cầu an cho con bò con ấy. Ðoạn họ ngồi xuống ăn và uống, xong rồi đứng dậy bày cuộc truy hoan.
Môi-se Cầu Thay cho Dân
7 Chúa phán với Môi-se, “Ngươi hãy đi xuống ngay, vì dân ngươi, những kẻ ngươi đã đem ra khỏi xứ Ai-cập, đã bại hoại rồi. 8 Chúng đã nhanh chóng lìa bỏ đường lối Ta truyền cho chúng. Chúng đã đúc cho mình tượng một bò con, rồi quỳ xuống lạy nó, dâng của tế lễ cho nó, và bảo, ‘Hỡi I-sơ-ra-ên, đây là thần[q] của anh chị em, đấng đã đem anh chị em ra khỏi xứ Ai-cập.’” 9 Chúa phán với Môi-se, “Ta đã thấy dân nầy rồi. Nầy, chúng là một dân cứng cổ. 10 Bây giờ ngươi cứ để mặc Ta, hầu cơn thịnh nộ của Ta sẽ bừng lên nghịch lại chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Còn ngươi, Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn.”
11 Nhưng Môi-se van nài với Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, và nói, “Lạy Chúa, tại sao Ngài nổi cơn thịnh nộ nghịch lại dân Ngài, những người Ngài đã đem ra khỏi xứ Ai-cập bằng quyền năng lớn lao và cánh tay mạnh mẽ của Ngài? 12 Tại sao Ngài để cho dân Ai-cập có cớ để nói, ‘Chính vì có ác ý mà Ngài đã đem chúng ra đi, để rồi tiêu diệt chúng trên núi, và thiêu sạch chúng khỏi mặt đất?’ Cầu xin Ngài nguôi cơn thịnh nộ của Ngài. Xin Ngài đổi ý và đừng làm hại dân Ngài. 13 Xin Ngài nhớ đến Áp-ra-ham, I-sác, và I-sơ-ra-ên, tức các đầy tớ của Ngài; thể nào Ngài đã lấy chính mình Ngài mà thề với họ rằng, ‘Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông như sao trên trời, và cả vùng đất nầy mà Ta đã hứa Ta sẽ ban cho dòng dõi các ngươi, rồi chúng sẽ thừa hưởng đất ấy đến muôn đời.’”
14 Vậy Chúa đổi ý về tai họa Ngài định giáng xuống trên dân Ngài.
Môi-se Ðập Bể Hai Bảng Giao Ước
15 Bấy giờ Môi-se quay bước và đi xuống núi, hai tay ông mang hai bảng Giao Ước. Hai bảng ấy được viết cả hai mặt, mặt trước và mặt sau. 16 Hai bảng ấy là tác phẩm của Ðức Chúa Trời. Những chữ trên đó do chính Ðức Chúa Trời viết. Ngài khắc chúng trên hai bảng ấy. 17 Khi Giô-suê nghe tiếng dân reo hò, ông nói với Môi-se, “Có tiếng giao tranh trong trại.”
18 Nhưng Môi-se đáp, “Ðó không phải là âm thanh của những kẻ thắng trận, cũng không phải là âm thanh của những kẻ bại trận, nhưng là âm thanh của những kẻ truy hoan.” 19 Khi đến gần doanh trại ông thấy tượng con bò con, còn dân chúng thì đang nhảy nhót. Môi-se đùng đùng nổi giận, ông liệng hai bảng đó khỏi tay mình và đập vỡ chúng ở chân núi. 20 Ông lấy con bò con họ đã làm thiêu trong lửa, nghiền nó thành bột, rải bột ấy trên mặt nước, rồi bắt dân I-sơ-ra-ên uống nước ấy.
21 Môi-se nói với A-rôn, “Dân nầy đã làm gì anh mà anh đã khiến họ phạm một tội nặng như vậy?”
22 A-rôn đáp, “Xin chúa của tôi đừng nổi giận. Chính ngài cũng đã biết dân nầy, họ luôn có khuynh hướng xấu. 23 Họ nói với tôi, ‘Hãy làm cho chúng tôi một vị thần[r] để đi trước dẫn đầu chúng tôi, vì Môi-se, người đã đem chúng tôi ra khỏi xứ Ai-cập, chúng tôi không biết đã có chuyện gì xảy đến cho ông ấy rồi.’ 24 Vì thế tôi nói với họ, ‘Ai có vàng, hãy gỡ nó ra.’ Vậy họ đưa vàng cho tôi, tôi thảy nó trong lửa, và nó thành ra con bò con nầy.”
25 Khi Môi-se thấy dân chúng sống quá buông tuồng, vì A-rôn đã để họ sống buông tuồng như thế, đến nỗi họ đã trở thành trò cười cho kẻ thù của họ, 26 Môi-se đến đứng nơi cổng trại và hỏi, “Ai có quyết tâm chỉ phụng thờ Chúa chăng? Ngươi ấy hãy theo tôi.” Tất cả con cháu của Lê-vi đều tụ họp quanh ông. 27 Ông nói với họ, “Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế nầy, ‘Hãy mang gươm của mình bên hông. Hãy đi tới đi lui, từ cửa lều nầy qua cửa lều khác, khắp cả doanh trại, mỗi người trong anh em hãy giết anh em mình, bạn hữu mình, và láng giềng mình.’” 28 Các con cháu Lê-vi làm y như Môi-se đã truyền cho họ. Trong ngày đó có chừng ba ngàn người trong dân đã ngã chết.
29 Môi-se nói, “Ngày nay anh em đã tự phong chức cho mình để phục vụ Chúa. Có người đã không nương tay ngay cả với con mình; có người đã không nương tay với anh em mình. Chắc chắn Ngài đã ban phước cho anh em hôm nay.”
Môi-se Cầu Thay cho Dân
30 Hôm sau Môi-se nói với dân, “Anh chị em đã phạm một tội trọng, nhưng bây giờ tôi sẽ lên gặp Chúa, may ra tôi có thể chuộc tội cho anh chị em.” 31 Vậy Môi-se trở lên với Chúa và thưa, “Hỡi ôi, dân nầy đã phạm một tội trọng. Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng. 32 Nhưng bây giờ con cầu xin Ngài tha tội cho họ, bằng không, xin Ngài xóa tên con khỏi sách Ngài đã viết đi.”
33 Chúa phán với Môi-se, “Kẻ nào phạm tội đối với Ta, Ta sẽ xóa tên nó khỏi sách của Ta. 34 Bây giờ ngươi hãy đi, hãy dẫn dân nầy đến nơi Ta đã bảo ngươi. Nầy, thiên sứ của Ta sẽ đi trước ngươi; đến ngày Ta sửa phạt, Ta sẽ phạt chúng vì tội của chúng.”
35 Sau đó Chúa giáng một bịnh dịch trên dân, vì họ đã làm tượng con bò con, tức tượng con bò con A-rôn đã làm.
Lệnh Rời Núi Si-nai
33 Chúa phán với Môi-se, “Hãy đi, hãy rời khỏi nơi nầy, ngươi và dân ngươi đã đem lên khỏi xứ Ai-cập. Hãy đi đến xứ Ta đã thề với Áp-ra-ham, I-sác, và Gia-cốp rằng, ‘Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất nầy.’ 2 Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước ngươi. Ta sẽ đuổi dân Ca-na-an, dân A-mô-ri, dân Hít-ti, dân Pê-ri-xi, dân Hi-vi, và dân Giê-bu-si ra khỏi đó. 3 Hãy đi lên một xứ đượm sữa và mật, nhưng Ta sẽ không đi với các ngươi, kẻo Ta sẽ tiêu diệt các ngươi ở dọc đường chăng, vì các ngươi là một dân cứng cổ.”
4 Khi dân nghe tin chẳng lành đó, họ than khóc, và không ai đeo đồ trang sức có hình tượng nữa, 5 bởi vì Chúa đã phán với Môi-se, “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên, ‘Các ngươi là một dân cứng cổ. Nếu Ta đi lên với các ngươi thì chỉ một thời gian ngắn, Ta sẽ tiêu diệt các ngươi.’ Vậy bây giờ hãy gỡ bỏ những đồ trang sức có hình tượng của các ngươi đi, may đâu Ta sẽ xét lại và sẽ quyết định phải làm gì với các ngươi.” 6 Vì vậy dân I-sơ-ra-ên gỡ bỏ những đồ trang sức có hình tượng của họ tại Núi Hô-rếp.
Lều Hội Kiến
7 Môi-se lấy một cái lều đem dựng bên ngoài doanh trại, cách doanh trại một khoảng xa xa, và gọi đó là Lều Hội Kiến. Nếu ai muốn thỉnh ý Chúa, người ấy phải ra ngoài doanh trại và đến Lều Hội Kiến được dựng bên ngoài doanh trại ấy. 8 Mỗi khi Môi-se đi ra để đến Lều ấy, toàn dân đứng dậy. Ai nấy đứng nơi cửa lều mình và nhìn theo Môi-se cho đến khi ông vào trong Lều thánh. 9 Khi Môi-se đã vào trong Lều, trụ mây hạ xuống, đứng ở cửa Lều, và Chúa nói chuyện với Môi-se. 10 Khi dân thấy trụ mây đứng ở cửa Lều, mọi người đứng dậy, rồi sấp mình xuống thờ lạy nơi cửa lều mình. 11 Ðó là cách Chúa nói chuyện với Môi-se, mặt đối mặt, như hai người bạn nói chuyện với nhau. Sau đó ông trở về doanh trại, nhưng người phụ tá trẻ tuổi của ông, Giô-suê con của Nun, thì không rời Lều ấy.
Môi-se Cầu Xin CHÚA
12 Môi-se thưa với Chúa, “Lạy Chúa, Ngài đã phán với con, ‘Hãy đem dân nầy đi,’ nhưng Ngài không cho con biết Ngài sẽ sai ai đi với con. Hơn nữa Ngài đã phán, ‘Ta biết đích danh ngươi và ngươi được ơn trước mặt Ta.’ 13 Bây giờ nếu con được ơn trước mặt Ngài, xin dạy con các đường lối Ngài, để con được biết Ngài hơn và được ơn trước mặt Ngài hơn. Ngoài ra con xin Ngài luôn xem dân nầy là dân Ngài.”
14 Ngài phán, “Chính Ta sẽ đi với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi.”
15 Ông thưa với Ngài, “Nếu chính Ngài không đi với chúng con, xin đừng đem chúng con lên khỏi nơi đây. 16 Vì làm sao người ta biết được con và dân Ngài được ơn trước mặt Ngài? Há chẳng phải Ngài đi với chúng con sao? Chỉ như thế, chúng con, tức con và dân Ngài, mới khác biệt với mọi dân khác trên mặt đất.”
17 Chúa phán với Môi-se, “Ta sẽ làm mọi điều ngươi cầu xin, vì ngươi đã được ơn trước mặt Ta, và Ta biết đích danh ngươi.”
18 Môi-se thưa, “Con cầu xin Ngài cho con được chiêm ngưỡng vinh quang Ngài.”
19 Ngài đáp, “Ta sẽ thể hiện hoàn toàn vẻ thiện mỹ của Ta ngang qua trước mặt ngươi, và hô danh ‘Chúa’ trước mặt ngươi. Ta sẽ làm ơn cho ai Ta muốn làm ơn. Ta sẽ thương xót ai Ta muốn thương xót. 20 Nhưng,” Ngài phán, “ngươi không thể thấy mặt Ta, vì không ai thấy mặt Ta mà còn sống.” 21 Chúa lại phán tiếp, “Nầy, có một chỗ gần Ta, và ngươi sẽ đứng trên vầng đá. 22 Khi vinh quang Ta đi ngang qua, Ta sẽ đặt ngươi vào trong hốc đá, Ta sẽ lấy tay Ta che ngươi lại, cho đến khi Ta qua khỏi. 23 Sau đó Ta sẽ rút tay Ta, bấy giờ ngươi sẽ thấy sau lưng Ta, nhưng mặt Ta thì ngươi không thể thấy.”
Hai Bảng Giao Ước Mới
(Phục 10:1-5)
34 Chúa phán với Môi-se, “Ngươi hãy làm hai bảng đá giống như hai bảng trước, để Ta sẽ viết trên đó những lời giống như hai bảng đá mà ngươi đã đập vỡ. 2 Ðến sáng mai ngươi phải có sẵn. Sáng mai ngươi hãy lên Núi Si-nai, lên tận đỉnh núi, rồi trình diện Ta tại đó. 3 Không ai được lên núi với ngươi, cũng không ai lảng vảng bất cứ nơi nào trên núi; ngay cả chiên, dê, bò, lừa đều không được gặm cỏ gần núi.” 4 Vậy Môi-se đục hai bảng đá giống như hai bảng trước. Sáng hôm sau ông dậy sớm và lên Núi Si-nai như Chúa đã truyền cho ông; hai tay ông mang hai bảng đá. 5 Chúa ngự xuống trong trụ mây, đứng với ông tại đó, và hô danh “Chúa.” 6 Chúa đi qua trước mặt ông và hô:
“Chúa! Chúa! Ðức Chúa Trời thương xót và đầy ơn,
Chậm giận, chan chứa tình thương, và chân thật,[s]
7 Thương ai thương đến ngàn đời,
Tha thứ tội ác, vi phạm, và tội lỗi,
Nhưng không kể kẻ có tội là vô tội;
Do tội của ông bà cha mẹ mà con cháu bị vạ lây đến ba bốn đời.”
8 Môi-se vội vàng cúi đầu và sấp mình xuống đất thờ lạy Ngài. 9 Ông nói, “Lạy Chúa, nếu bây giờ con được ơn trước mặt Ngài, cầu xin Chúa đi với chúng con. Dù dân nầy là một dân cứng cổ, con cầu xin Ngài tha thứ tội ác và tội lỗi của chúng con, và xin nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài.”
Tái Lập Giao Ước
(Xuất 23:14-19; Phục 7:1-5; 16:1-17)
10 Ngài phán, “Nầy, Ta lập một giao ước. Trước mặt toàn dân ngươi Ta sẽ làm những việc lạ lùng chưa hề thực hiện cho một dân nào trên khắp mặt đất. Tất cả các dân chung quanh ngươi sẽ thấy công việc của Chúa, vì đó là một việc kinh khủng Ta sẽ làm cho ngươi. 11 Hãy cẩn thận làm theo mọi điều Ta truyền cho ngươi ngày nay. Nầy, Ta sẽ đuổi đi trước mặt ngươi dân A-mô-ri, dân Ca-na-an, dân Hít-ti, dân Pê-ri-xi, dân Hi-vi, và dân Giê-bu-si. 12 Khá cẩn thận, đừng lập giao ước gì với các dân trong xứ mà ngươi sẽ đến sống, bằng không nó sẽ thành cái bẫy ở giữa ngươi. 13 Nhưng ngươi hãy phá đổ các bàn thờ của chúng, đập nát các trụ thờ bằng đá của chúng, và đốn hạ các cột thờ nữ thần của chúng, 14 vì ngươi sẽ không thờ một thần nào khác, bởi vì Chúa, danh Ngài là Ðấng Ghen Tương, là một Thần[t] ghen tương. 15 Ngươi sẽ không lập giao ước với các dân trong xứ, kẻo khi chúng làm điếm với các thần của chúng và dâng của tế lễ cho các thần của chúng, chúng sẽ mời ngươi, rồi ngươi sẽ ăn của cúng ấy. 16 Hoặc ngươi sẽ cưới các con gái chúng làm vợ cho các con trai ngươi, rồi khi các con gái chúng làm điếm với các thần của chúng, chúng sẽ lôi cuốn các con trai ngươi cùng làm điếm với các thần của chúng.
17 Ngươi chớ đúc các tượng thần để thờ.
18 Ngươi sẽ giữ Lễ Bánh Không Men. Ngươi sẽ ăn bánh không men bảy ngày, như Ta đã truyền cho ngươi, theo thời điểm đã ấn định trong tháng giêng;[u] vì trong tháng giêng ngươi đã ra khỏi Ai-cập.
19 Tất cả con đầu lòng sẽ thuộc về Ta. Mọi con đực trong bầy súc vật ngươi, tức mọi con đực đầu lòng của bò hay chiên cũng vậy. 20 Mỗi con đầu lòng của lừa, ngươi sẽ được chuộc lại bằng một con chiên; còn nếu ngươi không chuộc nó lại, ngươi phải bẻ gãy cổ nó đi. Tất cả các ngươi sẽ chuộc lại con đầu lòng của mình.
Không ai đi tay không đến ra mắt Ta.
21 Ngươi sẽ làm việc sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ; dù ngay cả mùa cày cấy hay mùa gặt hái ngươi cũng phải nghỉ.
22 Ngươi phải giữ Lễ Các Tuần và dâng hoa lợi đầu mùa gặt lúa mì. Ngươi phải giữ Lễ Thu Hoạch vào cuối năm.[v]
23 Mỗi năm ba lần tất cả người nam của ngươi phải ra mắt Chúa Ðức Chúa Trời,[w] Thần[x] của I-sơ-ra-ên. 24 Vì Ta sẽ đuổi các dân đi trước mặt ngươi và mở rộng bờ cõi ngươi. Không ai sẽ muốn lấy đất của ngươi khi ngươi đi lên ra mắt Chúa, Ðức Chúa Trời ngươi, mỗi năm ba lần.
25 Ngươi sẽ không được dâng máu chung với men. Những của lễ dâng trong Lễ Vượt Qua sẽ không được để lại đến sáng hôm sau.
26 Ngươi hãy mang những hoa quả đầu mùa tốt nhất của ruộng vườn ngươi đến nhà Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi.
Ngươi không được nấu thịt dê con trong sữa của mẹ nó.”
27 Chúa phán với Môi-se, “Hãy ghi lại những lời nầy, vì căn cứ theo những lời nầy Ta đã lập một giao ước với ngươi và với I-sơ-ra-ên.”
28 Ông ở đó với Chúa bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. Ông không ăn bánh hay uống nước. Ngài[y] viết trên hai bảng đá những lời của giao ước, tức Mười Ðiều Răn.
Môi-se Xuống Núi
29 Môi-se từ Núi Si-nai đi xuống. Ông đi xuống núi; hai tay ôm hai bảng giao ước. Môi-se không biết rằng vì đã hầu chuyện với Ðức Chúa Trời mà da mặt ông đã trở nên sáng rực. 30 Khi A-rôn và toàn dân I-sơ-ra-ên trông thấy Môi-se, và nầy, da mặt ông sáng rực, họ sợ và không dám lại gần ông. 31 Nhưng Môi-se gọi họ, nên A-rôn và những người lãnh đạo của hội chúng lại gần[z] ông, rồi Môi-se nói chuyện với họ. 32 Sau đó toàn dân I-sơ-ra-ên đến gần ông. Ông truyền cho họ mọi điều Chúa đã phán với ông trên Núi Si-nai. 33 Sau khi nói với họ, ông lấy một tấm lúp che mặt ông lại. 34 Mỗi khi Môi-se vào hầu chuyện với Chúa, ông gỡ tấm lúp che mặt ra cho đến khi ông trở ra. Khi ông trở ra, ông nói lại cho dân I-sơ-ra-ên những gì ông đã được truyền bảo. 35 Dân I-sơ-ra-ên trông thấy mặt Môi-se, và da mặt ông sáng rực, vì thế Môi-se lại phải lấy tấm lúp che mặt ông lại, cho đến khi ông vào hầu chuyện với Chúa.
Luật Ngày Sa-bát
35 Môi-se tập họp toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên lại và nói với họ, “Ðây là những điều Chúa truyền anh chị em phải làm:
2 Ðối với anh chị em, ai nấy sẽ làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy sẽ là một ngày thánh, một ngày Sa-bát, một ngày nghỉ hoàn toàn dành cho Chúa; hễ ai làm việc gì trong ngày ấy sẽ bị xử tử. 3 Anh chị em không được nổi lửa tại nơi mình ở trong ngày Sa-bát.”
Kêu Gọi Xây Dựng Ðền Tạm
(Xuất 25:1-9)
4 Môi-se nói với cả hội chúng I-sơ-ra-ên, “Ðây là điều Chúa đã truyền: 5 Hãy lấy những gì anh chị em có dâng lên Chúa. Ai có lòng rộng rãi, hãy mang đến dâng lên Chúa vàng, bạc, đồng, 6 chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, vải gai mịn, lông dê, 7 da chiên nhuộm đỏ, da thú thượng hạng,[aa] gỗ si-tim, 8 dầu thắp đèn, các hương liệu để làm dầu dùng cho phép xức dầu và để chế tạo hương thơm thánh, 9 bạch bảo ngọc, và các thứ ngọc để gắn trên ê-phót và trên túi đeo ngực.
10 Xin tất cả những ai tài giỏi giữa anh chị em đến và làm mọi điều Chúa đã truyền, tức xây dựng Ðền Tạm, 11 gồm cái lều và các tấm bạt, các móc, các tấm ván, các thanh ngang, các trụ cột, và các đế trụ, 12 Rương Thánh và các đòn khiêng, Nắp Thi Ân, bức màn che Nơi Chí Thánh, 13 cái bàn, với các đòn khiêng, các đồ phụ tùng, Bánh Hằng Hiến, 14 thân cây đèn và các đồ phụ tùng, các đèn vàng, dầu thắp đèn, 15 bàn thờ dâng hương, các đòn khiêng, dầu dùng cho phép xức dầu, hương thơm thánh, tấm màn che cửa Ðền Tạm, 16 bàn thờ dâng của lễ thiêu với cái rá lưới đồng, các đòn khiêng và mọi đồ phụ tùng, cái đỉnh đồng và chân đỉnh, 17 các tấm màn che chung quanh sân, các cây cột và các đế cột, tấm màn che nơi cổng sân đền, 18 các cọc để căng Ðền Tạm, các cọc để dựng các màn che chung quanh sân đền, các dây thừng đi chung với các cọc ấy, 19 các bộ lễ phục may đặc biệt để hành lễ trong Nơi Thánh, tức các lễ phục cho Tư Tế A-rôn và các lễ phục cho các con trai ông để họ mặc khi thi hành chức vụ tư tế.”
Dâng Hiến Ðể Xây Dựng Ðền Tạm
(Xuất 39:32-43)
20 Bấy giờ toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên rời khỏi Môi-se và lui về. 21 Sau đó họ trở lại, những người được cảm động trong lòng, những người có nhiệt tâm, đều mang đến dâng lên Chúa những lễ vật để xây dựng Lều Hội Kiến, để làm mọi thứ liên quan đến lều ấy, và để may những bộ lễ phục thánh. 22 Vậy họ đến, nam lẫn nữ; tất cả những người có lòng nhiệt thành đều mang đến nào là trâm cài tóc, vòng đeo tai, nhẫn, kiềng, và mọi thứ khác; ai nấy đều mang đến dâng lên Chúa một của lễ bằng vàng. 23 Những ai có chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, vải gai mịn, lông dê, da chiên nhuộm đỏ, hay da thú thượng hạng đều đem đến dâng. 24 Người nào có bạc hay đồng đều đem đến dâng lên Chúa. Những ai có gỗ si-tim và nghĩ có thể dùng được việc chi cho lều thánh đều mang đến dâng. 25 Tất cả những phụ nữ khéo tay kéo chỉ dệt vải thì dâng công làm những tấm vải bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải gai mịn. 26 Tất cả những phụ nữ được cảm động trong lòng đã dâng tài kéo sợi của mình để làm những sợi bằng lông dê. 27 Còn những người lãnh đạo thì mang đến bạch bảo ngọc và các thứ ngọc để gắn trên ê-phót và trên túi đeo ngực, 28 các hương liệu để làm dầu thắp đèn, dầu dùng cho phép xức dầu, và hương thơm thánh. 29 Tất cả dân I-sơ-ra-ên, bất luận nam hay nữ, hễ ai được thúc giục trong lòng muốn mang đến món gì để thực hiện công việc Chúa đã cậy Môi-se truyền phải làm, đều tự nguyện mang lễ vật đến dâng lên Chúa.
Bê-xanh-ên và Ô-hô-li-áp
(Xuất 31:1-11)
30 Bấy giờ Môi-se nói với dân I-sơ-ra-ên, “Nầy, Chúa đã gọi đích danh Bê-xanh-ên con trai U-ri, cháu Hu-rơ, trong chi tộc Giu-đa. 31 Ngài đã ban cho ông ấy đầy dẫy Thần của Ðức Chúa Trời để ông ấy thành một người khôn ngoan, thông minh, và có kiến thức trong mọi lãnh vực của ngành chế tạo, 32 hầu ông ấy phác họa những tác phẩm nghệ thuật, rồi làm những đồ vật bằng vàng, bằng bạc, và bằng đồng, 33 luôn cả việc cắt mài ngọc để khảm vào khuôn, chạm khắc gỗ, và mọi công việc đòi hỏi kỹ năng. 34 Ngài cũng đã ban cho ông ấy và Ô-hô-li-ba con trai A-hi-sa-mách trong chi tộc Ðan khả năng dạy bảo người khác. 35 Ngài đã ban cho họ tài năng để thực hiện mọi công việc của thợ chạm khắc, thợ vẽ kiểu, thợ thêu các thứ chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải gai mịn, hoặc các công việc của thợ dệt; nói chung là tất cả những công việc đòi hỏi người có đầu óc nghệ thuật suy nghĩ rồi vẽ kiểu ra làm.
36 Vậy hỡi Bê-xanh-ên, Ô-hô-li-áp, và mọi người tài giỏi được Chúa phú cho khôn ngoan và thông sáng để biết làm sao xây dựng Nơi Thánh, hãy cùng nhau thực hiện mọi việc như Chúa đã truyền.”
Ngưng Việc Quyên Góp
2 Môi-se gọi Bê-xanh-ên, Ô-hô-li-áp, và mọi người có tài mà Chúa đã phú cho kỹ năng, những người được thúc giục trong lòng đến bắt tay vào việc. 3 Họ nhận từ Môi-se tất cả những món đồ dân I-sơ-ra-ên đã tự nguyện đem đến dâng để dùng xây dựng lều thánh. Sáng nào họ cũng tự nguyện mang các món đồ đến dâng, 4 đến nỗi tất cả các thợ tài giỏi đang làm các công việc xây dựng lều thánh phải tạm ngưng công tác. Họ đến 5 nói với Môi-se, “Người ta đã đem đến nhiều hơn những gì chúng tôi cần để thực hiện công việc Chúa truyền cho chúng tôi làm.” 6 Vì thế Môi-se truyền lịnh, bảo rao ra khắp doanh trại rằng, “Xin đừng ai, bất kỳ nam hay nữ, dâng món gì nữa để làm lều thánh.” Vậy mọi người đã bị cản lại, không cho mang đồ đến dâng nữa, 7 vì những gì họ mang đến dâng đã nhiều hơn số vật liệu cần thiết cho công việc.
Xây Dựng Ðền Tạm
(Xuất 26:1-37)
8 Tất cả những người có tài trong số những người đến làm việc đã cùng nhau xây dựng Ðền Tạm; họ làm đền ấy bằng mười tấm màn dệt bằng vải gai mịn, chỉ xanh dương, chỉ tím, và chỉ đỏ thắm, có hình các chê-ru-bim thêu rất mỹ thuật trên các màn ấy. 9 Chiều dài mỗi màn mười bốn mét, chiều rộng mỗi màn hai mét.[ab] Tất cả các tấm màn đều có kích thước như nhau.
10 Ông cho kết năm tấm màn nầy lại với nhau, và năm tấm màn kia kết lại với nhau. 11 Ông làm những khoen bằng chỉ xanh dương gắn dọc theo mép tấm màn ngoài cùng của bộ màn thứ nhất. Tương tự như vậy, ông cũng làm những khoen bằng chỉ xanh dương gắn dọc theo mép tấm màn ngoài cùng của bộ màn thứ nhì. 12 Ông làm năm mươi khoen cho một bộ màn, và làm năm mươi khoen gắn vào mép của bộ màn thứ nhì. Các khoen của hai bộ màn đối nhau. 13 Ông cũng làm năm mươi móc khóa bằng vàng, rồi dùng năm mươi móc khóa đó kết hai bộ màn lại với nhau; và như thế Ðền Tạm đã thành hình do hai bộ màn được kết lại với nhau thành một.
14 Ông cũng làm những tấm màn bằng lông dê để kết lại làm thành mái lều che trên Ðền Tạm. Ông làm mười một tấm màn như thế. 15 Chiều dài mỗi tấm màn mười lăm mét; chiều rộng mỗi tấm màn hai mét.[ac] Mười một tấm màn đều có kích thước bằng nhau. 16 Ông kết năm tấm màn lại với nhau thành một mái; rồi ông kết sáu tấm màn kia lại với nhau thành một mái khác. 17 Ông làm năm mươi khoen gắn nơi mép của mái nầy, và năm mươi khoen gắn nơi mép của mái kia. 18 Ông làm năm mươi móc khóa bằng đồng, rồi móc các khoen lại với nhau để có nguyên một bộ mái lều. 19 Ông cũng làm một tấm bạt che lều bằng da chiên nhuộm đỏ, và một tấm bạt khác bằng da thượng hạng[ad] để phủ lên trên tấm bạt ấy.
20 Sau đó ông làm những tấm ván bằng gỗ si-tim để làm vách Ðền Tạm. 21 Mỗi tấm dài năm mét và rộng bảy tấc rưỡi.[ae] 22 Mỗi tấm có hai cái mộng để ghép lại với nhau. Ông làm như vậy cho tất cả các tấm ván của Ðền Tạm. 23 Ông lấy các tấm ván ấy và dựng lên như thế nầy: hai mươi tấm về hướng nam. 24 Ông làm bốn mươi cái đế bằng bạc để đặt bên dưới các tấm ván. Dưới tấm ván thứ nhất ông đặt hai đế ráp vào hai cái mộng, và hai đế dưới mỗi tấm ván kế tiếp ráp vào hai cái mộng của tấm ván ấy. 25 Còn phía bên kia Ðền Tạm, tức hướng bắc, ông cũng dựng hai mươi tấm vách ván, 26 và bốn mươi cái đế bằng bạc, hai đế dưới tấm thứ nhất, và hai đế cho mỗi tấm kế tiếp. 27 Ðầu trong cùng của Ðền Tạm, tức về hướng tây, ông làm sáu tấm vách ván. 28 Ông làm hai tấm ở hai góc trong cùng của Ðền Tạm. 29 Hai tấm ván góc ấy ghép lại với nhau từ dưới lên trên, cho đến khoen thứ nhất.[af] Ông làm hai bộ như vậy cho hai góc. 30 Như vậy có tám tấm ván với các đế bạc, tức mười sáu cái đế; cứ dưới mỗi tấm có hai cái đế.
31 Ông làm các thanh ngang bằng gỗ si-tim: năm thanh cho các tấm ván bên nầy của Ðền Tạm, 32 năm thanh cho các tấm ván bên kia của Ðền Tạm, và năm thanh cho các tấm ván trong cùng của Ðền Tạm, tức về hướng tây. 33 Ông làm thanh ngang giữa, dài từ đầu nầy đến đầu kia, nằm giữa độ cao của vách ván. 34 Ông cho bọc các tấm ván ấy bằng vàng, rồi làm các khoen bằng vàng để xỏ các thanh ngang vào. Ông cũng cho bọc các thanh ngang ấy bằng vàng.
35 Ông cho làm một bức màn bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn, có thêu hình các chê-ru-bim rất mỹ thuật. 36 Ông cho làm bốn cây trụ bằng gỗ si-tim, rồi bọc vàng lại. Các móc cũng làm bằng vàng. Ông cho đúc bốn cái đế trụ bằng bạc.
37 Ông cũng cho làm một tấm màn che cửa vào lều bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn, do tay những thợ đan tài khéo thực hiện. 38 Ông cho làm năm cây trụ có móc để treo màn. Ông cho bọc vàng các đầu trụ và thân trụ, nhưng các đế trụ thì làm bằng đồng.
Làm Rương Giao Ước
(Xuất 25:10-12)
37 Bê-xanh-ên làm một cái rương bằng gỗ si-tim. Rương ấy dài một mét hai mươi lăm, rộng bảy tấc rưỡi, và cao bảy tấc rưỡi.[ag] 2 Ông bọc vàng cả bên trong lẫn bên ngoài, rồi làm một đường viền bằng vàng chung quanh rương. 3 Ông đúc bốn cái khoen bằng vàng gắn ở bốn chân, hai khoen bên nầy và hai khoen bên kia. 4 Ông làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim, và lấy vàng bọc lại, 5 rồi xỏ các đòn khiêng ấy vào các khoen ở hai bên rương để khiêng. 6 Ông làm một Nắp Thi Ân bằng vàng ròng, dài một mét hai mươi lăm, và rộng bảy tấc rưỡi.[ah] 7 Ông cũng làm hai chê-ru-bim bằng vàng dát mỏng, rồi gắn vào hai đầu nắp; 8 một chê-rúp[ai] ở đầu nầy và một chê-rúp ở đầu kia. Ông gắn hai chê-ru-bim đó vào hai đầu nắp, để dính làm một với nắp. 9 Hai chê-ru-bim dang cánh ra, dùng các cánh mình che trên Nắp Thi Ân. Hai chê-ru-bim quay mặt vào nhau, nhưng đều cúi nhìn vào Nắp Thi Ân.
Làm Bàn Ðể Bánh Hằng Hiến
(Xuất 25:23-30)
10 Ông làm một bàn bằng gỗ si-tim, dài một mét, rộng nửa mét, và cao bảy tấc rưỡi.[aj] 11 Ông lấy vàng ròng bọc bàn lại, rồi làm một đường viền bằng vàng quanh bàn ấy. 12 Ông làm một cái khung quanh bàn, bề ngang thành khung rộng một bàn tay, rồi làm một đường viền quanh khung bằng vàng. 13 Ông đúc bốn cái khoen bằng vàng, rồi gắn bốn khoen ấy vào bốn chân ở bốn góc bàn. 14 Các khoen ấy ở sát với cái khung và được dùng để xỏ các đòn khiêng vào để khiêng bàn. 15 Ông làm các đòn khiêng để khiêng bàn bằng gỗ si-tim, rồi lấy vàng bọc lại. 16 Ông cũng lấy vàng ròng làm các khí dụng để trên bàn: các khay, các đĩa đựng hương, các chén, và các bình để dùng cho việc dâng lễ quán.
Làm Cây Ðèn
(Xuất 25:31-40)
17 Ông làm một cây đèn bằng vàng ròng. Cái đế và thân cây đèn được làm bằng vàng dát mỏng. Các đài hoa, các nụ hoa, và các cánh hoa đều dính với cây đèn thành một khối. 18 Cây đèn có sáu nhánh tẻ ra hai bên. Ba nhánh của cây đèn tẻ ra bên nầy, và ba nhánh của cây đèn tẻ ra bên kia. 19 Trên mỗi nhánh bên nầy có ba đài hoa giống hình hoa hạnh nhân, với các nụ hoa và các cánh hoa. Trên mỗi nhánh bên kia cũng có ba đài hoa giống hình hoa hạnh nhân, với các nụ hoa và các cánh hoa. Cả sáu nhánh tẻ ra hai bên cây đèn đều giống nhau như thế. 20 Còn trên chính thân cây đèn có bốn đài hoa giống hình hoa hạnh nhân, với các nụ hoa và các cánh hoa. 21 Phía dưới, nơi hai nhánh dưới cùng đâu lại với nhau, có một nụ hoa; phía dưới, nơi hai nhánh giữa đâu lại với nhau, có một nụ hoa; và phía dưới, nơi hai nhánh trên cùng đâu lại với nhau, có một nụ hoa. 22 Các nụ hoa và các nhánh đèn được đúc chung với nhau thành một khối. Toàn thể cây đèn được làm bằng vàng ròng dát mỏng liền với nhau thành một khối. 23 Ông làm bảy đèn vàng, các kéo cắt tim đèn, và các đĩa đựng tàn đèn bằng vàng ròng. 24 Ông làm cây đèn và mọi khí dụng cho cây đèn bằng ba mươi bốn ký vàng ròng.[ak]
Làm Bàn Thờ Dâng Hương
(Xuất 30:1-5)
25 Ông làm bàn thờ dâng hương bằng gỗ si-tim, bề ngang nửa mét, bề dọc nửa mét, tức hình vuông, và cao một mét.[al] Các sừng của bàn thờ dính liền với bàn thờ thành một khối. 26 Ông lấy vàng ròng bọc bàn thờ lại, gồm mặt bàn, chung quanh bàn, và các sừng của bàn. Kế đó ông làm một đường viền quanh bàn thờ bằng vàng. 27 Ông làm hai khoen bằng vàng, rồi gắn vào bên hông bàn, phía dưới đường viền. Ông làm như thế cho cả hai bên hông bàn, để người ta xỏ các đòn khiêng vào khiêng bàn. 28 Ông lấy gỗ si-tim làm các đòn khiêng, rồi lấy vàng bọc chúng lại.
Chế Dầu Dùng cho Phép Xức Dầu và Hương Thơm Thánh
(Xuất 30:22-38)
29 Ông cũng chế dầu thánh dùng cho phép xức dầu và hương thơm thánh tinh khiết, theo cách chế biến của thợ chế hương.
Làm Bàn Thờ Dâng Của Lễ Thiêu
(Xuất 27:1-8)
38 Ông làm bàn thờ dâng của lễ thiêu bằng gỗ si-tim. Bàn thờ ấy có chiều dọc hai mét rưỡi, chiều ngang hai mét rưỡi, và chiều cao một mét rưỡi;[am] như vậy mặt bàn thờ có hình vuông. 2 Ông làm bốn cái sừng ở bốn góc bàn thờ. Các sừng của bàn thờ dính với bàn thờ thành một khối, rồi ông lấy đồng bọc cả bàn thờ lại. 3 Ông làm tất cả các dụng cụ cho bàn thờ, gồm các thùng đựng tro, các xẻng, các thùng nước, các chĩa, và các khay. Ông làm tất cả các dụng cụ cho bàn thờ đều bằng đồng. 4 Ông cũng làm cho bàn thờ một cái rá lưới bằng đồng, treo trong bốn chân, bên dưới đường viền quanh bàn thờ, nằm sâu ở khoảng giữa chiều cao của bàn thờ. 5 Ông đúc bốn khoen để xỏ đòn khiêng gắn vào bốn góc của rá lưới. 6 Ông làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim, rồi lấy đồng bọc chúng lại. 7 Ông cho xỏ các đòn khiêng vào các khoen gắn ở hai bên hông bàn thờ để người ta khiêng bàn thờ. Ông làm bàn thờ rỗng bên trong, bằng những tấm ván đóng lại.
Làm Ðỉnh Ðồng
(Xuất 30:18)
8 Ông làm cái đỉnh đồng với đế đỉnh cũng bằng đồng. Ông lấy đồng từ những tấm gương đồng của các phụ nữ phục vụ nơi cửa Lều Hội Kiến soi làm nên hai vật ấy.
Làm Màn Che Quanh Sân Ðền
(Xuất 27:9-19)
9 Ông làm sân đền. Về phía nam, ông cho treo những tấm màn dệt bằng sợi gai mịn, chiều dài phía đó là năm mươi mét.[an] 10 Hai mươi cây cột treo màn và hai mươi đế cột đều làm bằng đồng, nhưng các móc cột và các thanh ngang được làm bằng bạc. 11 Về phía bắc, các tấm màn nối lại dài năm mươi mét.[ao] Hai mươi cây cột treo màn và hai mươi đế cột đều làm bằng đồng, nhưng các móc cột và các thanh ngang được làm bằng bạc. 12 Về phía tây, các tấm màn nối lại dài hai mươi lăm mét,[ap] với mười cây cột treo màn và mười đế cột; các móc cột và các thanh ngang đều làm bằng bạc. 13 Về mặt tiền, tức phía đông, chiều rộng là hai mươi lăm mét.[aq] 14 Các tấm màn nối lại ở bên nầy cổng đền dài bảy mét rưỡi,[ar] với ba cây cột treo màn và ba đế cột. 15 Phía bên kia cổng đền cũng vậy. Mỗi bên cổng đền đều treo các tấm màn, nối lại dài bảy mét rưỡi,[as] với ba cây cột treo màn và ba đế cột. 16 Tất cả các màn treo quanh sân đều làm bằng sợi gai mịn dệt thành. 17 Các đế của các cột treo màn đều làm bằng đồng, nhưng các móc cột và các thanh ngang thì làm bằng bạc. Các đầu cột đều được bọc bạc. Như vậy tất cả các cột treo màn của sân đền đều được nối lại với nhau bằng những thanh ngang làm bằng bạc.
18 Tấm màn chắn ở cổng vào sân đền được dệt rất mỹ thuật bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Tấm màn ấy dài mười mét và rộng, tức chiều cao, hai mét rưỡi,[at] theo chiều cao các tấm màn treo quanh sân đền. 19 Bốn cột treo màn có bốn đế bằng đồng. Các móc bằng bạc, các đầu cột được bọc bạc, còn các thanh ngang cũng bằng bạc. 20 Tất cả các cọc để căng Ðền Tạm và các cọc để căng những tấm màn quanh sân đền đều làm bằng đồng.
Tổng Kết Số Vật Liệu Xây Dựng Ðền Tạm
21 Ðây là bảng kết toán công trình xây dựng Ðền Tạm, tức Ðền Tạm của Giao Ước, để cho những người Lê-vi phục vụ, dưới sự chỉ huy của I-tha-ma con trai Tư Tế A-rôn, theo lịnh của Môi-se. 22 Bê-xanh-ên con trai U-ri, cháu Hu-rơ, trong chi tộc Giu-đa đã hoàn tất mọi việc Chúa đã truyền cho Môi-se. 23 Cùng cộng tác với ông có Ô-hô-li-áp con trai A-hi-sa-mách, thuộc chi tộc Ðan. Ông ấy là thợ chạm khắc, người vẽ kiểu, và thợ thêu chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải gai mịn.
24 Tổng số vàng đã sử dụng để thực hiện mọi công trình xây dựng Ðền Tạm, tức số vàng do dân dâng hiến, là một ngàn ký,[au] tính theo cân lượng[av] của Nơi Thánh. 25 Số bạc do hội chúng đóng góp tính được ba ngàn bốn trăm ba mươi ký,[aw] tính theo cân lượng của Nơi Thánh. 26 Mỗi đầu người, tức mỗi người nam đã đăng bạ trong cuộc thống kê dân số, đóng góp năm gờ-ram rưỡi,[ax] tức nửa sê-ken, tính theo cân lượng của Nơi Thánh. Có cả thảy sáu trăm lẻ ba ngàn năm trăm năm mươi người nam từ hai mươi tuổi trở lên đã đăng bạ. 27 Số bạc ba ngàn bốn trăm ba mươi ký[ay] đó đã được dùng để đúc các đế[az] cho Ðền Tạm, các đế cho bức màn.[ba] Một trăm cái đế cần đến ba ngàn bốn trăm ký,[bb] tức ba mươi bốn ký[bc] cho một đế. 28 Số bạc ba mươi ký[bd] còn lại ông dùng làm các móc cột, bọc các đầu cột, và làm các thanh ngang. 29 Số đồng người ta đem đến dâng là hai ngàn bốn trăm hai mươi lăm ký.[be] 30 Ông dùng số đồng đó làm các đế cho cửa vào Lều Hội Kiến, bàn thờ bằng đồng, rá lưới đồng, các dụng cụ cho bàn thờ, 31 các đế chung quanh sân đền, các đế cho cổng vào sân đền, tất cả các cọc để căng Ðền Tạm, và tất cả các cọc để căng các tấm màn che quanh sân đền.
Làm Ê-phót
(Xuất 28:1-14)
39 Người ta dùng chỉ xanh dương, chỉ tím, và chỉ đỏ thắm may một bộ lễ phục thật trang trọng để dùng khi hành lễ trong Nơi Thánh. Họ may một bộ lễ phục thánh cho A-rôn, như Chúa đã truyền cho Môi-se.
2 Ông làm chiếc ê-phót bằng vàng, chung với chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. 3 Họ lấy vàng lá, dát mỏng, cắt thành sợi, rồi thêu với chỉ xanh dương, chỉ tím, và chỉ đỏ thắm trên vải dệt bằng sợi gai mịn, làm thành một tác phẩm rất mỹ thuật. 4 Họ làm hai cầu vai cho ê-phót và nối liền chúng với hai thân ở hai mép. 5 Ðai cột ê-phót cũng được làm bằng các vật liệu đó và với cách đó, tức làm bằng vàng, chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn, như Chúa đã truyền cho Môi-se.
6 Họ lấy các viên bạch bảo ngọc có vân đã được cắt mài sẵn, gắn vào các khuôn bằng vàng, rồi khắc vào đó theo cách người ta khắc con dấu tên các con trai của I-sơ-ra-ên. 7 Rồi ông gắn các khuôn đó vào hai cầu vai của ê-phót, để làm các viên ngọc tưởng nhớ các con trai của I-sơ-ra-ên, như Chúa đã truyền cho Môi-se.
Làm Túi Ðeo Ngực
(Xuất 28:15-30)
8 Ông cũng làm túi đeo ngực một cách rất mỹ thuật, như cách làm ê-phót, tức dùng vàng, chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. 9 Túi ấy hình vuông; túi đeo ngực ấy có hai lớp, chiều dọc một gang tay và chiều ngang một gang tay; cả hai lớp đều như thế. 10 Họ gắn vào đó bốn hàng bửu ngọc. Hàng thứ nhất: hồng bửu ngọc, hoàng bích ngọc, và lam bích ngọc; 11 hàng thứ nhì: lam lục ngọc, lam bảo ngọc, và nguyệt quang ngọc; 12 hàng thứ ba: hoàng hồng ngọc, bạch lục ngọc, và tử bửu ngọc; 13 và hàng thứ tư: lục bích ngọc, bạch bảo ngọc, và lục bửu ngọc. Các viên ngọc ấy được khảm vào những ổ của một khuôn vàng. 14 Có cả thảy mười hai viên ngọc; mỗi viên đều có khắc tên các con trai của I-sơ-ra-ên theo thứ tự. Những viên ngọc đó giống như những con dấu, mỗi viên đều có tên riêng, theo tên mười hai chi tộc.
15 Họ làm những dây chuyền bằng vàng, xoắn lại như kiểu dây thừng, rồi gắn trên túi đeo ngực. 16 Họ làm hai khuôn bằng vàng và hai khoen bằng vàng, rồi gắn hai khoen đó vào hai mép của túi đeo ngực. 17 Họ lấy hai sợi dây chuyền vàng gắn một đầu vào hai khoen ở hai mép của túi đeo ngực. 18 Còn hai đầu kia của hai sợi dây chuyền vàng họ gắn vào phía trước hai khuôn, trên hai cầu vai của ê-phót. 19 Họ làm hai khoen bằng vàng, rồi gắn chúng vào hai mép, bên lớp trong của túi đeo ngực, tức sát với ê-phót. 20 Họ cũng làm hai khoen bằng vàng khác, rồi gắn chúng vào mặt dưới trước của hai cầu vai ê-phót, nơi chỗ giáp mối, bên trên giải nịt vai của ê-phót. 21 Người ta lấy một rẻo vải xanh dương buộc các khoen vàng của túi đeo ngực với những khoen vàng của ê-phót lại với nhau, để túi đeo ngực nằm bên trên đai của ê-phót, và để túi đeo ngực sẽ không rời khỏi ê-phót, y như Chúa đã truyền cho Môi-se.
May Áo Choàng
(Xuất 28:31-35)
22 Ông làm một chiếc áo choàng dệt toàn bằng chỉ xanh dương để mặc bên dưới ê-phót. 23 Ở giữa áo ấy có một lỗ làm cổ để chui đầu vào như áo giáp; xung quanh cổ được viền lại thật chắc để khỏi rách. 24 Phía dưới lai áo người ta làm những trái lựu bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. 25 Người ta cũng làm những chuông nhỏ bằng vàng ròng, rồi đính chúng vào dưới lai áo, xen kẽ giữa những trái lựu quanh lai áo. Họ đính chúng xen kẽ giữa những trái lựu, 26 cứ một cái chuông thì đến một trái lựu, một cái chuông thì đến một trái lựu, quanh dưới lai áo choàng, để mặc vào khi cử hành thánh lễ, như Chúa đã truyền cho Môi-se.
May Các Lễ Phục
(Xuất 28:40-43)
27 Họ làm cho A-rôn và các con trai ông những áo lễ dài, dệt bằng vải gai mịn, 28 chiếc mũ tế bằng vải gai mịn, các mão phụng vụ bằng vải gai mịn, các quần đùi bằng vải gai, tức vải do sợi gai mịn dệt lại, 29 và đai lưng bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, thêu cách mỹ thuật trên vải gai mịn, như Chúa đã truyền cho Môi-se.
Làm Thẻ Thánh
(Xuất 28:36-39)
30 Họ làm một thẻ bằng vàng ròng để làm biểu tượng cho sự thánh khiết, rồi khắc trên đó một hàng chữ như cách khắc con dấu rằng, “Thánh cho Chúa.” 31 Rồi họ dùng một sợi dây làm bằng chỉ xanh dương buộc thẻ đó trên mũ tế, như Chúa đã truyền cho Môi-se.
Công Việc Ðược Hoàn Tất
(Xuất 35:10-19)
32 Như vậy mọi công việc xây dựng Ðền Tạm, tức Lều Hội Kiến, đã hoàn tất. Dân I-sơ-ra-ên đã làm mọi việc y như Chúa đã truyền cho Môi-se. 33 Ðoạn họ trình cho Môi-se mọi vật họ đã làm cho Ðền Tạm: cái lều và mọi dụng cụ cho lều, các móc, các tấm ván tường, các thanh ngang, các cây trụ, các đế trụ, 34 tấm bạt che bên trên bằng da chiên nhuộm đỏ, tấm bạt làm bằng da thượng hạng để che bên trên tấm ấy, bức màn, 35 Rương Giao Ước, các đòn khiêng, và Nắp Thi Ân, 36 bàn thờ dâng bánh, các dụng cụ của bàn thờ, và Bánh Hằng Hiến, 37 cây đèn bằng vàng ròng, các đèn vàng gắn trên cây đèn, mọi dụng cụ cho cây đèn, và dầu thắp đèn, 38 bàn thờ bằng vàng, dầu dùng cho phép xức dầu, và hương thơm, tấm màn chắn nơi cửa vào lều, 39 bàn thờ bằng đồng, rá lưới bằng đồng, các đòn khiêng, và mọi dụng cụ cho bàn thờ đó, cái đỉnh đồng và đế đỉnh, 40 các tấm màn làm tường vải che quanh sân, các cây cột, các đế cột, tấm màn chắn nơi cổng vào sân đền, các dây thừng, các cây cọc, và mọi dụng cụ cần thiết cho sự phụng vụ trong Ðền Tạm, tức Lều Hội Kiến, 41 các lễ phục may tuyệt khéo dùng cho sự phụng vụ trong Nơi Thánh, tức bộ lễ phục thánh cho Tư Tế A-rôn, các bộ lễ phục cho các con trai ông để họ mặc vào khi thi hành chức vụ tư tế. 42 Dân I-sơ-ra-ên đã hoàn tất mọi công việc như Chúa đã truyền cho Môi-se. 43 Khi Môi-se thấy họ đã thực hiện xong mọi việc như Chúa đã truyền, ông chúc phước cho họ.
Dựng và Cung Hiến Ðền Tạm
40 Chúa phán với Môi-se, 2 “Vào ngày mồng một tháng giêng, ngươi hãy dựng Ðền Tạm, tức Lều Hội Kiến. 3 Ngươi hãy đặt vào đó Rương Giao Ước, rồi lấy bức màn che rương lại. 4 Ngươi hãy mang bàn thờ vào, rồi chưng bày trên đó những khí dụng dành cho bàn thờ ấy. Ngươi hãy mang cây đèn vào, rồi đặt các đèn vàng lên trên. 5 Ngươi hãy để bàn thờ dâng hương bằng vàng ở trước Rương Giao Ước, rồi treo tấm màn chắn ở cửa vào Ðền Tạm lên. 6 Ngươi hãy đặt bàn thờ dâng của lễ thiêu ở phía trước cửa vào Ðền Tạm, tức Lều Hội Kiến, 7 rồi để cái đỉnh đồng ở khoảng giữa Lều Hội Kiến và bàn thờ, xong mang nước đổ vào trong đỉnh. 8 Ngươi hãy dựng các tấm màn làm tường vải quanh sân đền lên, rồi máng tấm màn chắn ở cổng sân đền lên. 9 Ngươi hãy lấy dầu dùng cho phép xức dầu xức cho Ðền Tạm và mọi vật trong đó. Ngươi hãy biệt riêng đền ấy ra thánh, cùng với mọi dụng cụ trong đó, để đền ấy trở thành thánh. 10 Ngươi hãy xức dầu cho bàn thờ dâng của lễ thiêu và mọi dụng cụ của bàn thờ. Hãy biệt riêng bàn thờ ấy ra thánh, để bàn thờ ấy trở nên cực thánh. 11 Ngươi hãy xức dầu cho đỉnh đồng cùng đế đỉnh, và biệt riêng nó ra thánh. 12 Ðoạn ngươi hãy đem A-rôn và các con trai ông đến cửa Lều Hội Kiến, dùng nước tẩy rửa chúng, 13 mặc cho ông ấy bộ lễ phục thánh, rồi ngươi hãy xức dầu cho ông ấy, để ông ấy sẽ làm tư tế phục vụ Ta. 14 Ngươi cũng hãy đem các con trai ông ấy đến, mặc áo lễ dài cho chúng, 15 rồi xức dầu cho chúng, như ngươi đã xức dầu cho cha chúng, để chúng làm những tư tế phục vụ Ta. Sự xức dầu ấy sẽ phong cho dòng họ chúng chức vụ tư tế trải qua các đời.
16 Môi-se thực hiện mọi việc y như Chúa đã truyền cho ông. 17 Ngày mồng một tháng giêng năm thứ hai, Ðền Tạm được dựng xong. 18 Môi-se cho dựng Ðền Tạm lên. Ông cho đặt các đế và dựng các tấm vách; ông cho gắn các thanh ngang và dựng các cây trụ. 19 Ông cho trải tấm màn làm mái Ðền Tạm lên, rồi phủ tấm bạt che lều lên trên, như Chúa đã truyền cho Môi-se. 20 Ông lấy các Bảng Giao Ước đặt vào trong rương, xỏ các đòn khiêng vào rương, đậy Nắp Thi Ân trên rương, 21 rồi cho khiêng rương vào trong Ðền Tạm. Ông cho treo bức màn lên để che Rương Giao Ước lại, như Chúa đã truyền cho Môi-se. 22 Ông cho mang bàn thờ dâng bánh thánh vào Lều Hội Kiến, đặt bàn thờ ấy về phía bắc trong Ðền Tạm, bên ngoài bức màn. 23 Ông cho bày bánh thánh cách ngăn nắp trên bàn thờ trước mặt Chúa, như Chúa đã truyền cho Môi-se. 24 Ông cho mang cây đèn vào Lều Hội Kiến, đặt cây đèn về phía nam trong Ðền Tạm, đối diện với bàn thờ dâng bánh thánh, 25 rồi thắp các đèn vàng lên trước mặt Chúa, như Chúa đã truyền cho Môi-se. 26 Ông cho mang bàn thờ dâng hương bằng vàng vào Lều Hội Kiến, đặt ở trước bức màn, 27 rồi dâng hương thơm trên bàn thờ ấy, như Chúa đã truyền cho Môi-se. 28 Ông cũng cho treo tấm màn làm cửa Ðền Tạm lên. 29 Ông cho đặt bàn thờ dâng của lễ thiêu trước cửa Ðền Tạm, tức Lều Hội Kiến, rồi dâng trên đó của lễ thiêu và của lễ chay, như Chúa đã truyền cho Môi-se. 30 Ông cho đặt cái đỉnh đồng ở khoảng giữa Lều Hội Kiến và bàn thờ, rồi cho đổ nước vào đỉnh để dùng cho sự thanh tẩy. 31 Môi-se, A-rôn, và các con trai ông dùng nước chứa trong đỉnh đó để thanh tẩy tay chân. 32 Mỗi khi vào Lều Hội Kiến để đến gần bàn thờ họ đều thanh tẩy tay chân tại đó, như Chúa đã truyền cho Môi-se. 33 Ông cho dựng các tấm màn che quanh sân Ðền Tạm và bàn thờ lên; rồi ông cho treo tấm màn làm cổng vào sân đền lên. Như thế Môi-se đã hoàn tất mọi công việc.
Vinh Quang Chúa Hiện Diện
(Dân 9:15-23)
34 Bấy giờ mây giáng xuống bao phủ Lều Hội Kiến, và vinh quang Chúa tràn đầy cả Ðền Tạm. 35 Môi-se không thể vào Lều Hội Kiến được vì đám mây ngự trên đó, và vinh quang Chúa tràn đầy cả Ðền Tạm.
36 Trong mỗi chặng đường của cuộc hành trình, hễ khi nào đám mây cất lên khỏi Ðền Tạm, dân I-sơ-ra-ên nhổ trại ra đi; 37 nhưng nếu đám mây không cất lên, thì họ không ra đi cho đến ngày đám mây cất lên. 38 Ban ngày đám mây của Chúa ngự trên Ðền Tạm, còn ban đêm ánh lửa từ trong đám mây tỏa ra trước mắt toàn thể nhà I-sơ-ra-ên ở mỗi chặng đường, trong suốt cuộc hành trình của họ.
Copyright © 2011 by Bau Dang