Bible in 90 Days
38 Đoạn ông làm mười bồn nước bằng đồng; mỗi bồn chứa được bốn mươi bát.[a] Mỗi bồn như thế cao bốn am-ma. Rồi ông cho đặt chúng trên mười chiếc xe đó, mỗi xe một bồn nước. 39 Xong ông để năm xe ở phía nam của đền thờ và năm xe ở phía bắc của đền thờ. Ông cũng cho đặt bể nước bằng đồng ở góc đông nam của đền thờ.
Vật Dụng Trong Đền Thờ
40 Hu-ram cũng làm các nồi, vá, và chậu. Vậy Hu-ram hoàn tất mọi công tác vua Sa-lô-môn giao ông làm cho nhà CHÚA, gồm:
41 hai trụ đồng,
hai đầu trụ đặt trên hai trụ đồng,
các lưới bằng đồng gắn trên các đầu trụ,
42 bốn trăm trái thạch lựu bằng đồng, gắn thành hai hàng, mỗi hàng một trăm trái, quanh mỗi đầu trụ,
43 mười chiếc xe, mười bồn nước để trên các xe,
44 một bể nước, và mười hai con bò chịu bên dưới bể nước,
45 các nồi, vá và chậu.
Tất cả các vật này Hu-ram làm cho nhà CHÚA do vua Sa-lô-môn giao phó đều được làm bằng đồng đánh bóng. 46 Vua cho làm những vật này tại một nơi có nhiều đất sét trong đồng bằng Giô-đanh, giữa Su-cốt và Xác-than. 47 Sa-lô-môn không cho cân các khí dụng ấy, vì chúng nhiều quá, và số lượng đồng thì không tính nổi.
48 Sa-lô-môn cũng làm các khí dụng cho nhà CHÚA gồm:
bàn thờ bằng vàng,
bàn bánh trần thiết bằng vàng,
49 các chân đèn bằng vàng ròng, năm cái bên phải và năm cái bên trái, trước Nơi Chí Thánh.
Vua cũng cho làm các hoa, đèn, và kẹp gắp đều bằng vàng.
50 Các chén, kéo cắt tim đèn, chậu, khay đựng tro, khay đựng than đều bằng vàng ròng.
Các bộ bản lề các cửa vào phía trong của đền thờ, tức là Nơi Chí Thánh, và các cửa của Nơi Thánh đều làm bằng vàng cả.
51 Vậy vua Sa-lô-môn hoàn tất mọi công trình vua muốn làm cho nhà CHÚA. Sa-lô-môn đem vào đền thờ những vật mà Đa-vít, cha vua, đã dâng hiến, gồm bạc, vàng, và các vật dụng. Vua để các vật ấy trong các kho của nhà CHÚA.
Rước Rương Giao Ước Vào Đền Thờ
8 Bấy giờ Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão của Y-sơ-ra-ên, tất cả các trưởng bộ tộc và các trưởng gia tộc trong Y-sơ-ra-ên lại trước mặt vua ở Giê-ru-sa-lem, để rước Rương Giao Ước của CHÚA từ thành Đa-vít ở Si-ôn đến đền thờ. 2 Vào tháng Ê-tha-nim, tức tháng bảy, toàn dân Y-sơ-ra-ên tụ họp lại trước mặt vua Sa-lô-môn để dự lễ.
3 Khi tất cả các trưởng lão đến, các thầy tế lễ khiêng rương đi. 4 Vậy những thầy tế lễ và những người Lê-vi khiêng rương của CHÚA, Lều Tạm là nơi diện kiến với CHÚA, và tất cả các vật dụng thánh trong Lều Tạm được đem đi. 5 Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, tức là những người đã nhóm họp trước mặt vua, hiệp cùng với vua đến trước rương. Họ dâng hiến chiên và bò nhiều vô kể, nhiều đến độ không thể đếm được.
6 Rồi các thầy tế lễ thỉnh Rương Giao Ước của CHÚA đặt vào vị trí, ở phía bên trong của đền thờ, tức là Nơi Chí Thánh, dưới các cánh chê-ru-bim. 7 Các chê-ru-bim dang cánh ra bên trên rương; các chê-ru-bim che phủ rương và các đòn khiêng. 8 Các đòn khiêng này khá dài đến nỗi ở Nơi Thánh ngay trước Nơi Chí Thánh người ta có thể trông thấy được đầu các đòn khiêng, nhưng ở ngoài thì không thấy được. Các đòn khiêng ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. 9 Trong rương không có gì khác ngoài hai bảng bằng đá mà Môi-se đã đặt vào đó khi còn ở Hô-rếp, là nơi CHÚA đã lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên, khi họ vừa mới ra khỏi Ai-cập.
10 Khi các thầy tế lễ vừa ra khỏi Nơi Thánh, thì có một đám mây bao phủ đền thờ của CHÚA, 11 đến nỗi các thầy tế lễ không thể tiếp tục thi hành nghi lễ vì mây bao phủ và vì vinh hiển của CHÚA đầy dẫy khắp đền thờ của CHÚA.
12 Bấy giờ Sa-lô-môn nói: “CHÚA đã phán rằng Ngài ngự trong mây dày đặc. 13 Con đã xây cho Ngài một ngôi đền nguy nga tráng lệ, làm một nơi để Ngài ngự đời đời.”
Sa-lô-môn Hiệu Triệu Dân Chúng
14 Đoạn vua quay lại và chúc phước cho hội chúng Y-sơ-ra-ên, trong khi cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đang đứng. 15 Vua nói: “Chúc tụng CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng dùng tay Ngài làm ứng nghiệm mọi điều Ngài đã hứa với Đa-vít, cha ta. Ngài có phán rằng: 16 ‘Từ ngày Ta đem dân Y-sơ-ra-ên Ta ra khỏi Ai-cập, Ta không chọn một thành nào trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên để xây cất một nhà cho Ta, hầu cho danh Ta sẽ ngự tại đó, nhưng Ta đã chọn Đa-vít để trị vì dân Y-sơ-ra-ên Ta.’ 17 Đa-vít, cha ta, có ý định xây cất một ngôi đền cho danh CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 18 Nhưng CHÚA có phán với Đa-vít, cha ta rằng: ‘Ngươi có ý tốt khi muốn xây cất một ngôi đền cho danh Ta; 19 dầu vậy ngươi sẽ không xây đền ấy cho Ta đâu, bèn là con trai ngươi, do ngươi sinh ra, sẽ xây đền ấy cho danh Ta.’ 20 Bây giờ CHÚA đã làm thành những lời Ngài đã hứa, vì ta đã kế vị Đa-vít, cha ta; ta ngồi trên ngai của Y-sơ-ra-ên, như CHÚA đã hứa, và ta cũng đã xây một ngôi đền cho danh CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 21 Đây này ta đã làm một chỗ để đặt Rương Giao Ước, trong đó có chứa đựng giao ước của CHÚA, mà Ngài đã hứa với các tổ phụ chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ai-cập.”
Sa-lô-môn Cầu Nguyện
22 Bấy giờ Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của CHÚA, trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, giơ hai tay lên trời 23 và cầu nguyện rằng:
“Lạy CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, chẳng có thần nào giống như Ngài ở trên trời cao kia hay dưới đất thấp này. Ngài giữ giao ước và tỏ tình thương đối với các tôi tớ Ngài là những người bước đi cách hết lòng trước mặt Ngài. 24 Ngài đã giữ giao ước Ngài phán với tôi tớ Ngài là Đa-vít, cha của con. Điều chính miệng Ngài đã hứa thì ngày nay cánh tay Ngài đã thực hiện.
25 Giờ đây, lạy CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin Ngài tiếp tục giữ những gì Ngài đã hứa với Đa-vít, cha của con, rằng: ‘Trước mặt Ta, ngươi sẽ không thiếu một kẻ kế vị ngươi để ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên, nếu con cháu ngươi biết cẩn thận giữ đúng đường lối chúng, bước đi trước mặt Ta như ngươi đã bước đi trước mặt Ta.’ 26 Vậy nên, lạy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, cầu xin Ngài thực hiện lời này mà Ngài đã hứa với tôi tớ Ngài là Đa-vít, cha của con.
27 Nhưng Đức Chúa Trời thật có ngự trên đất chăng? Ngay cả trời của các từng trời còn chưa thể chứa Ngài được thay, huống chi là ngôi đền con xây cất cho Ngài đây. 28 Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của con, xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của tôi tớ Ngài; xin đoái nghe lời cầu xin và khẩn nguyện mà tôi tớ Ngài xin dâng lên trước thánh nhan Ngài ngày nay. 29 Nguyện mắt Ngài đêm ngày đoái xem ngôi đền này, là nơi Ngài đã phán rằng: ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để Ngài nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài hướng về nơi đây cầu khẩn. 30 Xin Ngài lắng nghe lời cầu xin của tôi tớ Ngài và của con dân Ngài mỗi khi họ hướng về nơi này mà cầu nguyện. Từ chốn thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe và tha thứ cho.
31 Khi có ai phạm tội nghịch lại người lân cận mình, và người ta bắt kẻ ấy phải thề; nếu kẻ ấy đến và thề trước bàn thờ Ngài trong ngôi đền này, 32 thì từ chốn thiên đàng xin Ngài lắng nghe, hành động và phân xử các tôi tớ Ngài; xin Ngài kết án kẻ có tội và bắt nó phải cúi đầu chịu lấy hậu quả tội lỗi mình; và xin Ngài minh oan cho người ngay lành và ban thưởng cho họ vì sự vô tội của họ.
33 Khi dân Y-sơ-ra-ên Ngài có phạm tội nghịch lại Ngài, rồi bị quân thù đánh bại, nhưng khi họ biết quay về với Ngài, tuyên xưng danh Ngài, cầu nguyện và khẩn xin Ngài trong ngôi đền này, 34 thì từ chốn thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài, và đem họ về lại xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ.
35 Khi trời đóng lại và không mưa xuống đất bởi vì họ có phạm tội nghịch lại Ngài, nhưng rồi họ hướng về nơi này mà cầu nguyện, tuyên xưng danh Ngài, lìa bỏ tội lỗi, vì đã bị Ngài sửa phạt, 36 thì từ chốn thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Ngài, là dân Y-sơ-ra-ên Ngài. Cầu xin Ngài chỉ dạy họ con đường tốt mà họ phải đi và ban mưa xuống xứ mà Ngài đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
37 Khi trong xứ có đói kém, khi họ gặp phải dịch lệ, hạn hán, nấm mốc, cào cào, hay sâu bọ, nếu quân thù có vây hãm thành nào của họ, bất cứ họ bị dịch lệ nào, bất cứ họ bị bịnh tật gì, 38 và có cá nhân nào hay toàn dân Y-sơ-ra-ên Ngài hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của mình mà giơ tay ra hướng về ngôi đền này mà cầu nguyện, nài xin, 39 thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe, tha thứ, hành động, và báo trả cho mỗi người tùy theo điều Ngài biết nơi lòng của họ, và tùy theo những đường lối của họ; vì chỉ một mình Ngài mới biết rõ mọi sự trong lòng mỗi người mà thôi; 40 hầu cho họ sẽ kính sợ Ngài trọn đời mình và sẽ sống trong xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ.
41 Ngoài ra, khi có người ngoại quốc nào, là người không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên Ngài, từ một xứ xa đến vì nghe uy danh Ngài— 42 vì người ta sẽ nghe đại danh của Ngài, cánh tay quyền năng của Ngài, và cánh tay Ngài đã giang ra—khi có một người ngoại quốc đến, hướng về ngôi đền này mà cầu nguyện, 43 thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe, và nhậm mọi lời cầu nguyện người ngoại quốc đó đã cầu xin với Ngài, hầu cho mọi dân trên đất sẽ biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài, giống như dân Y-sơ-ra-ên Ngài đã làm vậy, và thiên hạ sẽ biết rằng danh của Ngài được kêu cầu nơi đền này, là đền mà con đã xây.
44 Khi dân Ngài phải ra chiến trận đánh đuổi quân thù, dù họ đang ở bất cứ nơi nào Ngài sai họ đi, và khi dân Ngài hướng về thành này là thành Ngài đã chọn và ngôi đền con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện với CHÚA, 45 thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ.
46 Khi họ phạm tội cùng Ngài—vì chẳng ai là không phạm tội—và Ngài giận họ, phó họ cho quân thù, chúng bắt họ lưu đày trong xứ của kẻ thù nghịch, dù xa hay gần; 47 nhưng nếu đang lúc ở trong xứ lưu đày họ biết hồi tâm sửa đổi, họ ăn năn và kêu cầu với Ngài trong xứ của những kẻ bắt họ đi lưu đày, mà rằng: ‘Chúng con đã phạm tội, chúng con đã sai trật, chúng con đã làm điều gian ác.’ 48 Nếu họ hết lòng hết linh hồn ăn năn cùng Ngài trong xứ của kẻ thù, là những kẻ bắt họ đi lưu đày, nếu họ hướng về xứ mà Ngài đã ban cho tổ phụ họ, về thành mà Ngài đã chọn, và về ngôi đền mà con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, 49 thì từ chốn thiên đàng, nơi ngự của Ngài, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ; 50 xin Ngài tha thứ cho dân Ngài mọi tội lỗi và mọi vi phạm mà họ đã phạm đối với Ngài; xin Ngài khiến những kẻ đang bắt họ lưu đày tỏ lòng thương xót họ; 51 vì họ là dân Ngài, là cơ nghiệp của Ngài, là những kẻ Ngài đã đem ra từ Ai-cập, từ giữa lò nung chảy sắt.
52 Cầu xin mắt Ngài đoái xem lời cầu xin của tôi tớ Ngài, và lời cầu xin của dân Y-sơ-ra-ên Ngài, xin Ngài lắng nghe họ khi họ kêu cầu Ngài. 53 Vì Ngài đã biệt riêng họ ra khỏi mọi dân tộc trên đất, để họ làm cơ nghiệp Ngài, như Ngài đã hứa cùng Môi-se, tôi tớ Ngài, khi Ngài đem tổ phụ chúng con ra khỏi Ai-cập, ôi lạy CHÚA là Đấng Chủ Tể Tuyệt Đối.”
Vua Sa-lô-môn Chúc Phước Cho Dân
54 Khi Sa-lô-môn đã dâng lời cầu nguyện này và những lời cầu xin này lên CHÚA xong, vua đứng dậy trước bàn thờ của CHÚA, là nơi vua đã quỳ và giơ hai tay lên trời. 55 Vua đứng dậy, cất tiếng lớn chúc phước cho toàn hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng:
56 “Chúc tụng CHÚA, là Đấng ban cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài được an nghỉ như mọi lời Ngài đã hứa. Không một lời nào trong tất cả những lời hứa tốt đẹp mà Ngài đã cậy Môi-se, tôi tớ Ngài, nói ra mà Ngài không làm cho ứng nghiệm. 57 Nguyện xin CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta ở với chúng ta, như Ngài đã ở với tổ phụ chúng ta. Nguyện xin Ngài đừng lìa và đừng bỏ chúng ta. 58 Nguyện lòng của chúng ta luôn hướng về Ngài, đi trong mọi đường lối Ngài, vâng giữ những điều răn, luật lệ, và mạng lịnh mà Ngài đã truyền cho tổ phụ chúng ta. 59 Nguyện những lời của ta đã cầu nguyện trước mặt CHÚA sẽ ở bên cạnh CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta ngày và đêm. Nguyện Ngài binh vực duyên cớ của tôi tớ Ngài và dân Y-sơ-ra-ên Ngài tùy theo nhu cầu mỗi ngày; 60 để cho mọi dân tộc trên đất sẽ biết rằng CHÚA là Đức Chúa Trời, không có một chân thần nào khác. 61 Vậy, các ngươi khá hết lòng tận trung với CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta, mà sống theo các luật lệ của Ngài và vâng giữ các điều răn của Ngài, y như đã làm ngày nay.”
Lễ Cung Hiến Đền Thờ
62 Rồi vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên đang hiệp với vua dâng các sinh tế lên trước mặt CHÚA. 63 Sa-lô-môn dâng cho CHÚA 22,000 con bò và 120,000 con chiên làm tế lễ tạ ơn. Vậy vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên cung hiến đền thờ lên CHÚA.
64 Ngày hôm đó, vua biệt riêng khu vực ở giữa sân trước đền thờ của CHÚA làm nơi dâng các tế lễ thiêu, các tế lễ chay, và mỡ của các tế lễ tạ ơn, vì bàn thờ bằng đồng trước mặt CHÚA quá nhỏ, không đủ chỗ để nhận các tế lễ thiêu, các tế lễ chay, và mỡ của các tế lễ tạ ơn.
65 Vậy, lúc ấy Sa-lô-môn và toàn dân Y-sơ-ra-ên có mặt với vua mừng lễ trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta bảy ngày. Thật là một đoàn dân đông đảo, đến từ cửa ải Ha-mát cho đến suối Ai-cập. 66 Vào ngày thứ tám, vua truyền cho dân chúng ra về. Họ chúc phước cho vua, rồi trở về trại mình, tinh thần vui mừng phấn khởi, vì mọi điều tốt đẹp mà CHÚA đã làm cho Đa-vít, tôi tớ Ngài và cho dân Y-sơ-ra-ên Ngài.
CHÚA Hiện Ra Với Sa-lô-môn Lần Thứ Nhì
9 Khi Sa-lô-môn đã xây dựng đền thờ cho CHÚA, cung điện hoàng gia và những dinh thự mà vua muốn xây cất xong, 2 thì CHÚA hiện ra với Sa-lô-môn lần thứ nhì, như Ngài đã hiện ra với vua tại Ga-ba-ôn. 3 CHÚA phán với vua rằng: “Ta đã nghe lời cầu nguyện và lời cầu xin của ngươi, là những lời ngươi đã trình dâng trước mặt Ta. Ta đã biệt ra thánh ngôi đền mà ngươi đã xây và đặt danh Ta tại nơi đó đời đời. Mắt Ta và lòng Ta sẽ hằng ở đó luôn luôn. 4 Riêng phần ngươi, nếu ngươi bước đi trước mặt Ta như Đa-vít cha ngươi đã đi, lấy lòng trọn lành và ngay thẳng làm theo mọi điều Ta đã truyền cho ngươi, vâng giữ các luật lệ và mạng lịnh Ta, 5 thì Ta sẽ lập ngôi nước ngươi trên Y-sơ-ra-ên được vững vàng đến đời đời, như Ta đã hứa với Đa-vít, cha ngươi, rằng: ‘Ngươi sẽ chẳng hề thiếu người kế vị trên ngôi của Y-sơ-ra-ên.’
6 Nhưng nếu ngươi hoặc con cháu ngươi quay khỏi Ta, không giữ điều răn và luật lệ Ta đã truyền cho các ngươi, nhưng đi phục vụ và thờ phượng các thần khác, 7 thì Ta sẽ dứt bỏ Y-sơ-ra-ên khỏi xứ mà Ta đã ban cho họ; Ta sẽ loại bỏ ngôi đền mà Ta đã biệt ra thánh cho danh Ta, và dân Y-sơ-ra-ên sẽ thành một câu tục ngữ và trò giễu cợt giữa các dân. 8 Ngôi đền này sẽ trở thành một đống đổ nát hoang tàn; những ai đi qua đó sẽ kinh ngạc, sẽ thắc mắc mà hỏi rằng: ‘Tại sao CHÚA đã làm điều ấy cho xứ này và cho dân này?’ 9 Rồi người ta sẽ đáp rằng: ‘Bởi vì họ đã lìa bỏ CHÚA là Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã đem tổ phụ họ ra khỏi xứ Ai-cập, mà bây giờ họ lại đi theo các thần khác, thờ phượng và phục vụ các thần ấy, cho nên CHÚA đã khiến tai vạ này đến trên họ.’ ”
10 Cuối hai mươi năm, là thời gian Sa-lô-môn đã xây xong hai công trình kiến trúc, tức là đền thờ cho CHÚA và cung điện hoàng gia, 11 vì vua Hi-ram của Ty-rơ đã cung cấp cho Sa-lô-môn gỗ bá hương, gỗ tùng, và vàng tuỳ ý vua muốn, nên vua Sa-lô-môn đã ban cho Hi-ram hai mươi thành trong địa phận Ga-li-lê. 12 Nhưng khi Hi-ram đến Ty-rơ để quan sát các thành mà Sa-lô-môn đã ban cho mình, thì vua ấy chẳng hài lòng. 13 Hi-ram nói: “Những thành mà vua cho tôi là những thành gì vậy, thưa vua?” Vậy họ gọi xứ đó là Ca-bun cho đến ngày nay. 14 Dầu vậy Hi-ram cũng gởi cho vua một trăm hai mươi ta-lâng vàng.
Các Hoạt Động Khác Của Sa-lô-môn
15 Đây là ký thuật về việc cưỡng bách lao động mà vua Sa-lô-môn đã trưng dụng dân công để xây đền cho CHÚA, cung điện cho vua, các công sự phòng thủ, tường thành Giê-ru-sa-lem, Hát-so, Mê-ghi-đô, Ghê-xe 16 (Pha-ra-ôn là vua của Ai-cập đã đi lên chiếm lấy Ghê-xe, phóng hỏa đốt thành, tiêu diệt dân Ca-na-an cư ngụ trong thành, rồi ban thành ấy làm của hồi môn cho con gái mình, là vợ Sa-lô-môn. 17 Vì thế Sa-lô-môn phải xây lại thành Ghê-xe), phần dưới của thành Bết Hô-rôn, 18 Ba-lát, Tát-mốt trong đồng hoang, thuộc địa phận của vua, 19 và tất cả những thành làm kho tiếp liệu, những thành cho đạo quân có các xe chiến mã, những thành cho kỵ binh, và tất cả những gì Sa-lô-môn muốn xây cất, ở Giê-ru-sa-lem, ở Li-ban, và trong mọi xứ dưới vương quyền của vua.
20 Tất cả những người còn sót lại của các dân A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít, và Giê-bu-sít, tức là những người không phải dân Y-sơ-ra-ên. 21 Họ là con cháu của những người mà dân Y-sơ-ra-ên không thể tuyệt diệt, còn sót lại trong xứ. Sa-lô-môn bắt những người ấy làm nô dịch để cung cấp nhân công lao động, và họ làm như vậy cho đến ngày nay. 22 Nhưng dân Y-sơ-ra-ên thì Sa-lô-môn không bắt ai làm nô lệ. Họ là quân lính, quan quyền, tướng lãnh, sĩ quan, và những người chỉ huy các đạo quân có các xe chiến mã và kỵ binh. 23 Sau đây là số quan chức mà Sa-lô-môn đặt lên để cai quản những người thực hiện các công trình xây cất của vua: năm trăm năm mươi người.
24 Sau khi công chúa Pha-ra-ôn từ thành Đa-vít dọn lên ở trong cung điện mà Sa-lô-môn đã xây cất cho nàng, vua bèn cho xây cất các công sự phòng thủ.
25 Mỗi năm ba lần Sa-lô-môn lên dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an trên bàn thờ mà vua đã xây cho CHÚA, vua dâng hương trước mặt CHÚA. Như vậy, vua đã hoàn tất công trình xây cất đền thờ.
Hoạt Động Thương Mại Của Sa-lô-môn
26 Vua Sa-lô-môn cũng cho đóng một đoàn tàu tại Ê-xi-ôn Ghê-be, gần Ê-lốt, nơi bờ Hồng Hải, thuộc xứ Ê-đôm. 27 Hi-ram sai các tôi tớ và đoàn tàu của mình, tức những thủy thủ thông thạo hàng hải, đi cùng các tôi tớ của Sa-lô-môn. 28 Họ đến Ô-phia và đem về bốn trăm hai mươi ta-lâng vàng, rồi đem giao nộp cho Vua Sa-lô-môn.
Nữ Hoàng Sê-ba Thăm Sa-lô-môn
10 Khi nữ hoàng của Sê-ba nghe danh tiếng của Sa-lô-môn, là danh có được nhờ danh CHÚA, thì bà đến để thử tài vua, bằng những câu hỏi hóc búa. 2 Nữ hoàng đến Giê-ru-sa-lem với một đoàn tùy tùng rất đông, có những lạc đà chở các hương liệu, rất nhiều vàng, và các loại đá quý. Khi đến gặp Sa-lô-môn, bà nói cho vua nghe những gì bà đã suy nghĩ trong lòng. 3 Sa-lô-môn giải đáp tất cả các câu hỏi của bà. Chẳng có điều gì là bí ẩn mà vua không giải nghĩa cho bà được. 4 Khi nữ hoàng của Sê-ba đã chứng kiến tất cả sự khôn ngoan của Sa-lô-môn và cung điện vua đã xây, 5 thức ăn trên bàn vua, dinh thự của quần thần, cơ cấu tổ chức các quần thần và y phục của họ, các quan dâng thức uống cho vua, và các tế lễ thiêu vua dâng trong đền thờ CHÚA, thì bà hết hồn.
6 Bà nói với vua: “Những gì tôi nghe nói trong xứ của tôi về các công việc và sự khôn ngoan của vua đều là thật, 7 nhưng tôi không tin những điều ấy cho đến khi tôi đến đây và thấy tận mắt. Những điều tôi nghe chỉ là một nửa. Sự khôn ngoan và giàu sang của vua thật vượt quá những gì tôi đã nghe. 8 Phước hạnh thay cho các vợ của vua! Phước hạnh thay cho bầy tôi của vua, là những người thuộc về vua thường xuyên hầu hạ trước mặt vua và được nghe sự khôn ngoan của vua! 9 Chúc tụng CHÚA là Đức Chúa Trời của vua, là Đấng đã hài lòng nơi vua và đặt vua trên ngôi của Y-sơ-ra-ên! Vì CHÚA yêu thương Y-sơ-ra-ên mãi mãi, nên Ngài đã lập vua làm vua, để thi hành công lý và lẽ công chính.”
10 Rồi bà tặng vua một trăm hai mươi ta-lâng vàng, rất nhiều hương liệu và đá quý. Chưa bao giờ có ai đem hương liệu đến nhiều như số hương liệu của nữ hoàng Sê-ba đã tặng cho vua Sa-lô-môn.
11 Ngoài ra, đoàn tàu của Hi-ram, đem vàng từ Ô-phia về, cũng chở theo rất nhiều gỗ đàn hương và đá quý từ Ô-phia về nữa. 12 Vua lấy các gỗ đàn hương đó làm cột trong đền của CHÚA, trong cung điện hoàng gia, làm đàn lia và đàn hạc cho các ca sĩ. Ngày nay, thứ gỗ đàn hương đó không ai đem đến và cũng không còn thấy nữa.
13 Trong khi đó, vua Sa-lô-môn cũng tặng cho nữ vương Sê-ba bất cứ điều gì bà thích, ngoài những gì vua đã tặng cho nữ vương Sê-ba theo sự giàu sang vương giả của mình. Đoạn bà và đoàn tùy tùng của bà lên đường trở về nước của bà.
Sự Giàu Sang Của Vua Sa-lô-môn
14 Số vàng mà vua Sa-lô-môn thâu nhận hàng năm cân nặng khoảng sáu trăm sáu mươi sáu ta-lâng,[b] 15 ngoài số lợi tức thu được từ những thương gia và những người buôn bán đổi chác, và từ tất cả các vua Ả-rập và các quan trưởng của các tỉnh đem nộp.
16 Vua Sa-lô-môn làm hai trăm chiếc thuẫn lớn bọc vàng dát mỏng. Mỗi chiếc dùng gần sáu trăm bê-ka vàng.[c] 17 Vua cũng cho làm ba trăm chiếc thuẫn nhỏ hơn bọc vàng dát mỏng. Mỗi chiếc dùng gần ba mi-na vàng.[d] Rồi vua cho đặt những thuẫn đó trong cung Rừng Li-ban.
18 Vua cũng cho làm một chiếc ngai lớn bằng ngà, bọc vàng ròng. 19 Chiếc ngai có sáu cấp. Phần cao nhất của ngai là chỗ dựa lưng có hình tròn, hai bên chỗ ngồi có chỗ gác tay, bên cạnh hai chỗ gác tay là hai con sư tử, 20 cũng có mười hai con sư tử khác, mỗi con đứng ở mỗi đầu của sáu cấp. Chưa hề có vương quốc nào làm như vậy. 21 Tất cả các ly chén vua dùng để uống đều bằng vàng, và tất cả các vật dụng trong cung Rừng Li-ban đều bằng vàng ròng. Không có món chi làm bằng bạc. Vì trong thời của Sa-lô-môn bạc không có giá trị gì. 22 Vì nhà vua có một đoàn tàu Ta-rê-si đi biển với đoàn tàu của Hi-ram. Cứ ba năm đoàn tàu Ta-rê-si ấy trở về mang theo vàng, bạc, ngà voi, khỉ và công.
23 Vì thế vua Sa-lô-môn trổi hơn các vua trên đất về giàu có và khôn ngoan. 24 Thiên hạ đều mong được diện kiến Sa-lô-môn, để nghe sự khôn ngoan mà Đức Chúa Trời đã ban cho tâm trí vua. 25 Ai đến cũng đem theo lễ vật; nào là các vật bằng bạc, bằng vàng, quần áo, vũ khí, hương liệu, ngựa và lừa; cứ thế hết năm này qua năm khác.
26 Sa-lô-môn cũng thâu thập các xe chiến mã và ngựa. Vua có 1,400 xe chiến mã và 12,000 con ngựa. Vua giữ các xe chiến mã trong những thành của các đạo quân có các xe chiến mã gần bên vua tại Giê-ru-sa-lem. 27 Vua làm cho bạc trở nên tầm thường như sỏi đá và gỗ bá hương nhiều như gỗ sung ở các chân đồi. 28 Sa-lô-môn cho mua ngựa từ Ai-cập và Cơ-ve về. Những người thương nhân của vua đến tận Cơ-ve trả giá mua về. 29 Một xe chiến mã mua từ Ai-cập giá gần sáu trăm sê-ken bạc,[e] còn một con ngựa giá khoảng một trăm rưởi.[f] Rồi các thương gia của hoàng gia đem bán lại cho các vua của dân Hê-tít và các vua của dân A-ram.
Các Lầm Lỗi Của Sa-lô-môn
11 Ngoài con gái của Pha-ra-ôn, vua Sa-lô-môn yêu nhiều phụ nữ ngoại quốc khác; ấy là các phụ nữ người Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, Si-đôn, và Hê-tít. 2 Họ thuộc về các dân mà CHÚA đã truyền cho dân Y-sơ-ra-ên rằng: “Các ngươi không được cưới gả với chúng, vì chắc chắn chúng sẽ khiến cho lòng các ngươi ngả theo các thần của chúng.” Nhưng Sa-lô-môn yêu say mê các phụ nữ ấy. 3 Vua có bảy trăm vợ là các công chúa và ba trăm cung phi. Các vợ của vua đã làm cho lòng vua chuyển hướng sai lạc. 4 Khi vua về già, các vợ của vua đã khiến cho lòng vua ngả theo các thần của họ; lòng vua không còn trung thành với CHÚA là Đức Chúa Trời của vua, như lòng của Đa-vít, cha vua đã có. 5 Vì Sa-lô-môn đi theo Át-tạc-tê, nữ thần của dân Si-đôn, Minh-côm, thần gớm ghiếc của dân Am-môn. 6 Vậy Sa-lô-môn làm những việc tội lỗi trước mặt CHÚA, không trung thành đi theo CHÚA, như phụ vương của vua đã làm.
7 Khi ấy Sa-lô-môn cũng xây một miếu thờ cho Kê-mốt, là thần gớm ghiếc của dân Mô-áp, một miếu thờ cho Mo-lóc, là thần gớm ghiếc của dân Am-môn, trên núi đối ngang Giê-ru-sa-lem. 8 Vua cũng làm như vậy cho tất cả các bà vợ ngoại quốc của vua. Họ dâng hương và dâng sinh tế cho các thần của họ.
9 Bấy giờ CHÚA nổi giận với Sa-lô-môn, vì lòng vua đã xây bỏ CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng đã hiện ra cho vua hai lần, 10 đã truyền cho vua chớ theo các thần khác, nhưng vua không vâng theo mạng lịnh CHÚA đã truyền. 11 Bấy giờ CHÚA phán với Sa-lô-môn: “Vì ngươi đã làm điều này, không vâng giữ giao ước và luật lệ Ta đã truyền cho ngươi, Ta chắc chắn sẽ phân chia vương quốc của ngươi ra và ban cho tôi tớ ngươi. 12 Nhưng vì cớ Đa-vít, cha ngươi, Ta sẽ không làm điều đó trong đời ngươi; Ta chắc chắn sẽ xé nó ra trong tay của con trai ngươi. 13 Tuy nhiên, Ta sẽ không xé cả vương quốc, nhưng sẽ để dành lại cho con trai ngươi một chi phái, vì cớ Đa-vít, tôi tớ Ta và vì cớ Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn.”
Những Người Chống Sa-lô-môn
14 CHÚA bèn dấy lên một người nghịch lại Sa-lô-môn, đó là Ha-đát, người Ê-đôm. Người ấy thuộc hoàng tộc của dân Ê-đôm. 15 Số là khi Đa-vít ở Ê-đôm, thì Giô-áp, quan tổng binh, đi lên chôn xác những người chết, ông diệt mọi người nam ở Ê-đôm. 16 Vì Giô-áp và tất cả những người Y-sơ-ra-ên đi theo ông đã ở lại đó sáu tháng, cho đến khi họ diệt hết mọi người nam trong Ê-đôm. 17 Nhưng Ha-đát với một số người Ê-đôm, là tôi tớ của cha ông, chạy trốn qua Ai-cập. Khi ấy ông chỉ là một cậu bé. 18 Họ chạy từ Ma-đi-an đến Pha-ran, đoạn họ bắt một số người Ma-đi-an theo mình, rồi đi đến Ai-cập, vào ra mắt Pha-ra-ôn, vua của Ai-cập. Vua ấy cấp cho ông nhà ở, thực phẩm và ruộng đất.
19 Ha-đát được ơn lớn trước mặt Pha-ra-ôn, nên vua gả em vợ cho ông, tức là em gái của hoàng hậu Tác-bê-ne. 20 Em gái của Tác-bê-ne sinh cho ông một con trai, tên là Ghê-nu-bát. Đó là đứa con được dứt sữa trong cung điện của Pha-ra-ôn. Ghê-nu-bát lớn lên giữa cung điện của Pha-ra-ôn, và giữa các con của Pha-ra-ôn.
21 Khi Ha-đát ở Ai-cập nghe tin Đa-vít đã về an giấc cùng các tổ phụ của mình, và Giô-áp, quan Tổng Binh của vua đã chết, thì Ha-đát đến xin Pha-ra-ôn: “Xin vua cho phép tôi trở về quê hương của tôi.”
22 Nhưng Pha-ra-ôn đáp với ông: “Ngươi ở với ta có thiếu gì sao mà nay lại muốn trở về xứ sở của ngươi?”
Ông đáp: “Thưa không thiếu chi hết. Nhưng xin vua hãy cho phép tôi đi.”
23 Đức Chúa Trời cũng dấy lên một người chống nghịch khác, người ấy là Rê-xôn, con trai của Ê-li-gia-đa; Rê-xôn là người đã bỏ chủ mình là vua Ha-đa-rê-xe của xứ Xô-ba để trốn thoát. 24 Khi vua của Xô-ba bị Đa-vít đánh bại, thì Rê-xôn thu nhận một số người theo mình và làm thủ lãnh của đám tàn quân đó. Họ kéo chạy đến Đa-mách, chiếm lấy thành ấy, rồi ông tự tôn làm vua ở Đa-mách. 25 Suốt thời của Sa-lô-môn, Rê-xôn luôn luôn là kẻ chống nghịch Y-sơ-ra-ên, ngoài sự quấy nhiễu của Ha-đát đã có. Ông chống nghịch Y-sơ-ra-ên và cai trị vùng A-ram.
Giê-rô-bô-am Nổi Loạn
26 Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, người Ép-ra-im, ở Xê-rê-đa, là một tôi tớ của Sa-lô-môn; mẹ ông là một góa phụ, tên là Xê-ru-ha; ông nổi lên chống lại vua.
27 Sau đây là lý do tại sao ông nổi lên chống lại vua. Sa-lô-môn xây dựng các công sự phòng thủ, xây lại những chỗ đã hỏng quanh tường thành Đa-vít, là thành của phụ thân vua. 28 Thấy Giê-rô-bô-am là người trẻ, có khả năng và chăm chỉ, Sa-lô-môn bèn lập ông lên chỉ huy lực lượng dân công của bộ tộc Giô-sép.
29 Cũng độ ấy, khi Giê-rô-bô-am vừa ra khỏi Giê-ru-sa-lem, thì tiên tri A-hi-gia, người Si-lô, đón gặp ông giữa đường. A-hi-gia đang mặc một chiếc áo choàng mới. Trong lúc chỉ có hai người đang ở ngoài đồng, 30 A-hi-gia lấy chiếc áo choàng mới đang mặc xé ra làm mười hai mảnh. 31 Đoạn ông nói với Giê-rô-bô-am: “Hãy lấy mười mảnh cho ông. CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán vậy: ‘Này, Ta sắp xé vương quốc từ tay của Sa-lô-môn và ban cho ngươi mười bộ tộc. 32 Nhưng vì cớ tôi tớ Ta là Đa-vít, và vì cớ Giê-ru-sa-lem là thành Ta đã chọn trong tất cả các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ giữ lại cho nó một bộ tộc. 33 Bởi vì nó đã lìa bỏ Ta, thờ phượng Át-tạc-tê, nữ thần của dân Si-đôn, Kê-mốt, thần của dân Mô-áp, và Minh-côm, thần của dân Am-môn. Nó đã không đi theo các đường lối Ta, không làm những việc ngay lành trước mắt Ta, không giữ những luật lệ và mạng lịnh của Ta như Đa-vít, cha nó, đã làm.
34 Dù vậy, Ta sẽ không cất cả vương quốc khỏi nó, nhưng sẽ cho nó được trị vì trọn đời nó, vì cớ tôi tớ Ta là Đa-vít, người Ta đã chọn, và là kẻ đã vâng giữ các điều răn và luật lệ của Ta; 35 nhưng Ta sẽ cất vương quốc khỏi con nó và ban cho ngươi mười bộ tộc. 36 Còn con trai nó thì Ta sẽ cho một bộ tộc, hầu cho tôi tớ Ta là Đa-vít có thể luôn có một ngọn đèn trước mặt Ta tại Giê-ru-sa-lem, là thành Ta đã chọn để đặt danh Ta. 37 Ta sẽ lập ngươi và ngươi sẽ trị vì trên tất cả, như lòng ngươi muốn. Ngươi sẽ làm vua trên Y-sơ-ra-ên. 38 Nếu ngươi nghe theo mọi điều Ta truyền cho ngươi, đi trong các đường lối Ta, làm điều công chính trước mắt Ta bằng cách vâng giữ các luật lệ và các điều răn Ta, như Đa-vít, tôi tớ Ta đã làm, thì Ta sẽ ở với ngươi, Ta sẽ lập cho nhà ngươi được vững bền, như Ta đã lập cho Đa-vít, và Ta sẽ ban Y-sơ-ra-ên cho ngươi. 39 Như thế Ta sẽ sửa phạt các con cháu của Đa-vít, nhưng không phải mãi mãi đâu.’ ”
40 Biết vậy Sa-lô-môn liền tìm cách giết Giê-rô-bô-am; nhưng Giê-rô-bô-am vội vàng chạy trốn qua Ai-cập, đến với vua Si-sắc của Ai-cập, và cứ ở mãi tại Ai-cập cho đến khi Sa-lô-môn băng hà.
Sa-lô-môn Băng Hà
41 Các việc khác của Sa-lô-môn, tất cả những gì vua làm, và sự khôn ngoan của vua, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Sa-lô-môn sao? 42 Thời gian Sa-lô-môn trị vì tại Giê-ru-sa-lem trên toàn dân Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm. 43 Sa-lô-môn an giấc cùng các tổ phụ mình và được chôn trong thành của Đa-vít, cha vua. Rô-bô-am, con trai vua, lên ngôi kế vị.
Các Chi Tộc Phía Bắc Tách Ra
12 Rô-bô-am đến Si-chem, vì cả Y-sơ-ra-ên đã đến Si-chem để lập ông lên làm vua. 2 Khi Giê-rô-bô-am con của Nê-bát nghe điều đó, vì khi ấy ông còn ở Ai-cập, là nơi ông đã trốn khỏi Sa-lô-môn, thì ông từ Ai-cập trở về. 3 Người ta phái người đến mời ông đến. Vậy Giê-rô-bô-am và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên đến nói với Rô-bô-am: 4 “Phụ vương của vua đã đặt trên chúng tôi một ách nặng nề. Vậy bây giờ xin vua hãy làm nhẹ bớt lao dịch nặng nhọc của phụ vương vua và ách nặng nề mà phụ vương vua đã đặt trên chúng tôi, thì chúng tôi sẽ phục vụ vua.”
5 Rô-bô-am đáp với họ: “Hãy về đi, ba ngày sau hãy trở lại gặp ta.” Vậy dân chúng ra về.
6 Bấy giờ vua Rô-bô-am họp các đại thần cao niên, là những người đã phục vụ dưới triều của Sa-lô-môn, cha vua, khi tiên vương còn sống. Vua hỏi: “Các ngươi bảo ta phải trả lời với dân này thế nào đây?”
7 Họ tâu với vua: “Nếu ngày nay vua quyết định làm đầy tớ cho dân này và phục vụ họ, dùng lời tử tế nhã nhặn đối đáp với họ, thì họ sẽ làm tôi của vua mãi mãi.”
8 Nhưng vua chẳng coi những lời khuyên của các đại thần cao niên ra gì. Vua bàn luận với những người trẻ, là những người lớn lên đồng thời với mình, và đang phục vụ vua. 9 Vua hỏi họ: “Các ngươi bảo chúng ta phải trả lời thế nào với dân này, là những người đã nói với ta rằng: ‘Xin hãy làm cho nhẹ bớt cái ách mà phụ vương của vua đã đặt trên chúng tôi?’ ”
10 Những người trẻ lớn lên đồng thời với vua tâu: “Xin vua hãy nói với dân này, là những người đã nói với vua: ‘Phụ vương của vua đã bắt chúng tôi mang một ách nặng nề, bây giờ xin vua hãy làm cho ách chúng tôi được nhẹ bớt,’ thì vua hãy nói với họ rằng, ‘Ngón tay út của ta còn lớn hơn cái lưng của cha ta.’ 11 Này, nếu cha ta đã đặt một ách nặng nề trên các ngươi, thì ta sẽ chất thêm ách các ngươi nặng hơn nữa. Cha ta trừng phạt các ngươi bằng roi, nhưng ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp.”
12 Vậy ngày thứ ba Giê-rô-bô-am và toàn dân đến gặp Rô-bô-am, như lời vua đã nói: “Ba ngày sau hãy đến gặp ta.” 13 Vua đáp lời dân chúng cách xẳng xớm. Vua chẳng màng gì đến những lời khuyên của các đại thần cao niên. 14 Vua đáp với họ theo lời khuyên của những người trẻ: “Cha ta đã đặt một ách nặng nề trên các ngươi, ta sẽ chất thêm cho ách các ngươi nặng hơn nữa. Cha ta trừng phạt các ngươi bằng roi, nhưng ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp.”
15 Vậy vua chẳng nghe theo lời của dân, bởi vì đó là việc CHÚA khiến xảy ra, để làm ứng nghiệm lời của Ngài, mà Chúa đã cậy A-hi-gia, người ở Si-lô, nói với Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát.
16 Khi toàn dân Y-sơ-ra-ên thấy vua không nghe theo họ, thì dân chúng nói với vua:
“Chúng ta nào có phần gì với Đa-vít?
Chúng ta nào có hưởng được gì với con cháu của Y-sai.
Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy trở về trại mình.
Hỡi Đa-vít, từ nay khá giữ lấy nhà của ngươi.”
Vậy dân Y-sơ-ra-ên trở về trại của họ. 17 Nhưng Rô-bô-am trị vì trên những người Y-sơ-ra-ên đang cư ngụ trong các thành ở Giu-đa.
18 Khi vua Rô-bô-am sai A-đô-ram, quan chỉ huy việc cưỡng bách lao động, đến với dân chúng, thì dân Y-sơ-ra-ên ném đá ông chết. Vua Rô-bô-am liền vội vàng lên xe chạy trốn về Giê-ru-sa-lem. 19 Vậy Y-sơ-ra-ên đã làm loạn nghịch lại nhà Đa-vít cho đến ngày nay.
Giê-rô-bô-am Trị Vì Y-sơ-ra-ên
20 Khi cả dân Y-sơ-ra-ên nghe rằng Giê-rô-bô-am đã trở về, thì họ cho người mời ông đến với hội chúng và lập ông làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Không một ai đi theo nhà Đa-vít, ngoại trừ bộ tộc Giu-đa mà thôi.
Tiên Tri Sê-ma-gia
21 Khi Rô-bô-am đến Giê-ru-sa-lem, vua liền triệu tập toàn thể nhà Giu-đa và bộ tộc Bên-gia-min, được 180,000 tinh binh, để đánh lại nhà Y-sơ-ra-ên, nhằm tái lập vương quốc dưới quyền Rô-bô-am là con của Sa-lô-môn.
22 Nhưng có lời của Đức Chúa Trời đến với Sê-ma-gia, người của Đức Chúa Trời, rằng: 23 “Rô-bô-am, con của Sa-lô-môn, vua Giu-đa nói cùng toàn thể nhà Giu-đa, Bên-gia-min và toàn thể dân chúng: 24 ‘CHÚA phán như vầy: Các ngươi không được đi lên đánh anh em của các ngươi là dân Y-sơ-ra-ên. Mọi người hãy về nhà mình, vì việc này do Ta mà đến.’ ” Vậy họ nghe theo lời của CHÚA và trở về lại nhà mình, theo như lời của CHÚA đã dạy bảo.
Giê-rô-bô-am Lập Tượng Hai Bò Con Bằng Vàng
25 Khi ấy Giê-rô-bô-am xây cất thành Si-chem, trong miền đồi núi Ép-ra-im, và ở tại đó. Rồi từ đó vua đi ra xây cất thành Phê-nu-ên.
26 Đoạn Giê-rô-bô-am tự nhủ: “Như thế này thì vương quốc sẽ trở về lại với nhà Đa-vít thôi. 27 Vì nếu dân này cứ tiếp tục lên Giê-ru-sa-lem để dâng tế lễ trong đền thờ của CHÚA tại Giê-ru-sa-lem, thì lòng dân sẽ quay về với vua của họ là Rô-bô-am của Giu-đa. Họ sẽ giết ta và quay về với vua Rô-bô-am của Giu-đa.”
28 Vậy vua bàn luận và cho làm hai con bò con bằng vàng. Vua nói với dân chúng: “Các ngươi đi lên Giê-ru-sa-lem chi cho xa xôi. Hỡi Y-sơ-ra-ên, đây là các thần của các ngươi, là các thần đã đưa các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập.” 29 Vua đặt một con ở Bê-tên và con kia ở Đan. 30 Điều này đã trở thành một tội lỗi. Vì dân chúng đi đến tận Đan để thờ phượng trước con bò con ấy.
31 Vua cũng cho xây các đền miếu trên những nơi cao và bổ nhiệm các thầy tế lễ, là những người từ mọi thành phần trong dân, chứ không phải là các con cháu Lê-vi 32 Giê-rô-bô-am lập một ngày lễ, vào ngày mười lăm tháng tám, giống như ngày lễ ở Giu-đa, rồi vua đến dâng các sinh tế trên bàn thờ. Vua làm điều ấy tại Bê-tên, dâng sinh tế cho con bò con mà vua đã làm nên. Vua cũng đặt tại Bê-tên các thầy tế lễ cho các đền miếu trên những nơi cao mà vua đã xây cất. 33 Vua đi đến bàn thờ mà vua đã xây tại Bê-tên vào ngày mười lăm tháng tám, tức là tháng mà chính vua đã tự ý chỉ định. Vua lập một ngày lễ cho dân Y-sơ-ra-ên, rồi vua lên trước bàn thờ mà dâng hương.
Người Của Đức Chúa Trời Từ Giu-đa Đến
13 Do lời CHÚA sai bảo, một người của Đức Chúa Trời đi từ Giu-đa đến Bê-tên, nhằm lúc Giê-rô-bô-am đang đứng cạnh bàn thờ để dâng hương. 2 Theo lời CHÚA sai bảo, người ấy la lên chống lại bàn thờ rằng: “Hỡi bàn thờ! Bàn thờ! CHÚA phán như vầy: ‘Một con trai tên Giô-si-a sẽ được sinh ra cho nhà Đa-vít. Người ấy sẽ dâng trên ngươi sinh tế là những thầy tế lễ của các đền miếu trên những nơi cao, tức những kẻ đã dâng hương cho ngươi, và xương người sẽ được thiêu đốt trên ngươi.’ ” 3 Trong ngày ấy, người của Đức Chúa Trời cho một dấu lạ, mà rằng: “Đây là dấu lạ để chỉ rằng CHÚA đã phán bảo: ‘Bàn thờ sẽ bị nứt ra, và tro trên bàn thờ sẽ bị đổ xuống.’ ”
4 Khi vua nghe người của Đức Chúa Trời la lên chống lại bàn thờ ở Bê-tên, thì vua Giê-rô-bô-am từ bàn thờ giơ tay ra truyền: “Hãy bắt nó!” Nhưng cánh tay giơ ra chỉ vào người ấy liền bị khô cứng, không co lại được nữa. 5 Bàn thờ nứt ra, và tro trên bàn thờ đổ xuống, đúng y như dấu lạ mà người của Đức Chúa Trời đã vâng theo lời CHÚA truyền bảo.
6 Vua bèn nói với người của Đức Chúa Trời: “Bây giờ xin ông làm ơn cầu thay với CHÚA là Đức Chúa Trời của ông, xin ông cầu nguyện cho tôi để tay tôi được phục hồi trở lại.” Vậy người của Đức Chúa Trời cầu thay với CHÚA, và cánh tay của vua được phục hồi như trước.
7 Đoạn vua nói với người của Đức Chúa Trời: “Xin mời ông đến nhà tôi dùng bữa và tôi có món quà xin tặng ông.”
8 Nhưng người của Đức Chúa Trời nói với vua: “Dù vua có cho tôi đến nửa nước tôi cũng không đi với vua, tôi sẽ không ăn bánh hoặc uống nước ở nơi này. 9 Vì lời CHÚA đã truyền bảo tôi như thế: ‘Ngươi không được ăn bánh, hoặc uống nước, hoặc trở về bằng con đường mà ngươi đã đến.’ ” 10 Vậy người ấy ra về bằng con đường khác, không trở lại con đường mà người ấy đã đến Bê-tên.
Vị Tiên Tri Già Ở Bê-tên
11 Thuở ấy cũng có một vị tiên tri già đang sống tại Bê-tên. Các con trai của cụ về thuật lại cho cụ nghe mọi điều người của Đức Chúa Trời đã làm ngày hôm ấy tại Bê-tên; luôn cả những lời người ấy đã nói với vua, họ đều thuật lại cho cha họ nghe hết thảy. 12 Cha họ bảo họ: “Ông ấy đi đường nào?” Các con cụ chỉ cho cụ con đường mà người của Đức Chúa Trời từ Giu-đa đến đang trở về. 13 Cụ bảo các con: “Hãy thắng lừa cho cha.” Họ liền thắng lừa cho cụ và cụ lên cỡi. 14 Cụ đuổi theo người của Đức Chúa Trời và bắt kịp người ấy đang ngồi nghỉ dưới gốc cây sồi. Cụ hỏi: “Có phải ông là người của Đức Chúa Trời từ Giu-đa đến đấy chăng?”
Người ấy đáp: “Thưa chính tôi.”
15 Cụ nói: “Hãy về nhà với tôi và ăn chút bánh.”
16 Nhưng người ấy đáp: “Tôi không thể trở lại với cụ được. Tôi cũng không thể ăn bánh hay uống nước với cụ ở nơi này. 17 Vì lời CHÚA đã truyền cho tôi rằng: ‘Ngươi không được ăn bánh, hoặc uống nước, hoặc trở về bằng con đường mà ngươi đã đến.’ ”
18 Bấy giờ cụ nói: “Tôi cũng là một tiên tri như ông. Một thiên sứ đã phán với tôi lời của CHÚA rằng: ‘Hãy đem người ấy trở lại với ngươi, về nhà ngươi, để người ấy ăn bánh và uống nước.’ ” Nhưng cụ chỉ nói gạt ông ấy thôi. 19 Thế là người của Đức Chúa Trời trở lại với cụ, ăn bánh và uống nước trong nhà cụ.
20 Đang khi họ ngồi ở bàn ăn thì có lời của CHÚA đến với vị tiên tri đã đưa người kia trở lại. 21 Cụ nói lớn với người của Đức Chúa Trời đã đến từ Giu-đa rằng: “CHÚA phán như vầy: Bởi vì ngươi đã bất tuân lời CHÚA, không vâng giữ mạng lịnh mà CHÚA là Đức Chúa Trời của ngươi đã truyền cho ngươi. 22 Ngươi đã đi trở lại, ăn bánh và uống nước trong nơi mà Ngài đã bảo ngươi: ‘Không được ăn bánh và không được uống nước,’ cho nên thây của ngươi sẽ không được nằm chung trong hang mộ của tổ phụ ngươi.”
23 Sau khi người của Đức Chúa Trời dùng bữa xong, họ thắng con lừa của cụ tiên tri đã đem ông trở lại để ông cỡi đi về. 24 Ông ra đi chẳng bao lâu thì có một con sư tử ra đón ông ở dọc đường, giết chết ông, bỏ xác ông nằm bên đường; con lừa vẫn đứng bên cạnh, cả con sư tử cũng đứng bên xác chết nữa. 25 Có người đi ngang qua đó thấy xác người nằm bên đường, với con sư tử đứng bên cạnh, thì đi vào trong thành, là nơi cụ tiên tri già cư ngụ, thuật lại cho mọi người hay.
26 Khi vị tiên tri già là người đã đem vị tiên tri kia trở lại nghe thế thì bảo: “Đó là người của Đức Chúa Trời đã bất tuân lời CHÚA. Cho nên CHÚA đã phó ông ấy cho sư tử, sư tử đã vồ và giết chết ông ta y theo lời của CHÚA đã truyền cho ông.”
27 Cụ liền bảo các con: “Hãy thắng lừa cho cha.” Họ liền thắng lừa cho cụ. 28 Cụ ra đi và thấy xác người chết bên đường, với con lừa và con sư tử đứng bên cạnh. Con sư tử không ăn xác người chết và cũng không cắn xé con lừa. 29 Vị tiên tri già lấy xác của người Đức Chúa Trời, đặt trên lưng lừa, rồi đem về thành mình, để than khóc và chôn cất. 30 Cụ đặt xác người ấy vào hang mộ của chính mình. Người ta than khóc vị tiên tri ấy. Cụ khóc rằng: “Than ôi, người anh em hỡi!”
31 Sau khi chôn cất người ấy, cụ nói với các con mình: “Khi cha chết, các con hãy chôn cha trong hang mộ mà người của Đức Chúa Trời đã được chôn. Hãy để hài cốt cha nằm bên cạnh hài cốt người ấy. 32 Vì những lời người ấy vâng lịnh CHÚA nói nghịch lại bàn thờ ở Bê-tên, và nghịch lại các đền miếu trên những nơi cao trong các thành ở Sa-ma-ri, chắc chắn sẽ xảy ra.”
Tội Trọng Của Giê-rô-bô-am
33 Sau việc đó, Giê-rô-bô-am cũng không xây bỏ đường lối tội lỗi của mình, nhưng cứ tiếp tục bổ nhiệm những người từ mọi thành phần trong dân làm thầy tế lễ cho các đền miếu trên những nơi cao. Hễ ai muốn làm thầy tế lễ thì vua phong làm thầy tế lễ cho các đền miếu trên những nơi cao. 34 Việc này đã trở thành một tội trọng của nhà Giê-rô-bô-am, khiến cho họ sụp đổ và bị tuyệt diệt khỏi mặt đất.
Sự Đoán Phạt Nhà Giê-rô-bô-am
14 Khi ấy A-bi-gia, con trai của Giê-rô-bô-am bị bịnh, 2 Giê-rô-bô-am nói với vợ: “Bây giờ, bà hãy cải trang, để người ta không biết bà là vợ của Giê-rô-bô-am, rồi bà hãy đi đến Si-lô. Tiên tri A-hi-gia đang ở đó. Ông ấy là người đã nói trước cho tôi biết rằng tôi sẽ làm vua của dân này. 3 Bà hãy lấy mười ổ bánh, một ít bánh ngọt, và một hũ mật, rồi đi đến đó gặp ông ta. Ông ấy sẽ nói cho bà biết chuyện gì sẽ xảy đến cho con mình.” 4 Vậy vợ của Giê-rô-bô-am làm y như lời của chồng bà bảo. Bà chỗi dậy, đi đến Si-lô, vào nhà của A-hi-gia.
Lúc ấy cụ A-hi-gia không thấy được nữa, mắt cụ đã lòa, vì cớ tuổi già. 5 Nhưng CHÚA phán với cụ A-hi-gia: “Vợ của Giê-rô-bô-am đang đến để gặp ngươi đó. Bởi vì con nó đang bị bịnh. Ngươi hãy nói với nó thể này.”
Khi vợ của Giê-rô-bô-am đến, bà cải trang làm một người khác. 6 Nhưng khi nghe tiếng chân bà vừa bước vô cửa thì cụ nói: “Vào đây, hỡi vợ của Giê-rô-bô-am. Tại sao bà lại cải trang làm một người khác? Tôi được lệnh báo cho bà một tin buồn. 7 Hãy về, bảo Giê-rô-bô-am rằng: ‘CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta đã cất nhắc ngươi lên giữa vòng dân thường, lập ngươi làm lãnh tụ trên dân Y-sơ-ra-ên Ta. 8 Ta đã xé vương quốc của nhà Đa-vít mà ban cho ngươi, nhưng ngươi không giống như Đa-vít, tôi tớ Ta, là người đã vâng giữ các điều răn Ta, theo Ta hết lòng, và làm những điều ngay lành trước mắt Ta. 9 Ngươi đã làm điều tội ác hơn tất cả những người trước ngươi. Ngươi đã làm cho mình những thần khác, đúc tượng của chúng, chọc cho Ta giận, rồi vứt bỏ Ta ra sau lưng.
10 Vậy nên, Ta sẽ giáng họa xuống trên nhà Giê-rô-bô-am. Ta sẽ dứt bỏ khỏi gia đình Giê-rô-bô-am mọi người nam trong Y-sơ-ra-ên, dù tự do hay nô lệ. Ta sẽ thiêu hủy nhà Giê-rô-bô-am như người ta đốt phân, cho đến khi không còn lại gì nữa. 11 Kẻ nào thuộc về gia đình Giê-rô-bô-am chết trong thành sẽ bị chó ăn, kẻ nào chết ngoài đồng sẽ bị chim trời ăn. Vì CHÚA đã phán như vậy.’
12 Thôi, hãy đứng dậy mà về nhà ngươi đi. Khi ngươi bước chân vào thành thì con của ngươi sẽ chết. 13 Mọi người trong Y-sơ-ra-ên sẽ than khóc nó. Nó là người duy nhất trong gia đình Giê-rô-bô-am sẽ được chôn cất đàng hoàng. Bởi vì nó là người duy nhất trong gia đình Giê-rô-bô-am có chút gì đẹp lòng CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
14 Ngoài ra, ngày nay CHÚA sẽ dấy lên một người khác để làm vua trên Y-sơ-ra-ên, là người sẽ tiêu diệt gia đình Giê-rô-bô-am. Chẳng lẽ ngay bây giờ sao? Quả thật, ngay bây giờ. 15 CHÚA sẽ đánh phạt Y-sơ-ra-ên, như cây sậy bị dập vùi trong giòng nước. Ngài sẽ bứng gốc Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ tốt đẹp này, là xứ Ngài đã ban cho tổ phụ họ, và Ngài sẽ phân tán họ qua phía bên kia sông Ơ-phơ-rát. Bởi vì họ đã làm ra những trụ thờ nữ thần A-sê-ra, để chọc giận CHÚA. 16 Ngài sẽ bỏ Y-sơ-ra-ên vì những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, là những tội vua đã phạm và đã xui cho Y-sơ-ra-ên cùng phạm nữa.”
17 Vậy vợ của Giê-rô-bô-am đứng dậy và đi về. Bà về đến Tiệt-sa. Khi bà vừa bước chân qua ngạch cửa thì đứa trẻ chết. 18 Người ta chôn cất nó và toàn dân Y-sơ-ra-ên than khóc nó, đúng y như lời CHÚA đã phán qua tôi tớ Ngài là tiên tri A-hi-gia vậy.
19 Những việc khác của Giê-rô-bô-am làm, những cuộc chiến vua tham dự, những đường lối vua trị vì, đều được chép trong sách Sử Ký của các vua Y-sơ-ra-ên. 20 Giê-rô-bô-am trị vì được hai mươi hai năm; rồi vua an giấc cùng tổ phụ mình. Con trai vua là Na-đáp lên ngôi kế vị.
Rô-bô-am Trị Vì Giu-đa
21 Khi ấy Rô-bô-am, con của Sa-lô-môn trị vì Giu-đa. Rô-bô-am được bốn mươi mốt tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem, là thành CHÚA đã chọn trong các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên, để đặt danh Ngài tại đó. Mẹ của vua là bà Na-a-ma, người Am-môn.
22 Giu-đa làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Do những tội lỗi họ đã phạm, họ chọc giận Ngài hơn tất cả những gì tổ phụ họ đã làm. 23 Vì họ đã xây dựng cho mình các đền miếu trong những nơi cao, những trụ tượng bằng đá, những trụ thờ nữ thần trên mỗi đồi cao và dưới mỗi cây cổ thụ xanh rậm. 24 Trong xứ cũng có những đàn ông làm điếm để phục vụ trong các đền miếu đó. Chúng làm mọi sự gớm ghiếc của các dân mà CHÚA đã đuổi đi trước dân Y-sơ-ra-ên.
25 Trong năm thứ năm của triều đại vua Rô-bô-am, vua Si-sắc của Ai-cập lên đánh Giê-ru-sa-lem. 26 Vua ấy chiếm đoạt tất cả kho tàng trong đền thờ CHÚA và kho tàng trong cung điện nhà vua. Vua ấy đem đi tất cả, luôn cả những chiếc khiên dát vàng mà vua Sa-lô-môn đã làm. 27 Vậy Rô-bô-am đã làm những khiên bằng đồng để thay thế; rồi vua giao các khiên ấy cho những vị quan chỉ huy đội quân thị vệ canh gác cổng hoàng cung. 28 Mỗi khi vua đến đền thờ CHÚA, thì các thị vệ lấy các khiên ấy đi theo. Rồi sau đó họ đem đặt lại trong phòng của đội quân thị vệ.
29 Các việc khác của Rô-bô-am và tất cả những gì vua làm há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? 30 Giữa Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am có chiến tranh với nhau luôn. 31 Rô-bô-am an giấc với tổ phụ mình và được chôn với các tổ phụ vua trong thành Đa-vít. Mẹ của vua tên là Na-a-ma, người Am-môn. A-bi-giam, con trai vua, lên ngôi kế vị.
A-bi-giam Trị Vì Giu-đa
15 Vào năm thứ mười tám triều vua Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, A-bi-giam lên ngôi làm vua Giu-đa. 2 A-bi-giam trị vì được ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua là Ma-a-ca, con gái của A-bi-sa-lôm.
3 Vua phạm mọi tội lỗi mà trước đây vua cha đã phạm. Lòng của vua không trọn thành theo CHÚA, như Đa-vít, tổ phụ của vua. 4 Tuy nhiên, vì cớ Đa-vít, CHÚA là Đức Chúa Trời của vua ban cho vua một ngọn đèn ở Giê-ru-sa-lem, đặt con trai vua lên kế vị vua, và giữ cho Giê-ru-sa-lem đứng vững. 5 Vì Đa-vít đã làm những điều ngay lành trước mặt CHÚA, ngoại trừ vụ U-ri người Hê-tít, thì suốt đời vua, vua không bỏ qua một điều nào trong các mạng lịnh mà CHÚA đã truyền cho vua.
6 Cuộc chiến giữa Rô-bô-am và Giê-rô-bô-am vẫn tiếp diễn qua suốt triều đại của A-bi-giam. 7 Những việc khác của A-bi-giam và mọi việc vua làm há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Giữa A-bi-giam và Giê-rô-bô-am luôn có chiến tranh với nhau. 8 A-bi-giam an giấc với các tổ phụ mình và được chôn trong thành Đa-vít. A-sa, con trai vua, lên ngôi kế vị.
A-sa Trị Vì Giu-đa
9 Vào năm thứ hai mươi triều vua Giê-rô-bô-am của Y-sơ-ra-ên, A-sa lên ngôi làm vua của Giu-đa. 10 Vua trị vì bốn mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Bà nội của vua là Ma-a-ca, con gái của A-bi-sa-lôm.
11 A-sa làm điều ngay lành trước mặt CHÚA, giống như Đa-vít, tổ phụ vua đã làm. 12 Vua loại trừ những đàn ông làm điếm trong các đền miếu ra khỏi xứ, và dẹp bỏ tất cả những hình tượng mà cha ông của vua đã làm. 13 Vua cũng cách chức quốc mẫu của bà nội vua là Ma-a-ca, bởi vì bà có dựng một trụ thờ đáng gớm ghiếc cho nữ thần A-sê-ra. A-sa cho đập ngã trụ thờ đó xuống và đem thiêu rụi trong thung lũng Kít-rôn. 14 Nhưng vua không dỡ bỏ các đền miếu trên những nơi cao. Dầu vậy, lòng của A-sa luôn trọn thành với CHÚA suốt đời của vua. 15 Vua đem vào trong đền thờ CHÚA những vật thánh của vua cha và của chính vua đã dâng; ấy là bạc, vàng và các khí cụ.
16 Giữa A-sa và Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên, luôn có chiến tranh suốt thời trị vì của hai vua. 17 Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên, lên đánh Giu-đa, xây đắp thành Ra-ma, để không cho ai ra vào nước Giu-đa của vua A-sa được.
18 A-sa bèn lấy tất cả bạc và vàng còn lại trong đền thờ CHÚA và trong kho tàng hoàng gia trao cho các tôi tớ mình. Vua A-sa sai họ đến vua Bên Ha-đát, con của Táp-ri-môn, cháu Hê-xi-ôn, vua của A-ram, đang trị vì tại Đa-mách, mà nói rằng: 19 “Xin lập một hiệp ước giữa tôi và vua, giống như giữa phụ thân tôi và phụ thân vua. Kìa, tôi gởi đến vua những lễ vật gồm bạc và vàng. Bây giờ xin vua hãy hủy bỏ hiệp ước giữa vua với Ba-ê-sa, vua Y-sơ-ra-ên đi, để hắn rút khỏi nơi tôi.”
20 Bên Ha-đát nghe theo đề nghị của vua A-sa. Vua sai các tướng chỉ huy quân đội tiến đánh các thành của Y-sơ-ra-ên. Họ chiếm được I-giôn, Đan, A-bên Bết Ma-ca, cả vùng Ki-nê-rết, và toàn địa phận của Nép-ta-li. 21 Khi Ba-ê-sa nghe vậy, vua ngưng việc xây đắp Ra-ma mà rút về trấn thủ ở Tiệt-sa. 22 Vua A-sa liền truyền lịnh cho mọi người ở Giu-đa, không trừ một ai, đến khiêng đi tất cả đá và gỗ mà Ba-ê-sa định dùng để xây đắp Ra-ma. Vua A-sa dùng các vật liệu đó mà xây dựng Ghê-ba trong đất Bên-gia-min và Mích-ba.
23 Các công việc khác của A-sa, những thành quả của vua, mọi việc vua làm, những thành vua xây, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Khi vua về già, vua bị bịnh ở chân. 24 Vua A-sa an giấc với tổ phụ mình và được chôn với các tổ phụ vua trong thành Đa-vít. Giê-hô-sa-phát, con trai vua, lên ngôi kế vị.
Na-đáp Trị Vì Y-sơ-ra-ên
25 Na-đáp con trai Giê-rô-bô-am lên ngôi làm vua của Y-sơ-ra-ên vào năm thứ nhì của triều vua A-sa, vua Giu-đa. Na-đáp trị vì trên Y-sơ-ra-ên được hai năm. 26 Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi theo đường lối của cha vua đã làm và đi trong tội lỗi cha vua đã phạm và gây cho cả Y-sơ-ra-ên phạm theo nữa.
27 Ba-ê-sa, con trai A-hi-gia, thuộc bộ tộc I-sa-ca lập mưu làm phản vua. Trong khi Na-đáp và cả Y-sơ-ra-ên bao vây Ghi-bê-thôn, là thành thuộc dân Phi-li-tin, thì Ba-ê-sa đã hạ sát vua. 28 Vậy Ba-ê-sa giết Na-đáp vào năm thứ ba triều vua A-sa của Giu-đa, và lên ngôi thế vị.
29 Vừa khi lên ngôi xong, Ba-ê-sa ra lịnh tuyệt diệt mọi người trong gia đình Giê-rô-bô-am. Vua chẳng để trong dòng họ Giê-rô-bô-am một người nào sống sót, cho đến khi đã diệt hết, theo như lời CHÚA đã dùng tôi tớ Ngài là A-hi-gia, người Si-lô, phán trước. 30 Bởi vì những tội lỗi Giê-rô-bô-am đã phạm và đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm theo, và bởi vì vua đã chọc giận CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
31 Những việc khác của Na-đáp, và mọi việc vua làm, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? 32 Giữa A-sa và vua Ba-ê-sa của Y-sơ-ra-ên luôn có chiến tranh với nhau suốt thời trị vì của họ.
Ba-ê-sa Trị Vì Y-sơ-ra-ên
33 Vào năm thứ ba triều vua A-sa của Giu-đa, Ba-ê-sa con trai A-hi-gia, bắt đầu trị vì trên cả Y-sơ-ra-ên tại Tiệt-sa. Vua trị vì được hai mươi bốn năm. 34 Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi trong các đường lối của Giê-rô-bô-am, phạm tội lỗi vua ấy đã phạm và gây cho Y-sơ-ra-ên phạm theo.
Giê-hu Nói Trước Về Sự Sụp Đổ Của Triều Đại Ba-ê-sa
16 Có lời của CHÚA đến với Giê-hu, con trai Ha-na-ni nghịch lại Ba-ê-sa rằng: 2 “Vì Ta đã cất nhắc ngươi lên từ bụi đất và lập ngươi làm lãnh tụ của dân Y-sơ-ra-ên Ta, nhưng ngươi lại đi trong con đường của Giê-rô-bô-am, đã gây cho dân Y-sơ-ra-ên Ta phạm tội, chọc giận Ta bằng những tội lỗi của họ, 3 vậy nên, Ta sẽ hủy diệt Ba-ê-sa và nhà người. Ta sẽ làm cho nhà ngươi giống như nhà của Giê-rô-bô-am con trai Nê-bát. 4 Ai trong nhà Ba-ê-sa chết trong thành sẽ bị chó ăn, còn ai chết ngoài đồng sẽ bị chim trời ăn.”
5 Những việc khác của Ba-ê-sa, những thành đạt của vua, quyền thế của vua, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao? 6 Ba-ê-sa an giấc với các tổ phụ mình và được chôn tại Tiệt-sa. Ê-la, con trai vua, lên ngôi kế vị.
7 Lại có lời của CHÚA đến với tiên tri Giê-hu, con trai Ha-na-ni, nghịch lại Ba-ê-sa và nhà của vua, vì mọi điều tội lỗi mà vua đã phạm trước mặt CHÚA, chọc giận CHÚA bằng những việc vua làm, và trở nên giống như nhà Giê-rô-bô-am, và vì vua tiêu diệt nhà ấy.
Ê-la Trị Vì Y-sơ-ra-ên
8 Vào năm thứ hai mươi sáu triều vua A-sa của Giu-đa, Ê-la con trai Ba-ê-sa lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Ê-la trị vì tại Tiệt-sa được hai năm.
9 Xim-ri, bầy tôi của vua, là quan chỉ huy một nửa đạo quân có các xe chiến mã của vua, đã lập mưu làm phản. Vào năm thứ hai mươi bảy triều vua A-sa của Giu-đa, vua Ê-la đến nhà Ạt-sa, quan tổng quản hoàng cung tại Tiệt-sa, uống rượu và bị say khướt, 10 Xim-ri đi vào, đánh hạ và giết chết vua; rồi lên ngôi thế vị.
11 Vừa khi lên ngôi trị vì, vua Xim-ri giết tất cả mọi người trong nhà của Ba-ê-sa, chẳng chừa lại một người nam nào, dù là bà con hay bạn hữu. 12 Như thế Xim-ri đã tiêu diệt mọi người trong gia tộc của Ba-ê-sa, theo như lời của CHÚA đã phán qua tiên tri Giê-hu. 13 Ấy là vì tất cả tội lỗi của Ba-ê-sa và tội lỗi của Ê-la, con của vua, đã phạm và đã gây cho dân Y-sơ-ra-ên phạm theo, chọc giận CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên bằng sự thờ cúng những hình tượng vô dụng.
14 Những việc của Ê-la và mọi việc vua làm, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
Xim-ri Trị Vì Y-sơ-ra-ên
15 Vào năm thứ hai mươi bảy triều vua A-sa, vua Giu-đa, Xim-ri trị vì tại Tiệt-sa được bảy ngày. Lúc ấy quân Y-sơ-ra-ên đang bao vây Ghi-bê-thôn, thành của dân Phi-li-tin. 16 Đang khi quân binh bao vây thành thì nghe tin Xim-ri đã làm phản và đã giết chết vua, cả Y-sơ-ra-ên liền lập Ôm-ri, quan Tổng Binh, lên làm vua Y-sơ-ra-ên. 17 Ôm-ri và toàn quân Y-sơ-ra-ên bèn từ Ghi-bê-thôn kéo về bao vây Tiệt-sa. 18 Khi vua Xim-ri thấy hoàng thành bị bao vây thì rút vào pháo đài của hoàng cung, rồi phóng hỏa đốt cả hoàng cung, và chết thiêu trong đó. 19 Ấy là vì tội lỗi mà vua đã phạm, làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, đi theo con đường của Giê-rô-bô-am, chính vua đã phạm tội và gây cho dân Y-sơ-ra-ên phạm theo.
20 Những việc khác của Xim-ri và cuộc phản loạn vua làm, há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Y-sơ-ra-ên sao?
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)