Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Công Vụ Các Sứ đồ 16:38-28:16

38 Các cảnh sát về báo cáo những lời ấy với các quan tòa. Khi các quan tòa nghe rằng hai ông là công dân La-mã, họ hoảng sợ. 39 Họ liền đến, năn nỉ hai ông, đưa hai ông ra khỏi ngục, và xin hai ông rời khỏi thành.

40 Sau khi ra khỏi ngục, hai ông đến nhà bà Ly-đi-a. Khi gặp các anh chị em tín hữu, hai ông khuyên nhủ họ, rồi từ giã lên đường.

Phao-lô và Si-la tại Thê-sa-lô-ni-ca

17 Sau khi Phao-lô và Si-la đi qua Thành Am-phi-pô-li và Thành A-pô-lô-ni-a, họ đến Thành Thê-sa-lô-ni-ca; ở đó có một hội đường của người Do-thái. Theo thói quen Phao-lô đến hội đường và liên tiếp ba ngày Sa-bát luận giải Kinh Thánh với họ. Ông giải thích và chứng minh rằng Ðấng Christ phải chịu khổ hình và phải sống lại từ cõi chết. Ông bảo, “Ðức Chúa Jesus này, Ðấng tôi rao giảng cho anh chị em, chính là Ðấng Christ.”

Một số người được thuyết phục và nhập theo Phao-lô và Si-la; trong số đó có nhiều người Hy-lạp theo Do-thái Giáo cách sùng kính và khá đông quý bà thuộc giới thượng lưu trong thành. Nhưng những người Do-thái không tin sinh lòng ganh tị; họ dẫn theo một số côn đồ ngoài chợ, tập họp một đám đông, và gây nên một cuộc náo loạn trong thành. Họ kéo đến nhà của Gia-sôn kiếm Phao-lô và Si-la để đem ra trước đám đông. Nhưng khi không tìm được hai ông, họ bắt Gia-sôn và một số anh chị em, lôi những người ấy đến trước chính quyền thành phố, rồi lớn tiếng tố cáo, “Những kẻ làm cho thế giới đảo lộn này bây giờ đang ở đây, thế mà Gia-sôn đã chứa chấp bọn chúng. Chúng đã nghịch lại những sắc chỉ của Hoàng Ðế Sê-sa, bảo rằng có một vua khác là Jesus.”

Dân chúng và những người lãnh đạo trong thành nghe thế thì bối rối. Nhưng sau khi họ nhận tiền thế chân cho Gia-sôn và các tín hữu, họ thả những người ấy ra.

Phao-lô và Si-la tại Bê-rê

10 Tối hôm đó anh chị em lập tức đưa Phao-lô và Si-la qua Thành Bê-rê. Khi vừa đến nơi, hai ông đi ngay đến hội đường của người Do-thái.

11 Những người Do-thái ở đây có trình độ[a] hơn những người ở Thê-sa-lô-ni-ca. Họ ghi nhận sứ điệp[b] với tất cả nhiệt tâm và ngày nào cũng tra xem Kinh Thánh[c] để xem những điều được nghe giảng có đúng không. 12 Vì thế nhiều người giữa họ tin theo, cùng với một số phụ nữ Hy-lạp thuộc giới thượng lưu và một số quý ông người Hy-lạp.

13 Nhưng khi những người Do-thái ở Thê-sa-lô-ni-ca nghe rằng Phao-lô đã đến Bê-rê rao giảng Ðạo[d] của Ðức Chúa Trời, họ cũng kéo đến đó, sách động và gây náo loạn dân chúng.

14 Anh chị em tín hữu lập tức đưa Phao-lô xuống thuyền vượt biển, chỉ giữ Si-la và Ti-mô-thê ở lại Bê-rê. 15 Những người hộ tống Phao-lô đưa ông đến tận Thành A-thên; sau đó họ từ giã ông để trở về, mang theo chỉ thị, bảo Si-la và Ti-mô-thê phải đến với ông càng sớm càng tốt.

Phao-lô tại A-thên

16 Trong khi Phao-lô ở A-thên chờ Si-la và Ti-mô-thê đến, lòng ông nảy sinh bực bội, vì ông thấy thành phố đầy dẫy các tượng thần. 17 Vì thế ông đến hội đường để biện luận với những người Do-thái và những người dân ngoại tin theo Do-thái Giáo; ngày nào ông cũng ra khu hành chính thương mại để biện luận với bất cứ người nào ông gặp. 18 Cũng có mấy triết gia thuộc trường phái Khoái Lạc[e] và trường phái Khắc Kỷ[f] tranh luận với ông. Có người nói, “Người lắm lời này muốn nói gì?” Những người khác bảo, “Dường như ông ấy muốn rao giảng về các thần ngoại quốc nào đó.” Số là Phao-lô đã giảng cho họ Tin Mừng của Ðức Chúa Jesus và sự sống lại.

19 Họ đưa ông đến A-rê-ô-pa-gu[g] và yêu cầu, “Chúng tôi có thể biết giáo lý mới mà ông giảng là gì không? 20 Vì những điều ông đem đến nghe lạ tai với chúng tôi lắm. Chúng tôi muốn biết những điều đó có nghĩa gì.” 21 Số là người A-thên và các kiều dân ở đó không thích gì hơn là dành thì giờ để bàn tán hay nghe ngóng những gì mới lạ.

22 Bấy giờ Phao-lô đứng giữa A-rê-ô-pa-gu và nói,

“Kính thưa quý vị là những người ở A-thên: Tôi nhận thấy quý vị có lòng tín ngưỡng hơn ai cả. 23 Vì tôi đã đi khắp thành phố của quý vị, xem xét kỹ những tượng thần quý vị đang thờ, và tôi thấy một bàn thờ, trên đó có khắc những chữ, ‘Thờ Thần Không Biết.’ Vậy vị thần mà quý vị thờ nhưng không biết đó chính là vị thần tôi rao giảng cho quý vị đây.

24 Ðức Chúa Trời là Ðấng dựng nên vũ trụ và mọi vật trong đó. Vì Ngài là Ðấng chủ tể của trời và đất, Ngài không ngự trong các đền thờ do tay loài người làm nên. 25 Ngài cũng không cần bàn tay loài người phục vụ như thể Ngài cần điều gì, vì chính Ngài ban sự sống và hơi thở cho mọi loài mọi vật.

26 Từ một người Ngài đã tạo nên mọi dân tộc đang sống trên khắp mặt đất. Ngài đã ấn định các mùa và ranh giới cho nơi họ ở, 27 để họ tìm kiếm Ðức Chúa Trời, và may ra họ có thể dò dẫm mà tìm được Ngài, mặc dù Ngài không ở xa mỗi người chúng ta; 28 vì ‘Trong Ngài chúng ta sống, động, và hiện hữu,’[h] như một vài thi sĩ của quý vị đã nói, ‘Chúng ta cũng là dòng giống của Ngài.’[i]

29 Vậy, vì là dòng giống của Ðức Chúa Trời, xin chúng ta đừng nghĩ rằng Ðức Chúa Trời giống như một tác phẩm bằng vàng, bạc, hoặc đá, do óc nghệ thuật và trí tưởng tượng của con người tạo nên. 30 Ðức Chúa Trời đã bỏ qua thời kỳ mông muội đó, nhưng bây giờ Ngài truyền rằng mọi người ở mọi nơi phải ăn năn, 31 vì Ngài đã định một ngày để phán xét cả thế gian theo lẽ công chính qua một Ðấng Ngài đã lập, và để xác nhận cho thẩm quyền của Ðấng ấy trước mọi người, Ngài đã làm cho Ðấng ấy sống lại từ cõi chết.”

32 Nhưng khi họ nghe nói đến sự sống lại của người chết, một vài người bắt đầu chế nhạo; rồi những người khác nói, “Chúng tôi sẽ nghe ông nói việc ấy vào một dịp khác.”

33 Nghe vậy Phao-lô bước ra khỏi những người ấy. 34 Nhưng có mấy người đi theo ông và tin. Trong số đó có Ði-ô-ni-si-u là thành viên của Hội Ðồng A-rê-ô-pa-gu, một bà tên là Ða-ma-ri, và một số người khác cùng tin với họ.

Phao-lô tại Cô-rinh-tô

Cộng Tác với A-qui-la và Pơ-rít-xi-la

18 Sau đó Phao-lô rời A-thên và đến Cô-rinh-tô. Tại đó ông gặp một người Do-thái tên là A-qui-la, sinh quán ở Pôn-tơ, cùng với vợ là Pơ-rít-xi-la, cả hai vừa từ I-ta-ly đến, bởi vì Hoàng Ðế Cơ-lau-đi-u đã ra lệnh cho mọi người Do-thái phải rời khỏi Rô-ma. Phao-lô đến thăm ông bà. Vì cùng nghề nên Phao-lô dọn vào ở chung nhà với ông bà để dễ làm việc với nhau, bởi họ đều làm nghề may lều. Cứ đến ngày Sa-bát, Phao-lô đến hội đường để biện luận và cố gắng thuyết phục cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp.

Sau khi Si-la và Ti-mô-thê từ Ma-xê-đô-ni-a đến, Phao-lô để trọn thì giờ vào việc giảng Ðạo.[j] Ông chứng minh cho người Do-thái thấy rằng Ðức Chúa Jesus chính là Ðấng Christ. Nhưng khi thấy họ chống đối và nói những lời xúc phạm, Phao-lô giũ áo ông và tuyên bố, “Máu của quý vị sẽ đổ lại trên đầu quý vị. Tôi đã hết trách nhiệm. Từ nay tôi sẽ đến với các dân ngoại.” Rồi ông rời khỏi đó và đến nhà của một người tên là Ti-ti-u Giúc-tu. Ông ấy là một người thờ phượng Ðức Chúa Trời; nhà của ông ở bên cạnh hội đường. Lúc ấy Cơ-rít-pu người quản lý hội đường và cả nhà ông đều tin Chúa. Nhiều người Cô-rinh-tô đã nghe Phao-lô giảng nên tin và chịu phép báp-têm.

Một đêm nọ, trong một khải tượng Chúa phán với Phao-lô, “Ðừng sợ. Cứ tiếp tục rao giảng và đừng im lặng, 10 vì Ta ở với con. Không ai có thể ra tay làm hại con, vì Ta có nhiều người trong thành này.” 11 Vì thế ông ở lại đó một năm sáu tháng và giảng dạy Ðạo[k] Ðức Chúa Trời cho họ.

Người Do-thái Ðưa Phao-lô Ra Tòa

12 Nhưng khi Ga-li-ô đến làm tổng trấn xứ A-chai, người Do-thái đồng lòng nổi dậy chống Phao-lô và đưa ông ra tòa. 13 Họ tố cáo, “Người này đã thuyết phục dân thờ phượng Ðức Chúa Trời cách trái luật.”

14 Khi Phao-lô toan mở miệng để biện hộ, Ga-li-ô nói với người Do-thái, “Hỡi những người Do-thái, nếu đây là vấn đề phạm pháp hay tội ác nghiêm trọng, tôi sẽ nhẫn nại nghe quý vị. 15 Nhưng nếu chỉ là vấn đề liên hệ đến tín ngưỡng,[l] danh xưng, và luật lệ riêng của quý vị, quý vị hãy tự giải quyết lấy; phần tôi, tôi không muốn xét xử những việc ấy đâu.” 16 Nói xong ông đuổi họ ra khỏi tòa. 17 Cả đám bèn túm lấy Sốt-then người quản lý hội đường và đánh ông túi bụi ngay trước tòa án, nhưng Ga-li-ô chẳng màng gì đến việc ấy.

Phao-lô Trở Về An-ti-ốt Xứ Sy-ri-a

18 Phao-lô ở tại Cô-rinh-tô một thời gian khá lâu, rồi ông từ biệt anh chị em tín hữu, xuống tàu trở về Sy-ri-a; có Pơ-rít-xi-la và A-qui-la đồng hành với ông. Khi đến Sen-cơ-rê, ông cạo đầu, vì ông có lời khấn nguyện. 19 Khi đến Ê-phê-sô, ông để các bạn đồng hành ở đó, rồi đích thân đến hội đường và biện luận với người Do-thái. 20 Họ yêu cầu ông ở lại đó lâu hơn nữa, nhưng ông từ chối. 21 Dầu vậy trước khi từ biệt họ, ông nói, “Nếu Ðức Chúa Trời muốn, tôi sẽ trở lại với quý vị.” Sau đó ông xuống tàu rời Ê-phê-sô. 22 Khi đến Sê-sa-rê, ông đi lên chào thăm hội thánh,[m] rồi đi xuống Thành An-ti-ốt.

Cuộc Hành Trình Truyền Giáo Thứ Ba của Phao-lô

23 Phao-lô ở đó một thời gian, rồi ông lại ra đi, trải qua khắp vùng Ga-la-ti và vùng Phi-ry-gi-a, làm vững mạnh tất cả các môn đồ.

A-pô-lô tại Ê-phê-sô

24 Khi ấy có một người Do-thái tên là A-pô-lô, quê ở A-léc-xan-ria, vừa đến Ê-phê-sô. Ông là người có khẩu tài và có kiến thức Kinh Thánh[n] vững vàng. 25 Ông đã được dạy về Ðạo[o] Chúa; với lòng nhiệt thành ông đã giảng và dạy cách chính xác về Ðức Chúa Jesus, mặc dù ông chỉ biết phép báp-têm của Giăng.[p] 26 Ông vào hội đường và bắt đầu giảng cách dạn dĩ, nhưng sau khi Pơ-rít-xi-la và A-qui-la nghe ông giảng, ông bà mời A-pô-lô về nhà và cắt nghĩa cho ông chính xác hơn về Ðạo[q] Ðức Chúa Trời. 27 Khi biết ông có ý muốn qua A-chai, anh chị em tín hữu khuyến khích ông và viết thư giới thiệu ông cho các môn đồ bên đó, dặn họ hoan nghinh ông. Khi đến nơi ông cậy ơn Chúa giúp ích các tín hữu rất nhiều, 28 vì ông đã công khai bác bẻ những người Do-thái cách mạnh mẽ và dùng Kinh Thánh chỉ cho họ thấy rằng Ðức Chúa Jesus chính là Ðấng Christ.

Phao-lô tại Ê-phê-sô

19 Trong khi A-pô-lô ở tại Cô-rinh-tô, Phao-lô đi qua vùng cao nguyên và đến Ê-phê-sô; tại đó ông gặp một số môn đồ. Ông hỏi họ, “Từ khi anh chị em tin, anh chị em đã nhận lãnh Ðức Thánh Linh chưa?”

Họ trả lời ông, “Chúng tôi chưa hề nghe ai nói có Ðức Thánh Linh bao giờ.”

Ông lại hỏi họ, “Vậy anh em đã chịu phép báp-têm nào?”

Họ trả lời, “Phép báp-têm của Giăng.”

Phao-lô nói, “Giăng làm báp-têm để người nhận phép báp-têm bày tỏ lòng ăn năn. Ông đã nói với dân rằng họ phải tin Ðấng đến sau ông, Ðấng đó chính là Ðức Chúa Jesus.”

Khi nghe như thế họ xin được nhận phép báp-têm trong danh Ðức Chúa Jesus. Khi Phao-lô đặt tay trên họ, Ðức Thánh Linh ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ[r] và nói tiên tri. Có tất cả chừng mười hai người.

Phao-lô vào hội đường và liên tiếp trong ba tháng, dạn dĩ giảng dạy, biện luận, và thuyết phục những người nghe về vương quốc Ðức Chúa Trời. Nhưng khi ở hội đường có một số người cứng lòng, không tin, mà còn nói xấu Ðạo[s] trước mặt đám đông, ông rời khỏi họ, đem các môn đồ riêng ra, và hằng ngày thảo luận với nhau trong trường học của Ty-ran-nu.[t] 10 Việc ấy cứ tiếp diễn luôn hai năm, đến nỗi mọi người trong toàn vùng A-si-a, cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp, đều được nghe Ðạo Chúa.[u]

Các Thầy Trừ Quỷ Bị Nhục

11 Ðức Chúa Trời đã dùng tay Phao-lô thực hiện những phép lạ phi thường, 12 đến nỗi người ta lấy những khăn tay và những khăn choàng đã chạm vào da thịt ông đem đặt trên những người bịnh thì những bịnh tật tan biến và các tà linh xuất ra.

13 Bấy giờ có mấy thầy trừ quỷ người Do-thái đi đây đó cũng thử dùng danh Ðức Chúa Jesus để đuổi các tà linh ra khỏi những người bị chúng ám. Họ nói, “Ta nhân danh Ðức Chúa Jesus mà Phao-lô giảng ra lịnh cho các ngươi.” 14 Ðó là việc làm của bảy con trai Sê-va, một vị trưởng tế người Do-thái.

15 Nhưng tà linh trả lời và nói với họ, “Ðức Chúa Jesus thì ta biết, và Phao-lô thì ta biết, nhưng các ngươi là ai?” 16 Rồi người bị tà linh nhập xông vào họ, đè cả bọn xuống, đánh đấm tơi bời, khiến họ phải bỏ nhà ấy vọt chạy thoát thân, thân thể trần truồng và mình đầy thương tích.

17 Khi việc ấy được mọi người Do-thái và Hy-lạp ở Ê-phê-sô biết, mọi người đều khiếp sợ, và danh của Ðức Chúa Jesus được tôn cao.

18 Lúc ấy cũng có nhiều tín hữu đến, thú nhận, và nói ra những việc mê tín họ làm. 19 Một số người trước kia làm nghề thầy pháp đã đem các sách vở đến đốt trước mặt mọi người. Người ta tổng cộng giá tiền các sách vở bị đốt lên đến năm mươi ngàn đồng bạc.[v] 20 Vậy Ðạo[w] Chúa cứ tăng trưởng cách đầy quyền năng và mạnh mẽ.

Các Dự Tính Truyền Giáo của Phao-lô

21 Sau khi các việc đó xảy ra Phao-lô được Ðức Thánh Linh thúc giục đi qua các miền Ma-xê-đô-ni-a và A-chai, rồi trở về Giê-ru-sa-lem; ông nói, “Sau khi tôi về đó, tôi cũng phải đi Rô-ma nữa.” 22 Vậy ông phái hai người phụ tá là Ti-mô-thê và Ê-ra-tu đi qua Ma-xê-đô-ni-a trước; còn ông, ông ở lại trong vùng A-si-a thêm một thời gian nữa.

Ðê-mê-triu Gây Loạn tại Ê-phê-sô

23 Lúc ấy có cuộc rối loạn không nhỏ xảy ra liên quan đến Ðạo.[x] 24 Số là có một người thợ bạc kia tên là Ðê-mê-triu; ông làm nghề đúc khám thờ bằng bạc cho Thần Ạc-tê-mít, nhờ đó các thợ thủ công đã có một nguồn lợi tức không nhỏ. 25 Ông tập họp các thợ thủ công và các đồng nghiệp của ông lại và nói, “Thưa các bạn, các bạn hẳn đã biết rằng nhờ nghề này chúng ta được giàu có. 26 Nhưng các bạn đã thấy và đã nghe đó: không những ở Ê-phê-sô, nhưng trong khắp vùng A-si-a, tên Phao-lô này đã thuyết phục và thay đổi quan niệm của rất đông người, bảo rằng những thần tượng do bàn tay người ta làm ra không phải là thần. 27 Ðiều đó không những gây nguy hiểm cho nghề nghiệp chúng ta bị chê bai, mà còn làm cho đền thờ của nữ thần vĩ đại Ạc-tê-mít bị coi chẳng ra gì, và nữ thần của chúng ta, được tôn thờ khắp cõi A-si-a và cả thế giới, sẽ bị diệt mất vẻ huy hoàng.”

28 Khi nghe như thế họ đùng đùng nổi giận và hô to rằng, “Vĩ đại thay là thần Ạc-tê-mít của người Ê-phê-sô!” 29 Cả thành đầy hỗn loạn; dân chúng ùn ùn kéo nhau đến hý trường, lôi theo Gai-út và A-ri-tạc là các bạn đồng hành của Phao-lô đến từ Ma-xê-đô-ni-a. 30 Phao-lô muốn ra gặp đám đông, nhưng các môn đồ không cho ông ra. 31 Ngay cả những viên chức lãnh đạo trong vùng A-si-a là các bạn của Phao-lô cũng nhắn tin và khuyên ông không nên mạo hiểm mà vào hý trường. 32 Trong khi đó tại hý trường, người la lên thể này, kẻ hô lên thể khác. Cả đám đông đều rối loạn và hầu hết không biết tại sao họ tập họp về đó. 33 Một vài người trong đám đông giục A-léc-xan-đơ, người mà dân Do-thái địa phương đẩy ra, để phát biểu. A-léc-xan-đơ ra dấu cho họ im lặng và toan nói mấy lời biện bạch trước đám đông. 34 Nhưng khi họ nhận ra ông là người Do-thái mọi người đồng thanh gào to gần hai tiếng đồng hồ rằng, “Vĩ đại thay là thần Ạc-tê-mít của người Ê-phê-sô!”

35 Cuối cùng viên thư ký thành phố đã bước ra trấn an đám đông và nói rằng:

“Kính thưa quý vị, những công dân của Thành Ê-phê-sô. Có ai trong nhân gian mà không biết rằng Thành Ê-phê-sô đã được chọn làm người bảo hộ cho đền thờ của đại nữ thần Ạc-tê-mít, và hình tượng của nữ thần đã từ trời rơi xuống chăng? 36 Những việc ấy không thể nào chối cãi được. Vậy xin quý vị hãy bình tĩnh và đừng làm gì nông nổi. 37 Quý vị đã giải những người này đến đây, nhưng họ không trộm cắp của đền thờ và cũng không nói phạm đến thần của chúng ta. 38 Vậy nếu Ðê-mê-triu và các thợ thủ công của ông muốn kiện cáo ai điều gì thì đã có các tòa án đang mở cửa; nơi đó có các quan chấp chính xét xử; hãy để họ đưa nhau ra tòa mà kiện cáo. 39 Nếu quý vị không còn vấn đề gì khác, xin hãy để việc ấy cho Hội Ðồng Pháp Luật giải quyết. 40 Vì thật vậy chúng ta có nguy cơ bị cáo buộc về tội nổi loạn đã xảy ra hôm nay, bởi chúng ta sẽ không có lý do chính đáng nào để giải thích sự rối loạn này cả.” 41 Sau khi ông đã nói như vậy, ông giải tán đám đông.

Phao-lô tại Ma-xê-đô-ni-a

20 Sau khi cuộc rối loạn đã yên, Phao-lô mời các môn đồ đến; sau khi nói những lời khuyên nhủ, ông từ giã họ, lên đường qua Ma-xê-đô-ni-a. Ông đi qua các miền đó, dùng nhiều lời khuyên nhủ các tín hữu, rồi đến Hy-lạp, và ở tại đó ba tháng. Vì người Do-thái đã lập mưu toan ám sát ông, nên khi sắp xuống tàu để về Sy-ri-a, ông đã quyết định đổi qua ngả Ma-xê-đô-ni-a để trở về.

Tháp tùng với ông có Sô-pa-tê con Pi-ru người Bê-rê, A-ri-tạc và Sê-cun-đu là hai người Thê-sa-lô-ni-ca, Gai-út người Ðẹc-bê, Ti-mô-thê, Ty-chi-cơ và Trô-phi-mu là hai người A-si-a. Những người ấy đã đi trước và đợi chúng tôi ở Trô-ách. Còn chúng tôi, sau những ngày của Lễ Bánh Không Men chúng tôi xuống tàu tại Phi-líp, và năm ngày sau chúng tôi đến Trô-ách và gặp lại họ; chúng tôi ở lại đó bảy ngày.

Phao-lô Giảng tại Trô-ách

Ngày thứ nhất trong tuần chúng tôi họp nhau lại để dự Lễ Bẻ Bánh. Phao-lô giảng dạy cho các tín hữu. Vì hôm sau ông phải ra đi, nên ông giảng lâu đến nửa đêm. Có nhiều đèn trong phòng trên lầu, nơi chúng tôi nhóm lại. Có một cậu thiếu niên kia tên là Êu-ty-cơ ngồi trên thành cửa sổ để nghe giảng. Trong khi Phao-lô giảng lâu, cậu ngủ gục; vì ngủ say quá, cậu té từ tầng lầu thứ ba xuống đất; khi người ta đỡ cậu dậy thì cậu đã chết rồi. 10 Phao-lô đi xuống, cúi xuống đỡ lấy cậu, ôm cậu vào lòng, và nói, “Ðừng bối rối, vì cháu còn sống.” 11 Ðoạn ông đi lên, dự Lễ Bẻ Bánh, và ăn với anh chị em. Sau đó ông tiếp tục nói chuyện với họ đến sáng, rồi ông ra đi. 12 Họ đưa cậu thiếu niên được sống lại ấy đi về, và họ được an ủi không ít.

Phao-lô Ghé Qua Mi-lê-tu

13 Chúng tôi xuống tàu và cho giăng buồm đến A-sốt, nơi chúng tôi dự tính sẽ đón Phao-lô, vì ông đã sắp xếp như vậy; ông muốn đi đường bộ một mình một chặng. 14 Khi chúng tôi gặp ông ở A-sốt, chúng tôi đón ông lên tàu và cùng đến Thành Mi-ty-len. 15 Chúng tôi rời đó, ngày hôm sau tàu chạy ngang qua Ðảo Chi-ô, ngày kế tiếp chúng tôi đến Ðảo Sa-mô, và ngày sau đó chúng tôi đến Mi-lê-tu. 16 Số là Phao-lô đã quyết định rằng chúng tôi chỉ đi ngang qua Ê-phê-sô, để ông khỏi mất thì giờ nhiều ở A-si-a, vì ông rất nóng lòng muốn trở về Giê-ru-sa-lem để, nếu có thể được, kịp dự Lễ Ngũ Tuần.

Phao-lô Giảng Từ Biệt tại Ê-phê-sô

17 Lúc ở tại Mi-lê-tu, Phao-lô cho người mang tin đến Ê-phê-sô mời các vị trưởng lão của hội thánh đến gặp ông. 18 Khi họ đến nơi, ông nói với họ:

“Thưa anh chị em, từ ngày đầu tiên tôi đặt chân đến A-si-a, tôi sống như thế nào, trong suốt thời gian đó, anh chị em đã biết rõ. 19 Tôi đã phục vụ Chúa với tất cả lòng khiêm nhường, nhiều khi phải đổ nước mắt, gặp bao nhiêu khó khăn thách thức do người Do-thái lập mưu hại tôi. 20 Tôi đã không giữ lại bất cứ điều gì có lợi cho anh chị em mà không tỏ cho anh chị em biết. Tôi đã giảng dạy cho anh chị em ở những nơi công cộng và tại các tư gia. 21 Tôi đã làm chứng cho người Do-thái lẫn người Hy-lạp biết rằng họ phải ăn năn, trở về cùng Ðức Chúa Trời, và phải tin thờ Ðức Chúa Jesus là Chúa chúng ta. 22 Giờ đây, được Ðức Thánh Linh trói buộc, tôi đang trên đường về Giê-ru-sa-lem và không biết điều gì sẽ xảy đến cho tôi tại đó, 23 ngoại trừ Ðức Thánh Linh xác chứng cho tôi biết rằng, trong mỗi thành, xiềng xích và hoạn nạn đang chờ đợi tôi. 24 Nhưng tôi chẳng coi mạng sống mình là quý, miễn sao tôi chạy xong chặng đường và hoàn tất chức vụ mà tôi đã nhận lãnh từ Ðức Chúa Jesus, để làm chứng về Tin Mừng của ân sủng Ðức Chúa Trời.

25 Giờ đây, tôi biết rằng tất cả anh chị em, những người tôi đã có dịp rao giảng về vương quốc, sẽ không gặp mặt tôi nữa. 26 Vì thế, hôm nay tôi tuyên bố với anh chị em rằng tôi đã hoàn tất trách nhiệm[y] đối với huyết của tất cả anh chị em, 27 vì tôi đã không giữ lại điều gì, nhưng đã tiết lộ mọi ý chỉ của Ðức Chúa Trời cho anh chị em.

28 Anh chị em hãy giữ lấy chính mình và cả đàn chiên mà Ðức Thánh Linh đã lập anh chị em làm những người coi sóc. Hãy chăn giữ hội thánh của Ðức Chúa Trời,[z] là hội mà Ngài đã mua bằng chính huyết Ngài.

29 Tôi biết rằng sau khi tôi đi, muông sói dữ tợn sẽ đến giữa anh chị em; chúng không tiếc bầy đâu. 30 Từ giữa anh chị em sẽ có những người dấy lên, nói những lời bẻ cong sự thật, để lôi kéo các môn đồ theo họ. 31 Vì vậy anh chị em hãy coi chừng. Hãy nhớ rằng trong ba năm, ngày đêm tôi không ngừng khuyên bảo mọi người, lắm khi phải đổ nước mắt. 32 Bây giờ tôi phó thác anh chị em cho Ðức Chúa Trời và cho Ðạo[aa] của ân sủng Ngài, là Ðạo có thể gây dựng anh chị em và ban cho anh chị em cơ nghiệp giữa mọi người được thánh hóa.

33 Tôi không ham bạc, vàng, hay áo quần của ai. 34 Anh chị em đã biết rõ rằng đôi tay này đã làm việc, để cung cấp nhu cầu của tôi và của những người đi với tôi. 35 Trong mọi sự, tôi đã bày tỏ cho anh chị em thấy rằng chúng ta phải giúp đỡ những người yếu, do đó chúng ta phải làm việc vất vả như thế. Hãy nhớ lại lời của Ðức Chúa Jesus, mà chính Ngài đã phán, ‘Ban cho có phước hơn nhận lãnh.’

36 Khi ông nói xong những lời ấy, ông quỳ xuống và cầu nguyện với mọi người có mặt tại đó. 37 Mọi người đều bật khóc thành tiếng, và họ ôm cổ ông mà hôn. 38 Họ buồn nhất là khi nghe ông nói rằng họ sẽ không gặp mặt ông nữa. Sau đó họ tiễn ông xuống tàu.

Phao-lô tại Ty-rơ

21 Sau khi từ giã họ chúng tôi xuống tàu và giăng buồm đi thẳng đến Ðảo Cốt; hôm sau chúng tôi đến Ðảo Rô-đơ, rồi từ đó đến Pa-ta-ra. Tại đó, khi tìm được một chiếc tàu đi Phô-ni-xi-a, chúng tôi xuống tàu và ra khơi. Khi thấy Ðảo Chíp-rơ, chúng tôi đi bọc về phía nam,[ab] nhắm hướng Sy-ri-a tiến tới, và cập bến tại Ty-rơ, vì tàu phải dỡ hàng tại đó. Chúng tôi đi tìm các môn đồ và ở lại đó bảy ngày. Do được Ðức Thánh Linh cảm thúc, họ cứ bảo Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên khi thời gian ở lại đó đã mãn, chúng tôi từ giã họ và tiếp tục cuộc hành trình. Tất cả anh em với vợ con họ tiễn chúng tôi ra tận bên ngoài thành. Chúng tôi cùng quỳ xuống trên bãi biển cầu nguyện, rồi chào giã biệt nhau. Sau đó chúng tôi lên tàu, còn họ trở về nhà.

Phao-lô tại Pơ-tô-lê-mai và Sê-sa-rê

Chuyến hải hành từ Ty-rơ chấm dứt khi chúng tôi đến Pơ-tô-lê-mai. Chúng tôi chào thăm các anh chị em và ở với họ một ngày. Hôm sau chúng tôi từ giã họ và đến Sê-sa-rê. Chúng tôi vào nhà của Phi-líp là nhà truyền giảng Tin Mừng, một trong bảy vị chấp sự đầu tiên, và ở lại đó với ông. Ông có bốn cô gái đồng trinh, cô nào cũng có ơn nói tiên tri. 10 Khi chúng tôi ở đó được mấy ngày, một vị tiên tri tên là A-ga-bút từ Giu-đê đến đó. 11 Ông đến thăm chúng tôi. Ông lấy dây thắt lưng của Phao-lô, dùng nó cột chân và tay của ông lại, rồi nói, “Ðức Thánh Linh phán thế này, ‘Người Do-thái tại Giê-ru-sa-lem sẽ cột người có dây lưng này như thế này, và họ sẽ bắt nộp người ấy cho dân ngoại.’”

12 Khi chúng tôi nghe những lời ấy, chúng tôi và những anh chị em ở đó nài khuyên Phao-lô đừng đi lên Giê-ru-sa-lem. 13 Nhưng Phao-lô đáp, “Anh chị em làm gì vậy? Anh chị em khóc chỉ làm đau lòng tôi thôi, vì tôi đã sẵn sàng không những để chịu trói, mà còn chịu chết vì danh của Ðức Chúa Jesus tại Giê-ru-sa-lem nữa.” 14 Khi chúng tôi thấy không thể thuyết phục được ông, chúng tôi đành im lặng và chỉ nói, “Xin ý Chúa được nên.”

Phao-lô tại Giê-ru-sa-lem

15 Sau những ngày ấy, khi đã chuẩn bị xong, chúng tôi đi lên Giê-ru-sa-lem. 16 Một số môn đồ ở Sê-sa-rê cùng đi với chúng tôi; họ đưa chúng tôi đến nhà của Mơ-na-sôn người Chíp-rơ, một môn đồ kỳ cựu, để chúng tôi tạm trú tại đó.

17 Khi chúng tôi đến Giê-ru-sa-lem, chúng tôi được anh chị em vui mừng tiếp đón. 18 Ngày hôm sau, Phao-lô và chúng tôi đến thăm Gia-cơ[ac] và tất cả các vị trưởng lão có mặt hôm đó. 19 Sau khi chào hỏi họ, Phao-lô tuần tự thuật lại cho họ nghe những gì Ðức Chúa Trời đã thực hiện giữa các dân ngoại qua chức vụ ông. 20 Nghe thế ai nấy đều tôn vinh Ðức Chúa Trời, rồi họ nói với ông, “Thưa anh, như anh đã thấy đó, có mấy chục ngàn người Do-thái đã tin Chúa, nhưng lòng họ vẫn còn nhiệt thành đối với Luật Pháp của Môi-se. 21 Người ta đã báo cho họ rằng, anh đã dạy người Do-thái sống giữa các dân ngoại hãy bỏ Luật Pháp của Môi-se, đừng làm phép cắt bì cho con trai, và đừng vâng giữ các tục lệ Môi-se đã truyền. 22 Vậy bây giờ chúng ta phải làm sao? Chắc chắn họ đã nghe tin anh về đến rồi. 23 Thôi, hãy làm theo điều chúng tôi chỉ cho anh. Chúng tôi có bốn anh em đây đang mắc lời thệ nguyện. 24 Anh hãy đem họ đi và cùng chịu lễ tẩy uế với họ, rồi trả tiền cho họ cạo tóc. Bấy giờ mọi người sẽ biết rằng những lời người ta đồn đại về anh là không đúng sự thật, vì chính anh cũng làm theo và tuân giữ Luật Pháp. 25 Còn về phần các dân ngoại trở lại tin Chúa, chúng tôi đã gởi một bức thư nói rõ quyết định của chúng tôi rồi, đó là họ phải kiêng cữ thức ăn cúng cho thần tượng, không ăn huyết, không ăn thịt các thú vật chết ngạt, và không gian dâm.”

26 Vậy Phao-lô đem bốn người ấy đi; ngày hôm sau, ông và họ cùng chịu lễ tẩy uế; sau đó ông cùng họ vào đền thờ để công bố ngày sẽ chấm dứt thời kỳ tẩy uế, tức là ngày mỗi người thọ lễ sẽ dâng của tế lễ.

Phao-lô Bị Bắt

27 Nhưng khi thời hạn bảy ngày ấy sắp xong, những người Do-thái ở A-si-a thấy Phao-lô đang ở trong đền thờ, họ khích động cả đám đông và tra tay bắt ông. 28 Những người ấy la lên rằng, “Ðồng bào I-sơ-ra-ên ơi, xin giúp chúng tôi. Tên này đây, hắn đã đi khắp nơi, dạy dỗ mọi người chống lại dân tộc chúng ta, chống lại Luật Pháp chúng ta, và chống luôn cả nơi thánh này nữa. Ðã vậy, hắn còn đem những người Hy-lạp vào đền thờ và làm nơi thánh này ra ô uế.”

29 Số là trước đó họ đã thấy Trô-phi-mu, một người Ê-phê-sô, ở trong thành với Phao-lô, nên họ tưởng ông đã dẫn Trô-phi-mu vào đền thờ. 30 Thế là cả thành náo động, và dân chúng ùn ùn chạy đến; họ bắt Phao-lô và kéo ông ra khỏi đền thờ, lập tức các cổng đền thờ đóng lại.

31 Trong khi họ đang tìm cách để giết ông, có người báo cáo cho quan tư lịnh đội quân La-mã đang trú đóng trong thành rằng cả Giê-ru-sa-lem đang náo loạn. 32 Ông lập tức điều động các đại đội trưởng và các binh sĩ kéo xuống nơi náo loạn. Khi thấy ông và các lính La-mã họ ngưng tay không đánh Phao-lô nữa. 33 Quan tư lịnh cho bắt Phao-lô và ra lịnh dùng hai dây xích xiềng ông lại, rồi ông hỏi Phao-lô là ai và đã làm điều gì. 34 Nhưng trong đám đông, người hét lên thể này, kẻ la lên thể khác, và vì quá ồn ào, khiến ông không thể hiểu rõ thật hư thế nào, nên ông ra lịnh bắt Phao-lô đem về đồn. 35 Khi Phao-lô bước lên bậc thềm, quân lính phải khiêng ông đi, vì đám đông quá hung bạo. 36 Ðám đông ấy cứ đi theo phía sau và gào thét, “Hãy giết nó đi!”

Phao-lô Yêu Cầu Ðược Tự Biện Hộ

37 Khi Phao-lô sắp sửa được đưa vào trong đồn, ông nói với quan tư lịnh, “Ông cho phép tôi nói vài lời với ông được không?”

Quan tư lịnh đáp, “Ông biết nói tiếng Hy-lạp sao? 38 Vậy ông không phải là tên Ai-cập đã lãnh đạo cuộc nổi dậy mới đây và đã kéo bốn ngàn tay sát thủ vào đồng hoang sao?”

39 Phao-lô đáp, “Tôi là người Do-thái, công dân của Tạt-sơ, một thành không kém quan trọng trong vùng Si-li-si-a. Xin ông cho phép tôi nói ít lời với đám đông.”

40 Khi được phép, Phao-lô đứng trên bậc thềm, đưa tay làm dấu cho dân chúng yên lặng. Khi mọi người đã yên lặng, Phao-lô nói với họ trong tiếng Hê-rơ-rơ rằng:

Phao-lô Làm Chứng tại Giê-ru-sa-lem

Lời Mở Ðầu

22 “Thưa các anh và các cha, xin lắng nghe lời biện hộ của tôi trước quý vị giờ đây.”

Khi họ nghe ông nói với họ bằng tiếng Hê-bơ-rơ, họ lại càng yên lặng hơn, và ông nói tiếp:

“Tôi là người Do-thái, sinh tại Tạt-sơ, thuộc vùng Si-li-si-a, nhưng lớn lên trong thành này, học nơi chân Giáo Sư Ga-ma-li-ên, được giáo dục nghiêm khắc theo Luật Pháp của tổ phụ chúng ta. Tôi rất nhiệt thành với Ðức Chúa Trời, giống như tất cả quý vị hôm nay. Tôi đã từng bách hại Ðạo[ad] này cho đến chết, bắt trói và bỏ tù cả đàn ông lẫn đàn bà. Ngay cả vị thượng tế và mọi người trong Hội Ðồng Trưởng Lão có thể làm chứng cho tôi điều đó. Chính quý vị ấy đã cấp những thư giới thiệu tôi đến với anh em ở Thành Ða-mách, để tôi đến đó bắt trói những ai theo Ðạo này, đem về Giê-ru-sa-lem trừng trị.

Thuật Lại Kinh Nghiệm Gặp Chúa

Trong khi tôi đi đường và gần đến Ða-mách, khoảng giữa trưa, thình lình một luồng ánh sáng cực sáng từ trời chiếu xuống quanh tôi. Tôi té xuống đất và nghe có tiếng nói với tôi rằng, ‘Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ, sao ngươi bắt bớ Ta?’

Tôi thưa, ‘Lạy Chúa, Ngài là ai?’

Ngài phán với tôi, ‘Ta là Jesus người Na-xa-rét mà ngươi đang bắt bớ.’

Lúc ấy những người đi với tôi chắc hẳn đã thấy ánh sáng nhưng không hiểu tiếng nói của Ðấng phán với tôi.

10 Tôi hỏi, ‘Lạy Chúa, con phải làm gì bây giờ?’

Chúa phán với tôi, ‘Hãy đứng dậy, đi vào Thành Ða-mách, tại đó có người sẽ nói với ngươi mọi việc đã định cho ngươi phải làm.’

11 Vì tôi không thấy đường vì bị ánh sáng chói lòa ấy làm mù mắt, các bạn đồng hành đã nắm tay tôi và dắt tôi vào Thành Ða-mách.

12 Tại đó có một người tên là A-na-nia, một người rất sùng đạo theo tiêu chuẩn của Luật Pháp, được mọi người Do-thái ở đó khen ngợi, 13 đến tìm tôi, đứng bên tôi, và nói, ‘Anh Sau-lơ, hãy sáng mắt lại.’ Ngay lúc đó tôi ngước mắt lên và thấy ông. 14 Ông nói, ‘Ðức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta đã chọn anh, để anh biết thánh ý của Ngài, thấy Ðấng Công Chính, và nghe tiếng nói từ miệng Ngài. 15 Vì từ nay, anh sẽ là nhân chứng của Ngài cho mọi người về những gì anh đã thấy và nghe. 16 Vậy bây giờ anh còn chần chờ gì nữa? Hãy đứng dậy và chịu phép báp-têm, để tội lỗi anh được rửa sạch, và kêu cầu danh Ngài.’

Thuật Lại Sự Kêu Gọi Ði Giảng Ðạo cho Các Dân Ngoại

17 Sau đó tôi trở về Giê-ru-sa-lem. Khi tôi cầu nguyện trong đền thờ, tôi bị xuất thần, 18 và tôi thấy Chúa nói với tôi, ‘Hãy mau lên, hãy lập tức rời khỏi Giê-ru-sa-lem, vì họ không chấp nhận lời chứng của con về Ta.’

19 Tôi thưa lại, ‘Lạy Chúa, chính họ biết rõ con đã từng đi từ hội đường này đến hội đường khác bắt bỏ tù và đánh đập bất cứ ai tin Ngài. 20 Khi máu của Ê-tiên nhân chứng của Ngài bị đổ ra, con đã đứng xem, tán thành, và giữ áo choàng cho những người giết ông ấy.’

21 Ngài phán với tôi, ‘Hãy đi, vì Ta muốn sai con đến với các dân ngoại ở những nơi xa xăm.’

22 Ðám đông lắng nghe ông nói nhưng khi đến câu ấy, họ gào to, “Hãy trừ khỏi mặt đất hạng người như thế, vì nó không đáng sống.”

Phao-lô Sử Dụng Quyền Công Dân

23 Trong khi họ tiếp tục la hét, họ cởi áo choàng ra phất lên, và hốt bụi đất tung lên trời. 24 Quan tư lịnh truyền lịnh đem ông vào đồn và ra lịnh dùng roi có móc đánh ông để tra khảo xem tại sao dân chúng gào thét chống lại ông như thế. 25 Khi họ lấy dây căng ông ra để đánh, Phao-lô hỏi viên đại đội trưởng đứng gần, “Ông có quyền đánh một công dân La-mã khi người ấy chưa bị kết án sao?”

26 Nghe vậy viên đại đội trưởng đến nói với quan tư lịnh, “Ông tính làm gì thế? Vì người này là một công dân La-mã.”

27 Quan tư lịnh đến và hỏi ông, “Hãy nói cho tôi biết, ông có phải là công dân La-mã không?”

Phao-lô đáp, “Phải.”

28 Quan tư lịnh nói, “Tôi đã tốn một số tiền lớn mới mua được quốc tịch La-mã.”

Phao-lô đáp, “Còn tôi, khi sinh ra tôi đã là công dân La-mã rồi.”

29 Ngay lập tức những kẻ tính tra khảo ông rút lui; còn quan tư lịnh thì bắt đầu lo sợ, vì ông ta vừa biết được Phao-lô là công dân La-mã mà đã bắt trói ông ấy bằng xiềng.

Phao-lô Ở Trước Hội Ðồng Lãnh Ðạo Do-thái

30 Hôm sau quan tư lịnh muốn biết rõ tại sao người Do-thái tố cáo ông, nên đem ông ra khỏi nhà giam và truyền lệnh triệu tập các trưởng tế và toàn thể Hội Ðồng Lãnh Ðạo Do-thái lại, rồi đưa Phao-lô xuống và để ông đứng trước mặt họ.

Lời Biện Hộ của Phao-lô Trước Hội Ðồng Lãnh Ðạo Do-thái

23 Phao-lô nhìn chăm vào quý vị trong Hội Ðồng, rồi nói, “Thưa các anh em, tôi đã sống trước mặt Ðức Chúa Trời với một lương tâm trong sạch cho tới ngày nay.”

Bấy giờ Thượng Tế A-na-nia ra lịnh cho những người đứng gần Phao-lô vả vào miệng ông.

Bấy giờ Phao-lô nói với ông ấy, “Nguyền xin Ðức Chúa Trời đánh ông, hỡi bức tường tô trắng kia. Ông ngồi đó xét xử tôi theo Luật Pháp mà chính ông lại vi phạm Luật Pháp; chưa chi ông đã ra lịnh cho người đánh tôi sao?”

Những người đứng gần ông nói, “Ông nguyền rủa thượng tế của Ðức Chúa Trời sao?”

Ông đáp, “Thưa anh em, tôi không biết ông đó là thượng tế, vì có lời chép rằng,

‘Ngươi chớ nguyền rủa những người lãnh đạo của dân ngươi.’Xuất 22:28

Khi Phao-lô nhận thấy trong Hội Ðồng một số là người Sa-đu-sê và một số khác là người Pha-ri-si, ông nói lớn, “Thưa anh em, tôi là một người Pha-ri-si, con của một người Pha-ri-si. Tôi bị xét xử hôm nay cũng vì hy vọng về sự sống lại của người chết.”

Khi nghe ông nói thế, những người Pha-ri-si cãi nhau với những người Sa-đu-sê, và Hội Ðồng chia làm hai phe. Số là người Sa-đu-sê chủ trương rằng chẳng có sự sống lại, chẳng có thiên sứ, và chẳng có thần linh gì cả; còn người Pha-ri-si thì tin tất cả những điều ấy đều có. Thế là một cuộc cãi vã to tiếng nổi lên; rồi một vài thầy dạy giáo luật thuộc phái Pha-ri-si đứng dậy phản đối mạnh mẽ rằng, “Chúng tôi thấy người này chẳng có lỗi gì cả. Biết đâu một thần linh hay một thiên sứ đã nói chuyện với ông ấy?”

10 Khi thấy cuộc cãi vã càng trở nên gay gắt hơn, quan tư lịnh sợ họ sẽ xé xác Phao-lô, nên ông truyền lịnh cho quân lính xuống bắt Phao-lô và đem về đồn.

11 Ðêm sau Chúa đứng bên cạnh ông và nói, “Ngươi hãy can đảm lên. Như ngươi đã làm chứng về Ta tại Giê-ru-sa-lem thể nào, ngươi cũng sẽ làm chứng về Ta tại Rô-ma thể ấy.”

Âm Mưu Ám Sát Phao-lô Bị Bại Lộ

12 Đến sáng ngày người Do-thái lập một âm mưu và thề với nhau rằng họ sẽ không ăn hoặc uống chi hết cho đến khi giết được Phao-lô. 13 Có hơn bốn mươi người đã thề với nhau để thực hiện ý đồ ấy.

14 Họ đến với các trưởng tế và các trưởng lão và nói, “Chúng tôi đã thề độc với nhau rằng chúng tôi sẽ không nếm vật chi cho đến khi giết được Phao-lô. 15 Vậy bây giờ xin quý vị và Hội Ðồng hãy yêu cầu tên quan chỉ huy quân La-mã đem nó xuống gặp quý vị một lần nữa như thể quý vị cần xét hỏi cho rõ ràng hơn về vụ của nó, bấy giờ chúng tôi sẽ phục kích để giết nó trước khi nó tới nơi.”

16 Nhưng con trai của chị Phao-lô biết được âm mưu ám sát ấy, nên cậu đến đồn, xin vào, và báo cho Phao-lô biết. 17 Phao-lô xin gọi một đại đội trưởng đến và nói, “Xin ông đưa cậu này đến gặp quan tư lịnh. Cậu ấy có việc quan trọng cần báo cho ông ấy biết.”

18 Vậy viên đại đội trưởng đưa cậu ấy đến gặp quan tư lịnh và nói, “Tên tù Phao-lô có gọi tôi và nhờ tôi đưa cậu này đến gặp ông. Cậu ấy có điều gì muốn nói riêng với ông.”

19 Quan tư lịnh nắm tay cậu ấy, dắt ra một nơi riêng, và hỏi, “Cậu có điều gì để báo cáo với tôi phải không?”

20 Cậu ấy đáp, “Người Do-thái đã đồng mưu với nhau để yêu cầu quan ngày mai đem Phao-lô xuống gặp Hội Ðồng một lần nữa, như thể họ cần xét hỏi cho rõ ràng hơn về vụ của ông ấy. 21 Nhưng xin quan đừng để họ thuyết phục quan nghe lời họ, vì có hơn bốn mươi người của họ đang nằm phục kích để chờ giết Phao-lô. Họ đã thề với nhau rằng họ sẽ không ăn hoặc uống chi hết cho đến khi giết được ông ấy. Bây giờ họ đã sẵn sàng rồi, chỉ chờ quan chấp thuận thôi.”

22 Quan tư lịnh cho cậu ấy ra về và căn dặn, “Cậu chớ tiết lộ cho ai biết những gì cậu đã nói với tôi.”

Phao-lô Ðược Giải Ðến Tổng Trấn Phê-lít tại Sê-sa-rê

23 Sau đó quan tư lịnh truyền lịnh cho hai đại đội trưởng đến và bảo, “Hãy chuẩn bị hai trăm bộ binh, bảy mươi kỵ binh, và hai trăm quân vũ trang giáo mác, để đi Sê-sa-rê vào lúc chín giờ tối nay.[ae] 24 Cũng hãy chuẩn bị một con ngựa để Phao-lô cỡi và đưa ông ta đến Quan Tổng Trấn Phê-lít cách an toàn.”

25 Ðoạn ông viết một bức thư, nội dung như sau:

26 “Cơ-lau-đi-u Ly-si-a kính gởi ngài Tổng Trấn Phê-lít.

Trân trọng kính chào ngài.

27 Người này đã bị dân Do-thái bắt và toan giết đi. Nhưng tôi đã dẫn quân đến và cứu được đương sự, vì biết rằng đương sự là một công dân La-mã. 28 Vì tôi muốn biết họ buộc tội đương sự vì cớ gì, nên tôi đã đem đương sự đến gặp Hội Ðồng của họ. 29 Tôi nhận thấy đương sự bị tố cáo về những vấn đề liên quan đến giáo luật của họ, nhưng không mắc tội gì đáng chết hay đáng bị tù. 30 Nhưng vì tôi được báo có âm mưu ám sát đương sự, nên tôi tức tốc gởi đương sự đến với ngài, đồng thời tôi cũng thông báo cho các nguyên cáo rằng nếu họ muốn kiện tụng đương sự điều gì thì hãy đến hầu ngài mà kiện.”

31 Vậy các quân lính thừa lịnh. Ban đêm họ đưa Phao-lô ra đi và hộ tống ông đến An-ti-pa-tri. 32 Hôm sau họ để các kỵ binh tiếp tục đưa ông đi, còn bộ binh thì trở về đồn. 33 Khi đội kỵ binh đến Sê-sa-rê, họ trình bức thư cho quan tổng trấn và giao nộp Phao-lô cho quan. 34 Sau khi đọc thư, quan tổng trấn hỏi Phao-lô quê ở tỉnh nào; khi được biết quê ông ở tỉnh Si-li-si-a, 35 quan tổng trấn nói, “Ta sẽ xét xử vụ án của ngươi khi những kẻ kiện cáo ngươi đến đây.” Ðoạn ông ra lịnh giam giữ Phao-lô trong Dinh Hê-rốt.

Phao-lô Biện Hộ Trước Chính Quyền La-mã tại Sê-sa-rê

24 Năm ngày sau Thượng Tế A-na-nia với vài trưởng lão và một luật sư tên Tẹt-tu-lu xuống đệ đơn kiện Phao-lô với quan tổng trấn. Sau khi Phao-lô được gọi đến, Tẹt-tu-lu bắt đầu tố cáo ông rằng:

“Tâu quan Phê-lít:

Nhờ ơn quan, chúng tôi hưởng được thái bình lâu dài, và nhờ sự nhìn xa thấy rộng của quan, nhiều cải tiến đã được thực hiện cho đất nước này. Lúc nào và nơi nào chúng tôi cũng hết lòng tri ơn quan. Ðể khỏi phải làm phiền quan thêm nữa, xin quan nhẫn nại lắng nghe chúng tôi trình bày vắn tắt như sau:

Chúng tôi đã tìm thấy tên này là đồ ôn dịch, một kẻ chuyên gây rối cho người Do-thái khắp nơi trên thế giới, và là tên cầm đầu của phái Na-xa-rét. Vì hắn toan làm ô uế đền thờ nên chúng tôi đã bắt hắn. Chúng tôi muốn xử hắn theo luật của chúng tôi, nhưng Quan Chỉ Huy Cơ-lau-đi-u Ly-si-a đã đến dùng vũ lực cướp hắn khỏi tay chúng tôi, và truyền cho những ai muốn tố cáo hắn hãy đến hầu quan.[af] Khi quan đích thân tra xét hắn, chắc chắn quan sẽ rõ mọi điều chúng tôi tố cáo hắn.”

Người Do-thái cũng hùa theo và bảo rằng những lời cáo buộc ấy quả đúng như vậy.

10 Khi Phao-lô được quan tổng trấn ra dấu cho phép nói, ông nói:

“Tôi biết rằng quan xét xử trong đất nước này đã nhiều năm, nên tôi rất hân hạnh được nói lên những lời để binh vực tôi. 11 Quan có thể cho điều tra để biết rõ rằng tôi đi lên Giê-ru-sa-lem để thờ phượng cách đây chưa được mười hai ngày. 12 Trong đền thờ, trong các hội đường, hoặc trong khắp thành phố, người ta không thấy tôi tranh cãi với ai điều gì và cũng không sách động quần chúng nổi loạn. 13 Họ cũng không thể chứng minh cho quan những điều họ tố cáo tôi hôm nay. 14 Nhưng tôi xin xác nhận với quan về ‘Ðạo’[ag] mà họ gọi là ‘phái’ đó:

Tôi phụng sự Ðức Chúa Trời của tổ phụ chúng tôi. Tôi tin tưởng mọi điều đã chép trong Luật Pháp và Các Tiên Tri. 15 Tôi có lòng hy vọng nơi Ðức Chúa Trời, một niềm hy vọng mà chính họ cũng đồng ý, đó là sẽ có sự sống lại cho người ngay lành và kẻ gian ác. 16 Vì thế tôi luôn luôn cố giữ một lương tâm trong sạch trước mặt Ðức Chúa Trời và mọi người.

17 Sau nhiều năm xa cách, nay tôi về nước để mang tiền cứu trợ về giúp đất nước tôi và để dâng của tế lễ. 18 Trong khi tôi làm như thế, họ bắt[ah] tôi trong đền thờ, lúc tôi sắp hoàn tất nghi lễ tẩy uế, không tụ tập đám đông, và cũng không gây rối chi cả. 19 Nhưng một số người Do-thái ở A-si-a, những người đáng lý phải hầu quan hôm nay để tố cáo tôi, nếu họ tìm thấy tôi có điều gì đáng tố cáo; 20 còn không, xin những người có mặt tại đây nói ra tội trạng của tôi lúc tôi đứng trước Hội Ðồng Lãnh Ðạo, 21 nếu không phải là câu này mà tôi đã tuyên bố khi đứng trước mặt họ, ‘Ấy là vì sự sống lại của người chết mà tôi bị xét xử trước mặt anh em hôm nay.’”

Phao-lô Bị Giam Lỏng tại Sê-sa-rê

22 Nhưng Phê-lít, người biết khá rõ về Ðạo[ai] mà Phao-lô đề cập, đã cho hoãn lại cuộc xét xử và nói, “Khi nào Quan Chỉ Huy Ly-si-a xuống đây, ta sẽ phán quyết vụ án này cho các ngươi.” 23 Sau đó ông ra lịnh cho viên đại đội trưởng chịu trách nhiệm việc canh giữ Phao-lô phải cho ông được tự do thong thả, và đừng ngăn trở nếu có thân nhân bạn hữu nào đến thăm nuôi.

24 Vài ngày sau Phê-lít và vợ ông là Ðơ-ru-si-la, một phụ nữ Do-thái, gọi Phao-lô đến để nghe ông giảng về đức tin nơi Ðức Chúa Jesus Christ. 25 Nhưng khi nghe Phao-lô nói đến sự công chính, sự tiết độ, và sự phán xét sẽ đến, Phê-lít sợ và nói, “Bây giờ ông có thể lui ra, khi nào có thì giờ, tôi sẽ mời ông trở lại.” 26 Ðồng thời Phê-lít cũng mong Phao-lô đút lót tiền bạc cho mình, nên thường mời ông đến đàm đạo.

27 Sau hai năm, Pọt-xi-u Phê-tu đến thay thế Phê-lít. Số là vì muốn được lòng người Do-thái, nên Phê-lít cứ giam lỏng Phao-lô trong tù.

Phao-lô Yêu Cầu Ðược Hoàng Ðế Xét Xử

25 Khi Phê-tu đến nhậm chức trong tỉnh được ba ngày, ông từ Sê-sa-rê đi lên Giê-ru-sa-lem. Các trưởng tế và những người lãnh đạo dân Do-thái đến tố cáo Phao-lô với ông. Họ khẩn nài ông cho họ một ân huệ là ông giải Phao-lô về Giê-ru-sa-lem, vì họ đã lập mưu phục kích giết ông ở dọc đường. Nhưng Phê-tu trả lời rằng Phao-lô đang bị giam ở Sê-sa-rê, và chính ông sẽ trở về đó sớm. Vì thế ông bảo, “Những người có thẩm quyền trong các ngươi hãy xuống đó gặp ta. Nếu các ngươi thấy người ấy phạm tội gì, các ngươi cứ việc tố cáo.”

Ông ở lại với họ khoảng tám hay mười ngày, rồi trở xuống Sê-sa-rê. Hôm sau ông ngồi vào ghế xử án ở tòa và truyền đem Phao-lô đến. Khi Phao-lô vừa đến, những người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem xuống ập đến vây lấy ông và tố cáo ông nhiều tội trọng, nhưng chẳng có bằng chứng nào cả.

Phao-lô đã nói khi tự biện hộ rằng, “Tôi không phạm luật nào của người Do-thái, cũng không phạm luật nào của đền thờ, và không phạm tội gì đối với hoàng đế.”[aj]

Nhưng Phê-tu muốn được lòng người Do-thái nên hỏi Phao-lô, “Ngươi có muốn lên Giê-ru-sa-lem để ta xử việc này không?”

10 Phao-lô trả lời, “Tôi muốn được hầu tòa của hoàng đế. Ðó là nơi tôi phải được xét xử, vì quan đã thừa biết rằng tôi không làm điều gì phạm luật của người Do-thái. 11 Nếu tôi đã làm điều gì có tội, hoặc nếu tôi đã làm điều gì đáng chết, tôi quyết không từ chối chịu chết đâu. Nhưng nếu tôi không làm điều gì có tội như những người này đã cáo buộc, không ai có quyền nộp tôi cho họ. Tôi yêu cầu được hoàng đế xét xử.”

12 Phê-tu tham khảo với hội đồng cố vấn của ông, rồi đáp, “Ngươi đã yêu cầu được hoàng đế xét xử, ngươi sẽ được hầu tòa của hoàng đế.”

Phao-lô Bị Ðưa Ra Xử Trước Mặt Vua Ạc-ríp-pa

13 Mấy ngày sau Vua Ạc-ríp-pa[ak] và bà Bẹc-nít đến Sê-sa-rê để tỏ lòng hoan nghinh Phê-tu đến nhậm chức. 14 Vì họ ở lại đó nhiều ngày, Phê-tu trình với vua về vụ xét xử Phao-lô. Ông nói, “Có một tù nhân này Phê-lít để lại cho tôi. 15 Khi tôi lên Giê-ru-sa-lem các trưởng tế và các trưởng lão của dân Do-thái đã tố cáo hắn và yêu cầu tôi kết tội hắn. 16 Tôi đã trả lời họ rằng theo luật của người La-mã, tôi không thể giao nộp bị cáo trước khi bị cáo có cơ hội đối chất tận mặt với các nguyên cáo và có dịp biện hộ cho mình về những lời tố cáo. 17 Vì thế tôi đã mời họ đến đây, và tôi đã không chậm trễ, nhưng ngày hôm sau tôi đã ngồi vào tòa và truyền đem bị cáo đến. 18 Tuy nhiên khi các nguyên cáo đứng dậy buộc tội, tôi chẳng thấy họ buộc tội đương sự được một tội ác nào như tôi tưởng. 19 Họ chỉ bất đồng ý kiến với đương sự về những điều thuộc về tín ngưỡng của họ và về một ông Jesus nào đó đã chết rồi mà Phao-lô cứ quả quyết rằng vẫn còn sống. 20 Vì tôi không biết làm sao điều tra những điều này, nên tôi đã hỏi Phao-lô có muốn lên Giê-ru-sa-lem để được xét xử về những lời cáo buộc ấy không, 21 thì Phao-lô đã kháng cáo xin được giữ lại trong tù để chờ ngày được giải lên hoàng đế xét xử. Vì thế tôi đã truyền lịnh cứ giam đương sự trong tù, chờ đến ngày được giải lên hoàng đế.”

22 Vua Ạc-ríp-pa nói với Phê-tu, “Ta cũng muốn đích thân được nghe người ấy.”

Phê-tu đáp, “Ngày mai ngài sẽ nghe đương sự.”

23 Vậy hôm sau Vua Ạc-ríp-pa và bà Bẹc-nít tiến vào công đường một cách trọng thể, tháp tùng có các quan chức chỉ huy quân đội và các lãnh tụ trong thành. Phê-tu truyền lệnh đem Phao-lô đến. 24 Kế đó Phê-tu nói, “Tâu Vua Ạc-ríp-pa và kính thưa tất cả quý vị hiện diện với chúng tôi hôm nay. Người mà quý vị đang thấy đây là người đã bị toàn thể người Do-thái ở Giê-ru-sa-lem và ở đây yêu cầu tôi xét xử; họ đã kêu gào rằng đương sự không đáng sống nữa. 25 Nhưng tôi đã không tìm thấy đương sự có tội gì đáng chết, nhưng vì đương sự đã kháng cáo lên hoàng đế, nên tôi đã quyết định sẽ giải đương sự đến hoàng đế. 26 Nhưng tôi không có lý do cụ thể gì để tâu với chúa thượng, nên tôi đem đương sự ra trước tất cả quý vị, đặc biệt với ngài, tâu Vua Ạc-ríp-pa, để mong rằng sau khi tra xét, tôi có thể có được vài dữ liệu hầu viết sớ tâu trình. 27 Vì tôi thấy rằng giải nộp một tù nhân mà không nói rõ đương sự bị tố cáo về tội gì thì thật là phi lý.”

Phao-lô Giảng Cho Vua Ạc-ríp-pa

Lời Mở Ðầu

26 Vua Ạc-ríp-pa nói với Phao-lô, “Ngươi được phép biện hộ cho mình.”

Phao-lô đưa tay ra dấu và tự biện hộ cho ông như sau:

“Tâu Vua Ạc-ríp-pa:

Tôi lấy làm vinh dự được biện hộ cho mình hôm nay trước mặt vua về những điều người Do-thái đã tố cáo tôi, bởi vì vua đã quá quen thuộc với những tập tục và những vấn đề tranh chấp của người Do-thái. Vì vậy, kính xin vua nhẫn nại lắng nghe tôi trình bày:

Tất cả người Do-thái đều biết rõ nếp sống của tôi từ thuở nhỏ cho đến bây giờ ra sao; tôi đã lớn lên giữa dân tôi và giữa Giê-ru-sa-lem từ ban đầu cho đến nay như thế nào. Họ đã biết rõ điều đó từ lâu. Nếu họ muốn chứng cớ, họ có thể xác nhận rằng tôi sống cuộc đời của một người Pha-ri-si, tức theo một môn phái nghiêm khắc nhất trong tôn giáo của chúng tôi. Bây giờ tôi đứng đây để bị xét xử là vì hy vọng về lời hứa Ðức Chúa Trời đã ban cho tổ phụ chúng tôi, một lời hứa mà mười hai chi tộc chúng tôi ngày đêm hết lòng thờ phượng và hy vọng được hưởng. Tâu vua, chính vì hy vọng đó mà tôi bị người Do-thái tố cáo. Tại sao quý vị không thể tin rằng Ðức Chúa Trời có quyền làm cho người chết sống lại?

Thật vậy, chính tôi đã tin rằng tôi phải làm mọi cách để chống lại danh Ðức Chúa Jesus ở Na-xa-rét. 10 Và đó là những điều tôi đã làm tại Giê-ru-sa-lem. Với quyền hành do các trưởng tế ban cho, không những tôi đã bắt nhiều thánh đồ nhốt vào tù, mà còn bỏ phiếu tán thành việc xử tử họ nữa. 11 Tôi thường đi khắp các hội đường để trừng phạt họ, cưỡng bách họ nói những lời phạm thượng. Tôi còn tức giận họ đến độ đến tận các thành ở ngoại quốc để bắt bớ họ.

Thuật Lại Kinh Nghiệm Gặp Chúa

12 Vì lẽ đó nên tôi đi đến Thành Ða-mách với sự ủy quyền và ủy nhiệm của các trưởng tế. 13 Nhưng tâu vua, dọc đường, vào giữa trưa, tôi thấy một luồng ánh sáng, chói lọi hơn cả mặt trời, từ trời chiếu xuống chói lòa quanh tôi và các bạn đồng hành với tôi. 14 Sau khi tất cả chúng tôi đã té xuống đất, tôi nghe có tiếng nói với tôi bằng tiếng Hê-bơ-rơ rằng, ‘Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ, sao ngươi bắt bớ Ta? Ngươi đá vào mũi nhọn thì đau đớn cho ngươi thay.’ 15 Tôi hỏi, ‘Lạy Chúa, Ngài là ai?’ Chúa đáp, ‘Ta là Jesus mà ngươi đang bắt bớ. 16 Hãy trỗi dậy và đứng lên. Ta hiện ra với ngươi vì mục đích này: để lập ngươi làm một đầy tớ và một nhân chứng cho Ta không những về những điều ngươi đã thấy, mà còn về những điều Ta sẽ hiện ra tỏ cho ngươi biết. 17 Ta sẽ giải cứu ngươi khỏi đồng bào ngươi và khỏi các dân ngoại là những người Ta sẽ sai ngươi đến 18 để ngươi mở mắt họ, hầu họ xây bỏ tối tăm mà quay qua ánh sáng, lìa bỏ quyền lực của Sa-tan để trở về với Ðức Chúa Trời, và để họ có thể nhận sự tha tội và hưởng gia tài với những người được thánh hóa nhờ tin Ta.’

Thuật Lại Những Việc Ðã Làm

19 Tâu Vua Ạc-ríp-pa, kể từ đó tôi không dám bất tuân khải tượng từ trời, 20 nhưng tôi đã rao giảng trước hết cho những người ở Ða-mách, rồi ở Giê-ru-sa-lem, khắp nơi trong miền Giu-đê, và cho các dân ngoại rằng, họ phải ăn năn, quay về với Ðức Chúa Trời, và hành động xứng hợp với sự ăn năn ấy. 21 Vì lý do đó người Do-thái đã bắt tôi trong đền thờ và định giết tôi. 22 Nhưng nhờ Ðức Chúa Trời phù hộ, nên ngày nay tôi còn được đứng đây, làm chứng cho những người thấp kém lẫn những bậc chức quyền, không nói gì khác hơn là những điều Các Tiên Tri và Môi-se đã nói phải xảy ra, 23 đó là Ðấng Christ phải chịu đau khổ và là người đầu tiên sống lại từ cõi chết, để Ngài công bố ánh sáng cho dân tộc chúng ta và cho các dân ngoại.”

24 Ðang khi Phao-lô tự biện hộ cho ông như thế, Phê-tu nói lớn, “Hỡi Phao-lô, ngươi đã loạn trí rồi. Ngươi học nhiều quá nên đã loạn trí rồi.”

25 Nhưng Phao-lô đáp, “Tâu Quan Phê-tu, tôi không loạn trí đâu, nhưng tôi đang nói những lời chân thật và hữu lý. 26 Vì tôi tin rằng đức vua biết rõ những điều này, nên tôi mới dạn dĩ tâu với vua. Bởi tôi tin chắc rằng không điều nào trong các điều này mà vua không biết, vì việc này không phải đã xảy ra ở một xó xỉnh nào. 27 Tâu Vua Ạc-ríp-pa, vua tin lời Các Tiên Tri phải không? Tôi biết là vua tin.”

28 Ạc-ríp-pa nói với Phao-lô, “Chút xíu nữa ngươi đã thuyết phục được ta trở thành một người của Ðấng Christ.”[al]

29 Phao-lô đáp, “Tôi cầu xin Ðức Chúa Trời rằng chẳng sớm thì muộn, không phải chỉ một mình vua mà tất cả những người nghe tôi hôm nay sẽ trở thành như tôi, ngoại trừ các xiềng xích này thôi.”

30 Ðoạn vua, quan tổng trấn, bà Bẹc-nít, và tất cả những người ngồi chung với họ đứng dậy. 31 Khi họ bước ra, họ nói với nhau, “Người này không làm gì đáng tội chết hay ở tù cả.”

32 Ạc-ríp-pa nói với Phê-tu, “Người này có thể được trả tự do nếu ông ấy không kháng cáo lên hoàng đế.”

Phao-lô Ðược Giải Ðến Rô-ma

27 Khi có quyết định cho chúng tôi đi tàu qua I-ta-ly, họ trao Phao-lô và một số tù nhân khác cho một đại đội trưởng tên là Giu-li-u thuộc quân đoàn Âu-gút-tơ.[am]

Chúng tôi xuống một chiếc tàu xuất hành từ Hải Cảng A-ra-my-ti-um; tàu ấy tính nhổ neo chạy ghé các hải cảng dọc vùng A-si-a. Chúng tôi giăng buồm ra khơi. Ðồng hành với chúng tôi có A-ri-tạc là người Ma-xê-đô-ni-a ở Thành Thê-sa-lô-ni-ca. Hôm sau chúng tôi ghé vào Hải Cảng Si-đôn. Giu-li-u đối xử tử tế với Phao-lô; ông cho phép Phao-lô đi thăm các bạn bè và để họ chăm sóc ông. Từ đó chúng tôi ra khơi và đi vòng lên phía bắc Ðảo Chíp-rơ bởi vì gặp gió ngược. Sau khi chúng tôi vượt qua hải phận của Si-li-si-a và Pam-phy-li-a, chúng tôi đến Hải Cảng My-ra, thuộc miền Ly-si-a. Ở đó ông đại đội trưởng tìm được một chiếc tàu từ A-léc-xan-ria sắp nhổ neo đi I-ta-ly, nên ông cho chúng tôi chuyển sang tàu đó.

Tàu đi rất chậm; mất rất nhiều ngày và phải vất vả lắm chúng tôi mới đến được gần Cơ-ni-đu. Vì gặp gió ngược nên tàu phải chạy vòng xuống phía nam Ðảo Cơ-rết, đối ngang Sanh-môn. Tàu cứ chạy dọc theo bờ biển và phải vất vả lắm mới vào được một nơi gọi là Mỹ Cảng,[an] gần Thành La-sê.

Gặp Bão Giữa Biển

Chúng tôi phải ở đó khá lâu. Bấy giờ kỳ kiêng ăn đã qua rồi, và chuyến hải hành càng trở nên nguy hiểm hơn. Phao-lô khuyên họ; 10 ông nói với họ, “Thưa các ông, tôi nhận thấy chuyến hải hành này từ đây trở đi thật nguy hiểm. Chúng ta có thể bị thiệt hại lớn, không những có thể sẽ mất cả hàng hóa lẫn chiếc tàu, mà còn nguy cả đến tính mạng chúng ta nữa.”

11 Nhưng ông đại đội trưởng tin lời của viên tài công và người chủ tàu hơn lời của Phao-lô. 12 Vì hải cảng đó không thích hợp cho tàu đậu trong mùa đông, nên đa số tán đồng việc nhổ neo ra đi, với hy vọng có thể đến được Phê-nít để tạm trú qua mùa đông; đó là một hải cảng trên Ðảo Cơ-rết, hướng về phía tây nam và tây bắc. 13 Thấy gió nam thổi nhẹ, họ tưởng có thể thực hiện được dự tính, nên họ nhổ neo cho tàu chạy dọc theo bờ Ðảo Cơ-rết. 14 Nhưng chẳng bao lâu, một trận cuồng phong có tên là “Gió Ðông Bắc” từ trên đảo quật xuống. 15 Thế là chiếc tàu bị bão cuốn đi. Vì không thể cho tàu chạy ngược với gió bão để trở vào bờ, chúng tôi đành để cho tàu cứ trôi theo chiều gió. 16 Khi tàu trôi về phía nam của một đảo nhỏ tên là Cau-đa, chúng tôi phải khó khăn lắm mới giữ lại được chiếc xuồng cấp cứu. 17 Sau khi kéo được chiếc xuồng ấy lên, họ tìm cách giữ cho tàu khỏi vỡ, nên đã lấy dây thừng buộc vòng dưới đáy tàu lại. Sau đó họ sợ chiếc tàu bị mắc cạn ngoài khơi Ðảo Sy-ti, nên họ thả neo xuống và cứ để tàu trôi theo chiều gió. 18 Ngày hôm sau tàu chúng tôi liên tục bị bão dồi dập dữ dội, nên họ quăng các hàng hóa xuống biển cho nhẹ tàu. 19 Ðến ngày thứ ba họ tự tay quăng các đồ thiết bị trên tàu xuống biển. 20 Trải qua nhiều ngày chúng tôi không thấy mặt trời hay một vì sao nào, trong khi đó gió bão vẫn thổi mạnh và không chịu dứt. Cuối cùng chúng tôi đành chấp nhận hết hy vọng được cứu thoát.

21 Mọi người trên tàu chẳng màng ăn uống gì đã khá lâu, nên Phao-lô đứng giữa họ và nói, “Thưa các ông, nếu các ông nghe lời tôi mà không rời khỏi Cơ-rết thì chúng ta đã tránh được những thiệt hại và mất mát này rồi. 22 Nhưng bây giờ tôi khuyên các ông hãy can đảm lên, không ai trong các ông sẽ thiệt mạng, chỉ phải mất chiếc tàu này thôi. 23 Vì đêm qua một thiên sứ của Ðức Chúa Trời, Ðấng tôi thuộc về và phục vụ, đã đứng bên tôi 24 và bảo rằng, ‘Hỡi Phao-lô, đừng sợ. Ngươi cần phải ứng hầu trước tòa án của Sê-sa, và này, Ðức Chúa Trời sẽ cho tất cả những người cùng đi trong chuyến hải hành với ngươi được sống.’ 25 Vậy xin các ông hãy can đảm lên, vì tôi tin rằng Ðức Chúa Trời sẽ làm y như lời Ngài đã phán; 26 chỉ có điều là chúng ta sẽ bị mắc cạn ở một hòn đảo nào đó.”

27 Ðến đêm thứ mười bốn mà tàu chúng tôi vẫn còn trôi dạt trên Biển Át-ria. Khoảng nửa đêm các thủy thủ tưởng rằng tàu đã gần tới đất liền, 28 nên họ thả trái dò xuống và thấy sâu hai mươi sải. Ðể cho tàu trôi một quãng nữa, họ lại thả trái dò xuống và thấy chỉ còn mười lăm sải. 29 Sợ tàu sẽ đụng phải đá ngầm, nên họ thả bốn chiếc neo ở mũi tàu xuống, rồi cầu mong cho mau tới sáng.

30 Lúc ấy các thủy thủ tính bỏ tàu và trốn đi, nên họ thả chiếc xuồng cấp cứu xuống và lấy cớ là đi thả neo ở đàng mũi tàu. 31 Phao-lô nói với ông đại đội trưởng và các binh sĩ, “Nếu những người ấy không ở lại trên tàu, quý ông sẽ không được cứu sống đâu.” 32 Các binh sĩ liền cắt đứt những dây buộc chiếc xuồng cấp cứu để nó rớt xuống biển.

33 Bấy giờ trong khi chờ đợi trời sáng, Phao-lô khuyên mọi người nên ăn chút thực phẩm; ông nói, “Hôm nay là ngày thứ mười bốn rồi mà quý vị cứ trông ngóng, nhịn ăn, và không ăn gì. 34 Vì thế tôi khuyên quý vị hãy ăn chút gì đi, vì quý vị rất cần có sức để được cứu thoát. Không ai trong quý vị sẽ mất một sợi tóc trên đầu đâu.”

35 Sau khi ông nói như thế, ông lấy bánh, tạ ơn Ðức Chúa Trời trước mặt mọi người, rồi bẻ bánh ra, và bắt đầu ăn. 36 Thấy vậy mọi người được lên tinh thần và bắt đầu ăn.

37 Chúng tôi có cả thảy hai trăm bảy mươi sáu người trên tàu. 38 Sau khi đã ăn no, họ ném những bao lúa mì xuống biển cho tàu nhẹ bớt.

Bị Ðắm Tàu

39 Ðến khi trời sáng họ không nhận ra được đó là vùng đất nào, nhưng họ thấy có cái vịnh và một bãi biển, vì thế họ muốn cho tàu vào bờ nếu họ có thể lái tàu vào được. 40 Vậy họ cắt bỏ các neo lại dưới biển, đồng thời tháo dây cột bánh lái ra, rồi căng buồm ở đằng mũi lên, và nương theo chiều gió để lái tàu chạy vào bờ. 41 Nhưng tàu chạy nhằm vào bãi cát ngầm do hai dòng nước xáp lại nhau tạo thành, nên bị mắc cạn tại đó. Mũi tàu đâm vào cát, không nhúc nhích gì được, còn đằng lái thì bị sóng mạnh đập nát hết. 42 Bấy giờ các binh sĩ canh tù bàn với nhau nên giết tất cả các tù nhân kẻo có ai lội đi và trốn thoát. 43 Nhưng ông đại đội trưởng muốn cứu Phao-lô nên ngăn cản họ thực hiện ý định đó. Ông ra lịnh cho những ai biết bơi cứ nhảy xuống nước trước và bơi vào bờ, 44 những người còn lại, một số đã bám vào các tấm ván hoặc những mảnh tàu vỡ và lội vào bờ sau. Thế là tất cả đều được lên bờ an toàn.

Trên Ðảo Man-ta

28 Sau khi đã lên bờ an toàn chúng tôi mới biết đảo đó tên là Man-ta. Dân cư trên đảo đối xử với chúng tôi thật tử tế hiếm có. Vì trời mưa và lạnh nên họ đốt một đống lửa lớn để hoan nghinh tất cả chúng tôi. Phao-lô lượm một bó củi và đem chất vào đống lửa, một con rắn độc bị nóng bò ra và quấn vào tay ông. Khi dân địa phương thấy con rắn độc đeo vào tay Phao-lô, họ nói với nhau, “Người này quả là kẻ sát nhân, nên dù đã thoát chết trên biển, công lý cũng không để cho sống.” Nhưng Phao-lô rảy con rắn độc vào lửa, và không hề hấn gì. Họ nghĩ rằng ông sẽ bị sưng phù lên hoặc sẽ ngã xuống chết tức khắc, nhưng họ đợi mãi mà không thấy có gì bất thường xảy đến cho ông, nên họ đổi ý và nghĩ ông là một vị thần.

Gần nơi ấy là lãnh địa của Púp-li-u vị chúa đảo. Ông ta tiếp đãi chúng tôi rất ân cần trong ba ngày. Lúc ấy cha của Púp-li-u bị nóng lạnh và kiết lỵ, nằm liệt trên giường. Phao-lô đến thăm ông, đặt tay cầu nguyện, và chữa lành cho ông. Thấy thế tất cả những ai trên đảo bị đau ốm đều kéo đến gặp Phao-lô, và họ đều được chữa lành. 10 Họ đã bày tỏ lòng quý trọng chúng tôi bằng nhiều cách; khi chúng tôi xuống tàu ra đi, họ đã cung cấp mọi nhu cầu cho chúng tôi.

Phao-lô Ðến Thủ Ðô Rô-ma

11 Sau ba tháng chúng tôi xuống một chiếc tàu đã đến đảo để tạm trú qua mùa đông; tàu ấy đến từ A-léc-xan-ria và có hình hai thần Anh Em Sinh Ðôi chạm ở đầu tàu. 12 Khi tàu ghé Hải Cảng Sy-ra-cút, chúng tôi ở lại đó ba ngày. 13 Từ đó chúng tôi chạy dọc bờ biển và đến Rê-ghi-um. Một ngày sau gió nồm nổi lên, nên ngày kế tiếp chúng tôi đã đến được Pu-tê-ô-li. 14 Tại đây chúng tôi tìm được anh chị em tín hữu. Họ mời chúng tôi ở lại với họ bảy ngày. Sau đó chúng tôi lên đường đến Rô-ma. 15 Khi anh chị em tín hữu ở Rô-ma nghe tin chúng tôi đến, một số người đã từ khu thương mại Áp-pi-u và vùng Ba Lữ Quán đến gặp chúng tôi. Khi Phao-lô thấy họ, ông cảm tạ Ðức Chúa Trời và cảm thấy vững lòng. 16 Khi chúng tôi vào đến Thủ Ðô Rô-ma, Phao-lô được phép ở riêng một mình với một người lính canh giữ.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang