Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Các Thủ Lãnh 15:13 - I Sa-mu-ên 2:29

13 Họ đáp, “Không, chúng tôi chỉ muốn trói anh và nộp anh cho dân Phi-li-tin thôi, chứ chúng tôi không muốn giết anh.” Vậy họ lấy hai sợi dây thừng mới, trói Sam-sôn lại, và dẫn ông lên khỏi kẽ đá.

14 Khi ông đến gần Lê-hi, dân Phi-li-tin đổ xô ra reo hò. Thần của Chúa tác động mạnh mẽ trên ông. Những sợi dây thừng trói tay ông trở nên như những sợi chỉ gai bị lửa đốt; chúng tàn rụi khỏi tay ông. 15 Thấy một cái xương hàm lừa còn mới, ông lượm lên và dùng nó đánh chết một ngàn người Phi-li-tin. 16 Ðoạn ông nói,

“Với một chiếc hàm lừa, tôi đã chất thây thành đống;
Với một chiếc hàm lừa, tôi đã giết một ngàn người.”

17 Nói xong ông vứt chiếc hàm lừa, và người ta đã gọi nơi đó là Ðồi Hàm Lừa.

18 Sau đó Sam-sôn cảm thấy khát nước quá đỗi. Ông kêu cầu Chúa, “Ngài đã cho tôi tớ Ngài được chiến thắng lớn thế nầy, lẽ nào giờ đây con phải chết khát và sa vào tay những kẻ không cắt bì sao?” 19 Ðức Chúa Trời bèn khiến một bộng đá ở Lê-hi nứt ra; nước từ bộng đá ấy tuôn ra. Sam-sôn lại đó uống nước; sức lực ông được phục hồi, và tinh thần ông được tươi tỉnh lại. Bởi thế người ta đặt tên suối nước đó là Suối Nước Cầu Xin, và suối ấy vẫn còn tại Lê-hi cho đến ngày nay.

20 Sam-sôn xét xử trong I-sơ-ra-ên hai mươi năm, trong thời dân Phi-li-tin cường thịnh.

16 Một ngày nọ Sam-sôn đến Ga-xa và thấy một kỹ nữ tại đó. Ông vào nhà nàng và ngủ đêm với nàng. Người trong thành Ga-xa báo cho nhau, “Sam-sôn đã đến đây!” Thế là họ vây phục nơi ông ở và nằm đợi thâu đêm ở cổng thành. Suốt đêm họ giữ không cho động tĩnh và bảo nhau, “Hãy đợi đến sáng, chúng ta sẽ giết nó.”

Nhưng Sam-sôn nằm đó cho đến nửa đêm. Ông thức dậy, nắm hai cánh cổng thành, cùng với hai trụ cổng, mà giựt tung nó ra, luôn cả then cài; rồi ông vác chúng trên vai, đem lên đỉnh đồi đối diện Hếp-rôn.

Sau đó ít lâu, ông yêu mến một cô gái trong Thung Lũng Sô-réc, tên là Ðê-li-la. Các thủ lãnh của Phi-li-tin đến gặp nàng và bảo, “Cô hãy cố dụ hắn nói cho cô bí mật của sức mạnh phi thường hắn có, và cách nào để thắng hơn hắn, hầu chúng tôi có thể bắt trói hắn, và chế ngự hắn. Sau đó mỗi người chúng tôi sẽ thưởng cho cô một ngàn một trăm miếng bạc.”

Vậy Ðê-li-la nói với Sam-sôn, “Xin anh nói cho em biết do đâu anh có sức mạnh phi thường như thế, và làm cách nào để có thể trói anh lại và chế ngự được anh.”

Sam-sôn trả lời nàng, “Nếu ai trói anh bằng bảy sợi dây cung tươi, chưa khô, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.”

Các lãnh tụ Phi-li-tin liền mang cho nàng bảy sợi dây cung tươi, chưa khô, rồi nàng dùng chúng trói ông lại. Sau khi cho người mai phục trong phòng, nàng gọi ông, “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin tấn công anh đó.” Nhưng ông bứt đứt các dây cung dễ dàng như người ta đưa những sợi chỉ vào ngọn lửa. Vậy người ta không biết bí mật của sức mạnh ông đến từ đâu.

10 Ðê-li-la bèn nói với ông, “Anh đánh lừa em. Anh gạt em. Bây giờ anh nói cho em biết làm sao trói được anh đi.”

11 Ông nói, “Nếu có ai trói anh thật chặt bằng những dây thừng còn mới, chưa được dùng lần nào, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.”

12 Vậy Ðê-li-la lấy những dây thừng mới và trói ông lại. Sau khi cho người mai phục sẵn trong phòng, nàng gọi, “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin tấn công anh đó.” Nhưng ông bứt đứt các dây thừng khỏi tay ông như bứt chỉ.

13 Ðê-li-la bèn nói với ông, “Cho đến giờ phút nầy anh vẫn còn gạt em, anh đã nói dối với em. Nói cho em biết làm sao trói anh lại được đi.”

Ông đáp, “Nếu em dệt bảy lọn tóc của anh vào khung cửi, rồi lấy cây ghim gài chặt chúng vào đó, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” Vậy Ðê-li-la đợi cho Sam-sôn ngủ, rồi lấy bảy lọn tóc của Sam-sôn dệt vào khung cửi, 14 và lấy ghim gài chặt lại. Xong nàng gọi, “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin tấn công anh đó.” Ông thức dậy, bứt đứt cả ghim cài và khung cửi.

15 Bấy giờ Ðê-li-la nói với ông, “Làm sao anh có thể nói, ‘Anh yêu em,’ trong khi anh không thật lòng với em. Ðây là lần thứ ba anh đã gạt em và không nói cho em biết do đâu anh có sức mạnh phi thường như vậy.” 16 Cứ như thế, ngày nào nàng cũng trách móc giận hờn, khiến ông bực bội muốn chết. 17 Ông bèn khai thật tất cả với nàng.

Ông nói, “Dạo cạo chưa hề đưa qua đầu anh bao giờ, bởi vì anh là người Na-xi-rê của Ðức Chúa Trời từ khi còn trong lòng mẹ. Nếu tóc anh bị cạo, thì sức mạnh của anh cũng sẽ biến mất, và anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.”

18 Khi Ðê-li-la thấy rằng ông đã khai thật với nàng mọi sự, nàng liền cho người đến báo với các thủ lãnh của dân Phi-li-tin, “Hãy trở lại một lần nữa. Hắn đã khai thật với tôi tất cả rồi.” Vậy các thủ lãnh của dân Phi-li-tin trở lại, đem bạc theo trong tay.

19 Nàng dụ ông ngủ trên đùi nàng, rồi nàng gọi một người đến cạo sạch bảy lọn tóc trên đầu ông, và như thế nàng đã hại ông; sức lực ông đã lìa khỏi ông. 20 Bấy giờ nàng nói, “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin tấn công anh đó.” Ông thức dậy và thầm nghĩ, “Ta sẽ thoát khỏi như những lần trước và ta sẽ gỡ mình ra.” Nhưng ông không biết rằng Chúa đã lìa khỏi ông.

21 Dân Phi-li-tin bắt ông, móc hai mắt ông, và đem ông xuống Ga-xa. Chúng xiềng ông bằng những sợi xích đồng, và bắt ông xay cối trong ngục. 22 Nhưng tóc của ông sau khi bị cạo đã bắt đầu mọc lại.

Sam-sôn Qua Ðời

23 Các thủ lãnh của dân Phi-li-tin họp lại để dâng một của lễ trọng thể cho Ða-gôn thần của họ, và để ăn mừng, vì họ nói, “Thần của chúng ta đã trao Sam-sôn kẻ thù của chúng ta vào tay chúng ta.”

24 Khi dân Phi-li-tin thấy Sam-sôn, họ ca tụng thần của họ rằng,

“Thần của chúng ta đã trao kẻ thù của chúng ta vào tay chúng ta;
Ấy là kẻ đã phá hoại xứ sở của chúng ta và đã giết hại nhiều người.”

25 Rồi khi hứng chí, chúng gào vang, “Hãy đem Sam-sôn ra đây để hắn giúp vui cho chúng ta.” Vậy họ dẫn Sam-sôn ra khỏi ngục để ông làm trò cho họ xem. Họ để ông đứng giữa các trụ đền. 26 Sam-sôn nói với người hầu trẻ đang dắt tay ông, “Hãy dẫn tôi lại các trụ chống đỡ ngôi đền, để tôi có thể dựa vào đó.” 27 Khi ấy trong đền có rất đông người, cả nam lẫn nữ –tất cả các thủ lãnh của dân Phi-li-tin đều ở đó, và trên sân thượng của đền có khoảng ba ngàn người, cả nam lẫn nữ– chờ xem Sam-sôn làm trò.

28 Sam-sôn cầu nguyện với Chúa, “Lạy Chúa Hằng Hữu,[a] xin Ngài nhớ đến con. Ðức Chúa Trời ôi, xin cho con có sức mạnh chỉ một lần nữa thôi, để con báo thù dân Phi-li-tin vì đôi mắt con.” 29 Rồi Sam-sôn vói tay vịn vào hai trụ chính chống đỡ cả ngôi đền. Ông lấy thế, vịn một tay vào trụ bên phải và một tay vào trụ bên trái. 30 Ðoạn Sam-sôn nói, “Xin cho tôi chết chung với dân Phi-li-tin.” Rồi ông lấy hết sức đẩy hai cây trụ ra. Ngôi đền liền đổ xuống trên các thủ lãnh và dân chúng đang ở trong đó. Ấy vậy, lúc chết Sam-sôn đã giết nhiều người hơn khi còn sống.

31 Sau đó các em trai ông và toàn gia đình của cha ông đi xuống, lấy xác ông về. Họ đem thi thể ông về chôn trong mộ của Ma-nô-a cha ông, khoảng giữa Xô-ra và Ếch-ta-ôn. Sam-sôn xét xử trong I-sơ-ra-ên được hai mươi năm.

Hình Tượng của Mi-ca

17 Bấy giờ trong miền cao nguyên Ép-ra-im có một người tên là Mi-ca. Người ấy nói với mẹ ông, “Một ngàn một trăm miếng[b] bạc của mẹ đã bị mất, và mẹ đã rủa kẻ nào lấy bạc đó như thế nào con đều nghe cả. Số bạc ấy hiện đang ở trong tay con. Chính con đã lấy chúng.” Người mẹ đáp, “Nguyện Chúa ban phước cho con, con trai của mẹ.”

Khi Mi-ca trả một ngàn một trăm miếng bạc lại cho mẹ của ông, bà nói, “Mẹ quyết định biệt riêng số bạc nầy ra thánh cho Chúa, dưới tên con, để khắc một hình tượng và đúc một pho tượng. Coi như mẹ trao nó lại cho con.”

Vậy Mi-ca trả bạc lại cho mẹ ông. Bà lấy hai trăm miếng bạc trao cho người thợ bạc; người ấy đem chế thành một hình tượng và đúc ra một pho tượng, rồi người ta đem để chúng trong nhà Mi-ca. Mi-ca nầy là người đã cất một miếu thờ, làm một ê-phót, và một số tượng thần, rồi lập một trong các con trai của ông lên làm tư tế. Vả, lúc ấy trong I-sơ-ra-ên không có vua; ai nấy đều làm theo ý mình cho là phải.

Có một thanh niên thuộc dòng Lê-vi quê ở Bết-lê-hem trong miền Giu-đa. Thanh niên ấy sinh trưởng và lớn lên ở Giu-đa. Nhưng chàng rời bỏ Bết-lê-hem trong miền Giu-đa để đi tìm một nơi lập nghiệp. Trên đường đi chàng ghé vào nhà Mi-ca trong miền cao nguyên Ép-ra-im. Mi-ca hỏi chàng, “Anh từ đâu đến đây?”

Người ấy đáp, “Tôi là người Lê-vi quê ở Bết-lê-hem trong miền Giu-đa, và tôi đang đi kiếm một nơi để lập nghiệp.”

10 Mi-ca nói, “Nếu vậy mời anh ở lại đây với tôi, làm cha tôi trong lĩnh vực linh vụ và làm tư tế của tôi. Tôi sẽ trả cho anh mười miếng bạc một năm. Ngoài ra tôi sẽ cung cấp cho anh đầy đủ y phục và thực phẩm.” 11 Vậy người Lê-vi bằng lòng ở lại với Mi-ca, và Mi-ca xem chàng như một con trai của ông. 12 Ðoạn Mi-ca lập chàng thanh niên Lê-vi ấy làm tư tế cho ông, và người ấy sống trong nhà của Mi-ca. 13 Bấy giờ Mi-ca nói, “Bây giờ tôi biết Chúa sẽ ban phước cho tôi, vì người Lê-vi nầy đã thành tư tế của tôi.”

Người Ðan Cướp Hình Tượng và Ðịnh Cư ở La-ít

18 Trong lúc đó I-sơ-ra-ên không có vua. Cũng trong lúc đó chi tộc Ðan đang tìm kiếm một nơi để định cư, bởi vì so với các chi tộc khác của I-sơ-ra-ên, họ chưa nhận được sản nghiệp. Vậy người Ðan ở Xô-ra và Ếch-ta-ôn sai năm dũng sĩ đi do thám và thăm dò xứ. Những người ấy đại diện cho các gia tộc trong cả chi tộc đó. Người Ðan bảo họ, “Hãy đi thăm dò xứ.” Những người ấy đến miền cao nguyên Ép-ra-im, đến nhà của Mi-ca, định nghỉ đêm tại đó. Lúc họ vừa đến gần nhà của Mi-ca, họ nghe giọng nói của chàng thanh niên Lê-vi, nên tẽ bước lại gần và hỏi chàng, “Ai dẫn anh đến đây? Anh làm gì ở đây? Tại sao anh ở đây?”

Chàng nói cho họ biết Mi-ca đã đối với chàng như thế nọ thế kia, và nói tiếp, “Mi-ca đã mướn tôi làm tư tế cho ông ấy.”

Họ nói với anh, “Xin anh hãy cầu vấn Ðức Chúa Trời, xem chúng tôi đi chuyến nầy sẽ thành công không?”

Tư tế đáp, “Hãy đi bình an. Mắt Chúa đoái xem chuyến đi nầy của quý ông.”

Vậy năm người ấy lên đường đến La-ít; tại đó họ thấy dân địa phương sống an lành như dân Si-đôn, bình lặng và không phòng bị gì cả. Xứ ấy không thiếu món gì và rất trù phú. Hơn nữa họ sống xa cách với dân Si-đôn và cũng không có liên hệ gì với ai.

Khi họ trở về lại Xô-ra và Ếch-ta-ôn, các anh em của họ hỏi, “Các anh đi thăm dò và thấy thế nào?”

Họ đáp, “Chúng ta hãy đến tấn công họ. Chúng tôi đã thấy xứ ấy rồi, này, đó là một xứ rất tốt. Chẳng lẽ anh em không tính làm gì sao? Ðừng ngần ngại đến xứ đó và chiếm lấy nó. 10 Khi đến đó anh em sẽ thấy một dân không phòng bị, và xứ thì rộng thênh thang. Ðức Chúa Trời sẽ ban nó vào tay chúng ta. Thật là một xứ chẳng thiếu thứ gì trên đất.”

11 Bấy giờ sáu trăm người Ðan, trang bị đầy đủ vũ khí ra trận, từ Xô-ra và Ếch-ta-ôn ra đi. 12 Dọc đường họ đóng trại tại Ki-ri-át Giê-a-rim trong miền Giu-đa. Ðó là lý do tại sao người ta gọi phía tây của Ki-ri-át Giê-a-rim là Trại của Ðan cho đến ngày nay. 13 Từ đó họ tiến đến miền cao nguyên Ép-ra-im, rồi đến nhà của Mi-ca. 14 Năm người đã đi do thám xứ nói với các anh em của họ, “Anh em có biết rằng trong mấy căn nhà nầy có một ê-phót, một số tượng gia thần, một hình tượng được chạm khắc, và một pho tượng không? Bây giờ anh em đã biết phải làm gì rồi phải không?” 15 Vậy họ đến đó và vào nhà của chàng thanh niên Lê-vi đang ở, tức nhà của Mi-ca, và chào chàng, 16 trong khi đó sáu trăm người Ðan trang bị đầy đủ vũ khí ra trận đứng ngoài cổng. 17 Năm người đã đi do thám xứ vào nhà và cướp lấy hình tượng được chạm khắc, ê-phót, các tượng gia thần, và một pho tượng đúc trong khi tư tế và sáu trăm người trang bị đầy đủ vũ khí ra trận đứng ngoài cổng.

18 Khi những người ấy vào trong nhà Mi-ca cướp lấy hình tượng được chạm khắc, ê-phót, các tượng gia thần, và một pho tượng đúc, thì tư tế hỏi họ, “Các ông làm gì vậy?”

19 Họ bảo chàng, “Hãy im lặng! Hãy lấy tay bịt miệng lại. Hãy đi theo chúng tôi, làm cha chúng tôi trong lĩnh vực linh vụ và làm tư tế chúng tôi. Làm tư tế cho một chi tộc và một tộc họ trong I-sơ-ra-ên không tốt hơn là phục vụ cho một gia đình sao?” 20 Tư tế liền hoan hỉ chấp nhận. Ông lấy cái ê-phót, các tượng gia thần, và hình tượng được chạm khắc, rồi đi theo đoàn người ấy.

21 Người Ðan quay trở ra và tiếp tục lên đường. Họ sắp xếp cho các trẻ em, súc vật, và tài sản đi trước. 22 Khi họ đã đi được một khoảng khá xa nhà Mi-ca, những người trong xóm của Mi-ca hiệp nhau lại và đuổi theo những người Ðan. 23 Khi họ đến gần và kêu la đằng sau, người Ðan quay lại và hỏi Mi-ca, “Ông có chuyện gì vậy? Ông nhóm hiệp những người nầy và đuổi theo chúng tôi là có ý gì?”

24 Mi-ca đáp, “Các người đã cướp lấy các tượng thần do tôi làm ra và bắt luôn cả tư tế của tôi, vậy mà bây giờ các người còn hỏi, ‘Ông có chuyện gì vậy’ là thế nào chứ?”

25 Người Ðan đáp với Mi-ca, “Ông đừng để chúng tôi nghe tiếng của ông nữa, kẻo những kẻ nóng tính trong chúng tôi sẽ xông vào đánh ông, rồi ông và cả nhà ông sẽ mất mạng đó.” 26 Vậy người Ðan tiếp tục lên đường; còn Mi-ca, khi ông thấy họ mạnh hơn ông, ông đành quay lại và trở về nhà.

27 Thế là người Ðan cướp lấy những gì Mi-ca đã có, luôn cả tư tế của ông, rồi tiến đến La-ít. Họ xông vào đánh một dân sống an lành và không phòng bị. Họ dùng gươm giết dân ấy và phỏng hỏa đốt thành của dân ấy. 28 Chẳng ai đến tiếp cứu dân ấy, vì họ sống cách xa Si-đôn, và cũng vì họ không giao thiệp với ai. Thành ấy nằm trong thung lũng gần Bết Rê-hốp. Sau đó người Ðan xây lại thành ấy và định cư ở đó. 29 Họ đặt tên thành ấy là Ðan, theo tên của con trai I-sơ-ra-ên, tộc trưởng của họ, mặc dù thành ấy trước kia vốn có tên là La-ít. 30 Tại đó người Ðan dựng lên cho họ những hình tượng để thờ. Họ lập Giô-na-than con cháu của Ghẹt-sôm, con cháu của Môi-se, và hậu tự của ông ta làm tư tế cho chi tộc Ðan cho đến khi họ bị lưu đày khỏi xứ. 31 Họ tiếp tục thờ lạy những thần tượng do Mi-ca làm ra suốt thời gian Ðền Tạm của Ðức Chúa Trời ở tại Si-lô.[c]

Người Lê-vi và Cô Vợ Bé

19 Trong lúc ấy dân I-sơ-ra-ên không có vua. Có một người Lê-vi sống ở một nơi hẻo lánh trên miền cao nguyên Ép-ra-im. Người ấy có một người vợ bé quê ở Bết-lê-hem, miền Giu-đa. Nhưng nàng lỗi đạo với chồng, rồi bỏ chồng và trở về nhà cha nàng ở Bết-lê-hem, miền Giu-đa. Sau khi nàng về đó được bốn tháng, chồng nàng trỗi dậy, đến đó lấy lời ngọt ngào thuyết phục nàng trở về. Chồng nàng dẫn theo một đầy tớ và hai con lừa. Người phụ nữ mời chồng nàng vào nhà cha nàng. Khi cha nàng thấy con rể, ông vui mừng tiếp đón ân cần. Nhạc phụ người ấy, tức cha người phụ nữ, nài mời con rể ở lại, nên người con rể ở lại với ông ba ngày. Họ ăn uống với nhau và nghỉ đêm tại đó.

Ðến ngày thứ tư, họ trỗi dậy sớm để từ giã ra đi, nhưng cha người phụ nữ nói với con rể rằng, “Hãy ăn miếng bánh cho vững bụng, rồi các con hãy lên đường.” Vậy họ ngồi lại và hai người ăn uống với nhau. Ăn xong, cha người phụ nữ nói, “Con hãy ở lại thêm một đêm nữa, cho lòng con vui thỏa.” Người con rể đứng dậy toan từ giã ra về, nhưng vì người cha vợ nài nỉ mãi, nên ông đành ở lại thêm đêm đó.

Qua ngày thứ năm, ông thức dậy sớm để ra đi, nhưng cha người phụ nữ nói, “Con hãy ngồi xuống đây ăn uống cho vui đã, cứ thong thả đến chiều rồi đi cũng được.” Vậy họ ăn uống với nhau và lần lữa đến chiều. Khi ông, vợ bé ông, và đầy tớ ông đứng lên để từ giã, thì nhạc phụ ông nói, “Các con thấy đó, trời đã về chiều rồi. Các con ở lại thêm một đêm nữa. Các con thấy đó, ngày đã gần tàn rồi. Thôi, hãy ở lại đây cho lòng các con vui vẻ, rồi ngày mai dậy sớm mà đi về.” 10 Tuy nhiên người con rể không chịu ở lại nữa; ông đứng dậy và lên đường. Người ấy cùng hai con lừa có yên và người vợ bé đi ngang qua Giê-bu, tức Giê-ru-sa-lem. 11 Khi họ đến gần Giê-bu thì ngày đã gần tàn; người đầy tớ nói với chủ, “Thưa ông, chúng ta nên tẽ bước vào thành của dân Giê-bu-si nầy và qua đêm ở đó.”

12 Nhưng người chủ nói, “Chúng ta sẽ không vào thành của dân ngoại, những người không phải là con cái của I-sơ-ra-ên. Chúng ta hãy ráng đến Ghi-bê-a.” 13 Người chủ lại nói với người đầy tớ, “Cố gắng lên. Chúng ta hãy đến một trong các thành đằng trước, hoặc Ghi-bê-a hoặc Ra-ma, và qua đêm tại đó.” 14 Rồi họ đi ngang qua nơi ấy và tiếp tục cuộc hành trình. Khi họ đến Ghi-bê-a thuộc lãnh thổ của chi tộc Bên-gia-min thì mặt trời đã lặn. 15 Họ vào Thành Ghi-bê-a và định qua đêm ở đó. Vào thành rồi, họ đến ngồi ở một nơi công cộng trong thành, nhưng không ai mời họ vào nhà để nghỉ đêm cả.

16 Bấy giờ trời đã chạng vạng tối, này, một cụ già đi làm ở ngoài đồng về. Cụ là người quê quán ở miền cao nguyên Ép-ra-im, nhưng bây giờ cụ sống ở Ghi-bê-a, thành của người Bên-gia-min. 17 Khi cụ ngước mắt lên và thấy lữ khách ở nơi công cộng của thành, cụ liền đến hỏi, “Ông đang trên đường về đâu? Ông từ đâu đến đây?”

18 Lữ khách đáp, “Chúng tôi từ Bết-lê-hem miền Giu-đa đi ngang qua đây, để về một nơi hẻo lánh trên miền cao nguyên Ép-ra-im. Tôi là người quê ở đó. Tôi đã đến Bết-lê-hem miền Giu-đa. Nay chúng tôi đã vào nhà của Chúa, nhưng không ai muốn tiếp chúng tôi vào nhà. 19 Mặc dù chúng tôi có rơm và cỏ cho lừa, bánh và rượu cho tôi đầy tớ của cụ, cho người tớ gái nầy của cụ, và cho người bạn trẻ đi với chúng tôi. Chúng tôi không thiếu món gì.”

20 Cụ già nói, “Xin quý vị cứ an tâm. Những nhu cầu của quý vị hãy để lão lo. Chỉ xin quý vị đừng qua đêm tại nơi công cộng nầy thôi.” 21 Vậy cụ mời họ vào nhà và cho hai con lừa của khách ăn; rồi họ rửa chân và ăn uống với nhau.

22 Ðang khi họ ăn uống vui vẻ với nhau, nầy, một đám đàn ông trong thành, một đám côn đồ con cháu của những người quyền thế,[d] đến vây quanh nhà và đập cửa. Chúng nói với chủ nhà, “Hãy đem người đàn ông đã vào nhà ông ra đây, để chúng tôi biết[e] hắn.”

23 Nhưng cụ chủ nhà ra nói với chúng, “Hỡi anh em, xin đừng. Tôi năn nỉ anh em, xin đừng làm chuyện ác đức đó, vì người ấy đang làm khách trong nhà tôi. Xin anh em đừng làm chuyện đồi bại ấy. 24 Kìa, con gái của tôi vẫn còn trinh và cô vợ bé của người ấy đây. Ðể tôi dẫn họ ra cho anh em. Anh em muốn hãm hiếp họ hay làm gì với họ thì tùy ý, nhưng đối với người đó, xin anh em đừng làm chuyện đồi bại ấy.”

25 Nhưng bọn đó không nghe lời cụ, nên người khách đành phải trao người vợ bé của mình ra cho chúng. Chúng hãm hiếp nàng và lăng nhục nàng thâu đêm; đến gần sáng chúng mới thả nàng ra. 26 Khoảng rạng đông, nàng cố sức trở về nơi chồng nàng đang tạm trú. Về đến nơi nàng ngã dài trước cửa và nằm bất tỉnh ở đó cho đến khi trời sáng hẳn. 27 Ðến sáng, chồng nàng thức dậy, mở cửa, định bước ra để chuẩn bị lên đường, thì kìa, người vợ bé của ông đang nằm dài trước cửa, hai tay bíu vào ngạch cửa. 28 Người chồng nói, “Em ráng đứng dậy, chúng ta đi về.” Nhưng không có tiếng trả lời. Vậy ông ẵm nàng lên, để nàng trên lưng lừa, rồi từ giã, và trở về nhà mình.

29 Khi về đến nhà, ông lấy một con dao, cắt đứt tay chân và tử thi của vợ bé ông ra thành mười hai mảnh, rồi gởi chúng đi khắp cõi I-sơ-ra-ên. 30 Hết thảy những ai thấy vậy đều nói, “Từ lúc dân I-sơ-ra-ên lên khỏi Ai-cập cho đến nay, chưa hề có ai làm hay thấy một việc như thế bao giờ. Hãy suy nghĩ, hãy bàn luận, và hãy nói ra cho biết chuyện gì đã xảy ra.”

Trừng Phạt Chi Tộc Bên-gia-min

20 Bấy giờ toàn dân I-sơ-ra-ên từ Ðan cho đến Bê-e Sê-ba và luôn cả miền Ghi-lê-át tụ họp lại như một người trước mặt Chúa tại Mích-pa. Những lãnh tụ của dân, tức của mười hai chi tộc I-sơ-ra-ên, đều hiện diện đông đủ trong đại hội con dân Ðức Chúa Trời. Có bốn trăm ngàn người mang gươm về tụ họp. Người Bên-gia-min cũng biết dân I-sơ-ra-ên đã tụ họp tại Mích-pa. Bấy giờ dân I-sơ-ra-ên nói, “Hãy nói cho chúng tôi biết việc ác nầy đã xảy ra thế nào.”

Vậy người Lê-vi, chồng của người phụ nữ bị giết, đáp, “Tôi và vợ bé tôi có đến Ghi-bê-a, thành của chi tộc Bên-gia-min để qua đêm. Ban đêm, một đám đàn ông ở Ghi-bê-a tìm đến, bao quanh nhà, tính giết tôi. Họ đã hãm hiếp vợ bé tôi, và vì thế nàng đã chết. Tôi đã chặt người vợ bé tôi ra từng mảnh và gởi mỗi mảnh cho mỗi miền trong sản nghiệp của I-sơ-ra-ên, bởi vì họ đã làm điều dâm dục bỉ ổi và ác đức nầy trong I-sơ-ra-ên. Bây giờ hỡi toàn thể dân I-sơ-ra-ên, xin anh em hãy nói đi, chúng ta phải giải quyết việc nầy ra sao?”

Toàn dân đều đứng dậy như một người và nói, “Không ai trong chúng ta được về nhà. Không người nào trong chúng ta được đi về nhà mình cả. Nhưng đây là việc chúng ta phải làm cho Ghi-bê-a. Chúng ta sẽ bắt thăm và theo đó mà lên đánh thành ấy. 10 Trong mỗi chi tộc I-sơ-ra-ên, chúng ta sẽ lấy mười người trong một trăm, trăm người trong một ngàn, ngàn người trong một vạn, để đi lo lương thực cho chúng ta. Khi họ trở lại, chúng ta sẽ xử Ghi-bê-a của Bên-gia-min theo việc ác đức mà chúng đã gây ra trong I-sơ-ra-ên.”

11 Vậy toàn dân I-sơ-ra-ên hiệp nhau như một người để tiến đánh thành ấy. 12 Các chi tộc I-sơ-ra-ên sai sứ giả đến khắp miền của chi tộc Bên-gia-min nói rằng, “Chuyện ác đức kinh khủng gì đã xảy ra ở giữa anh chị em vậy? 13 Bây giờ hãy trao cho chúng tôi đám côn đồ con cháu của những người quyền thế[f] ở Ghi-bê-a, để chúng tôi giết chúng, hầu tẩy trừ việc ác nầy khỏi I-sơ-ra-ên.” Nhưng người Bên-gia-min không chịu nghe lời yêu cầu của đồng bào của họ là dân I-sơ-ra-ên. 14 Họ kéo ra khỏi thành của họ và hiệp nhau tại Ghi-bê-a để giao chiến với dân I-sơ-ra-ên.

15 Khi ấy người Bên-gia-min đã động viên được hai mươi sáu ngàn người, thảy đều là những tay kiếm tài ba, từ các thành của họ kéo về, thêm vào bảy ngàn tay kiếm đã chọn sẵn tại Ghi-bê-a. 16 Trong số những người Bên-gia-min ấy, có bảy trăm người thuận tay trái. Mỗi người đều có tài sử dụng trành ném đá. Họ có thể ném trúng một sợi tóc mà không trật.

17 Dân I-sơ-ra-ên, không kể người Bên-gia-min, cũng triệu tập được bốn trăm ngàn tay kiếm. Tất cả đều là những chiến sĩ.

18 Dân I-sơ-ra-ên lên Bê-tên và cầu hỏi Ðức Chúa Trời. Họ nói, “Ai trong chúng con sẽ lên đánh Bên-gia-min trước?”

Chúa đáp, “Giu-đa sẽ đi trước.”

19 Sáng hôm sau dân I-sơ-ra-ên dậy sớm và hạ trại gần Ghi-bê-a. 20 Dân I-sơ-ra-ên kéo ra đánh người Bên-gia-min. Dân I-sơ-ra-ên dàn trận để giao chiến tại Ghi-bê-a. 21 Người Bên-gia-min ra khỏi Ghi-bê-a và đánh giết hai mươi hai ngàn người I-sơ-ra-ên trong trận chiến ngày hôm ấy. 22 Nhưng dân I-sơ-ra-ên khích lệ nhau và trở lại dàn trận nơi họ đã dàn trận ngày hôm trước. 23 Dân I-sơ-ra-ên đi lên và khóc trước mặt Chúa cho đến chiều tối. Họ cầu hỏi Chúa, “Chúng con có nên đi lên dàn trận để giao chiến với người Bên-gia-min, anh em của chúng con chăng?”

Chúa đáp, “Hãy lên đánh chúng.”

24 Vậy ngày thứ nhì, dân I-sơ-ra-ên kéo đến đánh người Bên-gia-min. 25 Trong ngày thứ nhì, người Bên-gia-min từ trong Ghi-bê-a kéo ra nghinh chiến, và họ đã đánh hạ thêm mười tám ngàn người I-sơ-ra-ên; tất cả đều là những tay kiếm bản lĩnh.

26 Bấy giờ tất cả dân I-sơ-ra-ên đi lên Bê-tên. Họ ngồi đó và khóc trước mặt Chúa. Ngày hôm đó họ kiêng ăn đến chiều tối. Họ dâng các của lễ thiêu và các của lễ cầu an lên Chúa. 27 Rồi họ cầu hỏi ý Chúa. Trong lúc ấy, Rương Giao Ước của Ðức Chúa Trời để tại đó. 28 Có Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-xa, cháu của A-rôn đang phục vụ trước mặt Chúa. Họ hỏi, “Chúng con có nên đi lên dàn trận, để giao chiến với người Bên-gia-min anh em của chúng con, hay chúng con nên dừng lại?”

Chúa phán, “Hãy đi. Ngày mai Ta sẽ phó chúng vào tay các ngươi.”

29 Dân I-sơ-ra-ên đặt phục binh chung quanh Ghi-bê-a. 30 Ngày thứ ba họ kéo lên dàn trận trước Ghi-bê-a để giao chiến với người Bên-gia-min như đã làm hai ngày trước. 31 Người Bên-gia-min đi ra đánh họ và bị dụ ra xa thành. Chúng bắt đầu đánh giết dân I-sơ-ra-ên như đã làm hai ngày trước. Vậy chúng đánh giết được khoảng ba mươi người I-sơ-ra-ên ngoài đồng và trên những con đường nối liền giữa Bê-tên và Ghi-bê-a. 32 Người Bên-gia-min nói với nhau, “Chúng ta đánh bại chúng như lần trước.” Còn dân I-sơ-ra-ên thì nói, “Chúng ta hãy theo những con đường lớn mà rút lui và dụ chúng ra xa khỏi thành.” 33 Bấy giờ toàn quân I-sơ-ra-ên đứng dậy khỏi chỗ mình và kéo đến dàn trận tại Ba-anh Ta-ma, trong khi đó đội quân phục kích cũng đứng dậy và tấn công vào phía tây[g] của Ghi-bê-a. 34 Ðồng thời mười ngàn quân tinh nhuệ của I-sơ-ra-ên cũng tấn công vào mặt chính của Ghi-bê-a. Trận chiến thật dữ dội trong khi người Bên-gia-min không biết thảm họa đã gần kề. 35 Chúa đã đánh bại người Bên-gia-min trước mặt dân I-sơ-ra-ên. Trong ngày ấy dân I-sơ-ra-ên đánh hạ hai mươi lăm ngàn một trăm người Bên-gia-min. Tất cả đều là những tay kiếm cừ khôi. 36 Khi ấy người Bên-gia-min biết rằng chúng sắp bại trận.

Lúc bấy giờ dân I-sơ-ra-ên đã nhượng bộ trước sự tấn công của người Bên-gia-min, bởi vì họ tin tưởng vào đội quân phục kích họ đã đặt gần Ghi-bê-a. 37 Ðội quân phục kích đã đột ngột tấn công vào Ghi-bê-a. Họ tràn vào thành và dùng gươm giết mọi người trong thành. 38 Dân I-sơ-ra-ên đã giao hẹn với đội quân phục kích rằng khi chiếm được thành họ phải đốt lên trong thành một luồng khói lớn để làm hiệu, 39 lúc bấy giờ dân I-sơ-ra-ên sẽ quay lại và chiến đấu.

Khi người Bên-gia-min bắt đầu tấn công và giết khoảng ba mươi người I-sơ-ra-ên, chúng nói, “Chúng ta sẽ đánh bại chúng như trận trước.” 40 Nhưng khi cột khói bắt đầu bốc lên trong thành, người Bên-gia-min quay lại và thấy cả thành đều bốc khói lên trời. 41 Bấy giờ dân I-sơ-ra-ên quay lại tấn công, còn người Bên-gia-min thì hoảng sợ, bởi vì chúng nhận biết rằng tai họa sắp giáng xuống đầu chúng. 42 Vì thế chúng quay lưng chạy trốn vào hướng đồng hoang trước mặt dân I-sơ-ra-ên, nhưng chúng chẳng có thể tránh chiến đấu, vì quân từ các thành bủa ra chém giết chúng. 43 Người ta bao vây người Bên-gia-min, liên tục truy kích chúng, và giày đạp chúng trong vùng gần Ghi-bê-a, về hướng đông. 44 Mười tám ngàn người Bên-gia-min đã ngã chết. Tất cả đều là những chiến sĩ can trường. 45 Khi chúng quay lưng chạy trốn vào đồng hoang, về hướng vầng đá Rim-môn, thì dọc theo các đường chính đã có thêm năm ngàn người bị giết. Chúng cũng bị truy đuổi đến tận Ghi-đôm và đã có hai ngàn người nữa bị giết. 46 Vậy tổng số người Bên-gia-min bị giết trong ngày ấy là hai mươi lăm ngàn. Tất cả đều là những tay kiếm can trường. 47 Nhưng có sáu trăm người quay lưng chạy trốn vào trong đồng hoang và đến ẩn núp tại vầng đá ở Rim-môn được bốn tháng. 48 Sau đó dân I-sơ-ra-ên quay trở về và thanh toán dân Bên-gia-min. Họ dùng gươm diệt tất cả dân chúng, súc vật, và bất cứ những gì còn lại trong các thành của người Bên-gia-min. Ðến thành nào họ cũng đều phóng hỏa thiêu rụi thành ấy.

Cứu Người Bên-gia-min Khỏi Bị Tuyệt Chủng

21 Khi ấy dân I-sơ-ra-ên đã thề với nhau tại Mích-pa rằng, “Không ai trong chúng ta sẽ gả con gái của mình làm vợ người Bên-gia-min.” Sau đó quân dân kéo đến Bê-tên và ngồi tại đó trước mặt Ðức Chúa Trời cho đến chiều tối. Họ cất tiếng lớn khóc một cách đắng cay rằng, “Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, tại sao điều nầy lại xảy đến cho I-sơ-ra-ên? Tại sao ngày nay chúng con bị mất đi một chi tộc?”

Hôm sau quân dân dậy sớm, dựng một bàn thờ tại đó, rồi dâng các của lễ thiêu và các của lễ cầu an. Bấy giờ họ nói, “Có gia tộc nào trong tất cả các gia tộc của I-sơ-ra-ên không đến tham dự ngày hội họp của hội chúng trước mặt Chúa không?” Vì họ có lập một lời thề long trọng về việc không đến trước mặt Chúa tại Mích-pa rằng, “Ai không đến sẽ bị xử tử.” Dân I-sơ-ra-ên ân hận về việc người Bên-gia-min anh em của họ và nói, “Ngày nay một chi tộc đã bị dứt khỏi I-sơ-ra-ên. Chúng ta phải làm sao để kiếm vợ cho những người còn sót lại, vì chúng ta đã thề trước mặt Chúa rằng chúng ta sẽ không gả con gái của chúng ta làm vợ cho chúng?”

Rồi họ nói, “Có ai trong các chi tộc của I-sơ-ra-ên không đến trước mặt Chúa tại Mích-pa chăng?” Họ khám phá ra rằng không ai từ gia tộc Gia-bét ở Ghi-lê-át có mặt ở trại quân trong ngày tụ họp toàn quân, vì khi điểm danh quân dân, không có người nào trong gia tộc của Gia-bét ở Ghi-lê-át có mặt tại đó cả.

10 Vậy hội chúng liền phái mười hai ngàn quân đến đó với lịnh rằng, “Hãy đi, dùng gươm diệt tất cả người Gia-bét ở Ghi-lê-át, kể cả phụ nữ lẫn trẻ em. 11 Ðây là điều các ngươi phải làm: các ngươi phải diệt tất cả những người nam và những người nữ nào đã ăn nằm với người nam.” 12 Họ tìm thấy trong người Gia-bét ở Ghi-lê-át bốn trăm trinh nữ, những người chưa hề ăn nằm với người nam nào; họ đưa các trinh nữ ấy về trại quân tại Si-lô trong xứ Ca-na-an.

13 Sau đó toàn thể hội chúng sai người đến gặp người Bên-gia-min đang ẩn núp tại vầng đá ở Rim-môn để làm hòa với họ. 14 Người Bên-gia-min bèn trở về. Họ ban cho những người Bên-gia-min ấy các thiếu nữ mà họ đã giữ mạng lại trong vòng những phụ nữ của Gia-bét ở Ghi-lê-át; nhưng số thiếu nữ đó vẫn không đủ cho chúng.

15 Quân dân ân hận về việc họ đã làm đối với chi tộc Bên-gia-min, bởi vì Chúa đã để cho có một chỗ bị khuyết trong các chi tộc của I-sơ-ra-ên. 16 Vậy các trưởng lão của hội chúng nói, “Chúng ta phải làm gì cho những người còn lại mà không có vợ, vì không còn phụ nữ nào còn sót lại trong gia tộc Bên-gia-min nữa?” 17 Vì họ nói, “Phải có người thừa hưởng phần sản nghiệp dành cho chi tộc Bên-gia-min còn sót lại, để một chi tộc không bị xóa khỏi I-sơ-ra-ên. 18 Trong khi đó chúng ta lại không thể gả con gái của chúng ta cho chúng làm vợ.” Vì dân I-sơ-ra-ên đã có thề, “Ðáng nguyền rủa thay cho kẻ gả con gái mình làm vợ người Bên-gia-min.” 19 Vậy họ nói, “Này, hằng năm chúng ta đều có kỳ lễ thờ phượng Chúa tại Si-lô. Nơi ấy nằm ở phía bắc của Bê-tên, phía đông con đường đi từ Bê-tên lên Sê-chem, và phía nam của Lê-bô-na.” 20 Họ bảo người Bên-gia-min, “Hãy đi, nằm phục trong các vườn nho, 21 và hãy để ý: hễ khi nào các ngươi thấy các thiếu nữ ở Si-lô đi ra múa hát, các ngươi hãy ra khỏi các vườn nho và mỗi người hãy bắt cóc một thiếu nữ để làm vợ mình, rồi trở về trong đất Bên-gia-min. 22 Nếu cha và anh của các thiếu nữ đó đến kiện cáo với chúng tôi, chúng tôi sẽ bảo họ, ‘Thôi hãy rộng lượng và thông cảm cho chúng tôi mà gả các cháu cho chúng, vì trong trận chiến vừa qua, chúng ta đã không kiếm đủ cho chúng mỗi người một người vợ. Hơn nữa anh em cũng đâu có mắc lời thề.’”

23 Người Bên-gia-min bèn làm như vậy. Mỗi người ra bắt cóc cho mình một thiếu nữ để làm vợ; rồi họ trở về lãnh thổ Bên-gia-min. Họ xây dựng lại các thành của họ và sống trong các thành đó. 24 Còn dân I-sơ-ra-ên cũng rời nơi đó và trở về với chi tộc và gia đình mình. Ai nấy đều rời nơi đó mà trở về sản nghiệp của mình.

25 Trong lúc ấy dân I-sơ-ra-ên không có vua; ai nấy đều làm theo ý mình cho là phải.

Gia Ðình Ê-li-mê-léc Di Cư đến Mô-áp

Trong thời các thủ lãnh trị vì trong xứ có một nạn đói. Một người kia đã đưa vợ và hai con trai ông rời Bết-lê-hem, xứ Giu-đa, qua miền đồng bằng Mô-áp để sinh sống. Người chồng tên là Ê-li-mê-léc; người vợ tên là Na-ô-mi; hai con trai tên là Mác-lôn và Ki-li-ôn. Họ là con cháu của Ép-ra-tha, vốn là cư dân của Bết-lê-hem xứ Giu-đa. Họ dọn đến đồng bằng Mô-áp và định cư tại đó. Nhưng chẳng bao lâu Ê-li-mê-léc chồng của Na-ô-mi qua đời, để bà và hai con ở lại. Hai người con ấy lấy vợ là các phụ nữ Mô-áp. Một cô tên Ọt-pa và một cô tên Ru-tơ. Họ sống tại đó khoảng mười năm. Sau đó cả Mác-lôn và Ki-li-ôn đều qua đời, để bà Na-ô-mi ở lại không chồng không con.

Na-ô-mi và Các Nàng Dâu Mô-áp

Bấy giờ Na-ô-mi đứng dậy với hai con dâu bà rời đồng bằng xứ Mô-áp để hồi hương, vì lúc ở đồng bằng Mô-áp bà có nghe rằng Chúa đã đoái thăm dân Ngài và ban cho họ lương thực. Vậy bà cùng hai con dâu bà chuẩn bị rời nơi họ đang sống để lên đường trở về xứ Giu-đa. Nhưng Na-ô-mi bảo hai con dâu bà, “Các con hãy trở về nhà mẹ các con đi. Cầu xin Chúa đối xử tốt với các con, như các con đã đối xử tốt với những người đã qua đời và với mẹ. Cầu xin Chúa ban phước cho các con, để người nào cũng được an vui hạnh phúc trong nhà chồng mới của mình.” Nói xong bà ôm hôn họ, và họ bật khóc nức nở.

10 Họ nói với bà, “Không, chúng con sẽ đi với mẹ về quê hương của mẹ.”

11 Nhưng Na-ô-mi đáp, “Hãy trở về, các con gái của mẹ. Tại sao các con muốn đi theo mẹ? Làm sao mẹ có thể sinh các con trai được nữa để chúng làm chồng các con? 12 Hãy về đi, các con gái của mẹ. Hãy đi đi, vì mẹ đã quá già để tái giá, cho dù mẹ nghĩ rằng mẹ vẫn còn hy vọng tái giá. Giả như tối nay mẹ lấy chồng và có thai rồi sinh các con trai, 13 liệu các con có thể đợi cho đến khi chúng khôn lớn chăng? Các con há có thể không lấy chồng khác sao? Không đâu, các con gái của mẹ ơi, nỗi sầu khổ của mẹ còn đắng cay hơn của các con rất nhiều, bởi vì tay Chúa đã đưa ra chống lại mẹ.”

14 Bấy giờ họ lại khóc lớn tiếng, rồi Ọt-pa ôm hôn từ giã mẹ chồng của nàng, nhưng Ru-tơ cứ bám theo bà. 15 Na-ô-mi nói với nàng, “Này, em dâu của con đã trở về với dân của nó và với các thần của nó rồi; con cũng hãy trở về như em dâu của con đi.”

16 Nhưng Ru-tơ đáp, “Xin mẹ đừng ép con rời xa mẹ hay bắt con phải trở về mà không theo mẹ nữa, vì mẹ đi đâu, con sẽ theo đó; mẹ ở nơi nào, con sẽ ở nơi đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con. Ðức Chúa Trời của mẹ là Ðức Chúa Trời của con. 17 Mẹ chết nơi nào, con cũng muốn chết và được chôn nơi đó. Ví bằng có điều chi ngoài cái chết phân cách con với mẹ, nguyện Chúa giáng họa trên con.”

18 Khi Na-ô-mi thấy Ru-tơ đã cương quyết theo bà, bà không nói thêm với nàng điều gì nữa.

19 Vậy hai người lên đường đi về Bết-lê-hem. Khi họ vừa đến Bết-lê-hem cả thành đều xôn xao vì hai người. Các bà hỏi nhau, “Có phải đây là Na-ô-mi chăng?”

20 Na-ô-mi đáp, “Xin đừng gọi tôi là Na-ô-mi[h] nữa, nhưng hãy gọi tôi là Ma-ra,[i] vì Ðấng Toàn Năng đã đãi tôi cách đắng cay. 21 Tôi đã ra đi cách đầy dẫy, nhưng nay Chúa đem tôi về tay không. Tại sao còn gọi tôi là Na-ô-mi làm chi, trong khi Chúa đã đãi tôi cách khắc nghiệt, và Ðấng Toàn Năng đã giáng họa trên tôi?”

22 Như vậy Na-ô-mi và Ru-tơ cô dâu người Mô-áp của bà đã từ đồng bằng Mô-áp trở về. Họ đến Bết-lê-hem nhằm vào đầu mùa gặt.

Ru-tơ Gặp Bô-a

Lúc ấy Na-ô-mi có một người bà con bên chồng, một người khá giàu có, thuộc dòng họ Ê-li-mê-léc, tên là Bô-a.

Ru-tơ người Mô-áp thưa với Na-ô-mi, “Xin mẹ cho con ra đồng mót lúa. Con sẽ đi sau người nào thấy con được ơn trước mặt người ấy.”

Na-ô-mi nói với nàng, “Hãy đi đi, con gái của mẹ.”

Vậy Ru-tơ đi. Nàng theo sau các thợ gặt và mót lúa. Không ngờ nàng đến nhằm cánh đồng của Bô-a, người bà con bên chồng trong dòng họ của Ê-li-mê-léc. Này, lúc ấy Bô-a từ Bết-lê-hem đi ra và nói với các thợ gặt, “Nguyện Chúa ở cùng các bạn.”

Họ đáp lời ông, “Nguyện Chúa ban phước cho ông.”

Bấy giờ Bô-a hỏi người đầy tớ trông coi các thợ gặt, “Người thiếu nữ kia là con ai vậy?”[j]

Người đầy tớ trông coi các thợ gặt trả lời, “Cô ấy là người Mô-áp. Cô ấy đã theo Na-ô-mi từ đồng bằng Mô-áp về đây. Cô ấy có xin tôi rằng, ‘Xin ông làm ơn cho tôi theo sau các thợ gặt để lượm mót các gié lúa.’ Cô ấy đến đây mót lúa từ sáng sớm đến giờ và chỉ nghỉ dưới chòi một chút.”

Bấy giờ Bô-a nói với Ru-tơ, “Hãy nghe đây, con gái của tôi: đừng đi đến ruộng khác để mót lúa hay rời khỏi đám ruộng này, nhưng hãy theo sát các cô thợ gặt của tôi. Hãy để ý xem các thợ gặt của tôi gặt lúa ở đám ruộng nào, con hãy theo họ đến đám ruộng đó. Tôi đã dặn các lực điền của tôi không được đụng đến con rồi. Nếu con khát nước, hãy lại uống nước trong các vò do các lực điền của tôi mang đến đằng kia.”

10 Ru-tơ bèn sấp mặt xuống đất và nói, “Bởi đâu mà con được ơn trước mặt ông như thế này? Làm sao ông lại để ý đến con trong khi con là một người ngoại quốc?”

11 Bô-a đáp, “Tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng con từ lúc chồng con qua đời người ta đều thuật lại cho tôi nghe hết, và thể nào con đã lìa cha mẹ con và xứ sở của con để đến sống với một dân con chưa biết. 12 Nguyện Chúa ban thưởng cho con vì những việc con làm. Nguyện Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng con đã chọn đến núp dưới bóng cánh Ngài, ban thưởng cho con thật đầy dẫy.”

13 Ru-tơ đáp, “Thưa ông, nguyện con tiếp tục được ơn trước mặt ông, vì ông đã yên ủi con và dùng những lời tử tế nói với đầy tớ ông, mặc dù con biết thân phận con không bằng một tớ gái của ông.”

14 Ðến bữa ăn, Bô-a nói với nàng, “Con hãy lại đây. Mời con ăn bánh và chấm bánh vào nước chấm chua này.” Vậy nàng ngồi bên cạnh các thợ gặt. Bô-a cũng đem gạo rang mời nàng ăn. Nàng ăn no nê và để dành phần còn dư lại. 15 Ăn xong nàng đứng dậy đi mót lúa tiếp.

Bô-a dặn các đầy tớ ông, “Hãy để cho cô ấy mót lúa, dẫu cô ấy có mót ở giữa những bó lúa cũng đừng trách cô ta. 16 Các bạn cũng hãy rút những gié lúa tốt trong bó ra, cố tình bỏ rơi, để cho cô ấy lượm, và đừng quở trách cô ấy điều chi.”

17 Vậy Ru-tơ mót lúa đến chiều tối. Nàng đập số lúa nàng đã mót được và gom được chừng mười ký[k] lúa mạch. 18 Nàng mang số lúa đã mót được đi vào trong thành, và mẹ chồng nàng thấy số lúa nàng đã mót được. Sau đó nàng lấy phần thức ăn nàng đã để dành ra, mời mẹ chồng nàng ăn.

19 Mẹ chồng nàng hỏi, “Hôm nay con đã mót lúa ở đâu? Con đã làm việc trong ruộng của ai? Phước cho người đã lưu ý đến con.”

Vậy nàng nói cho mẹ chồng nàng nghe nàng đã làm việc trong ruộng của ai. Nàng đáp, “Tên người chủ ruộng mà con đã làm việc hôm nay là Bô-a.”

20 Na-ô-mi nói với con dâu bà, “Nguyện Chúa, Ðấng không ngừng bày lòng nhân từ cho người sống và người chết, ban phước cho người ấy.” Na-ô-mi lại nói tiếp, “Người ấy là bà con của chúng ta và cũng là người có quyền chuộc sản nghiệp của chúng ta.

21 Ru-tơ người Mô-áp nói với bà, “Người ấy đã bảo con, ‘Hãy theo các thợ gặt của tôi cho đến khi xong mùa gặt.’”

22 Na-ô-mi nói với nàng, “Hỡi con gái của mẹ, mẹ thấy con cứ theo các cô thợ gặt của người ấy là tốt hơn cả, vì nếu con đi mót lúa ở ruộng khác không chừng con có thể gặp phiền phức.”

23 Vậy nàng cứ theo sát các cô thợ gặt của Bô-a mà mót lúa cho đến cuối mùa gặt lúa mạch và lúa mì; và nàng đã sống với mẹ chồng của nàng như vậy.

Ru-tơ và Bô-a tại Sân Ðập Lúa

Na-ô-mi mẹ chồng nàng nói với nàng, “Hỡi con gái của mẹ, mẹ chẳng có bổn phận phải lo cho con một chỗ an thân để con được hạnh phúc sao? Vả lại, Bô-a, người có các tớ gái mà con đã theo mót lúa, chẳng phải là người bà con của chúng ta đấy sao? Này, tối nay người ấy sẽ đập lúa mạch ở sân đập lúa. Bây giờ con hãy tắm rửa, xức dầu thơm, mặc bộ đồ đẹp nhất, rồi xuống sân đập lúa, nhưng đừng để ai biết. Ðợi cho đến khi người ấy ăn uống xong; lúc người ấy nằm xuống ngủ, con hãy để ý xem người ấy nằm chỗ nào; bấy giờ con hãy đến, giở mền dưới chân người ấy, và nằm xuống; rồi người ấy sẽ bảo con phải làm gì.”

Nàng đáp với bà, “Con sẽ làm theo mọi điều mẹ bảo.”

Vậy nàng đến sân đập lúa và làm y theo điều mẹ chồng nàng đã dạy bảo. Khi Bô-a đã ăn uống xong, lòng đầy sảng khoái, ông đến nằm ngủ nơi chân đống lúa mạch. Nàng bèn nhẹ nhàng đến giở mền dưới chân ông và nằm xuống. Ðến nửa đêm Bô-a giựt mình, trở người, và kìa, nằm nơi chân ông là một phụ nữ. Ông hỏi, “Cô là ai?”

Nàng đáp, “Con là Ru-tơ tớ gái của ông. Xin ông vui lòng giăng mền ra đắp trên tớ gái của ông, vì ông là người có quyền chuộc sản nghiệp của gia đình con.”

10 Bô-a đáp, “Hỡi con gái của tôi, nguyện Chúa ban phước cho con. Nghĩa cử cao đẹp con làm cho gia đình con lần này còn quý báu hơn điều con đã làm bấy lâu nay. Con đã chẳng theo những chàng trai trẻ nào, bất kể nghèo hay giàu. 11 Vậy bây giờ, hỡi con gái của tôi, đừng sợ. Tôi sẽ làm cho con mọi điều con yêu cầu, vì tất cả mọi người trong dân tôi đều biết rằng con là một phụ nữ đức hạnh. 12 Nhưng bây giờ, dù tôi đúng là người bà con gần của con, nhưng vẫn còn một người bà con khác gần hơn tôi. 13 Con hãy ở đây đêm nay. Ðến sáng mai, nếu người ấy muốn chuộc sản nghiệp của gia đình con thì tốt; nhưng nếu người ấy không muốn chuộc sản nghiệp của gia đình con, thì xin Chúa Hằng Sống chứng giám: tôi sẽ chuộc sản nghiệp của gia đình con. Hãy nằm xuống và ngủ cho đến sáng.”

14 Vậy nàng nằm ngủ nơi chân ông cho đến sáng, nhưng trước khi mọi người có thể nhận ra nhau, nàng đã thức dậy, vì Bô-a đã bảo rằng, “Không nên để người ta biết có một phụ nữ đã đến sân đập lúa.” 15 Bấy giờ Bô-a nói, “Hãy đưa vạt áo choàng của con ra và giữ cho chặt.” Vậy nàng đưa vạt áo ra và giữ chặt. Ông trút vào đó sáu đấu[l] lúa mạch và đỡ nó lên vai nàng. Sau đó nàng[m] đi vào trong thành.

16 Nàng về đến nhà và gặp mẹ chồng. Bà hỏi, “Sự việc ra sao con?” Nàng kể lại cho bà mọi việc người ấy đã làm cho nàng 17 và nói tiếp rằng, “Ông ấy đã cho con sáu đấu lúa mạch đây, vì nói rằng, ‘Ðừng đi tay không về gặp mẹ chồng.’”

18 Bà nói, “Hỡi con gái của mẹ, hãy chờ đợi, để xem sự việc sẽ ngã ngũ ra sao, vì hôm nay nếu chưa giải quyết xong việc này, ông ấy sẽ không nghỉ đâu.”

Bô-a Thành Hôn với Ru-tơ

Bô-a đi đến cổng thành và ngồi xuống. Kìa, người bà con có quyền chuộc sản nghiệp mà Bô-a đã nói đi ngang qua. Bô-a nói với ông ấy, “Mời anh tẻ bước lại đây và ngồi xuống bàn chút việc.” Người ấy tẻ bước lại gần và ngồi xuống.

Bô-a mời mười vị trưởng lão trong thành lại và nói, “Kính mời quý vị ngồi đây.” Các vị trưởng lão bèn ngồi xuống.

Bấy giờ Bô-a nói với người có quyền chuộc sản nghiệp, “Na-ô-mi đã từ đồng bằng Mô-áp trở về; bà ấy muốn bán miếng đất thuộc về Ê-li-mê-léc, người anh em bà con của chúng ta. Vì thế tôi nghĩ tôi phải báo cho anh biết và xin anh rằng: Trước mặt những người có mặt ở đây và trước mặt quý vị trưởng lão của dân ta, xin anh hãy mua miếng đất ấy. Nếu anh muốn chuộc sản nghiệp đó, xin anh hãy chuộc nó; còn không, xin anh nói ra cho tôi biết, vì trước anh không ai có quyền đó, còn sau anh quyền đó thuộc về tôi.”

Người ấy đáp, “Tôi sẽ chuộc miếng đất ấy.”

Bô-a lại nói, “Ngày anh làm sở hữu chủ cánh đồng của Na-ô-mi cũng là ngày anh phải cưới Ru-tơ người Mô-áp, góa phụ của người quá cố, để nối danh người đã qua đời trên sản nghiệp của người ấy.”

Nghe thế người có quyền chuộc sản nghiệp nói, “Nếu vậy tôi không thể chuộc sản nghiệp ấy được, vì nó có thể tổn hại đến sản nghiệp của tôi. Xin anh hãy nhận lấy quyền chuộc sản nghiệp ấy đi, vì tôi không thể chuộc nó được.”

Thuở ấy trong dân I-sơ-ra-ên có tục lệ như thế này về việc chuộc mua hay đổi chác: Ðể xác quyết sự giao dịch, người này phải cởi một chiếc giày của mình mà trao cho người kia. Ðó là cách người I-sơ-ra-ên ngày xưa xác chứng sự thỏa thuận với nhau trong việc lập khế ước. Vậy người có quyền chuộc sản nghiệp nói với Bô-a, “Xin anh hãy mua sản nghiệp đó đi.” Rồi ông ta cởi chiếc giày của ông ra.

Bấy giờ Bô-a nói với các vị trưởng lão và mọi người có mặt tại đó, “Kính xin quý vị làm chứng cho rằng hôm nay tôi chuộc miếng đất nơi tay Na-ô-mi, cùng tất cả những gì thuộc về Ê-li-mê-léc, và tất cả những gì thuộc về Ki-li-ôn và Mác-lôn. 10 Tôi cũng xin cưới Ru-tơ người Mô-áp vợ của Mác-lôn để làm vợ tôi và để nối danh người quá cố trên sản nghiệp của người ấy, hầu danh của người quá cố sẽ không bị mất giữa vòng bà con mình và giữa dân cư của thành mình. Hôm nay kính xin quý vị vui lòng làm chứng cho.”

11 Bấy giờ mọi người đang có mặt tại cổng thành và các vị trưởng lão đều nói, “Chúng tôi xin làm chứng. Cầu xin Chúa ban phước cho người phụ nữ sắp vào nhà ông được như Ra-chên và Lê-a, hai người đã cùng nhau xây dựng nhà I-sơ-ra-ên. Nguyện ông được cường thịnh ở Ép-ra-tha và được nổi danh ở Bết-lê-hem. 12 Nguyện dòng dõi Chúa cho ông do người nữ này sinh ra sẽ làm cho nhà ông giống như nhà của Pê-rê mà Ta-ma đã sinh cho Giu-đa.”

Tổ Phụ của Ða-vít

13 Vậy Bô-a lấy Ru-tơ làm vợ. Ông đến với nàng. Chúa cho nàng thụ thai, và nàng sinh một con trai. 14 Bấy giờ các phụ nữ nói với bà Na-ô-mi, “Chúc tụng Chúa, Ðấng đã không để cho bà chẳng có người bà con nào chuộc lại sản nghiệp. Nguyện danh người ấy được tôn trọng trong I-sơ-ra-ên. 15 Nguyện đứa cháu này làm tươi mới lại cuộc đời bà và làm người phụng dưỡng bà trong tuổi già, vì con dâu của bà thương yêu bà và đã sinh cho bà cháu trai này. Người con dâu ấy thật quý cho bà hơn bảy con trai.”

16 Na-ô-mi bồng đứa bé lên, ôm nó vào lòng, và làm người vú nuôi của nó. 17 Các bà trong xóm đặt tên cho nó và nói, “Na-ô-mi đã có được một cháu trai.” Họ đặt tên nó là Ô-bết. Ô-bết là cha của Giê-se; Giê-se là cha của Ða-vít.

18 Ðây là dòng dõi của Pê-rê: Pê-rê sinh Hê-xơ-rôn; 19 Hê-xơ-rôn sinh Ram; Ram sinh Am-mi-na-đáp; 20 Am-mi-na-đáp sinh Nát-sôn; Nát-sôn sinh Sanh-môn; 21 Sanh-môn sinh Bô-a; Bô-a sinh Ô-bết; 22 Ô-bết sinh Giê-se; và Giê-se sinh Ða-vít.

Nỗi Buồn của An-ne

Ngày xưa ở Ra-ma-tha-im có dòng họ Xô-phim sống trong miền cao nguyên Ép-ra-im; tại đó có một người tên Ên-ca-na con của Giê-rô-ham, con của Hê-li-hu, con của Tô-hu, con của Xu-phơ, thuộc chi tộc Ép-ra-im. Ên-ca-na có hai vợ; một bà tên An-ne và bà kia tên Pê-nin-na. Pê-nin-na có con, còn An-ne không con.

Hằng năm Ên-ca-na thường đi từ thành ông ở lên Si-lô, nơi hai con trai của Hê-li là Hóp-ni và Phi-nê-a làm tư tế của Chúa, để thờ phượng và dâng con vật hiến tế lên Chúa các đạo quân. Ðến ngày Ên-ca-na dâng con vật hiến tế, ông thường chia phần cho Pê-nin-na vợ ông và cho các con trai và con gái của bà; nhưng đối với An-ne, ông cho bà một phần gấp đôi, vì ông rất thương yêu bà, mặc dù Chúa đã để cho dạ bà hiếm muộn không con. Bà vợ kia, đối thủ của bà, luôn tìm mọi cơ hội để chọc tức bà, làm cho bà càng thêm sầu khổ, vì Chúa đã để cho dạ bà hiếm muộn không con.

Việc đó cứ tái diễn từ năm nầy qua năm khác. Mỗi khi bà An-ne lên nhà Chúa, đối thủ của bà cứ chọc tức bà, đến nỗi bà phải khóc và chẳng thiết gì ăn uống. Ên-ca-na chồng bà thường an ủi bà, “An-ne, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em buồn bã như vậy? Anh không xứng đáng cho em hơn mười đứa con trai sao?”

An-ne Cầu Nguyện

Sau khi gia đình ăn uống xong tại Si-lô, An-ne đứng dậy cầu nguyện. Lúc ấy Tư Tế Hê-li đang ngồi trên ghế bên cửa đền thờ[n] của Chúa. 10 Với tâm hồn cực kỳ sầu khổ, bà vừa cầu nguyện vừa khóc lóc đắng cay trước mặt Chúa. 11 Bà khấn nguyện, “Lạy Chúa của các đạo quân, ước chi Ngài nhìn thấy nỗi khổ của con, tớ gái của Ngài. Xin nhớ đến con, và đừng quên tớ gái của Ngài, mà cho tớ gái của Ngài một con trai. Con nguyện dâng nó lên Chúa, để nó phục vụ Ngài suốt đời nó. Dao cạo sẽ không đụng đến tóc nó.”

12 Ðang khi bà cứ lâm râm cầu nguyện trước mặt Chúa, Hê-li để ý miệng bà. 13 An-ne cứ lầm thầm cầu nguyện, chỉ có môi bà mấp máy, mà không nghe thành tiếng, vì thế Hê-li tưởng bà say rượu. 14 Hê-li bảo bà, “Bà còn say rượu cho đến bao lâu nữa? Thôi hãy về, lo dã rượu đi.”

15 Nhưng An-ne đáp, “Thưa ngài,[o] không phải vậy đâu. Tôi là người đàn bà có tâm sự rất sầu khổ. Không phải tôi bị say vì uống rượu hoặc bia[p] đâu, nhưng tôi đã dốc đổ lòng mình ra trước mặt Chúa. 16 Xin ngài đừng hiểu lầm tớ gái của ngài là một phụ nữ không đàng hoàng. Vì quá sầu khổ và phiền muộn nên tôi mới cầu nguyện lâu như vậy.”

17 Nghe thế Hê-li nói, “Hãy đi bình an. Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên sẽ ban cho bà điều bà cầu xin Ngài.”

18 Bà đáp, “Nguyện tớ gái của ngài được ơn trước mặt ngài.” Rồi người đàn bà ra về, ăn uống, và nét mặt bà không còn buồn rầu nữa.

Sa-mu-ên Chào Ðời và Ðược Dâng Lên CHÚA

19 Sáng hôm sau gia đình Ên-ca-na dậy sớm; họ thờ phượng trước mặt Chúa, rồi trở về nhà họ ở Ra-ma. Ên-ca-na biết An-ne vợ ông, và Chúa nhớ đến bà. 20 An-ne thụ thai. Mãn kỳ thai nghén, bà sinh một con trai. Bà đặt tên cho nó là Sa-mu-ên, vì bà nói, “Tôi đã cầu xin Chúa mới có được nó.”

21 Ðến kỳ lễ người chồng là Ên-ca-na đưa cả gia đình ông đi lên để dâng lên Chúa con vật hiến tế hằng năm và làm trọn lời khấn nguyện của họ, 22 nhưng An-ne không đi với họ. Bà nói với chồng bà, “Ðợi cho đến khi con dứt sữa, em sẽ dẫn nó theo, để nó ra mắt Chúa, rồi nó sẽ ở lại đó luôn.”

23 Ên-ca-na chồng bà nói, “Em thấy điều gì đúng thì cứ làm. Ðợi đến khi con dứt sữa cũng được, miễn sao em đã hứa với Chúa thế nào thì phải làm thế ấy là được rồi.”[q] Vậy bà cứ ở nhà, cho con bú cho đến khi nó dứt sữa.

24 Khi đứa trẻ đã dứt sữa, bà đưa nó lên với bà. Bà đem theo một con bò đực ba tuổi, một bao bột khoảng hai mươi hai lít,[r] và một bầu da rượu. Lúc ấy đứa trẻ vẫn còn nhỏ lắm. 25 Sau khi người ta giết con vật hiến tế, ông bà đưa đứa trẻ đến gặp Hê-li. 26 Bà nói, “Thưa ngài, tôi xin chỉ mạng sống của ngài mà thề rằng tôi là người đàn bà đã đứng trước mặt ngài ở chỗ nầy trước đây mà cầu nguyện với Chúa. 27 Tôi đã cầu nguyện để có được đứa trẻ nầy, và Chúa đã ban cho tôi điều tôi cầu xin Ngài. 28 Vì thế hôm nay tôi xin dâng nó lên Chúa. Tôi cho Chúa mượn nó suốt đời nó.” Sau đó cả gia đình ông bà[s] thờ phượng Chúa tại đó.

Bấy giờ bà An-ne dâng lời cầu nguyện và nói:

“Tâm hồn con rất vui mừng trong Chúa;
Chúa đã làm cho đầu[t] con ngước lên.
Miệng con có thể cười lại đối thủ của con được rồi,
Bởi con rất đỗi vui mừng trong ơn cứu rỗi của Ngài.
Chẳng có Ðấng Thánh nào giống như Chúa;
Thật chẳng có ai ngoài ra Ngài.
Không có Vầng Ðá che chở nào như Ðức Chúa Trời chúng ta.

Các người đừng hống hách huênh hoang nữa;
Miệng các người đừng thốt ra những lời ngạo mạn nữa,
Chúa là Ðức Chúa Trời biết hết mọi sự;
Ngài sẽ cân nhắc mọi hành vi cử chỉ.
Cây cung của kẻ mạnh đã bị gãy;
Còn người yếu đuối đã được mặc lấy sức mạnh.
Kẻ no đủ nay phải làm mướn mới có ăn;
Người đói khổ bây giờ không còn đói khát;
Người hiếm muộn nay sinh năm đẻ bảy;[u]
Kẻ đông con lại cằn cỗi héo mòn.

Chúa làm cho chết và cũng làm cho sống lại;
Ngài cho xuống âm phủ rồi lại đem lên.
Chúa làm cho nghèo và cũng làm cho giàu;
Ngài hạ xuống thấp rồi lại nâng lên cao.
Ngài nhấc người nghèo khó lên khỏi nơi bụi đất;
Ngài nâng kẻ bần hàn lên khỏi đống phân tro,
Rồi Ngài đặt họ ngồi chung với những người quyền quý,
Làm cho họ được hưởng ngôi vinh hiển cao sang;
Vì các trụ cột của địa cầu đều thuộc về Chúa;
Ngài đặt thế giới trên các trụ cột ấy.
Ngài gìn giữ chân những người thánh của Ngài;
Phường gian ác phải im miệng nơi tối tăm mù mịt,
Bởi vì chẳng phải cậy vào sức mạnh mà người ta thắng được.
10 Những kẻ chống lại Chúa sẽ bị đập nát tan tành;
Từ trời cao Ngài giáng sấm sét xuống đầu chúng.
Chúa phán xét khắp nơi trên thế giới,
Ban quyền năng cho người Ngài chọn làm vua,
Và làm tăng uy quyền[v] người được xức dầu của Ngài.”

11 Sau đó Ên-ca-na trở về Ra-ma, trong khi đứa trẻ ở lại phụng sự Chúa dưới sự chăm sóc và dạy dỗ của Tư Tế Hê-li.[w]

Tội Lỗi của Các Con Hê-li

12 Thuở ấy hai con trai của Hê-li thật là hư đốn.[x] Chúng không biết kính sợ Chúa gì cả, 13 và cũng không biết giữ phép tắc của người làm tư tế đối với dân. Khi ai dâng một con vật hiến tế và lúc thịt còn đang nấu, đầy tớ của tư tế đến, tay cầm chĩa ba, 14 châm vào trong vạc, hoặc chảo, hoặc nồi, hoặc niêu, và hễ miếng thịt nào dính vào chĩa ba thì nó lấy cho tư tế. Ðó là điều hai người ấy đã làm đối với tất cả những người I-sơ-ra-ên đến tại Si-lô. 15 Ngoài ra trước khi thịt mỡ được đem thiêu dâng, đầy tớ của tư tế đến và nói với người dâng con vật hiến tế, “Ðưa thịt đây để tư tế nướng. Ông ấy không lấy thịt luộc đâu, mà chỉ lấy thịt sống thôi.”

16 Nếu người kia đáp lại, “Xin hãy để chúng tôi đem thiêu dâng trước đã, rồi sau đó anh muốn lấy gì thì lấy,” thì nó bảo, “Không, phải đưa ngay bây giờ; nếu không, tôi sẽ dùng vũ lực giựt lấy.” 17 Tội của hai thanh niên ấy rất lớn trước mặt Chúa, vì chúng đã khinh thường các của lễ người ta đem dâng lên Chúa.

Cậu Bé Sa-mu-ên tại Si-lô

18 Sa-mu-ên phục vụ trước mặt Chúa. Cậu bé mặc một ê-phót[y] bằng vải gai. 19 Mỗi năm mẹ cậu may cho cậu một áo choàng nhỏ, rồi đem lên cho cậu khi bà đi với chồng bà đến dâng con vật hiến tế hằng năm. 20 Hê-li chúc phước cho Ên-ca-na và vợ ông rằng, “Cầu xin Chúa đền bù cho ông bằng những đứa con khác do bà nầy sinh cho ông, để bù lại đứa con bà đã cho Chúa mượn.” Sau đó họ trở về nhà của họ. 21 Chúa thăm viếng An-ne. Bà tiếp tục mang thai và sinh được ba con trai và hai con gái nữa. Còn cậu bé Sa-mu-ên cứ tiếp tục lớn khôn trước mặt Chúa.

Sứ Ðiệp Nghịch Lại Gia Ðình Hê-li

22 Bấy giờ Hê-li đã già lắm rồi. Ông nghe biết tất cả những việc các con ông đã làm đối với mọi người I-sơ-ra-ên, và thể nào chúng đã ăn nằm với các phụ nữ phục vụ tại lối vào của Lều Hội Kiến. 23 Ông nói với chúng, “Tại sao các con làm như vậy? Vì toàn dân nầy đã nói cho cha hay những việc đồi bại các con làm. 24 Không, các con ơi, những lời cha nghe dân của Chúa đồn đãi không phải là những gì tốt đẹp đâu. 25 Nếu một người có tội với một người khác thì có tư tế cầu thay để Chúa sẽ xét xử cho người ấy,[z] nhưng nếu một tư tế phạm tội với Chúa thì ai sẽ cầu thay cho tư tế ấy đây?” Nhưng chúng không màng gì đến những lời khuyên răn của cha chúng, vì Chúa đã định sẽ tiêu diệt chúng.

26 Trong khi đó cậu bé Sa-mu-ên càng ngày càng lớn, được đẹp lòng Chúa và người ta.

27 Một người của Ðức Chúa Trời đến gặp Hê-li và nói với ông, “Chúa phán thế nầy: Chính Ta há đã chẳng hiện ra một cách rõ ràng cho nhà cha ngươi, khi chúng còn làm nô lệ cho Pha-ra-ôn ở Ai-cập hay sao? 28 Ta há đã chẳng chọn tổ tiên ngươi trong tất cả các chi tộc I-sơ-ra-ên để làm tư tế cho Ta, dâng con vật hiến tế trên bàn thờ Ta, dâng hương, và mặc ê-phót ở trước mặt Ta hay sao? Ta há đã chẳng ban cho nhà cha ngươi tất cả các của lễ mà dân I-sơ-ra-ên dùng lửa dâng lên hay sao? 29 Tại sao ngươi coi thường các con vật hiến tế và các của lễ chay mà Ta đã truyền đem dâng tại nơi Ta ngự, và coi trọng các con trai ngươi hơn Ta, mà làm cho cha con ngươi mập béo bằng những phần tốt nhất trong tất cả các lễ vật của I-sơ-ra-ên dân Ta?

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang