Bible in 90 Days
16 Như thế, hôm ấy, toàn buổi lễ thờ phượng CHÚA được chuẩn bị chu đáo để cử hành lễ Vượt Qua và dâng tế lễ toàn thiêu trên bàn thờ CHÚA theo lệnh vua Giô-si-a. 17 Con dân Y-sơ-ra-ên hiện diện tại đó cử hành lễ Vượt Qua và giữ lễ Bánh Không Men trong bảy ngày. 18 Từ thời tiên tri Sa-mu-ên, chưa có lễ Vượt Qua nào được cử hành như thế trong Y-sơ-ra-ên; cũng chưa có vua Y-sơ-ra-ên nào đã cử hành lễ Vượt Qua như vua Giô-si-a cùng các thầy tế lễ, người Lê-vi, toàn thể người Giu-đa, người Y-sơ-ra-ên có mặt tại đó và dân cư thành Giê-ru-sa-lem đã làm. 19 Lễ Vượt Qua này được cử hành vào năm thứ mười tám dưới triều vua Giô-si-a.
20 Sau khi vua Giô-si-a làm mọi việc trùng tu đền thờ CHÚA, thì Nê-cô, vua Ai-cập kéo lên đánh Kạt-kê-mít bên bờ sông Ơ-phơ-rát. Vua Giô-si-a kéo ra đón người. 21 Vua Ai-cập sai sứ giả đến nói với vua Giô-si-a: “Vua Giu-đa, Ta và ngài có chuyện gì đâu? Hôm nay ta tiến quân không phải để tấn công ngài, nhưng tấn công nhà thù nghịch với ta; Đức Chúa Trời bảo ta hãy làm việc này nhanh lên, vậy đừng chống lại Đức Chúa Trời, Đấng đang ở với ta, nếu không Ngài sẽ hủy diệt ngươi.”
22 Nhưng vua Giô-si-a không chịu rút lui, vua ngụy trang và cứ tiến quân tấn công vua Ai-cập. Vua không chịu nghe lời Đức Chúa Trời cậy miệng vua Nê-cô nói, cứ tiến quân nghênh chiến tại đồng bằng Mê-ghi-đô. 23 Vua Giô-si-a bị tên bắn trúng; vua bảo những người hầu cận: “Hãy đem ta ra ngoài vì ta bị thương nặng.” 24 Những người hầu cận đem vua ra khỏi xe chiến mã, đặt trên một xe chiến mã khác rồi chở vua về Giê-ru-sa-lem và vua chết tại đó. Vua được chôn cất trong lăng cùng với tổ tiên mình. Toàn thể Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đều khóc thương vua Giô-si-a.
25 Giê-rê-mi đã sáng tác một bài ai ca khóc vua Giô-si-a. Ngày nay những người ca hát nam lẫn nữ đều hát bài ai ca khóc vua Giô-si-a và nó trở thành một truyền thống trong Y-sơ-ra-ên; này, nó cũng được ghi chép trong các bài ai ca. 26 Những công việc khác của vua Giô-si-a, sự sùng kính của vua theo như Kinh Luật của CHÚA; 27 kìa, những công việc của vua từ đầu đến cuối đều được chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.
Vua Giô-a-cha
36 Dân trong xứ tôn Giô-a-cha, con trai vua Giô-si-a lên làm vua kế vị vua cha tại Giê-ru-sa-lem.
2 Vua Giô-a-cha được hai mươi ba tuổi khi lên ngôi; vua trị vì ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. 3 Bấy giờ vua Ai-cập truất ngôi vua Giô-a-cha ở Giê-ru-sa-lem và bắt nước Giu-đa triều cống một trăm ta-lâng bạc[a] và một ta-lâng vàng.[b] 4 Vua Ai-cập lập Ê-li-a-kim, anh vua Giô-a-cha lên làm vua Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem và đổi tên người thành Giê-hô-gia-kim; vua Nê-cô cũng bắt vua Giô-a-cha đem về Ai-cập.
5 Vua Giê-hô-gia-kim lên ngôi lúc hai mươi lăm tuổi; người trị vì tại Giê-ru-sa-lem mười một năm; người làm điều ác trước mắt CHÚA, Đức Chúa Trời người. 6 Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn tấn công vua, bắt vua trói lại bằng xích đồng và dẫn về Ba-by-lôn. 7 Vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn cũng lấy các vật dụng trong đền thờ CHÚA đem về để trong cung mình ở Ba-by-lôn. 8 Những việc khác của vua Giê-hô-gia-kim, những việc ghê tởm người đã làm cùng những điều xấu về người, kìa chúng đều được chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Giê-hô-gia-kin, con trai vua lên ngôi kế vị.
9 Giê-hô-gia-kin lên ngôi làm vua khi được mười tám tuổi;[c] vua trị vì tại Giê-ru-sa-lem ba tháng mười ngày; vua làm điều ác trước mắt CHÚA. 10 Vào đầu năm sau, vua Nê-bu-cát-nết-sa sai người đến bắt, điệu vua về Ba-by-lôn cùng với những vật dụng quí giá trong đền thờ CHÚA. Vua cũng lập Sê-đê-kia, chú người lên làm vua Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem.
11 Vua Sê-đê-kia lên ngôi khi được hai mươi mốt tuổi; vua trị vì tại Giê-ru-sa-lem mười một năm. 12 Vua làm điều ác trước mắt CHÚA, Đức Chúa Trời mình và không khiêm nhường trước mặt tiên tri Giê-rê-mi, là người phán lời CHÚA. 13 Vua cũng phản nghịch chống lại vua Nê-bu-cát-nết-sa, người đã buộc vua nhân danh CHÚA tuyên thệ. Vua trở nên cứng cổ, lòng dạ chai đá, không chịu quay lại với CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 14 Hơn thế nữa, những thầy tế lễ lãnh đạo và dân chúng ngày càng trở nên bất trung, làm mọi điều ghê tởm như các nước chung quanh; họ làm ô uế đền thờ CHÚA, là đền thờ Ngài đã để riêng ra thánh tại Giê-ru-sa-lem.
Giê-ru-sa-lem Sụp Đổ
15 CHÚA, Đức Chúa trời của tổ phụ họ đã nhiều lần sai các sứ giả Ngài đến với chúng vì Ngài thương xót dân Ngài và nơi Ngài ngự. 16 Nhưng chúng nhạo báng các sứ giả của Đức Chúa Trời, khinh thường lời Chúa, chế giễu các tiên tri của Ngài, vì thế cơn thịnh nộ của CHÚA nổi lên trừng phạt dân chúng, không còn phương cứu chữa. 17 CHÚA cho vua Ba-by-lôn đến trừng phạt chúng; vua này dùng gươm giết những thanh niên trong Nơi Thánh; người không tha mạng thanh niên, thiếu nữ, người già, kẻ yếu ớt; Ngài trao tất cả chúng nó vào tay vua. 18 Vua lấy tất cả vật dụng lớn nhỏ trong đền thờ Đức Chúa Trời, các kho báu của đền thờ CHÚA, các kho báu của vua và của các quan, đem hết về Ba-by-lôn. 19 Quân Ba-by-lôn đốt đền thờ Đức Chúa Trời; phá hủy tường thành Giê-ru-sa-lem; thiêu đốt mọi cung điện và báu vật trong thành.
20 Những kẻ sống sót thoát nạn gươm đao, thì bị vua bắt đem qua Ba-by-lôn làm nô lệ cho vua và cho con cháu vua cho đến thời vương quốc Ba-tư tể trị. 21 Điều này xảy ra để ứng nghiệm lời CHÚA cậy tiên tri Giê-rê-mi phán rằng, xứ được hưởng bù những ngày Sa-bát, tức là trọn những ngày xứ sở bị hoang tàn, nó được nghỉ ngơi đến bảy mươi năm trọn.
22 Vào năm thứ nhất dưới triều Si-ru, vua Ba-tư; lời CHÚA cậy tiên tri Giê-rê-mi phán được ứng nghiệm. CHÚA tác động tâm trí Si-ru, vua Ba-tư, để vua công bố trên toàn vương quốc và bằng sắc chỉ rằng: 23 Vua Si-ru nước Ba-tư tuyên bố như vầy: “CHÚA, Đức Chúa Trời trên trời đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất và Ngài lập ta để xây cho Ngài một đền thờ tại Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa. Vậy ai trong vòng các ngươi là dân của Ngài, nguyện xin CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi ở cùng ngươi, hãy tiến lên.”
Chỉ Dụ Của Vua Si-ru
1 Năm thứ nhất đời Si-ru vua Ba-tư, để ứng nghiệm lời CHÚA phán qua Giê-rê-mi, [d] CHÚA cảm động lòng Si-ru vua Ba-tư ra sắc chỉ rao truyền khắp đế quốc như sau:
2 “Si-ru vua Ba-tư tuyên cáo: CHÚA, Đức Chúa Trời trên trời cao, đã ban cho ta tất cả các vương quốc trên đất này. Nay Ngài truyền ta xây đền thờ cho Ngài tại Giê-ru-sa-lem, trong xứ Giu-đa. 3 Giữa vòng các ngươi, bất cứ người nào thuộc về toàn thể dân sự Ngài, cầu xin Đức Chúa Trời người ấy ở cùng người, đều được phép trở về[e] Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa, xây lại đền thờ CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đức Chúa Trời ngự tại Giê-ru-sa-lem. 4 Dân bản xứ[f] nơi tất cả những người Giu-đa[g] còn sống sót cư trú, bất cứ nơi nào, phải tiếp tế bạc, vàng, của cải, và gia súc cho họ,[h] cùng với những tế lễ tự nguyện dâng hiến cho đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem.”
Sự Đáp Ứng Của Dân Giu-đa Bị Lưu Đày
5 Bây giờ, các trưởng tộc của Giu-đa và Bên-gia-min, các thầy tế lễ và người Lê-vi, hết thảy những người nào được Đức Chúa Trời cảm động, đều chuẩn bị đi về Giê-ru-sa-lem xây đền thờ CHÚA. 6 Tất cả những người lân cận đều tiếp trợ cho họ về mọi mặt, nào bạc, vàng, của cải, gia súc, và vô số những báu vật, chưa kể tất cả những lễ vật tự nguyện hiến dâng. 7 Vua Si-ru cũng trả lại những dụng cụ trong đền thờ CHÚA mà vua Nê-bu-cát-nết-sa đã đem ra khỏi Giê-ru-sa-lem về đặt trong miếu thần của vua. 8 Si-ru vua Ba-tư truyền cho Mít-rê-đát, quan trông coi ngân khố, đem các dụng cụ ấy ra kiểm kê và trao lại cho Sết-ba-xa, lãnh tụ Giu-đa.
9 Đây là bảng kiểm kê các dụng cụ ấy:
đĩa[i] vàng: 30
đĩa bạc: 1,000
đĩa bạc pha,[j] 29
10 chén vàng: 30
chén bạc loại hạng nhì,[k] 410
dụng cụ khác: 1,000
11 Tổng cộng số dụng cụ vàng và bạc là 5,400 món. Sết-ba-xa mang theo tất cả những dụng cụ ấy khi cùng đoàn người lưu đày từ Ba-by-lôn trở về Giê-ru-sa-lem.
Danh Sách Người Hồi Hương
2 Đây là những người trong tỉnh Giu-đa đã trở về từ giữa vòng những người phu tù bị lưu đày mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã đày qua Ba-by-lôn. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai nấy về thành mình. 2 Họ trở về cùng với Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, Sê-ra-gia, Rê-ê-la-gia, Mạc-đô-chê, Binh-san, Biệt-vai, Rê-hum, và Ba-a-na.
Đây là số những người nam trong Y-sơ-ra-ên.
3 Con cháu Pha-rốt: 2,172
4 con cháu Sê-pha-tia: 372
5 con cháu A-ra: 775
6 con cháu Pha-hát Mô-áp, nghĩa là con cháu của Giê-sua và Giô-áp: 2,812
7 con cháu Ê-lam: 1,254
8 con cháu Xát-tu: 945
9 con cháu Xác-cai: 760
10 con cháu Ba-ni: 642
11 con cháu Bê-bai: 623
12 con cháu A-gát: 1,222
13 con cháu A-đô-ni-cam: 666
14 con cháu Biết-vai: 2,056
15 con cháu A-đin: 454
16 con cháu A-te, nghĩa là con cháu Ê-xê-chia: 98
17 con cháu Bết-sai: 323
18 con cháu Giô-ra: 112
19 con cháu Ha-sum: 223
20 con cháu Ghi-ba: 95
21 người Bết-lê-hem: 123
22 người Nê-tô-pha: 56
23 người A-na-tốt: 128
24 người Ách-ma-vết: 42
25 người Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt: 743
26 người Ra-ma và Ghê-ba: 621
27 người Mích-ma: 122
28 người Bê-tên và A-hi: 223
29 người Nê-bô: 52
30 người Mác-bích: 156
31 con cháu Ê-lam khác: 1,254
32 con cháu Ha-rim: 320
33 người Lô-đơ, Ha-đi và Ô-nô: 725
34 người Giê-ri-cô: 345
35 người Sê-na: 3,630
36 Thầy tế lễ
con cháu Giê-đa-gia, thuộc gia tộc Giê-sua: 973
37 con cháu Y-mê: 1,052
38 con cháu Phát-hua: 1,247
39 con cháu Ha-rim: 1,017
40 Người Lê-vi:
con cháu Giê-sua và Cát-mi-ên,
nghĩa là con cháu Hô-đa-via: 74
41 Ca nhạc sĩ:[l]
con cháu A-sáp: 128
42 Người gác cổng:
con cháu
Sa-lum, A-te, Tanh-môn,
A-cúp, Ha-ti-ta, Sô-bai: 139
43 Người phục dịch đền thờ:
con cháu
Xi-ha, Ha-su-pha, Ta-ba-ốt,
44 Kê-rốt, Sia-ha, Pha-đôn,
45 Lê-ba-na, Ha-ga-ba, A-cúp,
46 Ha-gáp, Sâm-lai, Ha-nan,
47 Ghi-đên, Ga-ha-rơ, Rê-a-gia,
48 Rê-xin, Nê-cô-đa, Ga-xam,
49 U-xa, Pha-sê-a, Bê-sai,
50 A-sê-na, Mê-u-nim, Nê-phu-sim,
51 Bác-búc, Ha-khu-pha, Hát-hưa,
52 Bá-lút, Mê-hi-đa, Hát-sa,
53 Bát-cốt, Si-sê-ra, Tha-mác,
54 Nê-xia, Ha-ti-pha.
55 Con cháu những người nô lệ từ đời Sa-lô-môn:[m]
Con cháu
Sô-tai, Hạt-sô-phê-rết, Phê-ru-đa,
56 Gia-a-la, Đạt-côn, Ghi-đên,
57 Sê-pha-tia, Hát-tinh,
Bô-kê-rết Ha-xê-ba-im, A-mi.
58 Tổng cộng những người phục dịch đền thờ và con cháu những người nô lệ từ đời Sa-lô-môn: 392
59 Những người sau đây trở về từ Tên Mê-la, Tên Hát-sa, Kê-rúp, A-đan, và Y-mê, nhưng họ không thể chứng minh qua gia tộc hoặc dòng dõi rằng họ thuộc về dân sự Y-sơ-ra-ên;
60 con cháu Đê-la-gia, Tô-bi-gia, Nê-cô-đa: 652
61 Về phía những thầy tế lễ:
Con cháu
Hô-bai-gia, Ha-cốt, Bát-xi-lai (ông này cưới một trong những cô con gái của Bát-xi-lai, người Ga-la-át, nên người ta gọi ông theo tên cha vợ).
62 Những người này tìm tên họ trong danh sách những người đăng ký theo gia phả, nhưng không tìm được, nên bị kể là ô uế và truất khỏi chức tế lễ. 63 Quan tổng đốc cấm họ dùng thức ăn chí thánh cho đến khi nào có thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim cầu hỏi Đức Chúa Trời.[n]
64 Toàn thể hội chúng tổng cộng là 42,360 người. 65 Ngoài ra, có 7,337 nam nữ gia nhân và 200 nam nữ ca sĩ,[o] 66 736 con ngựa, 245 con la, 67 435 con lạc đà, và 6,720 con lừa.
68 Khi về đến đền thờ CHÚA tại Giê-ru-sa-lem, một số các trưởng tộc tự nguyện dâng hiến tài vật vào đền Đức Chúa Trời để dựng lại đền thờ trên nền cũ. 69 Tùy theo khả năng, họ dâng vào quỹ xây cất sáu mươi mốt ngàn đa-riếc[p] vàng, năm ngàn mi-na[q] bạc, và 100 bộ lễ phục cho các thầy tế lễ.
70 Các thầy tế lễ, người Lê-vi, và một số thường dân định cư tại Giê-ru-sa-lem,[r] còn những ca nhạc sĩ, những người gác cổng, và những người phục dịch đền thờ định cư trong thành mình. Vậy toàn thể dân Y-sơ-ra-ên định cư trong thành mình.
Lập Lại Sự Thờ Phượng
3 Đến tháng bảy, sau khi dân Y-sơ-ra-ên đã định cư trong thành mình, toàn[s] dân họp lại như một người tại Giê-ru-sa-lem. 2 Bấy giờ, Giê-sua, con trai Giô-xa-đác, cùng với các thầy tế lễ khác, và Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-anh-thi-ên, cùng anh em ông, khởi sự xây cất bàn thờ cho Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên để dâng tế lễ thiêu trên ấy, theo như đã chép trong Kinh Luật Môi-se, người của Đức Chúa Trời. 3 Họ dựng bàn thờ trên vị trí cũ, vì họ sợ dân trong vùng, và họ dâng tế lễ thiêu cho CHÚA trên bàn thờ ấy, dâng tế lễ thiêu buổi sáng và buổi chiều. 4 Họ cử hành lễ lều tạm, y như đã chép, và mỗi ngày, dâng tế lễ thiêu theo số quy định cho ngày ấy; 5 kế đến, họ dâng tế lễ thiêu thường lệ, tế lễ thiêu ngày trăng non, tế lễ thiêu trong tất cả những dịp lễ thánh của CHÚA, và tế lễ thiêu của mỗi người tự nguyện dâng hiến cho CHÚA. 6 Họ khởi sự dâng tế lễ thiêu cho CHÚA từ ngày mồng một tháng bảy, mặc dù lúc ấy nền đền thờ CHÚA chưa đặt.
Lễ Cung Hiến Nhân Dịp Đặt Nền Đền Thờ
7 Vậy họ trao bạc cho thợ đẽo đá và thợ thủ công, và cung cấp thức ăn, thức uống và dầu cho dân Si-đôn và dân Ty-rơ để chở gỗ bách hương từ Li-ban về cảng Gióp-bê bằng đường biển, theo chiếu chỉ Si-ru vua Ba-tư cấp cho họ.
8 Năm thứ hai sau khi họ về đến đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, vào tháng hai, Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-anh-thi-ên, và Giê-sua, con trai Giô-xa-đác, cùng với hết thảy anh em còn lại, những thầy tế lễ, người Lê-vi, và tất cả những phu tù trở về Giê-ru-sa-lem khởi sự xây cất.[t] Họ lập người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên giám sát công việc xây cất đền thờ CHÚA. 9 Giê-sua, các con trai và anh em ông, với Cát-mi-ên, Bin-nui, con trai Hê-na-đát, cùng con cháu và anh em họ, người Lê-vi, họp lại như một người giám sát những người làm công tác xây cất đền thờ Đức Chúa Trời.
10 Khi thợ xây cất đặt nền đền thờ CHÚA, những thầy tế lễ mặc lễ phục đứng thổi kèn, và những người Lê-vi, con cháu A-sáp, đánh chập chỏa, tôn vinh CHÚA, theo nghi thức Đa-vít vua Y-sơ-ra-ên quy định. 11 Họ hát đối đáp, tôn vinh và cảm tạ CHÚA:
“Thật Chúa thiện mỹ,
Tình yêu Ngài đối với Y-sơ-ra-ên bền vững muôn đời.”
Rồi toàn dân reo lớn tiếng tôn vinh CHÚA vì đã đặt xong nền cho đền thờ CHÚA.
12 Nhưng có nhiều thầy tế lễ, người Lê-vi, và trưởng tộc, những bậc lão thành đã từng thấy đền thờ trước kia trên nền cũ, đó chính thật là đền thờ theo mắt họ thì khóc lớn tiếng, trong khi nhiều người khác reo lớn tiếng vui mừng, 13 cho nên người ta không thể phân biệt tiếng reo vui với tiếng khóc, vì dân sự kêu lớn tiếng, từ xa vẫn nghe được.
Sự Chống Đối Dưới Triều Vua Si-ru
4 Khi kẻ thù của Giu-đa và Bên-gia-min nghe tin những người lưu đày trở về đang xây cất đền thờ CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, 2 họ đến thưa với Xô-rô-ba-bên và các trưởng tộc: “Xin cho chúng tôi xây cất chung với các ông, vì chúng tôi cũng tìm cầu Đức Chúa Trời các ông y như các ông, và chúng tôi vẫn dâng lễ vật cho Ngài từ ngày Ê-sa-ha-đôn vua A-si-ri đem chúng tôi đến đây.” 3 Nhưng Xô-rô-ba-bên, Giê-sua, và các trưởng tộc khác của Y-sơ-ra-ên đáp lời chúng: “Các ông không được dự phần với chúng tôi trong việc xây cất đền thờ Đức Chúa Trời chúng tôi, chỉ riêng chúng tôi có trách nhiệm xây cất đền thờ CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, theo như Si-ru vua Ba-tư ra lệnh cho chúng tôi.”
4 Vậy, dân trong vùng làm cho dân Giu-đa ngã lòng,[u] nhát sợ không dám xây cất nữa; 5 họ mua chuộc chính quyền[v] chống đối và phá hoại dự án xây cất của dân Giu-đa suốt thời gian còn lại dưới triều Si-ru vua Ba-tư cho đến thời Đa-ri-út làm vua Ba-tư.
Sự Chống Đối Dưới Triều Vua A-suê-ru Và Át-ta-xét-xe
6 Đến đời vua A-suê-ru, khi vua khởi sự trị vì, họ viết một bản cáo trạng tố dân cư Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
7 Dưới đời Át-ta-xét-xe, Bích-lam, Mít-rê-đát, Ta-bê-ên, và các cộng sự viên khác của ông[w] viết sớ tâu lên Át-ta-xét-xe, vua Ba-tư. Sớ viết bằng tiếng A-ram, và dịch ra cho vua.
8 Sau đây,[x] đại biểu triều đình Rê-hum và thư ký Sim-sai viết sớ chống đối Giê-ru-sa-lem tâu lên vua Át-ta-xét-xe, như sau: 9 đại biểu triều đình Rê-hum, bí thư Sim-sai, và các cộng sự viên khác, các vị thẩm phán và cộng sự giữa vòng[y] người Tạt-bên, người Ba-tư, người Ê-rết, người Ba-by-lôn, người Su-sa, tức là người Ê-lam, 10 và những sắc dân khác mà vua Ô-náp-ba[z] vĩ đại và cao trọng đưa đến lập nghiệp tại thành Sa-ma-ri và các nơi khác trong tỉnh phía tây sông.[aa]
11 Đây là bản sao tờ sớ họ trình lên vua:
“Tôi tớ vua, trong tỉnh phía tây sông, kính tâu vua Át-ta-xét-xe.
12 Giờ đây, chúng tôi xin tâu bệ hạ rõ những người Giu-đa từ nơi bệ hạ đi lên về hướng chúng tôi đã đến thành Giê-ru-sa-lem. Chúng đang xây lại thành phản loạn và độc ác này, và sắp sửa hoàn tất vách thành, còn nền móng đã xây xong.
13 Do đó, chúng tôi xin tâu bệ hạ rõ, nếu thành này xây xong, và vách thành hoàn tất, chúng sẽ không nạp cống, đóng thuế quan, thuế đất[ab] cho bệ hạ nữa, và hậu quả là thiệt hại cho ngân khố triều đình.[ac] 14 Vì chúng tôi hưởng lộc[ad] triều đình, chúng tôi không thể bàng quan chứng kiến cảnh bệ hạ bị xúc phạm[ae] như thế, nên chúng tôi dâng sớ tâu bệ hạ rõ, 15 xin bệ hạ cho truy cứu sách sử đời các vua cha. Trong sách sử, bệ hạ sẽ khám phá được và xác minh rằng thành này là một thành hay phản nghịch, chuyên gây thiệt hại cho các vua và các tỉnh. Dân thành đã từng dấy loạn từ xưa. Vì cớ đó mà thành này bị phá đổ hoang tàn. 16 Chúng tôi xin tâu bệ hạ rõ, nếu thành này xây xong, và vách thành hoàn tất, bấy giờ bệ hạ sẽ không còn phần đất nào bên phía tây sông nữa.”
17 Vua giáng chiếu phúc đáp:
“Gởi đại biểu triều đình Rê-hum, thư ký Sim-sai và các cộng sự viên khác đang sống tại Sa-ma-ri và các nơi khác trong tỉnh phía tây sông.
Chúc các khanh bình an.
18 Tờ sớ các khanh dâng lên đã đọc ra đúng nguyên văn[af] trước mặt ta. 19 Ta đã ra lệnh truy cứu và khám phá được rằng thành này từ xưa đã từng nổi dậy chống nghịch các vua. Phản nghịch và dấy loạn thường xuyên xảy ra trong thành. 20 Có những vua hùng mạnh cai trị Giê-ru-sa-lem và khắp cả vùng phía tây sông, và người ta đã từng nạp cống và đóng thuế quan, thuế đất cho các vua ấy. 21 Vì thế các khanh hãy ra lệnh cho các người đó ngưng việc xây cất thành này cho đến khi ta ban lệnh mới. 22 Các khanh hãy thận trọng, đừng chểnh mảng trong công tác này, kẻo việc này gây thiệt hại cho triều đình.”
23 Rê-hum, bí thư Sim-sai, và những cộng sự viên vừa nghe đọc xong bản sao tờ chiếu của vua Át-ta-xét-xe, liền hối hả đến Giê-ru-sa-lem, dùng cường quyền cưỡng bức người Do Thái đình chỉ việc xây cất.
24 Thế là công tác xây cất đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem đình lại, và đình trệ luôn cho đến năm thứ hai đời Đa-ri-út vua Ba-tư.
Tiếp Tục Xây Đền Thờ
5 Bấy giờ, tiên tri Ha-gai và tiên tri Xa-cha-ri, con trai Y-đô, rao truyền lời Chúa[ag] cho người Do Thái ở Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, trong danh Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng cầm quyền trên họ.[ah] 2 Ngay sau đó, Xô-rô-ba-bên, con trai Sa-anh-thi-ên, và Giê-sua, con trai Giô-xa-đác, khởi sự xây lại đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Các tiên tri của Đức Chúa Trời ở cùng họ và ủng hộ họ.
Thống Đốc Tạc-tê-nai Tâu Sớ Lên Vua Đa-ri-út
3 Lúc ấy, Tạc-tê-nai, thống đốc tỉnh phía tây sông, và Sê-ta-bô-xê-nai, cùng các cộng sự viên đến tra vấn họ như sau: “Ai cho phép các ông xây đền này và hoàn tất công việc lắp ráp vật liệu này?”[ai] 4 Chúng[aj] cũng hỏi thêm: “Những người xây cất đền này tên gì?” 5 Nhưng Đức Chúa Trời che chở[ak] các trưởng lão dân Giu-đa, nên chúng buộc họ đình việc trong khi chúng báo cáo lên vua Đa-ri-út và sau đó, nhận chiếu vua gửi xuống về vấn đề này.
6 Đây là bản sao tờ sớ mà Tạc-tê-nai, thống đốc tỉnh phía tây sông, và Sê-ta-bô-xê-nai, cùng các cộng sự viên, các thanh tra trong tỉnh phía tây sông, tâu lên vua Đa-ri-út. 7 Họ tâu lên vua bản báo cáo, trong đó có viết như sau: “Tâu vua Đa-ri-út, kính chúc vạn sự bình an! 8 Chúng tôi xin tâu bệ hạ rõ, chúng tôi có đến tỉnh Giu-đa, đến đền thờ của Đức Chúa Trời vĩ đại. Chúng tôi thấy các trưởng lão dân Do Thái[al] đang xây lại đền bằng đá đẽo và lắp gỗ vào tường. Công tác thi hành cách nghiêm túc và đang xúc tiến tốt đẹp.[am] 9 Kế đến, chúng tôi tra hỏi các trưởng lão này, chúng tôi hỏi họ như sau: ‘Ai cho phép các ông xây đền này, và hoàn tất công việc lắp ráp vật liệu này?’ 10 Chúng tôi cũng hỏi tên họ nhằm mục đích trình lên bệ hạ rõ tên những người lãnh đạo họ.
11 Và đây là lời họ đáp lại chúng tôi: ‘Chúng tôi là tôi tớ của Đức Chúa Trời, Chủ Tể trời và đất. Chúng tôi đang xây lại đền thờ đã được xây cất cách đây nhiều năm lắm rồi. Một vị vua vĩ đại của Y-sơ-ra-ên đã xây và hoàn tất đền thờ. 12 Các vị tổ tiên chúng tôi chọc giận Đức Chúa Trời trên trời, nên Ngài giao họ vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, người Canh-đê, vua Ba-by-lôn. Vua phá hủy đền thờ này và đày dân sự qua Ba-by-lôn.
13 Tuy nhiên, vào năm thứ nhất đời Si-ru, vua Ba-by-lôn, vua Si-ru ban chiếu chỉ xây lại đền thờ này của Đức Chúa Trời. 14 Ngoài ra, vua Si-ru cũng đem ra khỏi miếu ở Ba-by-lôn những dụng cụ bằng vàng và bạc trong đền thờ Đức Chúa Trời, mà Nê-bu-cát-nết-sa đã đem ra khỏi đền thờ tại Giê-ru-sa-lem và đem về miếu ở Ba-by-lôn. Vua Si-ru giao trả những dụng cụ ấy cho một người tên Sết-ba-xa mà vua lập lên làm tổng trấn.’ 15 Vua truyền bảo ông: ‘Hãy đem các dụng cụ này về đặt trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, và xây lại đền thờ Đức Chúa Trời tại vị trí cũ.’ 16 Chính ông Sết-ba-xa ấy đến đặt nền đền thờ Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Từ đấy đến nay, đền thờ vẫn được xây cất, nhưng chưa hoàn tất. 17 Vậy bây giờ, nếu bệ hạ đẹp lòng, kính xin bệ hạ cho truy cứu trong văn khố[an] tại triều đình, tại đây, ở Ba-by-lôn, xem vua Si-ru có ban chiếu chỉ xây cất đền thờ này của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem không. Kính xin bệ hạ cho chúng tôi biết tôn ý trong vấn đề này.”
Tìm Lại Được Chỉ Dụ Của Vua Si-ru
6 Bấy giờ, vua Đa-ri-út ra lệnh truy cứu trong văn khố, nơi lưu trữ các văn kiện quý,[ao] tại Ba-by-lôn. 2 Nhưng chính tại trong thành lũy Éc-ba-tan, thuộc tỉnh Mê-đi, người ta mới tìm thấy một cuốn da,[ap] trong đó có ghi chép như sau: “Điều cần nhớ. 3 Năm thứ nhất đời vua Si-ru, vua Si-ru ban sắc lệnh về đền Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Phải xây lại đền ngay tại[aq] nơi người ta thường dâng lễ vật, và phải đắp cho vững chắc nền cũ của đền. Chiều cao đền là sáu mươi am-ma,[ar] chiều rộng sáu mươi am-ma, 4 với ba dãy đá đẽo và một dãy xà gỗ. Phí tổn do ngân khố triều đình đài thọ. 5 Ngoài ra, phải trả lại các dụng cụ bằng vàng và bạc trong đền thờ Đức Chúa Trời mà Nê-bu-cát-nết-sa đã đem ra khỏi đền tại Giê-ru-sa-lem và mang về Ba-by-lôn. Phải đem các dụng cụ ấy về đền tại Giê-ru-sa-lem, đặt mỗi dụng cụ vào chỗ riêng của nó trong đền Đức Chúa Trời.”
Vua Đa-ri-út Ra Chỉ Thị Cho Tạc-tê-nai Về Việc Xây Đền Thờ
6 “Vậy, bây giờ, Tạc-tê-nai, thống đốc tỉnh phía tây sông, Sê-ta-bô-xê-nai, và các thanh tra cộng sự viên của các người trong tỉnh phía tây sông, hãy tránh xa nơi đó. 7 Hãy để yên công tác xây cất đền này của Đức Chúa Trời. Hãy để tổng trấn dân Do Thái và các trưởng lão dân Do Thái xây lại đền của Đức Chúa Trời tại vị trí cũ.
8 Ta cũng ban hành sắc lệnh về điều các ngươi cần phải làm cho các trưởng lão của dân Do Thái đối với công tác xây cất đền của Đức Chúa Trời: Phải dùng số thu nhập của triều đình từ các phần công thuế trong tỉnh phía tây sông mà trả đầy đủ mọi chi phí cho các người này, để công việc khỏi bị đình trệ.[as] 9 Bất cứ điều chi họ cần, như là bò tơ đực, cừu đực, hoặc cừu con, dê dâng tế lễ thiêu cho Đức Chúa Trời trên trời, hoặc lúa mì, muối, rượu, và dầu, thể theo lời yêu cầu của các thầy tế lễ tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi phải cung cấp cho họ hằng ngày, không thiếu chi hết, 10 để họ dâng lễ vật vừa ý Đức Chúa Trời trên trời, và cầu nguyện cho vua và các hoàng tử được sống lâu.[at]
11 Ta cũng ban lệnh, nếu ai vi phạm[au] chiếu chỉ này, phải rút một cây đòn tay từ nhà hắn ra, đâm thẳng đứng vào người hắn, và nhà hắn sẽ bị tịch thu vì cớ tội ấy.[av] 12 Cầu xin Đức Chúa Trời, là Đấng khiến danh Ngài ngự tại đây, lật đổ vua nào hoặc dân tộc nào liều lĩnh[aw] vi phạm sắc lệnh hoặc[ax] phá hủy đền thờ này của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Ta, Đa-ri-út, ban hành sắc lệnh này. Mỗi người phải chấp hành triệt để.”
Lễ Cung Hiến Đền Thờ
13 Tạc-tê-nai, thống đốc tỉnh phía tây sông, Sê-ta-bô-xê-nai, và các cộng sự viên triệt để thi hành sắc lệnh vua Đa-ri-út ban xuống. 14 Vậy các trưởng lão dân Do Thái tiếp tục xây cất. Công việc tiến triển tốt đẹp nhờ sự rao truyền lời Chúa của tiên tri Ha-gai và tiên tri Xa-cha-ri, con trai Y-đô. Họ hoàn tất công việc xây cất theo mệnh lệnh Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và theo chiếu chỉ của Si-ru, Đa-ri-út, và Át-ta-xét-xe, vua Ba-tư. 15 Đền thờ cất xong vào ngày 23[ay] tháng A-đa, trong năm thứ sáu đời vua Đa-ri-út.
16 Dân Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ, những người Lê-vi, và hết thảy những người lưu đày khác hồi hương vui mừng tổ chức lễ khánh thành đền thờ Đức Chúa Trời. 17 Trong dịp lễ khánh thành đền thờ của Đức Chúa Trời, họ dâng 100 bò đực, 200 cừu đực, 400 cừu con, và, tùy theo số các bộ tộc Y-sơ-ra-ên, mười hai dê đực làm tế lễ chuộc tội cho toàn dân Y-sơ-ra-ên. 18 Họ lập các thầy tế lễ theo từng ban, và những người Lê-vi theo từng ngành để phục vụ đền thờ[az] Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, y như có chép trong Kinh Luật Môi-se.
Lễ Vượt Qua Trọng Thể
19 Ngày 14 tháng giêng, những người lưu đày hồi hương giữ lễ Vượt Qua, 20 vì các thầy tế lễ đã dọn mình thánh sạch, và toàn thể những người Lê-vi cũng đồng lòng dọn mình thánh sạch. Họ giết cừu con lễ Vượt Qua cho tất cả những người lưu đày hồi hương, cho anh em họ là thầy tế lễ, và cho chính họ. 21 Những người ăn lễ Vượt Qua là dân Y-sơ-ra-ên lưu đày hồi hương cùng với hết thảy những người nào đã biệt mình riêng ra khỏi sự ô uế của dân địa phương để tìm cầu CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 22 Họ cũng vui mừng giữ lễ bánh không men trong bảy ngày, vì Đức Chúa Trời ban niềm vui cho họ, Ngài đổi lòng vua A-si-ri đối với họ, khiến vua giúp đỡ họ trong công tác xây cất đền thờ CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
Sứ Mệnh Của Ê-xơ-ra
7 Sau các việc ấy, nhằm đời Át-ta-xét-xe, vua Ba-tư, có Ê-xơ-ra, là con trai Sê-ra-gia, Sê-ra-gia con trai A-xa-ria, A-xa-ria con trai Hinh-kia, 2 Hinh-kia con trai Sa-lum, Sa-lum con trai Xa-đốc, Xa-đốc con trai A-hi-túp, 3 A-hi-túp con trai A-ma-ria, A-ma-ria con trai A-xa-ria, A-xa-ria con trai Mê-ra-giốt, 4 Mê-ra-giốt con trai Xê-ra-hi-gia, Xê-ra-hi-gia con trai U-xi, U-xi con trai Bu-ki, 5 Bu-ki con trai A-bi-sua, A-bi-sua con trai Phi-nê-a, Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-sa, Ê-lê-a-sa con trai A-rôn, thầy tế lễ đầu tiên.[ba] 6 Chính Ê-xơ-ra này trở về[bb] từ Ba-by-lôn. Ông là một học giả, thông thạo Kinh Luật Môi-se do CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ban truyền. Nhờ CHÚA, là Đức Chúa Trời của ông, phù hộ,[bc] nên vua ban cho ông mọi điều ông thỉnh cầu.
7 Một số thường dân Y-sơ-ra-ên, một số thầy tế lễ, người Lê-vi, ca nhạc sĩ, người gác cổng, và người phục dịch đền thờ cùng trở lên Giê-ru-sa-lem trong năm thứ bảy đời vua Át-ta-xét-xe. 8 Ê-xơ-ra[bd] về đến Giê-ru-sa-lem vào tháng năm, trong năm thứ bảy triều vua, 9 vì ông đã ấn định chuyến đi khởi hành từ Ba-by-lôn vào ngày mồng một tháng giêng, và ông về đến Giê-ru-sa-lem vào ngày mồng một tháng năm, nhờ Đức Chúa Trời nhân từ của ông phù hộ. 10 Thật vậy, Ê-xơ-ra chuyên tâm nghiên cứu và thực hành luật pháp CHÚA, cũng như dạy dỗ đạo luật và quy chế Ngài cho dân Y-sơ-ra-ên.
Chỉ Dụ Của Vua Át-ta-xét-xe
11 Đây là bản sao chiếu chỉ vua Át-ta-xét-xe ban cho Ê-xơ-ra, thầy tế lễ và học giả thông thạo những vấn đề liên quan đến điều răn và đạo luật CHÚA truyền cho Y-sơ-ra-ên.
12 Át-ta-xét-xe, vua các vua, gởi cho Ê-xơ-ra, thầy tế lễ và học giả thông thạo luật pháp của Đức Chúa Trời trên trời, Chúa bình an.[be]
13 Và giờ đây, ta ban hành sắc lệnh, bất kỳ ai trong vương quốc ta, dù là thường dân Y-sơ-ra-ên, hoặc thầy tế lễ, hoặc người Lê-vi, tình nguyện trở về Giê-ru-sa-lem với người, đều được phép trở về, 14 vì vua và bảy vị quân sư sai người đi điều tra về tình hình Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, dựa theo luật pháp của Đức Chúa Trời mà người thông thạo.[bf] 15 Người phải đem theo bạc và vàng mà vua và các quân sư tình nguyện hiến dâng cho Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng lập nơi ngự Ngài tại Giê-ru-sa-lem, 16 cùng với hết thảy bạc vàng mà người thu thập được trong cả tỉnh Ba-by-lôn, luôn cả lễ vật mà dân sự và thầy tế lễ tình nguyện dâng hiến cho đền thờ Đức Chúa Trời họ tại Giê-ru-sa-lem. 17 Kế đến, ngươi hãy dùng tiền ấy mua đầy đủ bò đực, cừu đực và cừu con, cùng lễ vật bằng ngũ cốc và rượu tương xứng đem dâng trên bàn thờ trong đền thờ Đức Chúa Trời các ngươi tại Giê-ru-sa-lem.
18 Bạc vàng còn lại, ngươi và anh em ngươi được phép sử dụng theo ý các ngươi cho là tốt nhất, hợp với ý Đức Chúa Trời các ngươi. 19 Về phần các dụng cụ đã giao cho ngươi để dùng vào sự thờ phượng trong đền thờ Đức Chúa Trời ngươi, ngươi hãy hoàn lại đầy đủ trước mặt Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. 20 Còn những gì cần thiết khác cho đền thờ Đức Chúa Trời ngươi, mà ngươi có trách nhiệm cung cấp, ngươi được phép sử dụng ngân khố triều đình để cung cấp.
21 Ta, vua Át-ta-xét-xe, ra sắc lệnh truyền cho các giám đốc ngân khố tỉnh phía tây sông: Bất kỳ điều gì Ê-xơ-ra, thầy tế lễ và học giả thông thạo luật của Đức Chúa Trời trên trời, cần nơi các ngươi, các ngươi hãy cung cấp đầy đủ, 22 cho đến tối đa 100 ta-lâng[bg] bạc, 100 cô-rơ[bh] lúa mì, 100 bát[bi] rượu, 100 bát dầu, còn muối, không hạn chế.[bj]
23 Bất cứ điều gì Đức Chúa Trời trên trời truyền dạy, các ngươi hãy thực hiện chu đáo[bk] cho đền của Đức Chúa Trời trên trời, e tai họa[bl] giáng xuống vương quốc của vua và các hoàng tử. 24 Ta cũng truyền cho các ngươi biết rõ, các ngươi không được phép buộc bất cứ thầy tế lễ hoặc người Lê-vi, ca nhạc sĩ, người gác cổng, người phục dịch đền thờ, hoặc những người khác phục vụ trong đền thờ này của Đức Chúa Trời, nộp cống hoặc đóng thuế quan, thuế đất gì cả.
25 Còn ngươi, Ê-xơ-ra, theo sự khôn ngoan Đức Chúa Trời ban cho ngươi, hãy chỉ định thẩm phán, và viên chức[bm] để xét xử toàn dân trong tỉnh phía tây sông, nghĩa là toàn thể những người nào biết luật lệ của Đức Chúa Trời ngươi, còn những người nào không biết thì các ngươi phải dạy cho họ. 26 Có ai bất tuân luật Đức Chúa Trời và luật vua, phải xử trị nghiêm khắc,[bn] bằng án tử hình, nhục hình,[bo] tịch biên tài sản, hoặc giam cầm.
27 Ngợi khen CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên tôi, Ngài đã đặt vào lòng vua ý muốn sửa sang cho đẹp đền thờ CHÚA tại Giê-ru-sa-lem, 28 và cho tôi được lòng vua,[bp] các quân sư, và hết thảy các quan chức quyền thế của vua. Về phần tôi, nhờ CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, phù hộ, nên tôi thu hết can đảm triệu tập những người lãnh đạo giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên để cùng tôi hồi hương.[bq]
Danh Sách Những Người Hồi Hương Cùng Lúc Với Ê-xơ-ra
8 Đây là tên và gia phả các trưởng tộc cùng trở về với tôi từ Ba-by-lôn, dưới đời vua Át-ta-xét-xe:
2 Ghẹt-sôn, thuộc con cháu Phi-nê-a; Đa-ni-ên, thuộc con cháu Y-tha-ma; Hát-túc, con trai Sê-ca-nia, thuộc con cháu Đa-vít;
3 Xa-cha-ri, thuộc con cháu Pha-rốt; có 150 người nam ghi danh cùng với Xa-cha-ri;
4 Ê-li-ô-ê-nai, con trai Xê-ra-hi-gia, thuộc con cháu Pha-hát Mô-áp; cùng với Ê-li-ô-ê-nai có 200 người nam;
5 Sê-ca-nia, con trai Gia-ha-xi-ên, thuộc con cháu Xát-tu;[br] cùng với Sê-ca-nia có 300 người nam;
6 Ê-bết, con trai Giô-na-than, thuộc con cháu A-đin; cùng với Ê-bết có 50 người nam;
7 Giê-sai-gia, con trai A-tha-li, thuộc con cháu Ê-lam; cùng với Giê-sai-gia có 70 người nam;
8 Xê-ba-đia; con trai Mi-ca-ên, thuộc con cháu Sê-pha-tia; cùng với Xê-ba-đia có 80 người nam;
9 Ô-ba-đia, con trai Giê-hi-ên, thuộc con cháu Giô-áp, cùng với Ô-ba-đia có 218 người nam;
10 Sê-lô-mốt, con trai Giô-si-phia, thuộc con cháu Ba-ni; cùng với Sê-lô-mốt có 160 người nam;
11 Xa-cha-ri, con trai Bê-bai, thuộc con cháu Bê-bai; cùng với Xa-cha-ri có 28 người nam;
12 Giô-ha-nan, con trai Ha-ca-tan, thuộc con cháu A-gát; cùng với Giô-ha-nan có 110 người nam;
13 Ê-li-phê-lết, Giê-i-ên, và Sê-ma-gia, những người cuối cùng thuộc con cháu A-đô-ni-cam; cùng với họ có 60 người nam;
14 U-thai, con trai Xáp-bút, thuộc con cháu Biệt-vai; cùng với U-thai có 70 người nam.
Tuyển Mộ Người Lê-vi
15 Tôi tập họp họ bên bờ kinh chảy về A-ha-va; chúng tôi cắm trại tại đây trong ba ngày. Khi tôi kiểm điểm nhân số, thấy chỉ có thường dân và thầy tế lễ, còn người Lê-vi, không thấy ai tại đây cả. 16 Vậy tôi cho mời các nhà lãnh đạo Ê-li-ê-se, A-ri-ên, Sê-ma-gia; En-na-than, Gia-ríp, En-na-than, Na-than, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam, và các giáo sư Giô-gia-ríp và Ên-na-than. 17 Tôi cử họ đến gặp Y-đô, một nhà lãnh đạo tại nơi gọi là Ca-si-phia, và tôi dạy họ[bs] truyền cho Y-đô, anh em ông, và những người phục dịch đền thờ gửi đến cho chúng tôi những người phục vụ đền thờ Đức Chúa Trời chúng tôi. 18 Nhờ Đức Chúa Trời nhân từ chúng tôi phù hộ, họ gửi đến chúng tôi một người tài giỏi, thuộc con cháu Mách-li, con Lê-vi, cháu Y-sơ-ra-ên, tên là Sê-rê-bia, cùng với các con trai ông và anh em ông; cả thảy 18 người; 19 họ cũng gửi Ha-sa-bia, và cùng với ông, Giê-sai-gia, thuộc con cháu Mê-ra-ri, với anh em ông và các con trai họ, cả thảy 20 người; 20 còn những người phục dịch đền thờ mà Đa-vít và quần thần lập lên phụ tá người Lê-vi, có 220 người phục dịch đền thờ, cả thảy đều có tên ghi trong danh sách.
Chuẩn Bị Lên Đường
21 Tại đây, bên kinh A-ha-va, tôi rao truyền kiêng ăn để chúng tôi hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời chúng tôi, và cầu xin Ngài cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và mọi tài sản chúng tôi đi đường bình an; 22 thật vậy, tôi xấu hổ không dám xin vua cho quân đội và kỵ binh theo hộ tống để bảo vệ chúng tôi khỏi kẻ thù lúc đi đường, vì chúng tôi có tâu với vua: “Đức Chúa Trời chúng tôi phù hộ mọi người tìm cầu Ngài, nhưng cơn phẫn nộ mãnh liệt của Ngài giáng xuống mọi người từ bỏ Ngài.” 23 Vì thế, chúng tôi kiêng ăn và tìm cầu Đức Chúa Trời chúng tôi về điều ấy, và Ngài đáp lời khẩn xin của chúng tôi.
24 Kế đó, trong số các thầy tế lễ lãnh đạo, tôi để riêng mười hai người, cùng với Sê-rê-bia và Ha-sa-bia, và mười người trong vòng các anh em họ. 25 Tôi cân và trao cho họ bạc, vàng, các dụng cụ, là lễ vật mà vua, các quân sư, và quần thần vua, và hết thảy dân Y-sơ-ra-ên hiện diện lúc bấy giờ dâng cho đền thờ Đức Chúa Trời chúng tôi. 26 Tôi cân và trao cho họ cất giữ[bt] sáu trăm năm mươi ta-lâng bạc,[bu] 100 dụng cụ bạc nặng… một trăm ta-lâng[bv] vàng, 27 20 chén vàng trị giá 1,000 đa-riếc, và hai dụng cụ bằng đồng tốt bóng ngời, quý như vàng.
28 Tôi nói với họ: “Các ông là người biệt riêng ra cho CHÚA, các dụng cụ cũng được biệt riêng ra, còn bạc vàng là lễ vật tự nguyện dâng hiến cho CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta.[bw] 29 Xin các ông cất giữ cẩn thận cho đến khi các ông cân lại các lễ vật này trước mặt các thầy tế lễ lãnh đạo, người Lê-vi, và các trưởng tộc dân Y-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem, trong kho đền thờ CHÚA.” 30 Vậy các thầy tế lễ và người Lê-vi nhận số lượng bạc, vàng và dụng cụ để mang về Giê-ru-sa-lem, về đền thờ Đức Chúa Trời chúng tôi.
Về Đến Giê-ru-sa-lem An Toàn
31 Ngày 12 tháng giêng, chúng tôi khởi hành từ kinh A-ha-va lên đường về Giê-ru-sa-lem. Đức Chúa Trời chúng tôi phù hộ chúng tôi và giải cứu chúng tôi khỏi tay kẻ thù rình rập dọc đường. 32 Chúng tôi về đến Giê-ru-sa-lem, và nghỉ ngơi[bx] 33 Qua ngày thứ tư, chúng tôi cân bạc, vàng, và các dụng cụ trong đền thờ Đức Chúa Trời chúng tôi và giao cho Mê-rê-mốt, con trai thầy tế lễ U-ri-gia, cất giữ. Cũng có mặt Ê-lê-a-sa, con trai Phi-nê-a, và những người Lê-vi, Giô-xa-bát, con trai Giê-sua, và Nô-a-đia, con trai Bin-nui. 34 Chúng tôi đếm và cân từng món cho đến hết,[by] và ghi chép tổng số trọng lượng ngay lúc ấy.
35 Những người lưu đày hồi hương dâng tế lễ thiêu cho Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên gồm có 12 bò đực cho toàn dân Y-sơ-ra-ên, 96 cừu đực, 72[bz] cừu con, và 12 dê đực làm lễ vật chuộc tội. Tất cả là tế lễ thiêu dâng lên cho CHÚA. 36 Họ cũng truyền lệnh vua lại cho các viên chức triều đình trong tòa thống đốc và các tổng trấn trong tỉnh phía tây sông; vì thế, những người này hỗ trợ dân chúng và đền thờ Đức Chúa Trời.
Khủng Hoảng Giữa Cộng Đồng: Hôn Nhân Ngoại Tộc
9 Khi các việc ấy xong rồi, các nhà lãnh đạo đến nói với tôi: “Dân Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ, và người Lê-vi không có sống tách biệt khỏi dân địa phương, là dân có những tập tục ghê tởm như tập tục của dân Ca-na-an, Hết, Phê-rết, Giê-bút, Am-môn, Mô-áp, Ai-cập, và A-mô. 2 Họ cưới con gái địa phương cho chính mình hoặc con mình làm vợ, cho nên dòng giống thánh pha trộn với dân địa phương. Hơn nữa, những người đầu tiên phạm tội bất trung này lại là các nhà lãnh đạo và quan chức.”
3 Nghe tin ấy, tôi xé cả áo trong lẫn áo ngoài,[ca] 4 Tất cả những người nào run sợ khi nghe lời của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên từ từ họp lại chung quanh tôi vì cớ tội bất trung của những người lưu đày hồi hương. Tôi tiếp tục ngồi bàng hoàng cho đến giờ dâng tế lễ thiêu buổi chiều.
Ê-xơ-ra Cầu Nguyện Xưng Tội
5 Đến giờ dâng tế lễ thiêu buổi chiều, tôi đứng dậy khỏi nơi tôi ngồi bàng hoàng chịu khổ nhục,[cb] người vẫn còn mặc bộ áo xé rách khi trước, tôi quỳ xuống, dang tay hướng về CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, 6 và thưa cùng CHÚA:
“Lạy Đức Chúa Trời, con xấu hổ và nhục nhã quá, không dám ngước mặt lên về phía Ngài, ôi lạy Đức Chúa Trời, vì tội chúng con chất ngập đầu, và lỗi chúng con lên đến tận trời. 7 Từ đời tổ tiên chúng con cho đến ngay chính hôm nay, chúng con đã sống trong tội lỗi đầy dẫy. Vì cớ sự gian ác của chúng con nên chúng con, các vua và thầy tế lễ của chúng con đều bị phó vào tay các vua nước ngoài, phó cho gươm dao; tù đày, cướp bóc, và sỉ nhục, như tình cảnh hiện nay.
8 Nhưng bây giờ, CHÚA, Đức Chúa Trời chúng con, ban ơn cho chúng con trong một thời gian ngắn: Ngài chừa lại cho chúng con một số người sống sót hồi hương, và ban cho chúng con một nơi tựa vững chắc[cc] trong Nơi Thánh, nhờ đó, Đức Chúa Trời chúng con khiến chúng con sáng mắt lên và phấn khởi phần nào trong kiếp nô lệ. 9 Thật vậy, chúng con là nô lệ, tuy nhiên Đức Chúa Trời chúng con không bỏ mặc chúng con trong cảnh nô lệ, nhưng Ngài cho chúng con được lòng các vua Ba-tư, khiến chúng con phấn khởi để xây lại đền thờ Đức Chúa Trời chúng con, và dựng lại những nơi đổ nát; Ngài cũng ban cho chúng con một bức tường bao bọc trong Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
10 Và giờ đây, ôi lạy Đức Chúa Trời chúng con, chúng con biết nói gì đây sau những việc vừa xảy ra? Vì chúng con đã phạm[cd] điều răn Ngài, 11 mà Ngài đã ban truyền qua các tiên tri, tôi tớ Ngài. Ngài phán như vầy: ‘Đất các con chiếm hữu là một đất ô uế bởi sự ô uế của dân địa phương gây ra qua các tập tục ghê tởm của họ. Họ đã làm đất đầy dẫy sự bất khiết của họ, từ đầu này cho đến đầu kia. 12 Cho nên đừng gả con gái các con cho con trai họ, cũng đừng cưới con gái họ cho con trai các con. Các con chớ hề tìm cầu sự bình an hoặc thịnh vượng cho họ. Như vậy các con mới được hùng cường, hưởng sản vật của đất, và để đất lại làm di sản cho con cháu các con thừa hưởng mai sau.’
13 Sau khi tai họa giáng xuống[ce] chúng con vì cớ việc làm gian ác và tội trọng của chúng con, tuy nhiên, ôi hỡi Đức Chúa Trời của chúng con, Ngài chẳng phạt chúng con đáng như tội chúng con phải chịu, Ngài lại ban cho chúng con một nhóm người sống sót hồi hương như hiện nay, 14 lẽ nào chúng con lại vi phạm điều răn Ngài một lần nữa, kết thông gia với những dân tộc có tập tục ghê tởm kia? Chúa há không giận đến mức tiêu diệt hết thảy chúng con, không để lại một người nào sống sót sao? 15 Ôi, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Ngài là Đấng công bình, tuy nhiên Ngài cho một nhóm chúng con còn sống sót như hiện nay. Kìa, chúng con ở trước mặt Ngài, mang tội nặng nề,[cf] mặc dù không ai được đứng trước mặt Ngài trong tình trạng như vậy!”
Giải Quyết Vấn Đề
10 Trong khi Ê-xơ-ra phủ phục trước đền thờ Đức Chúa Trời, cầu nguyện, và khóc xưng tội, một đám đông người Y-sơ-ra-ên gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con, họp lại chung quanh ông, vì dân chúng khóc thảm thiết lắm. 2 Bấy giờ Sê-ca-nia, con trai Giê-hi-ên, thuộc con cháu Ê-lam, thưa với Ê-xơ-ra: “Chúng tôi có phạm tội bất trung với Đức Chúa Trời chúng ta, cưới vợ ngoại tộc thuộc các dân địa phương. Nhưng bây giờ hãy còn hy vọng cho dân Y-sơ-ra-ên về vấn đề này. 3 Ngày giờ này, chúng tôi xin lập giao ước trước mặt Đức Chúa Trời chúng ta, hứa nguyện bỏ tất cả những người vợ ngoại tộc và con cái do họ sinh ra, theo lời chỉ bảo của Chúa tôi[cg] và của những người run sợ khi nghe mạng lịnh của Đức Chúa Trời chúng ta. Xin ông thi hành chiếu theo Kinh Luật. 4 Xin ông bắt tay vào việc,[ch] vì đây là trọng trách của ông. Chúng tôi sẽ ủng hộ ông. Xin ông can đảm hành động.”
5 Vậy Ê-xơ-ra đứng lên, xin các thầy thượng tế, người Lê-vi, và toàn dân Y-sơ-ra-ên thề sẽ thi hành theo đề nghị trên; và họ thề. 6 Sau đấy, Ê-xơ-ra rời khỏi nơi phía trước đền thờ Đức Chúa Trời, đi về phòng của Giê-hô-ha-nan, con trai Ê-li-a-síp, và ông nghỉ đêm tại đây, không ăn bánh, cũng không uống nước, vì ông vẫn còn khóc than về tội bất trung của những người lưu đày hồi hương.
7 Có lời truyền rao khắp đất Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, kêu gọi mọi người lưu đày hồi hương tập họp về Giê-ru-sa-lem. 8 Người nào không đến trong vòng ba ngày, sẽ bị tịch thu tất cả tài sản, và chính người sẽ bị khai trừ khỏi hội chúng lưu đày hồi hương, theo quyết định của các nhà lãnh đạo và trưởng lão.
Triệu Tập Cộng Đồng
9 Mọi người nam trong Giu-đa và Bên-gia-min đều tập họp tại Giê-ru-sa-lem trong vòng ba ngày. Lúc ấy nhằm ngày 20 tháng chín.[ci] Toàn dân ngồi tại quảng trường trước đền thờ Đức Chúa Trời, run sợ vì vụ này, lại cũng run lạnh vì mưa to. 10 Bây giờ thầy tế lễ Ê-xơ-ra đứng lên tuyên bố: “Anh em phạm tội bất trung vì cưới vợ ngoại tộc, do đó anh em làm cho tội của Y-sơ-ra-ên nặng thêm. 11 Bây giờ anh em hãy thú tội[cj] với CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em, và làm theo ý Ngài, phân ly khỏi dân địa phương và vợ ngoại tộc.”
12 Toàn hội chúng đáp lớn tiếng: “Đúng vậy. Chúng tôi chắc chắn phải làm theo điều ông dạy. 13 Tuy nhiên, chúng tôi đông người lắm,[ck] lại vào mùa mưa, chúng tôi không thể tiếp tục đứng ngoài trời như thế này. Hơn nữa, công việc này không thể nào giải quyết xong trong một hoặc hai ngày, vì có rất nhiều người trong vòng chúng tôi phạm tội này.[cl] 14 Xin chỉ để các nhà lãnh đạo đại diện cho hội chúng ở lại đây. Trong các thành chúng ta, tất cả những người nào có vợ ngoại tộc phải trình diện trước các nhà lãnh đạo[cm] vào ngày giờ ấn định, mỗi người trình diện cùng với trưởng lão và thẩm phán của thành mình, cho đến khi cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời chúng ta vì vấn đề này xoay khỏi chúng ta.” 15 Chỉ có Giô-na-than, con trai A-sa-ên, và Gia-xi-gia, con trai Tiệc-va, phản đối đề nghị này. Mê-su-lam và Sáp-bê-tai, người Lê-vi, ủng hộ họ.
16 Vậy những người lưu đày hồi hương thực hành quyết định trên. Thầy tế lễ Ê-xơ-ra biệt riêng các trưởng tộc, chỉ định đích danh từng trưởng tộc cho mỗi gia tộc. Họ họp lại tra xét vấn đề vào ngày mồng một tháng mười, 17 và hoàn tất việc điều tra tất cả những người đàn ông có vợ ngoại tộc vào ngày mồng một tháng giêng.
Danh Sách Những Người Phạm Tội Cưới Vợ Ngoại Tộc
18 Trong thành phần các thầy tế lễ, họ tìm được những người sau đây có vợ ngoại tộc:
Thuộc con cháu Giê-sua, con trai Giô-xa-đác, và anh em ông: Ma-a-sê-gia, Ê-li-ê-se, Gia-ríp, và Ghê-đa-lia, 19 những người này[cn] cam kết bỏ vợ và dâng một cừu đực trong bầy làm lễ chuộc lỗi.[co]
20 Thuộc con cháu Y-mê:
Ha-na-ni và Xê-ba-đia;
21 Thuộc con cháu Ha-rim:
Ma-a-sê-gia, Ê-li, Sê-ma-gia, Giê-hi-ên, và U-xia;
22 Thuộc con cháu Phát-hua:
En-giô-ê-nai, Ma-a-sê-gia, Ích-ma-ên, Na-tha-na-ên, Giô-xa-bát, và Ên-a-xa;
23 Thuộc thành phần người Lê-vi:
Giô-xa-bát, Si-mê-i, Kê-la-gia (tức Kê-li-ta), Phê-ta-hia, Giu-đa, và Ê-li-ê-se;
24 Thuộc thành phần ca nhạc sĩ:
En-gia-síp;
thuộc thành phần người gác cổng:
Sa-lum, Tê-lem, và U-ri;
25 Thuộc thành phần thường dân Y-sơ-ra-ên:
thuộc con cháu Pha-rốt:
Ram-gia, I-xi-gia, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê-a-sa, Manh-ki-gia, và Bê-na-gia;
26 Thuộc con cháu Ê-lam:
Mát-tan-gia, Xa-cha-ri-gia, Giê-hi-ên, Áp-đi, Giê-rê-mốt, và Ê-li-gia;
27 Thuộc con cháu Xát-tu:
En-giô-ê-nai, En-gia-síp, Mát-tan-gia, Giê-rê-mốt, Xa-bát, và A-xi-xa;
28 Thuộc con cháu Bê-bai:
Giô-ha-nan, Ha-nan-gia, Xáp-bai, và Át-lai;
29 Thuộc con cháu Ba-ni:
Mê-su-lam, Ma-lúc, A-đa-gia, Gia-súp, Sê-anh, và Ra-mốt;
30 Thuộc con cháu Pha-hát Mô-áp:
Át-na, Kê-lanh, Rê-na-gia, Ma-a-sê-gia, Mát-tan-gia, Bê-xanh-ên, Bin-nui, và Ma-na-se;
31 Thuộc con cháu Ha-rim:
Ê-li-ê-se, Ích-si-gia, Manh-ki-gia, Sê-ma-gia, Si-mê-ôn, 32 Bên-gia-min, Ma-lúc, và Sê-ma-ri-gia;
33 Thuộc con cháu Ha-sum:
Mát-tê-nai, Mát-ta-ta, Xa-bát, Ê-li-phê-lết, Giê-rê-mi, Ma-na-se, và Si-mê-i;
34 Thuộc con cháu Ba-ni:
Ma-a-dai, Am-ram, Giô-ên,[cp] 35 Bê-na-gia, Bê-đi-gia, Kê-lu-hu, 36 Van-gia, Mê-rê-mốt, En-gia-síp, 37 Mát-tan-gia, Mát-tê-nai, và Gia-a-su;
38 Thuộc con cháu Bin-nui:
Si-mê-i, 39 Sê-lem-gia, Na-than, A-đa-gia, 40 Mác-na-đê-bai, Sa-sai, Sa-rai, 41 A-sa-rên, Sê-lem-gia, Sê-ma-ri-gia, 42 Sa-lum, A-ma-ri-gia, Giô-sép;
43 Thuộc con cháu Nê-bô:
Giê-i-ên, Mát-tít-gia, Xa-bát, Xê-bi-na, Giát-đai, Giô-ên, và Bê-na-gia.
44 Tất cả những người ấy đều có vợ ngoại tộc; và một số đã sinh con.[cq]
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)