Bible in 90 Days
Phước Hạnh của I-sơ-ra-ên
36 “Còn ngươi, hỡi con người, hãy nói tiên tri về các núi của I-sơ-ra-ên. Hãy nói, ‘Hỡi các núi của I-sơ-ra-ên, hãy nghe lời Chúa.’ 2 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, ‘Bởi vì kẻ thù của ngươi đã nói với ngươi, ‘A ha! Những nơi cao vạn cổ nay đã thuộc quyền sở hữu của chúng ta rồi.’ 3 Vì thế ngươi hãy nói tiên tri và bảo, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Vì chúng quả đã làm cho ngươi trở nên hoang vu và đến tấn công ngươi tứ phía, nên ngươi đã thuộc quyền sở hữu của các dân, và ngươi đã trở thành đối tượng để thiên hạ đàm tiếu và phỉ báng.”’”
4 Vì thế hỡi các núi của I-sơ-ra-ên, hãy nghe lời của Chúa Hằng Hữu. Chúa Hằng Hữu phán thế nầy về các núi và các đồi, các dòng nước và các thung lũng, các nơi đổ nát điêu tàn và các thành bị hoang vắng, tức những nơi đã thành mục tiêu cho các cuộc cướp bóc và đối tượng cho các dân chung quanh cười chê, 5 do đó Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Ta phán trong lúc Ta bừng bừng nổi lửa ghen nghịch lại các dân và chống lại toàn thể dân Ê-đôm, những kẻ mà lòng vui mừng hớn hở khi chiếm lấy đất của Ta làm sở hữu và cướp phá đồng cỏ của nó nhưng trí lại khinh bỉ Ta. 6 Vậy hãy nói tiên tri về đất của I-sơ-ra-ên, hãy nói với các núi và các đồi, với các dòng nước và các thung lũng, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Này, Ta phán trong lúc Ta nổi cơn ghen tức và thịnh nộ, vì ngươi đã chịu đựng những lời phỉ báng của các dân, 7 nên” Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Ta thề rằng chính các dân ở chung quanh ngươi sẽ chuốc lấy hậu quả của những lời phỉ báng đó.”’
8 Còn các ngươi, hỡi các núi của I-sơ-ra-ên, các ngươi hãy đâm cành và kết trái cho dân I-sơ-ra-ên của Ta, vì chúng sắp sửa hồi hương. 9 Vì này, Ta ở với các ngươi, Ta sẽ quay lại với các ngươi, các ngươi sẽ được cày cấy và gieo trồng. 10 Ta sẽ làm gia tăng dân số các ngươi, tức toàn thể nhà I-sơ-ra-ên, cả nước. Các thành thị sẽ có đông người cư ngụ và những nơi đổ nát sẽ được xây dựng lại. 11 Ta sẽ làm gia tăng dân số và súc vật của các ngươi. Chúng sẽ trở nên đông đúc và sinh sôi nảy nở ra nhiều. Ta sẽ làm cho các ngươi có người ở như trước, và Ta sẽ ban phước cho các ngươi nhiều hơn trước. Bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa. 12 Ta sẽ cho có người bước đi trên các ngươi, đó là dân I-sơ-ra-ên của Ta. Chúng sẽ chiếm lấy các ngươi làm sở hữu, và các ngươi sẽ là sản nghiệp của chúng. Các ngươi sẽ không cướp đi con cái của chúng nữa.”
13 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Vì chúng nói với ngươi, ‘Ngươi là xứ ăn nuốt người ta và cướp đi con cái của dân ngươi,’ 14 nên ngươi sẽ không ăn nuốt người ta nữa và không cướp đi con cái của dân ngươi nữa,” Chúa Hằng Hữu phán. 15 “Ta sẽ không để ngươi phải nghe những lời phỉ báng của các dân nữa. Ngươi sẽ không còn phải gánh lấy những lời sỉ nhục của các nước nữa, và ngươi sẽ không còn làm cho quốc gia của ngươi bị sụp đổ nữa,” Chúa Hằng Hữu phán.
Sự Phục Hưng của I-sơ-ra-ên
16 Lời của Chúa đến với tôi, 17 “Hỡi con người, khi nhà I-sơ-ra-ên sống trong đất của chúng, chúng đã làm cho đất ấy trở nên ô uế vì cách sống và các hành vi của chúng. Trước mắt Ta, lối sống của chúng thật ô uế như sự ô uế của đàn bà trong thời kỳ kinh nguyệt. 18 Vì thế Ta đã đổ cơn thịnh nộ của Ta trên chúng, vì máu chúng đã làm đổ ra trên đất, và vì các thần tượng chúng thờ đã làm cho đất ấy trở nên ô uế. 19 Ta đã rải chúng ra giữa các dân, và chúng đã bị phân tán giữa các nước. Ta đã đoán phạt chúng tùy theo cách sống và các hành vi của chúng. 20 Ðã thế, khi đến giữa các dân, bất cứ nơi nào chúng đến, chúng vẫn tiếp tục làm ô danh thánh của Ta. Người ta ở những nơi đó đều nói về chúng, ‘Những người ấy là dân của Chúa, nhưng họ phải bỏ đất của Ngài mà ra đi.’
21 Ta thương hại cho danh thánh Ta đã bị nhà I-sơ-ra-ên làm nhục giữa các dân nơi chúng bị đày đến. 22 Vì thế ngươi hãy nói với nhà I-sơ-ra-ên, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Hỡi nhà I-sơ-ra-ên, không phải vì các ngươi mà Ta sắp sửa hành động, nhưng vì danh thánh Ta, danh đã bị các ngươi làm nhục giữa các dân mà các ngươi bị đày đến, 23 cho nên Ta sẽ làm cho đại danh Ta, danh đã bị làm nhục giữa các dân, danh đã bị các ngươi làm ra uế tục giữa các nước, được tôn thánh. Bấy giờ các dân sẽ biết rằng Ta là Chúa,” Chúa Hằng Hữu phán, “khi qua các ngươi Ta bày tỏ đức thánh khiết của Ta trước mắt chúng. 24 Này, Ta sẽ lấy các ngươi ra khỏi các dân, Ta sẽ nhóm họp các ngươi về từ mọi nước, và Ta sẽ đem các ngươi trở về đất nước của các ngươi. 25 Ta sẽ rảy nước tinh sạch trên các ngươi, và các ngươi sẽ được sạch. Ta sẽ tẩy sạch khỏi các ngươi mọi ô uế và mọi thần tượng. 26 Ta sẽ ban cho các ngươi một lòng mới và đặt trong các ngươi một tâm linh mới. Ta sẽ cất khỏi thân thể các ngươi lòng bằng đá và ban cho các ngươi lòng bằng thịt. 27 Ta sẽ đặt Thần Ta vào trong các ngươi, khiến các ngươi vâng theo các luật lệ Ta và cẩn thận vâng giữ các mạng lịnh Ta. 28 Bấy giờ các ngươi sẽ được sống trong đất mà Ta đã ban cho tổ tiên các ngươi, rồi các ngươi sẽ làm dân Ta, và Ta sẽ làm Ðức Chúa Trời các ngươi. 29 Ta sẽ cứu các ngươi ra khỏi mọi ô uế của các ngươi. Ta sẽ truyền cho ngũ cốc để chúng gia tăng sản lượng. Ta sẽ không đem nạn đói đến với các ngươi nữa. 30 Ta sẽ làm các cây ăn quả của các ngươi sai trái và ruộng nương của các ngươi luôn được trúng mùa, để các ngươi không bao giờ bị khổ nhục vì nạn đói trước mắt các dân nữa. 31 Bấy giờ các ngươi sẽ nhớ lại những lối sống gian tà và những hành vi bất hảo của mình, rồi các ngươi sẽ ghét chính mình về những tội lỗi và những việc làm gớm ghiếc của mình,” 32 Chúa Hằng Hữu phán, “đó không phải vì các ngươi mà Ta sẽ hành động như thế; các ngươi khá biết rõ điều đó. Hỡi nhà I-sơ-ra-ên, khá lấy làm xấu hổ và thẹn thùng về nếp sống của các ngươi.”
33 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Trong ngày đó, ngày Ta tẩy sạch khỏi các ngươi mọi tội lỗi của các ngươi, Ta sẽ làm cho các thành thị của các ngươi có người ở, những nơi đổ nát sẽ được xây dựng lại. 34 Những đất đai bị bỏ hoang sẽ được cày cấy, thay vì cứ bị bỏ hoang trước mắt những kẻ qua lại. 35 Bấy giờ thiên hạ sẽ nói, ‘Ðất nầy lâu nay bị bỏ hoang, mà bây giờ đã trở nên như cảnh Vườn Ê-đen. Những thành vốn điêu tàn, hoang vắng, và đổ nát bây giờ có đông người ở và trở nên hùng cường.’ 36 Khi ấy các dân còn sót lại đang sống chung quanh các ngươi sẽ biết rằng Ta, Chúa, đã xây dựng lại những nơi đổ nát và trồng trọt lại những ruộng nương đã bị bỏ hoang. Ta, Chúa, đã phán như thế, và Ta sẽ làm như thế.”
37 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Ta sẽ cho phép nhà I-sơ-ra-ên xin Ta làm điều nầy nữa cho chúng: Ta sẽ làm chúng gia tăng dân số để trở thành một dân đông đúc. 38 Như những đàn chiên được đem về để thánh hiến thể nào, như những bầy chiên thấy ở Giê-ru-sa-lem trong các dịp tế lễ thế nào, các thành thị bị đổ nát của chúng sẽ có đông đúc người cũng thể ấy. Bấy giờ chúng sẽ biết rằng Ta là Chúa.”’”
Hài Cốt Khô Sống Lại
37 Tay của Chúa ở trên tôi. Ngài đem tôi ra bằng Thần của Chúa và đặt tôi ở giữa một thung lũng đầy những hài cốt khô. 2 Ngài đưa tôi đi một vòng xem những hài cốt khô ấy, và nầy, những hài cốt khô nhiều vô kể, nằm la liệt khắp nơi trong thung lũng, và chúng thảy đều rất khô. 3 Ngài hỏi tôi, “Hỡi con người, những hài cốt khô nầy có thể sống lại chăng?” Tôi đáp, “Lạy Chúa Hằng Hữu, chỉ Ngài biết điều đó.” 4 Bấy giờ Ngài phán với tôi, “Hãy nói tiên tri với các hài cốt khô nầy và bảo chúng: Hỡi các hài cốt khô, hãy nghe lời của Chúa. 5 Chúa Hằng Hữu phán với các xương này thế nầy: Này, Ta sẽ ban sinh khí vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống. 6 Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, khiến thịt mọc trên các ngươi, cho da bao phủ các ngươi, đưa hơi thở vào trong các ngươi, rồi các ngươi sẽ sống; bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa.”
7 Vậy tôi nói tiên tri theo lệnh đã truyền cho tôi. Ðang khi tôi nói tiên tri, đột nhiên có tiếng động, các xương bắt đầu nhúc nhích và xích lại với nhau, xương nào ráp vào chỗ nấy. 8 Tôi nhìn xem, và kìa, gân và thịt mọc trên các bộ xương ấy, rồi da bao phủ chúng, nhưng không có hơi thở bên trong. 9 Bấy giờ Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, hãy nói tiên tri với gió,[a] hãy nói tiên tri, hãy bảo gió, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Hỡi sinh khí từ gió bốn phương, hãy đến, hãy thổi vào các xác đã bị giết chết nầy, để chúng sẽ sống lại.”’” 10 Tôi nói tiên tri theo như Ngài đã truyền cho tôi. Sinh khí vào trong chúng. Chúng sống lại. Chúng đứng dậy trên chân mình và trở thành một đội quân rất lớn.
11 Bấy giờ Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, các hài cốt ấy là toàn thể nhà I-sơ-ra-ên. Chúng nói, ‘Xương chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã mất. Chúng tôi đã bị dứt tiệt mất rồi.’ 12 Vì thế ngươi hãy nói tiên tri và hãy bảo chúng, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Hỡi dân Ta, Ta sẽ mở các phần mộ của các ngươi ra, Ta sẽ đem các ngươi lên từ trong các phần mộ, và Ta sẽ đem các ngươi trở về trong đất của I-sơ-ra-ên. 13 Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa, khi Ta mở phần mộ của các ngươi và đem các ngươi ra khỏi các phần mộ đó. 14 Ta sẽ đặt linh khí của Ta trong các ngươi và các ngươi sẽ sống. Ta sẽ đem các ngươi trở về xứ sở của các ngươi, rồi các ngươi sẽ biết rằng Ta, Chúa, Ðấng đã phán và sẽ làm,”’” Chúa phán.
Hai Thanh Gỗ
15 Lời của Chúa đến với tôi, 16 “Hỡi con người, hãy lấy một thanh gỗ và viết trên đó, ‘Dành cho Giu-đa và những người I-sơ-ra-ên hiệp tác với nó.’ Ðoạn ngươi hãy lấy một thanh gỗ khác và viết trên đó, ‘Dành cho Giô-sép –thanh gỗ của Ép-ra-im– và cả nhà I-sơ-ra-ên hiệp tác với nó.’ 17 Sau đó ngươi lấy hai thanh gỗ ấy ghép lại với nhau để chúng thành một, hầu chúng trở thành một trong tay ngươi. 18 Khi dân ngươi hỏi ngươi, ‘Xin ông giải thích cho chúng tôi biết điều nầy có ý nghĩa gì?’ 19 Bấy giờ ngươi hãy nói với chúng, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Ta sắp sửa lấy thanh gỗ của Giô-sép, đang ở trong tay của Ép-ra-im, và các chi tộc của I-sơ-ra-ên hiệp tác với nó, rồi Ta sẽ lấy thanh gỗ của Giu-đa để chồng lên trên nó, và biến chúng thành một, hầu chúng sẽ trở thành một trong tay Ta.”’ 20 Khi hai thanh gỗ đã được ngươi viết chữ trên đó nằm trong tay ngươi ở trước mắt chúng, 21 ngươi hãy nói với chúng, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Ta sẽ lấy dân I-sơ-ra-ên ra từ giữa các dân mà chúng đã đến sống, Ta sẽ quy tụ chúng lại từ mọi phương trời, và Ta sẽ đem chúng về đất nước của chúng. 22 Ta sẽ làm chúng trở thành một quốc gia trong đất nước ấy, trên các núi đồi của I-sơ-ra-ên. Bấy giờ tất cả chúng sẽ chỉ có một vua trị vì. Chúng sẽ không bao giờ còn là hai quốc gia nữa. Chúng sẽ không bao giờ bị chia làm hai vương quốc nữa. 23 Chúng sẽ không làm cho chúng bị ô uế bằng các thần tượng, bằng các vật gớm ghiếc, hay bằng những vi phạm của chúng nữa. Ta sẽ cứu chúng khỏi mọi nơi chúng ở và đã phạm tội ở đó. Ta sẽ thanh tẩy chúng. Bấy giờ chúng sẽ làm dân Ta, và Ta sẽ làm Ðức Chúa Trời của chúng. 24 Tôi tớ Ta Ða-vít sẽ làm vua trị vì chúng, rồi tất cả chúng sẽ chỉ có một người chăn mà thôi. Chúng sẽ vâng theo các luật lệ Ta và cẩn thận vâng giữ các mạng lịnh Ta. 25 Chúng sẽ sống trong đất Ta đã ban cho tôi tớ Ta Gia-cốp, nơi tổ tiên các ngươi đã sống. Chúng, con cháu chúng, và con cháu của con cháu chúng sẽ sống ở đó vĩnh viễn. Tôi tớ Ta Ða-vít sẽ trị vì chúng mãi mãi. 26 Ta sẽ lập một giao ước hòa bình với chúng. Ðó sẽ là một giao ước đời đời với chúng. Ta sẽ thiết lập chúng vững vàng, làm cho chúng gia tăng đông đúc, và sẽ đặt nơi thánh của Ta ở giữa chúng mãi mãi. 27 Nhà của Ta sẽ ở giữa chúng. Ta sẽ làm Ðức Chúa Trời của chúng, và chúng sẽ làm dân Ta. 28 Bấy giờ các dân sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng làm cho I-sơ-ra-ên trở nên thánh, khi nơi thánh của Ta ở giữa chúng mãi mãi.”’”
Sự Xâm Lăng của Gót
38 Lời của Chúa đến với tôi, 2 “Hỡi con người, hãy quay mặt ngươi hướng về Gót, về đất của Ma-gót, tổng thủ lãnh của Mê-sếch và Tu-banh, và nói tiên tri chống lại nó. 3 Hãy bảo rằng, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Hỡi Gót, tổng thủ lãnh của Mê-sếch và Tu-banh, Ta chống lại ngươi. 4 Ta sẽ bắt ngươi quay trở lại và lấy các móc sắt móc vào hàm ngươi. Ta sẽ dẫn ngươi ra đi với toàn thể quân đội của ngươi, nào các ngựa chiến và các kỵ binh, ai nấy đều mặc chiến bào với đầy đủ vũ khí, một đoàn quân trang bị thuẫn và khiên, tay ai nấy đều cầm gươm đao hùng hổ. 5 Quân đội của Ba-tư, Ê-thi-ô-pi,[b] và Li-by-a[c] cùng đi với các ngươi;[d] tất cả đều mang thuẫn và đầu đội mũ sắt; 6 Gô-me và toàn thể quân đội của nó; nhà Tô-gạc-ma đến từ các miền cực kỳ xa xăm ở phương bắc với toàn thể quân đội của nó – quả là một đại quân gồm nhiều dân cùng đi với ngươi.
7 Ngươi hãy chuẩn bị sẵn, chính ngươi và toàn thể đoàn quân đông đảo tụ tập quanh ngươi khá sẵn sàng; ngươi hãy sẵn sàng để lãnh đạo chúng. 8 Sau nhiều ngày ngươi sẽ động binh. Trong những năm sau đó ngươi sẽ kéo đến tấn công một quốc gia được phục hồi sau chiến tranh, một nước mà dân ở đó đã được quy tụ từ nhiều quốc gia trở về, để sống trên các núi đồi của I-sơ-ra-ên, những nơi đã bị hoang phế khá lâu. Dân cư của nước đó đã được lấy ra khỏi các quốc gia đem về, và bấy giờ tất cả chúng đều đang sống an ninh trong nước. 9 Ngươi sẽ tiến tới như vũ bão. Ngươi, quân đội của ngươi, và quân đội của nhiều nước đi với ngươi sẽ tràn đến như mây bao phủ khắp xứ.”’”
10 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Trong ngày ấy, trong đầu ngươi sẽ nảy ra những ý tưởng; ngươi sẽ nghĩ ra một âm mưu thâm độc. 11 Ngươi sẽ bảo, ‘Ta sẽ đi lên tấn công một xứ mà các thành ở đó không có tường cao bảo vệ. Ta sẽ ập vào một dân hiền hòa và đang sống yên ổn. Tất cả chúng đều sống trong các thành không có tường cao bao bọc, không có song sắt và cổng thành ngăn cản. 12 Ta sẽ cướp bóc và đoạt lấy các chiến lợi phẩm mang đi. Ta sẽ tấn công những nơi vốn hoang phế mà bây giờ đã có người ở, và cướp đoạt những kẻ đã từ các nước trở về, những kẻ đã gây dựng được những đàn súc vật và của cải, và bây giờ đang sống giữa xứ.’
13 Sê-ba, Ðê-đan, các thương gia ở Tạt-si, và tất cả các sư tử tơ của chúng sẽ hỏi ngươi, ‘Có phải ông đến để cướp của chăng? Có phải ông triệu tập cho ông một đoàn quân đông đảo để mang đi các chiến lợi phẩm, lấy đi bạc và vàng, đem đi các đàn súc vật và của cải, và cướp lấy thật nhiều chiến lợi phẩm chăng?’
14 Vì thế, hỡi con người, hãy nói tiên tri, hãy bảo Gót, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Trong ngày dân I-sơ-ra-ên của Ta đang sống yên ổn, ngươi há không biết sao? 15 Ngươi đến từ chỗ của ngươi ở những nơi tận cùng phương bắc. Ngươi và nhiều dân đi với ngươi, tất cả đều cỡi ngựa, một đại quân đông đảo, một đoàn quân hùng mạnh. 16 Ngươi ập đến tấn công dân I-sơ-ra-ên của Ta như một đám mây bao phủ đất ấy. Trong những ngày sau Ta sẽ đem ngươi đến tấn công xứ sở của Ta, để các dân sẽ biết Ta, để qua ngươi, hỡi Gót, Ta sẽ được tôn thánh trước mắt chúng.”’”
Sự Ðoán Phạt Gót
17 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Há chẳng phải ngươi là kẻ Ta đã nói trước từ xưa, qua các tôi tớ Ta, các tiên tri của I-sơ-ra-ên, những kẻ trong thời của chúng đã nói tiên tri trong nhiều năm rằng Ta sẽ cho ngươi đến tấn công chúng hay sao? 18 Trong ngày ấy khi Gót đến tấn công đất I-sơ-ra-ên,” Chúa Hằng Hữu phán, “cơn giận của Ta sẽ nổi bừng lên. 19 Trong cơn ghen tức của Ta và trong cơn thịnh nộ bừng bừng của Ta, Ta phán, ‘Trong ngày ấy sẽ có một cơn động đất dữ dội trong đất I-sơ-ra-ên. 20 Cá dưới biển, chim trên trời, thú ngoài đồng, mọi loài bò sát trên mặt đất, và mọi người sống trên mặt đất sẽ lảo đảo trước mặt Ta. Các núi đồi sẽ sụp xuống, các gành núi sẽ đổ nhào, mọi tường thành sẽ đổ xuống. 21 Ta sẽ gọi một thanh gươm đến đánh nó trên khắp các rừng núi của Ta,’ Chúa Hằng Hữu phán, ‘ai nấy sẽ trở gươm chém giết đồng đội mình. 22 Ta sẽ dùng ôn dịch và máu đổ đoán phạt nó. Ta sẽ trút những cơn mưa như thác đổ, những trận mưa đá, lửa, và diêm sinh trên nó, trên các quân sĩ của nó, và trên nhiều dân đi với nó. 23 Như thế Ta sẽ cho chúng biết quyền năng lớn lao của Ta và đức thánh khiết của Ta. Ta sẽ làm cho mắt của nhiều dân biết đến Ta. Bấy giờ chúng sẽ biết rằng Ta là Chúa.’”
Quân Ðội của Gót Bị Diệt
39 “Còn ngươi, hỡi con người, hãy nói tiên tri chống lại Gót. Hãy nói, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Hỡi Gót, tổng thủ lãnh của Mê-sếch và Tu-banh, Ta chống lại ngươi. 2 Ta sẽ quay ngươi lại và khiến ngươi đi tới. Ta sẽ đem ngươi từ những miền cực kỳ xa xôi ở phương bắc và dẫn ngươi đến tấn công những núi đồi của I-sơ-ra-ên. 3 Ta sẽ đánh vào cây cung của ngươi nơi tay trái và làm cho các mũi tên rơi khỏi tay phải của ngươi. 4 Ngươi sẽ ngã xuống trên các núi của I-sơ-ra-ên: ngươi, quân đội của ngươi, và những quân đồng minh đi với ngươi. Ta sẽ biến ngươi thành thức ăn cho mọi loài ác điểu; Ta sẽ ban thịt ngươi cho các dã thú xé ăn. 5 Ngươi sẽ ngã xuống giữa đồng trống, vì Ta đã phán như thế,” Chúa Hằng Hữu phán. 6 “Ta sẽ sai lửa đến thiêu hủy Ma-gót và những kẻ sống an toàn ở miền duyên hải. Bấy giờ chúng sẽ biết rằng Ta là Chúa.
7 Ta sẽ làm cho danh thánh của Ta được biết đến giữa dân I-sơ-ra-ên của Ta. Ta sẽ không để cho danh thánh Ta bị xúc phạm nữa. Bấy giờ các dân sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðấng Thánh của I-sơ-ra-ên.
8 Này, điều ấy đang đến, việc ấy đang xảy ra,” Chúa Hằng Hữu phán. “Ðó là ngày Ta đã nói. 9 Khi ấy dân I-sơ-ra-ên sống trong các thành sẽ đi ra lấy các vũ khí để nhóm lửa và làm củi –nào là khiên và thuẫn, cung và tên, giáo và mác– chúng sẽ đốt những thứ đó trong bảy năm. 10 Chúng sẽ không cần ra đồng kiếm củi hay chặt cây trong rừng làm củi, vì chúng sẽ dùng các thứ vũ khí đó làm củi đốt. Chúng sẽ cướp bóc những kẻ đến cướp bóc chúng; chúng sẽ chiếm đoạt của cải những kẻ đến chiếm đoạt của cải chúng,”’” Chúa Hằng Hữu phán.
Dân Gót Bị Chôn
11 “Trong ngày ấy Ta sẽ cho Gót được một chỗ để chôn xác ở I-sơ-ra-ên, đó là Thung Lũng Lữ Khách, nằm về phía đông Biển Chết. Mồ chôn tập thể ấy sẽ làm cho những ai qua lại phải dừng chân. Người ta sẽ chôn Gót và toàn thể đạo quân đông đúc của nó ở đó. Nơi ấy sẽ được gọi là Thung Lũng Ha-môn Gót. 12 Nhà I-sơ-ra-ên phải mất bảy tháng mới chôn chúng xong, để làm cho sạch đất. 13 Toàn dân trong nước sẽ hiệp lại chôn xác chúng; và trong ngày Ta thể hiện vinh quang của Ta, chúng sẽ được nổi danh,” Chúa Hằng Hữu phán. 14 “Chúng sẽ cử người đi khắp nước tìm xác quân xâm lăng còn sót đâu đó trên mặt đất đem chôn đi để làm sạch đất. Chúng sẽ để ra bảy tháng để đi tìm xác. 15 Khi những người đi tìm xác đi qua vùng nào, nếu ai thấy xương người nằm đâu đó, người ấy phải cắm một tấm bảng làm dấu bên cạnh bộ xương, cho đến khi những người lo việc mai táng đến lấy và đem chôn trong Thung Lũng Ha-môn Gót. 16 Trong thung lũng ấy có một thành tên là Ha-mô-na.[e] Chúng sẽ làm như thế để đất được sạch.”
17 “Về phần ngươi, hỡi con người, Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, ‘Hãy nói với mọi loài chim trời và mọi loài dã thú, “Các ngươi hãy tập họp lại và hãy đến, hãy từ khắp phương trời quy tụ về để dự tiệc tế lễ Ta chuẩn bị cho các ngươi, một đại tiệc tế lễ trên các núi của I-sơ-ra-ên, rồi các ngươi sẽ được ăn thịt tươi và uống máu. 18 Các ngươi sẽ được ăn thịt các chiến sĩ dũng mãnh và uống máu các thủ lãnh trên đất. Chúng sẽ như chiên đực, chiên con, bò đực, và mọi thú vật mập béo của Ba-san. 19 Các ngươi sẽ được ăn thịt mỡ cho đến khi no ứ, và các ngươi sẽ được uống máu cho đến khi say khướt tại bữa tiệc tế lễ Ta chuẩn bị cho các ngươi. 20 Các ngươi sẽ được no nê tại bàn tiệc của Ta bằng thịt các ngựa chiến và các kỵ binh, các dũng sĩ và các binh sĩ của mọi binh chủng,”’” Chúa Hằng Hữu phán.
Dân I-sơ-ra-ên Trở Về Lập Quốc
21 “Ta sẽ bày tỏ vinh quang Ta ra giữa các dân. Mọi nước sẽ thấy hình phạt Ta áp dụng, và thấy tay Ta giáng xuống chúng ra sao. 22 Từ ngày đó trở đi nhà I-sơ-ra-ên sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng. 23 Mọi dân cũng sẽ biết rằng nhà I-sơ-ra-ên bị đi lưu đày là vì tội của chúng, tội phản bội Ta. Do đó Ta đã ẩn mặt Ta khỏi chúng và đã trao chúng vào tay quân thù của chúng để tất cả chúng phải bị gươm ngã chết. 24 Ta đối xử với chúng tùy theo sự ô uế của chúng và những tội phản bội của chúng; và Ta buộc lòng phải ẩn mặt Ta khỏi chúng.”
25 Vậy Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Bây giờ Ta sẽ tái lập vận mạng của Gia-cốp. Ta sẽ bày tỏ lòng thương xót đối với toàn thể nhà I-sơ-ra-ên, và Ta sẽ nổi ghen vì danh thánh Ta. 26 Chúng sẽ quên đi nỗi tủi nhục của chúng và mọi tội lỗi chúng đã phạm đến Ta, khi chúng được sống an toàn trong nước mà không phải lo sợ gì nữa, 27 khi Ta đem chúng về từ các dân và nhóm chúng về từ các nước thù nghịch với chúng, và qua chúng Ta sẽ bày tỏ đức thánh khiết của Ta trước mắt các dân. 28 Bấy giờ chúng sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng, bởi vì Ta đã phạt chúng phải bị lưu đày, và cũng chính Ta sẽ đem chúng trở về xứ sở của chúng. Ta sẽ không để một người nào trong chúng bị bỏ sót lại, 29 và Ta sẽ không bao giờ ẩn mặt Ta khỏi chúng nữa, vì Ta đổ Thần Ta trên nhà I-sơ-ra-ên,” Chúa Hằng Hữu phán.
Khải Tượng về Ðền Thờ Mới
40 Vào năm thứ hai mươi lăm kể từ khi chúng tôi bị lưu đày, vào ngày mồng mười của tháng giêng năm ấy, tức năm thứ mười bốn sau khi thành thánh thất thủ; vào chính ngày ấy, tay Chúa đặt trên tôi, và Ngài đem tôi đến đó. 2 Ngài đem tôi về trong đất I-sơ-ra-ên bằng các khải tượng của Ðức Chúa Trời. Ngài đặt tôi xuống trên một núi rất cao; về hướng nam núi ấy, có gì trông giống như một cái thành. 3 Khi Ngài đem tôi về đến đó, này, đã có sẵn một người ở đó. Diện mạo người ấy như đồng bóng láng. Trong tay người ấy cầm một sợi dây bằng vải và một cây đo. Người ấy đứng ở cổng. 4 Người ấy nói với tôi, “Hỡi con người, hãy nhìn cho kỹ và hãy nghe cho rõ. Hãy chú tâm vào những gì ta sẽ chỉ cho ngươi, vì ngươi được đem về đây để ta chỉ điều ấy cho ngươi. Hãy công bố tất cả những gì ngươi thấy cho nhà I-sơ-ra-ên.”
Cổng Ðông của Tường Quanh Sân
5 Này, có một bức tường bao quanh khu vực bên ngoài đền thờ. Cây đo trong tay người ấy dài khoảng ba mét rưỡi.[f] Người ấy đo bề dày của bức tường, một cây; chiều cao, một cây. 6 Sau đó người ấy đến cổng hướng về phía đông, đi lên các bậc thềm, và đo ngạch cổng, ngạch rộng một cây, và chiều kia dày một cây. 7 Nơi ấy có các trạm gác, mỗi trạm bề ngang một cây và bề dọc một cây. Khoảng cách giữa các trạm chừng ba mét.[g] Ngạch cổng, nơi dẫn vào tiền sảnh, phía trong của ngạch cổng, một cây. 8 Sau đó người ấy đo phía trong của tiền sảnh ở cổng, một cây. 9 Kế đó người ấy đo tiền sảnh ở cổng, khoảng bốn mét rưỡi;[h] các cây trụ, trên một mét;[i] đó là phía trong tiền sảnh của cổng. 10 Bên trong cổng phía đông có các trạm gác, ba trạm bên nầy và ba trạm bên kia. Các trạm ấy đều có kích thước như nhau. Các trụ bổ tường ở mỗi bên cũng có kích thước như nhau. 11 Sau đó người ấy đo chiều rộng của lối vào cổng, gần sáu mét,[j] chiều dài của cổng, khoảng bảy mét rưỡi.[k] 12 Trước mỗi trạm gác có một bức tường, bên nầy cao khoảng sáu tấc,[l] bên kia cao khoảng sáu tấc; còn các trạm đó, mỗi trạm chiều ngang ba mét rưỡi[m] và chiều dọc ba mét rưỡi. 13 Sau đó ngươi ấy đo cổng, từ dưới mái của trạm gác nầy đến dưới mái của trạm gác kia, từ cửa ở tường nầy đến cửa ở tường kia, mười bốn mét rưỡi.[n] 14 Người ấy cũng đo bức tường có hàng trụ bổ tường, đo vòng đến cây trụ bổ tường ở cổng của tiền sảnh, khoảng ba mươi lăm mét[o]. 15 Từ mặt trước của cổng, nơi lối vào, cho đến mặt sau của tiền sảnh ở cổng, hai mươi chín mét.[p] 16 Các trạm gác đều có các cửa sổ nhỏ. Dọc theo bức tường có hàng trụ bổ tường là các cửa sổ quay mặt vào trong. Tương tự tiền sảnh cũng có các cửa sổ có khung vòm ở trên.[q] Trên các trụ đều đắp hình các cây chà là.
Sân Ngoài
17 Sau đó người ấy đem tôi ra sân ngoài. Này, tôi thấy ở đó có nhiều phòng, khắp sân đều lát đá; có ba mươi phòng ở quanh sân. 18 Sân lát đá ấy trải dài đến các cổng, cổng rộng bao nhiêu thì đá được lát kín đến bấy nhiêu; đó là sân dưới có lát đá. 19 Người ấy đo khoảng cách từ mí ngoài của cổng dưới đến mí ngoài của sân trong, năm mươi tám mét,[r] ở phía đông và phía bắc.
Cổng Bắc
20 Sau đó người ấy đo chiều dài và chiều rộng của cổng ở sân ngoài nhìn về hướng bắc. 21 Các trạm gác, mỗi bên ba trạm, các trụ bổ tường, và tiền sảnh đều có kích thước như ở cổng thứ nhất. Khu vực nầy dài hai mươi chín mét[s] và rộng mười bốn mét rưỡi.[t] 22 Các cửa sổ, tiền sảnh, và hình các cây chà là đều có kích thước như cổng nhìn về hướng đông. Bảy bậc thềm ở ngoài dẫn lên tiền sảnh bên trong. 23 Ðối diện với cổng bắc, giống như cổng đông, là một cổng dẫn vào sân trong. Người ấy đo từ cổng nầy đến cổng kia, năm mươi tám mét.[u]
Cổng Nam
24 Sau đó người ấy dẫn tôi đến phía nam, ở phía nam cũng có một cổng. Người ấy đo các trụ bổ tường và tiền sảnh; chúng có kích thước như các cổng kia. 25 Các cửa sổ dọc trên tường và các cửa sổ của tiền sảnh giống như các cổng kia; khu vực nầy dài hai mươi chín mét[v] và rộng mười bốn mét rưỡi.[w] 26 Có bảy bậc thềm dẫn lên tiền sảnh; tiền sảnh ở phía trong. Mỗi bên cổng đều có các trụ bổ tường, và các trụ đều đắp hình các cây chà là. 27 Ở phía nam cũng có một cổng dẫn vào sân trong. Người ấy đo khoảng cách từ cổng ngoài đến cổng trong, ở phía nam, năm mươi tám mét.[x]
Sân Trong ở Cổng Nam
28 Sau đó người ấy đem tôi vào sân trong ở cổng nam; nó cũng có kích thước như các cổng kia. 29 Các trạm gác, các trụ bổ tường, và tiền sảnh của nó đều cùng kích thước như các cổng kia. Nơi đây cũng có các cửa sổ dọc theo tường và các cửa sổ cho tiền sảnh. Khu vực nầy dài hai mươi chín mét[y] và rộng mười bốn mét rưỡi.[z] 30 Chung quanh có các hành lang, dài mười bốn mét rưỡi[aa] và rộng khoảng ba mét.[ab] 31 Mặt của hành lang hướng ra sân ngoài. Các trụ bổ tường cũng đắp hình các cây chà là, và bậc thềm có tám bậc dẫn lên.
Sân Trong ở Cổng Ðông
32 Sau đó người ấy đem tôi vào sân trong của phía đông. Người ấy đo cổng ở đó, và nó có kích thước như các cổng kia. 33 Các trạm gác, các trụ bổ tường, và tiền sảnh của nó đều có kích thước như các cổng kia. Các cửa sổ dọc trên tường và các cửa sổ của tiền sảnh giống như các cổng kia. Khu vực nầy dài hai mươi chín mét[ac] và rộng mười bốn mét rưỡi.[ad] 34 Mặt của tiền sảnh hướng ra sân ngoài. Mỗi bên cổng đều có các trụ bổ tường. Các trụ đều đắp hình các cây chà là, và bậc thềm của nó có tám bậc dẫn lên.
Sân Trong ở Cổng Bắc
35 Sau đó người ấy đem tôi đến cổng bắc. Người ấy đo nó, và nó có các kích thước giống các cổng kia. 36 Các trạm gác, các trụ bổ tường, và tiền sảnh của nó đều cùng kích thước như các cổng kia. Ở đây cũng có các cửa sổ khắp nơi. Khu vực nầy dài hai mươi chín mét[ae] và rộng mười bốn mét rưỡi.[af] 37 Mặt của tiền sảnh hướng ra sân ngoài. Mỗi bên cổng đều có các trụ bổ tường. Các trụ đều đắp hình các cây chà là, và bậc thềm có tám bậc dẫn lên.
Các Phòng Dùng Ðể Chuẩn Bị Các Của Tế Lễ
38 Ở tiền sảnh của cổng có một phòng mà cửa của nó ăn thông với tiền sảnh. Phòng đó người ta dùng để tẩy rửa lễ vật sẽ dâng làm của lễ thiêu. 39 Trong tiền sảnh ở cổng nầy, mỗi bên có hai cái bàn, trên các bàn đó người ta giết các con vật hiến tế dùng làm của lễ thiêu, của lễ chuộc tội, và của lễ chuộc lỗi. 40 Ở bên ngoài tiền sảnh, nơi lối vào ở cổng bắc, có hai cái bàn; phía bên kia tiền sảnh ở cổng ấy cũng có hai cái bàn. 41 Bốn bàn ở bên trong và bốn bàn ở bên ngoài, bên cạnh cổng, tức tám bàn cả thảy. Trên các bàn đó người ta giết các con vật hiến tế. 42 Cũng có bốn bàn làm bằng đá dùng cho việc dâng của lễ thiêu. Mỗi bàn có bề ngang chín tấc, bề dọc chín tấc, và bề cao sáu tấc;[ag] trên các bàn đó người ta để các dụng cụ dùng cho việc sát tế các con vật hiến tế khi dâng của lễ thiêu. 43 Quanh tường có gắn các móc, mỗi cái rộng cỡ một tấc;[ah] thịt hiến tế được để trên các bàn đó.
Các Phòng cho Các Tư Tế
44 Khu vực bên ngoài của cổng trong có các phòng cho các ca sĩ. Các phòng ấy nằm trong khu vực của sân trong. Nơi cổng bắc có một phòng hướng về phía nam. Bên cạnh cổng đông có một phòng hướng về phía bắc. 45 Người ấy nói với tôi, “Phòng hướng mặt về phía nam dành cho các tư tế có trách nhiệm quản lý đền thờ, 46 và phòng hướng mặt về phía bắc dành cho các tư tế có trách nhiệm thi hành các công việc ở bàn thờ. Những người ấy là con cháu của Xa-đốc thuộc dòng dõi của Lê-vi. Chỉ họ mới được phép đến gần Chúa để hầu việc Ngài.”
47 Người ấy đo cái sân, chiều ngang năm mươi tám mét[ai] và chiều dọc năm mươi tám mét,[aj] tức hình vuông. Còn bàn thờ thì ở trước sân đền thờ.
Tiền Sảnh của Ðền Thờ
48 Sau đó người ấy đem tôi đến tiền sảnh của đền thờ và đo các trụ bổ tường của tiền sảnh, mỗi bên khoảng ba mét.[ak] Chiều rộng của cổng là tám mét.[al] Bề dày của bức tường ở mỗi bên cổng là một mét ba phần tư.[am] 49 Tiền sảnh dài mười một mét rưỡi[an] và rộng bảy mét.[ao] Bậc thềm dẫn lên tiền sảnh có mười bậc. Ngoài các trụ bổ tường, ở mỗi bên còn có các trụ rời.
Nơi Thánh
41 Sau đó người ấy đem tôi đến Nơi Thánh và đo các trụ bổ tường, mỗi cạnh của các trụ bổ tường rộng ba mét rưỡi.[ap] Các trụ ấy nằm ở lối vào phía chiều rộng của đền. 2 Lối vào Nơi Thánh rộng sáu mét,[aq] ba mét bên nầy và ba mét bên kia. Người ấy đo Nơi Thánh, chiều dài hai mươi ba mét,[ar] chiều rộng mười một mét rưỡi.[as]
Nơi Chí Thánh
3 Kế đó người ấy bước vào trong và đo các trụ ở lối vào Nơi Chí Thánh. Mỗi trụ lớn hơn một mét, chiều cao của lối vào khoảng ba mét rưỡi,[at] và chiều rộng của lối vào bốn mét.[au] 4 Người ấy vào đo trong Nơi Chí Thánh, chiều ngang mười một mét rưỡi,[av] và chiều dọc mười một mét rưỡi;[aw] đó là phòng sâu bên trong Nơi Thánh. Người ấy nói với tôi, “Ðây là Nơi Chí Thánh.”
Dãy Phòng Nhỏ Bên Cạnh
5 Sau đó người ấy đo bức tường của đền thờ, bề dày gần ba mét rưỡi.[ax] Chiều rộng của các phòng nhỏ dọc bên ngoài đền thờ là hai mét ba.[ay] 6 Các phòng dọc bên ngoài đền thờ cao ba tầng, tầng nầy chồng trên tầng kia, mỗi tầng có ba mươi phòng. Những cây đà của mỗi phòng được gác vào các gờ tường của đền thờ để chịu sức nặng của các phòng, nhưng chúng không đâm sâu vào tường của đền thờ. 7 Các phòng dọc bên ngoài đền thờ càng lên cao càng lớn dần, vì bức tường quanh đền thờ khi lên cao một tầng thì thụt vào một bực. Người nào muốn đi từ tầng ở mặt đất lên tầng ba phải đi qua tầng giữa.
8 Tôi cũng thấy đền thờ nằm trên một cái nền cao tứ phía. Nền của các phòng bên cạnh đền thờ đo được nguyên một cây đo, tức gần ba mét rưỡi.[az] 9 Bức tường bên ngoài các phòng bên cạnh dày khoảng ba mét.[ba] Có một khoảng trống giữa hai dãy phòng ở mỗi bên đền thờ. 10 Khoảng trống ấy rộng khoảng mười một mét rưỡi[bb] ở cả hai bên đền thờ. 11 Các phòng nhỏ ở hai bên đều có cửa mở ra khoảng trống ấy. Về phía bắc có một cổng và về phía nam cũng có một cổng. Khoảng trống ấy mỗi bề rộng chừng ba mét.[bc]
Tòa Nhà ở Hướng Tây
12 Tòa nhà nằm ở hướng tây quay mặt về sân đền thờ rộng bốn mươi mét rưỡi,[bd] dài năm mươi hai mét,[be] và có tường dày khoảng ba mét.[bf] 13 Kế đó người ấy đo đền thờ. Ðền thờ dài năm mươi tám mét.[bg] Sân đền thờ, chiều rộng của đền thờ, và các bức tường cộng lại cũng năm mươi tám mét.[bh] 14 Chiều rộng của mặt tiền đền thờ và sân ở phía đông cộng lại năm mươi tám mét.[bi] 15 Người ấy đo tòa nhà nằm ở phía sau quay mặt về sân sau của đền thờ và hai dãy hành lang ở hai bên, năm mươi tám mét.[bj] Nơi Thánh, Nơi Chí Thánh, tiền sảnh, 16 các cửa ra vào, các cửa sổ nhỏ, các hành lang ở ba tầng đối diện với cửa, tất cả đều được lát gỗ từ đất lên đến các cửa sổ, các cửa sổ cũng đều được lát gỗ.
Trang Trí Bên Trong Ðền Thờ
17 Khoảng trống ở trên cửa trong đền thờ, các bức tường trong Nơi Chí Thánh và Nơi Thánh, cùng các bức tường cả trong và ngoài đền thờ đều theo một khuôn mẫu. 18 Tất cả các mặt tường đều được chạm khắc hình các chê-ru-bim và các cây chà là. Cứ giữa hai chê-ru-bim có hình một cây chà là, và mỗi chê-rúp có hai mặt. 19 Mặt người hướng về cây chà là bên nầy và mặt sư tử hướng về cây chà là bên kia. Khắp các tường của đền thờ đều được chạm khắc như thế. 20 Trên tường của mặt tiền Nơi Thánh, từ nền nhà lên đến phía trên cửa vào đền thờ, đều có khắc hình các chê-ru-bim và các cây chà là.
21 Các cây cột ở cửa vào Nơi Thánh đều vuông vức, và các cây cột ở cửa vào Nơi Chí Thánh cũng có hình dạng vuông vức như vậy.
Bàn Thờ Bằng Gỗ
22 Có một bàn thờ bằng gỗ cao một mét ba phần tư,[bk] rộng mỗi bên trên một mét.[bl] Các góc bàn, mặt bàn, và bốn mặt chung quanh đều bằng gỗ. Người ấy nói với tôi, “Ðây là bàn thờ hằng ở trước mặt Chúa.”
Các Cửa
23 Lối vào Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh đều có hai lớp cửa. 24 Mỗi cửa có hai cánh. Cả hai cánh đều xoay trên bản lề; và cả hai cửa đều như thế. 25 Trên các cánh cửa của Nơi Thánh có chạm hình các chê-ru-bim và hình các cây chà là, giống như các hình được chạm trên tường.
Các Mái Hiên
Có một mái hiên bằng gỗ nhô ra bên ngoài, ở phía trước tiền đình. 26 Cả hai bên tường tiền đình đều có các cửa sổ hẹp thụt vào, và trên tường có chạm hình các cây chà là. Trước hai dãy phòng nhỏ ở hai bên đền thờ cũng có các mái hiên.
Các Tòa Nhà trong Khu Ðền Thờ và Bức Tường Quanh Sân
42 Kế đó người ấy đem tôi ra sân ngoài ở hướng bắc, và đem tôi đến các phòng đối diện với sân đền thờ và đối diện với đền thờ ở hướng bắc. 2 Mặt tiền của tòa nhà ở hướng bắc dài năm mươi tám mét,[bm] và rộng hai mươi chín mét.[bn] 3 Có một dãy phòng ba tầng đối diện với một khoảng trống chừng mười một mét rưỡi[bo] ở sân trong, và một dãy phòng ba tầng nữa đối diện với sân ngoài có nền lát đá. 4 Ở giữa hai dãy phòng ba tầng đó là một lối đi rộng gần sáu mét[bp] và dài khoảng năm mươi tám mét.[bq] Các cửa phòng của dãy ấy đều hướng về phương bắc. 5 Các phòng ở tầng trên nhỏ hơn các phòng ở tầng dưới và tầng giữa của tòa nhà, vì mỗi dãy phòng ở tầng trên phải xây thụt vô để chừa chỗ làm hành lang. 6 Số là tòa nhà có ba tầng, nhưng không có các trụ như các trụ ở các hành lang, hai tầng trên phải xây thụt vô để gối đầu vào tường, vì thế các phòng ở các tầng trên nhỏ hơn các phòng ở tầng dưới và tầng giữa. 7 Có một bức tường ở bên ngoài chạy dọc theo dãy phòng, để ngăn cách dãy phòng với sân ngoài; tường ấy dài khoảng hai mươi chín mét.[br] 8 Bức tường ấy nối dài với dãy phòng ở ngoài sân nên dài hai mươi chín mét,[bs] trong khi dãy phòng trong nằm dọc theo bên cạnh đền thờ thì dài năm mươi tám mét.[bt] 9 Ở tầng dưới cùng có một cái cổng nằm về hướng đông, để người ở sân ngoài có thể vào khu có các dãy phòng.
10 Về phía nam, dọc theo bức tường dày của đền thờ chạy về hướng đông, đối diện với sân ngoài, và dựa sát vào đền thờ có các phòng. 11 Các phòng đó cũng có các hành lang phía trước. Các phòng đó đều giống các phòng ở phía bắc, chiều dài và chiều rộng đều như nhau, các lối ra vào và cách sắp đặt vị trí các phòng cũng giống nhau. Các cổng cũng giống các cổng ở phía bắc. 12 Các cửa của các phòng cũng giống các cửa của các phòng ở phía bắc. Khu vực phía nam ấy cũng có tường ngăn cách, và ở đầu khu vực, trong bức tường ở hướng đông có một cổng, để người ta có thể ra vào khu vực đó.
13 Bấy giờ người ấy nói với tôi, “Các dãy phòng ở phía bắc và ở phía nam sát bên cạnh đền thờ được dành riêng cho các tư tế. Các tư tế đến gần Chúa sẽ ăn những lễ vật cực thánh trong các phòng đó. Họ cất giữ các lễ vật cực thánh như các của lễ chay, các của lễ chuộc tội, và các của lễ chuộc lỗi trong các phòng đó. 14 Một khi các tư tế đã vào trong khu vực thánh, họ không được phép đi ra sân ngoài cho đến khi họ cổi bộ lễ phục mà họ đã mặc để tế lễ ra và để lại trong đó, vì đó là những vật thánh. Họ phải mặc y phục riêng của họ trước khi đi ra khu vực công cộng để tiếp xúc với dân.”
15 Khi người ấy đã đo xong các kích thước ở bên trong đền thờ, người ấy đem tôi ra bên ngoài, qua cổng phía đông, để đo chung quanh đền thờ. 16 Người ấy lấy cây đo và đo cạnh phía đông, hai trăm chín mươi mét[bu] theo kích thước của cây đo ấy. 17 Sau đó người ấy đo cạnh phía bắc, hai trăm chín mươi mét[bv] theo kích thước của cây đo ấy. 18 Sau đó người ấy đo cạnh phía nam, hai trăm chín mươi mét[bw] theo kích thước của cây đo ấy. 19 Sau đó người ấy đo cạnh phía tây, hai trăm chín mươi mét[bx] theo kích thước của cây đo ấy. 20 Người ấy đo cả bốn phía. Khu đền thờ có một bức tường bao quanh tứ phía, hai trăm chín mươi mét[by] chiều dọc và hai trăm chín mươi mét[bz] chiều ngang, để ngăn cách giữa khu vực thánh với nơi phàm tục.
Vinh Quang của Ðền Thờ
43 Sau đó người ấy đem tôi đến cổng, cổng hướng về phía đông. 2 Này, vinh quang của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên từ hướng đông chiếu rạng. Âm thanh nghe như âm thanh của các dòng nước lớn, và mặt đất rạng ngời vinh quang của Ngài. 3 Khải tượng tôi nhìn thấy giống như khải tượng tôi đã thấy khi Ngài đến hủy diệt thành, và giống như khải tượng tôi đã thấy bên bờ Sông Kê-ba. Bấy giờ tôi sấp mặt xuống đất. 4 Trong khi vinh quang của Chúa từ cổng phía đông tiến vào đền thờ, 5 Thần cất tôi lên và đem tôi vào sân trong, và này, vinh quang của Chúa tràn ngập đền thờ.
6 Trong khi người ấy đứng bên tôi, tôi nghe có tiếng từ trong đền thờ phán ra. 7 Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, đây là nơi Ta đặt ngai Ta, nơi Ta đặt hai bàn chân Ta, nơi Ta ở giữa dân I-sơ-ra-ên mãi mãi. Nhà I-sơ-ra-ên, tức chúng và các vua của chúng, sẽ không làm ô danh thánh Ta qua việc làm điếm và thờ xác chết các vua của chúng trong các đền miếu ở các nơi cao nữa. 8 Khi chúng đặt ngạch cửa chúng bên cạnh ngạch cửa Ta, các cột cửa lăng tẩm chúng kế bên các cột cửa đền Ta, thì chỉ có một bức tường ngăn cách giữa Ta với chúng; chúng đã làm ô danh thánh của Ta bằng những việc gớm ghiếc chúng làm. Vì thế Ta phải tiêu diệt chúng trong cơn giận của Ta. 9 Bây giờ chúng khá dẹp bỏ khỏi Ta các thần tượng của chúng và xác chết các vua của chúng thì Ta sẽ ở giữa chúng mãi mãi.
10 Về phần ngươi, hỡi con người, hãy mô tả đền thờ cho nhà I-sơ-ra-ên biết, hãy để chúng đo lấy mô hình, và hãy để chúng lấy làm xấu hổ về những tội lỗi của chúng. 11 Khi chúng đã lấy làm hổ thẹn về những gì chúng đã làm, hãy tỏ cho chúng biết về đồ án của đền thờ, vị trí các phòng ốc, các lối ra và các lối vào, tức toàn thể kiểu mẫu của nó và tất cả các quy luật của nó. Ngươi hãy viết ra trước mắt chúng để chúng thấy toàn thể kiểu mẫu của đền thờ và mọi luật lệ của nó hầu chúng vâng giữ và làm theo toàn bộ kiểu mẫu và mọi quy luật của nó. 12 Ðây là luật của đền thờ: toàn thể khu vực ở trên đỉnh núi và các vùng chung quanh sẽ là đất chí thánh. Ðó là luật của đền thờ.”
Bàn Thờ
13 Ðây sẽ là kích thước của bàn thờ tính theo cây thước đặc biệt, mỗi cây thước đặc biệt dài bằng một cây thước thường cộng chiều rộng một bàn tay.[ca] Bệ của bàn thờ dày gần sáu tấc và rộng gần sáu tấc;[cb] gờ quanh bệ cao bằng chiều rộng của bàn tay. Sau đây là chiều cao của bàn thờ: 14 Từ đế ở mặt đất cho đến gờ dưới, gần một mét hai,[cc] rộng gần sáu tấc;[cd] từ gờ nhỏ đến gờ lớn, hai mét ba,[ce] rộng gần sáu tấc.[cf] 15 Bồn lửa của bàn thờ để thiêu lễ vật cao hai mét ba.[cg] Ở bốn góc của bồn lửa có bốn sừng nhô lên. 16 Bồn lửa của bàn thờ có hình vuông, chiều dọc gần bảy mét[ch] và chiều ngang gần bảy mét. 17 Cái đế cũng hình vuông, chiều dọc dài hơn tám mét,[ci] và chiều ngang dài hơn tám mét. Xung quanh đế có một cái gờ dày khoảng ba tấc,[cj] cao khoảng sáu tấc.[ck] Các bậc cấp bước lên bồn lửa nằm về hướng đông.
18 Bấy giờ người ấy nói với tôi, “Hỡi con người, Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, ‘Ðây là những quy luật về bàn thờ: Trong ngày bàn thờ ấy được xây dựng để dâng của lễ thiêu ở trên nó và rắc máu trên nó, 19 ngươi hãy cho các tư tế người Lê-vi thuộc dòng dõi của Xa-đốc, những kẻ được đến gần Ta để phục vụ Ta,” Chúa Hằng Hữu phán, “một con bò đực tơ để làm của lễ chuộc tội. 20 Ngươi sẽ lấy một ít máu nó và bôi trên bốn sừng của bàn thờ, trên bốn góc của đế bàn thờ, và trên cái gờ xung quanh bàn thờ. Như thế ngươi sẽ thanh tẩy nó và chuộc tội cho nó. 21 Ngươi sẽ lấy con bò làm của lễ chuộc tội và đem thiêu nó ở một nơi được chỉ định trong khu vực đền thờ, nhưng ở bên ngoài khu vực thánh.
22 Trong ngày thứ hai, ngươi sẽ dâng một con dê đực không tì vết làm của lễ chuộc tội, và làm nghi thức thanh tẩy bàn thờ giống như cách đã dùng con bò tơ để thanh tẩy bàn thờ. 23 Khi ngươi đã thanh tẩy bàn thờ xong, ngươi sẽ dâng một con bò tơ đực không tì vết và một con chiên đực không tì vết bắt từ trong bầy. 24 Khi ngươi dâng chúng trước mặt Chúa, các tư tế sẽ rảy muối trên chúng, rồi dâng chúng làm của lễ thiêu lên Chúa. 25 Trong bảy ngày, mỗi ngày ngươi sẽ dâng một con dê đực để làm của lễ chuộc tội; ngươi cũng sẽ dâng một con bò đực tơ và một con chiên đực bắt từ trong bầy, cả hai con đều không tì vết. 26 Trong bảy ngày, chúng sẽ chuộc tội cho bàn thờ và thanh tẩy nó, và như thế chúng sẽ làm cho nó ra thánh. 27 Khi những ngày ấy qua rồi, từ ngày thứ tám trở đi, các tư tế sẽ dâng trên bàn thờ các của lễ thiêu của các ngươi và các của lễ cầu an của các ngươi, rồi Ta sẽ chấp nhận các ngươi,’” Chúa Hằng Hữu phán.
Cổng Phía Ðông Bị Ðóng
44 Sau đó người ấy đem tôi trở lại cổng ở bên ngoài đền thánh, tức cổng nhìn về hướng đông, và cổng ấy đang bị đóng. 2 Chúa phán với tôi, “Cổng nầy sẽ tiếp tục bị đóng. Nó sẽ không được mở ra, và không ai sẽ đi vào cổng ấy. Vì Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, đã đi vào cổng ấy, cho nên nó sẽ bị đóng lại. 3 Duy chỉ người lãnh đạo, vì vai trò của nó là người lãnh đạo, nên nó sẽ được phép ngồi ở cổng đó và ăn bánh trước mặt Chúa; nhưng nó chỉ được đi vào khu vực của cổng qua ngả tiền đình và cũng đi ra qua ngả đó.”
Quy Luật Về Việc Ðược Vào Ðền Thờ
4 Sau đó người ấy đem tôi đi qua cổng bắc để vào phía trước đền thờ. Tôi nhìn, và này, vinh hiển của Chúa tràn ngập đền thờ của Chúa; tôi liền sấp mặt xuống đất. 5 Chúa phán với tôi, “Hỡi con người, hãy cố gắng ghi nhớ, hãy nhìn cho kỹ, và hãy nghe cho rõ mọi điều Ta sẽ phán với ngươi về mọi quy tắc liên quan đến đền thờ của Chúa và mọi luật lệ liên quan đến nơi ấy. Hãy chú ý đến việc đi vào đền thờ và việc đi ra khỏi nơi thánh. 6 Ngươi hãy nói với phường phản loạn, tức nhà I-sơ-ra-ên, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Hỡi nhà I-sơ-ra-ên, những việc gớm ghiếc các ngươi làm đã quá đủ rồi. 7 Các ngươi đã đem những người ngoại quốc lòng không được cắt bì và xác không được cắt bì vào trong nơi thánh của Ta, tức vào trong nhà của Ta, khiến cho nó ra ô uế. Các ngươi đem dâng lên Ta thực phẩm, tức mỡ và máu, rồi lại vi phạm giao ước Ta bằng mọi việc gớm ghiếc của các ngươi. 8 Các ngươi đã không quản lý các việc thánh của Ta, nhưng đã lập những người ngoại quốc lên để quản lý những việc trong nơi thánh của Ta thay cho các ngươi.” 9 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Không một người ngoại quốc nào lòng không được cắt bì và xác không được cắt bì sẽ được vào trong nơi thánh của Ta, ngay cả những người ngoại quốc đang sống giữa dân I-sơ-ra-ên cũng không được.”’
Các Tư Tế Người Lê-vi
10 Những người Lê-vi đã lìa bỏ Ta khi dân I-sơ-ra-ên đi lạc, tức khi chúng lìa bỏ Ta để theo các thần tượng của chúng, phải mang lấy hậu quả tội lỗi của chúng. 11 Dù vậy chúng sẽ được làm những người phục vụ trong nơi thánh của Ta, canh gác ở các cổng đền thờ, và phục vụ những công việc trong đền thờ. Chúng sẽ sát tế các con thú được dâng làm của lễ thiêu và những con vật hiến tế cho dân, và chúng sẽ đứng trước mặt dân mà phục vụ dân. 12 Nhưng vì trước kia chúng đã phục vụ dân trước các thần tượng, và vì thế đã xui cho dân phạm tội, nên Ta đã đưa tay Ta ra chống lại chúng,” Chúa Hằng Hữu phán. “Chúng phải mang lấy hậu quả của tội lỗi chúng. 13 Chúng sẽ không được lại gần Ta để thi hành chức vụ tư tế đối với Ta. Chúng sẽ không được lại gần các vật thánh nào của Ta, tức những vật cực thánh của Ta, nhưng chúng phải mang lấy nỗi xấu hổ về mọi tội lỗi gớm ghiếc chúng đã phạm. 14 Dù vậy Ta sẽ lập chúng làm những kẻ quản lý đền thờ, để phục vụ mọi việc ở đó và làm mọi việc cần phải làm ở đó.
15 Riêng các tư tế thuộc dòng Lê-vi, các con cháu của Xa-đốc, những người đã trung tín quản lý nơi thánh của Ta khi dân I-sơ-ra-ên lìa bỏ Ta, chính chúng sẽ đến gần Ta để phục vụ Ta, chúng sẽ đến trước mặt Ta để dâng lên Ta mỡ và máu,” Chúa Hằng Hữu phán. 16 “Chỉ có chúng mới được vào nơi thánh của Ta, và chỉ có chúng mới được đến bàn của Ta để phục vụ Ta, và chúng sẽ quản lý các công việc Ta. 17 Khi chúng vào các cổng của sân trong, chúng phải mặc bộ lễ phục bằng vải gai mịn. Không ai được phép mặc y phục bằng len khi phục vụ tại các cổng ở sân trong hoặc vào bên trong đền thờ.
18 Chúng sẽ đội mũ tế bằng vải gai mịn và mặc quần đùi từ ngang lưng trở xuống. Chúng sẽ không được buộc gì quanh thân khiến bị toát mồ hôi. 19 Khi chúng đi ra sân ngoài, nơi dân chúng đứng thờ phượng, chúng phải cổi bộ y phục thánh chúng mặc để phục vụ ra và để nó lại trong các phòng thánh, rồi chúng sẽ mặc bộ y phục khác vào mà đi ra để chúng không lây thánh cho dân vì bộ y phục thánh chúng mặc. 20 Chúng không được cạo trọc đầu và cũng không được để tóc mọc dài, nhưng phải cắt tỉa đầu tóc cho gọn gàng. 21 Không tư tế nào được uống rượu khi sắp sửa vào sân trong để hành lễ. 22 Chúng không được cưới các góa phụ hay các phụ nữ ly dị làm vợ, nhưng chúng phải cưới các trinh nữ trong dòng dõi I-sơ-ra-ên hay chúng có thể lấy vợ góa của một tư tế làm vợ. 23 Chúng phải dạy cho dân biết phân biệt giữa thánh khiết và phàm tục, giữa thanh sạch và ô uế. 24 Trong việc kiện cáo, chúng phải làm thẩm phán để tuyên án theo phán quyết của Ta. Chúng phải tuân giữ các luật pháp Ta và các luật lệ Ta trong mọi cuộc lễ hội đã ấn định, và chúng phải làm cho ngày Sa-bát của Ta ra thánh. 25 Các tư tế không được làm cho chúng ra ô uế vì đến gần xác người chết, ngoại trừ người chết là cha hay mẹ, con trai hay con gái, anh em hay chị em chưa lập gia đình; trong các trường hợp ấy, chúng có thể để cho mình bị ô uế. 26 Tư tế nào vì người thân qua đời mà bị ô uế thì sau khi được tẩy sạch, tư tế ấy phải đợi thêm bảy ngày nữa. 27 Vào ngày tư tế ấy vào sân trong của đền thánh để phục vụ trong nơi thánh, tư tế ấy phải dâng một của lễ chuộc tội cho mình,” Chúa Hằng Hữu phán.
28 “Về sản nghiệp dành cho chúng: Ta chính là sản nghiệp của chúng. Các ngươi sẽ không cho chúng phần sở hữu nào trong I-sơ-ra-ên, vì Ta là sản nghiệp của chúng. 29 Chúng sẽ ăn các của lễ chay, các của lễ chuộc tội, và các của lễ chuộc lỗi. Bất cứ thứ gì trong I-sơ-ra-ên được dâng hiến lên Chúa sẽ thuộc về chúng. 30 Tất cả các lễ vật đầu mùa của mọi thứ lễ vật đầu mùa và các của dâng trong mọi thứ của dâng của các ngươi sẽ thuộc về các tư tế. Các ngươi cũng sẽ cho tư tế một phần bột đầu mùa của các ngươi, để phước hạnh sẽ ở mãi trong nhà các ngươi. 31 Các tư tế sẽ không được ăn thịt bất cứ con vật nào đã chết hay bị thú dữ cắn xé, bất kể là loài chim hay thú vật.”
Khu Vực Biệt Riêng Ra Thánh
45 “Khi các ngươi bắt thăm chia xứ để nhận làm sản nghiệp, các ngươi phải dành một khu vực và biệt riêng nó ra làm khu vực thánh cho Chúa. Ðó là khu vực thánh cho cả nước. Chiều dài của nó sẽ là mười bốn ký-lô mét rưỡi,[cl] và chiều rộng của nó sẽ gần sáu ký-lô mét.[cm] Toàn thể khu vực đó sẽ là vùng đất thánh. 2 Trong khu vực đó, một mảnh đất chiều dọc hai trăm chín mươi mét[cn] và chiều ngang hai trăm chín mươi mét[co] sẽ được dùng để cất đền thánh, và chung quanh mảnh đất để cất đền thánh đó là một vòng đai đất trống, rộng chừng hai mươi chín mét.[cp] 3 Như vậy khu vực ấy –ngươi phải đo một vùng đất dài mười bốn ký-lô mét rưỡi,[cq] và rộng gần sáu ký-lô mét[cr]– sẽ là vùng đất thánh và trong đó sẽ có nơi cực thánh. 4 Vùng đất thánh ấy được dành cho các tư tế, những người phục vụ trong nơi thánh, những người sẽ đến gần để hầu việc Chúa; đó sẽ là nơi để họ xây nhà ở và là nơi thánh để xây đền thánh. 5 Một khu vực kế cận có chiều dài mười bốn ký-lô mét rưỡi,[cs] và chiều rộng gần sáu ký-lô mét[ct] sẽ được dành cho người Lê-vi, những người làm việc ở đền thờ. Ðó là phần sở hữu của họ để làm các khu phố[cu] của họ. 6 Các ngươi cũng sẽ dành một khu vực nữa kế cận khu vực thánh, có chiều rộng gần ba ký-lô mét[cv] và chiều dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[cw] để làm thành phố, hầu ai trong dân I-sơ-ra-ên cũng có thể đến sống ở đó.
Phần Ðất Dành Cho Chính Quyền
7 Nhà cầm quyền trong nước cũng sẽ được dành cho hai vùng đất. Hai vùng sẽ nằm dọc theo và giáp giới với khu vực thánh và khu vực thuộc thành phố. Ranh giới của vùng phía tây sẽ giáp giới với lãnh thổ của chi tộc ở phía tây, và ranh giới của vùng phía đông sẽ giáp giới với lãnh thổ của chi tộc ở phía đông. 8 Hai vùng đất đó sẽ là phần sở hữu của kẻ cầm quyền trong I-sơ-ra-ên. Như thế những kẻ cầm quyền của Ta sẽ không áp bức dân Ta nữa, và chúng sẽ chia đất đai còn lại trong nước cho nhà I-sơ-ra-ên, theo từng chi tộc của chúng.”
9 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Hỡi những kẻ cầm quyền trong I-sơ-ra-ên: Ðủ rồi! Hãy bỏ ngay hung tàn và bạo ngược. Hãy thi hành công lý và lẽ phải. Chớ cướp đoạt dân Ta nữa,” Chúa Hằng Hữu phán.
Cân Lượng và Ðong Lường
10 “Các ngươi phải dùng cái cân chính xác, dụng cụ để đong vật khô chính xác, và dụng cụ để đong chất lỏng chính xác. 11 Dung lượng của ê-pha[cx] phải bằng với dung tích của bát.[cy] Một bát phải bằng một phần mười hô-me,[cz] và một ê-pha cũng bằng một phần mười hô-me. Hô-me sẽ là đơn vị đong lường làm chuẩn cho cả hai. 12 Một sê-ken[da] bằng hai mươi ghê-ra.[db] Hai mươi sê-ken cộng hai mươi lăm sê-ken cộng mười lăm sê-ken bằng một mi-na[dc] cho các ngươi.
Các Của Lễ
13 Ðây sẽ là của lễ mà các ngươi sẽ dâng: cứ mỗi hô-me lúa mì các ngươi sẽ lấy ra một phần sáu của một ê-pha mà dâng, và cứ mỗi hô-me lúa mạch các ngươi cũng lấy ra một phần sáu của một ê-pha mà dâng.[dd] 14 Còn quy tắc về việc dâng dầu thì các ngươi sẽ dâng theo dung tích của bát. Cứ mỗi cô-rơ[de] dầu các ngươi trích ra một phần mười của một bát mà dâng.[df] Một cô-rơ bằng một hô-me hay bằng mười bát, vì mười bát là một hô-me. 15 Còn về chiên, cứ mỗi đàn chiên có hai trăm con trong các đồng cỏ của I-sơ-ra-ên thì dâng một con.
Ðó là quy luật về việc dâng các của lễ chay, các của lễ thiêu, và các của lễ cầu an hầu chuộc tội cho những kẻ dâng,” Chúa Hằng Hữu phán.
16 “Mọi người trong nước sẽ góp phần với nhà cầm quyền I-sơ-ra-ên trong việc dâng hiến. 17 Tuy nhiên nhà cầm quyền sẽ chịu trách nhiệm trong việc cung cấp các lễ vật cho các của lễ thiêu, các của lễ chay, và các của lễ quán trong các kỳ lễ hội, các ngày trăng mới, và các ngày Sa-bát, nói chung là tất cả các kỳ lễ hội của nhà I-sơ-ra-ên. Nhà cầm quyền sẽ cung cấp các của lễ chuộc tội, các của lễ chay, các của lễ thiêu, và các của lễ cầu an để dâng lên chuộc tội cho nhà I-sơ-ra-ên.”
Các Ngày Lễ
18 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Ngày mồng một tháng giêng, ngươi hãy bắt một con bò đực tơ không tì vết và cử hành nghi thức thanh tẩy đền thờ. 19 Tư tế sẽ lấy một ít máu của con vật làm của lễ chuộc tội đem bôi trên các trụ cửa đền thờ, trên bốn góc của gờ bàn thờ, và trên các trụ ở cổng vào sân trong của khuôn viên đền thờ.
20 Ngày mồng bảy của tháng đó, ngươi cũng sẽ làm như vậy cho những ai không cố ý mà phạm tội hoặc phạm tội mà không biết. Như thế ngươi sẽ chuộc tội cho đền thờ.
21 Ngày mười bốn tháng giêng, các ngươi sẽ giữ Lễ Vượt Qua, một kỳ lễ kéo dài bảy ngày. Trong thời gian đó các ngươi sẽ ăn bánh không men. 22 Trong ngày đầu của kỳ lễ, người cầm quyền trong nước sẽ dâng một con bò đực tơ làm của lễ chuộc tội cho chính mình và cho toàn dân trong nước. 23 Suốt kỳ lễ bảy ngày đó, mỗi ngày người cầm quyền trong nước sẽ cung cấp bảy con bò đực tơ và bảy con chiên đực không tì vết để làm của lễ thiêu dâng lên Chúa, và một con dê đực tơ để làm của lễ chuộc tội. 24 Người cầm quyền trong nước cũng sẽ cung cấp một của lễ chay gồm hai mươi hai lít[dg] bột cho mỗi con bò đực tơ, hai mươi hai lít[dh] bột cho mỗi con chiên đực, và bốn lít[di] dầu ô-liu cho hai con vật hiến tế đó.
25 Trong kỳ lễ kéo dài bảy ngày, bắt đầu vào ngày mười lăm tháng bảy[dj] mỗi năm, người cầm quyền trong nước cũng sẽ cung cấp các của lễ như vậy cho của lễ chuộc tội, của lễ thiêu, của lễ chay, với số dầu cần thiết để dâng chung với mỗi lễ vật.”
Các Quy Luật Khác
46 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Cổng hướng về phía đông để vào sân trong sẽ đóng kín suốt sáu ngày làm việc, nhưng đến ngày Sa-bát cổng ấy phải mở ra; và vào những ngày trăng mới, cổng ấy cũng phải mở ra. 2 Người cầm quyền trong nước sẽ từ bên ngoài đi vào qua lối vào của tiền đình và đứng bên trụ cổng. Các tư tế sẽ thi hành nghi thức dâng của lễ thiêu và các của lễ cầu an do người ấy mang đến. Người ấy sẽ thờ phượng ở trước cổng rồi đi ra, tuy nhiên cổng sẽ không bị đóng lại cho đến chiều tối. 3 Tương tự, vào những ngày Sa-bát và những ngày trăng mới, dân trong nước sẽ đến thờ phượng trước mặt Chúa ở phía trước lối vào cổng ấy.
4 Của lễ thiêu mà người cầm quyền trong nước sẽ đem đến dâng cho Chúa vào mỗi ngày Sa-bát là sáu con chiên đực con và một con chiên đực đã trưởng thành, tất cả đều không tì vết. 5 Của lễ chay đi chung với con chiên đã trưởng thành là hai mươi hai lít[dk] bột, còn của lễ chay đi chung với sáu con chiên đực con thì tùy lòng người ấy. Tuy nhiên cứ mỗi hai mươi hai lít[dl] bột thì dâng theo bốn lít[dm] dầu.
6 Trong ngày trăng mới người cầm quyền trong nước sẽ dâng một con bò đực tơ không tì vết, sáu con chiên đực con và một con chiên đực đã trưởng thành, tất cả đều không tì vết. 7 Người ấy cũng sẽ chuẩn bị một của lễ chay gồm hai mươi hai lít[dn] bột dâng chung với con bò đực tơ, hai mươi hai lít[do] bột dâng chung với con chiên đực đã trưởng thành, còn của lễ chay dâng chung với sáu con chiên đực con thì tùy lòng người ấy. Tuy nhiên cứ mỗi hai mươi hai lít[dp] bột thì dâng theo bốn lít[dq] dầu. 8 Khi người cầm quyền trong nước đi vào, người ấy sẽ đi qua lối vào của tiền đình, và người ấy cũng sẽ đi ra qua lối ấy.
9 Khi dân trong nước đến thờ phượng trước mặt Chúa vào những ngày đại lễ, ai vào bằng cổng bắc sẽ đi ra bằng cổng nam, còn ai vào bằng cổng nam sẽ đi ra bằng cổng bắc; chúng sẽ không trở lại cổng mà chúng đã đi vào, nhưng chúng sẽ đi thẳng tới trước. 10 Khi chúng đi vào, người cầm quyền trong nước sẽ đi vào với chúng, khi chúng đi ra, người ấy cũng đi ra.
11 Vào các ngày lễ hội hoặc các kỳ đại lễ, của lễ chay dâng chung với con bò đực tơ sẽ là hai mươi hai lít[dr] bột, dâng chung với con chiên đực đã trưởng thành là hai mươi hai lít[ds] bột, và dâng chung với sáu con chiên đực con thì tùy lòng người ấy. Tuy nhiên cứ mỗi hai mươi hai lít[dt] bột thì dâng theo bốn lít[du] dầu. 12 Khi người cầm quyền trong nước tự ý dâng một của lễ để bày tỏ lòng biết ơn, bất kể đó là của lễ thiêu hay của lễ cầu an để làm một của lễ tự ý dâng lên Chúa hầu bày tỏ lòng biết ơn, thì hãy mở cổng hướng về phía đông cho người ấy, và người ấy sẽ dâng của lễ thiêu của mình hoặc của lễ cầu an của mình giống như người ấy làm trong ngày Sa-bát. Sau đó người ấy sẽ đi ra, và sau khi người ấy đi ra, cổng sẽ đóng lại.
13 Mỗi ngày ngươi sẽ cung cấp một con chiên một tuổi không tì vết để làm của lễ thiêu dâng lên Chúa. Mỗi buổi sáng ngươi sẽ cung cấp như thế. 14 Ngoài ra, đều đặn mỗi buổi sáng ngươi sẽ dâng một của lễ chay gồm ba lít rưỡi[dv] bột, với một lít ba[dw] dầu để nhào bột thượng hạng làm của lễ chay dâng lên Chúa. Ðây là quy luật phải giữ mãi mãi. 15 Như vậy con chiên, bột làm của lễ chay, và dầu phải được cung cấp mỗi buổi sáng để làm của lễ thiêu dâng lên đều đặn.”
16 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Nếu người cầm quyền lấy bất cứ phần nào trong sản nghiệp của nó để cho các con nó, những phần đó sẽ thành sản nghiệp của các người con đó. Chúng sẽ thuộc về phần sở hữu của các người con đó mãi mãi vì do thừa hưởng. 17 Nhưng nếu nó lấy bất cứ phần nào trong sản nghiệp của nó mà cho các tôi tớ nó, những phần đó sẽ là tài sản của các người đó cho đến năm tự do;[dx] sau năm đó các phần tài sản ấy phải trả về cho người cầm quyền. Chỉ các con nó mới được quyền giữ luôn phần sản nghiệp nó cho mà thôi. 18 Người cầm quyền không được phép lấy bất cứ sản nghiệp nào của dân. Nó không được dùng quyền lực để cưỡng ép bất cứ người dân nào phải từ bỏ phần sản nghiệp mình. Nó chỉ có thể chia gia tài cho các con nó lấy từ sản nghiệp của nó mà thôi, để không ai trong dân Ta bị mất quyền sở hữu sản nghiệp của mình.”
Các Nhà Bếp của Ðền Thờ
19 Sau đó người ấy đem tôi đi qua lối vào ở bên cạnh cổng để đến các phòng thánh hướng mặt về phía bắc; đó là các phòng dành cho các tư tế, và này, có một nơi ở tận cùng về phía tây. 20 Người ấy nói với tôi, “Ðây là nơi các tư tế nấu thịt các của lễ chuộc lỗi và các của lễ chuộc tội, cùng nướng bánh cho của lễ chay, để khỏi phải đem các vật thánh ra sân ngoài mà lây thánh cho dân.”
21 Sau đó người ấy đem tôi ra sân ngoài và dẫn tôi đi qua bốn góc sân; và này, ở mỗi góc sân có một cái sân nhỏ. 22 Ở bốn góc của sân ngoài, mỗi nơi đều có một sân nhỏ. Sân nhỏ ấy dài hơn hai mươi ba[dy] mét và rộng gần mười bảy mét rưỡi.[dz] Cả bốn sân nhỏ ấy đều cùng một kích thước. 23 Có một bức tường bao bọc chung quanh mỗi sân. Ở chân tường quanh sân có những cái lò để nấu nướng. 24 Người ấy nói với tôi, “Ðây là các bếp để những người phục vụ trong đền thờ nấu nướng các của lễ do dân đem dâng.”
Nước Từ Ðền Thờ Chảy Ra
47 Sau đó người ấy đem tôi trở lại lối vào đền thờ, và này, có nước từ dưới ngạch cửa của đền thờ chảy ra hướng đông, vì đền thờ hướng về phía đông. Nước chảy ra từ dưới và phía bên phải của ngạch cửa đền thờ, rồi chảy dọc theo phía nam của bàn thờ. 2 Kế đó người ấy đem tôi ra qua cổng ở phía bắc, rồi dẫn tôi đi vòng bên ngoài đến cổng ngoài là cổng nhìn về hướng đông, và này, nước từ bên phải của đền thờ cứ chảy ra. 3 Người ấy cầm cây đo trong tay và đi về hướng đông. Người ấy đo năm trăm tám mươi[ea] mét, rồi dẫn tôi lội qua nước; nước ngập đến mắt cá. 4 Người ấy đo năm trăm tám mươi mét nữa, rồi dẫn tôi lội qua nước; nước ngập đến đầu gối. Người ấy lại đo thêm năm trăm tám mươi mét nữa, rồi dẫn tôi lội qua nước; nước ngập đến ngang hông. 5 Người ấy tiếp tục đo thêm năm trăm tám mươi mét nữa, bấy giờ nó đã thành một con sông, và tôi không thể lội qua được, vì nước đã quá sâu; đó là một dòng sông phải bơi mới được, thật là một con sông lớn không thể lội bộ qua được. 6 Người ấy nói với tôi, “Hỡi con người, ngươi có thấy không?”
Sau đó người ấy đem tôi trở lại bờ sông. 7 Khi tôi trở lại, và này, ở hai bên bờ sông có rất nhiều cây. 8 Người ấy nói với tôi, “Dòng nước nầy chảy về miền đông, chảy xuống vùng A-ra-ba, rồi chảy vào Biển Chết. Khi nó chảy vào Biển Chết, nước biển ở đó sẽ được chữa lành và biến thành nước ngọt. 9 Khi dòng nước ấy chảy đến đâu, các sinh vật bơi lội lúc nhúc sẽ sống đến đó. Khi dòng nước ấy chảy đến nơi nào, nơi đó sẽ có rất nhiều cá, vì nước ở đó sẽ được chữa lành; và hễ dòng nước ấy chảy đến đâu, mọi vật ở nơi đó sẽ sống. 10 Các ngư phủ sẽ đứng dọc trên bờ; từ Ên Ghê-đi cho đến Ên Éc-la-im, nơi nào cũng sẽ thấy có lưới giăng ra phơi. Cá đủ loại sẽ rất nhiều, nhiều như cá ngoài Biển Lớn.[eb] 11 Nhưng nước ở các đầm lầy và các vũng sẽ không biến thành nước ngọt, chúng sẽ vẫn là nước mặn. 12 Dọc hai bên bờ sông sẽ mọc đủ loại cây ăn trái. Lá chúng sẽ không héo úa, trái chúng sẽ không rụng non, nhưng mỗi tháng chúng sẽ ra trái mới, vì nước nuôi chúng chảy ra từ nơi thánh. Trái chúng được dùng để ăn, còn lá chúng được dùng để chữa bịnh.”
Copyright © 2011 by Bau Dang