Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Xuất Hành 29-40

Biệt Riêng Ra Thánh Các Thầy Tế Lễ

29 Đây là điều con phải làm để biệt riêng ra thánh cho họ, để cho họ có thể phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ: bắt một con bò đực tơ và hai con cừu đực không khuyết tật, dùng bột mì mịn nhưng không dùng men, để làm bánh lạt, bánh ngọt pha dầu và bánh kẹp tẩm dầu. Để các bánh này vào một cái giỏ để dâng cùng với con bò và hai con cừu. Sau đó con đem A-rôn và các con trai người đến cửa vào Trại Hội Kiến và lấy nước tắm rửa họ. Lấy bộ áo lễ gồm có áo dài, áo khoác ngoài ê-phót, cái ê-phót và bảng đeo ngực để mặc cho A-rôn. Dùng đai thắt lưng đã được dệt cách khéo léo để giữ ê-phót cho chặt. Lấy khăn đội đầu đội lên đầu người và gắn cái thẻ thánh lên khăn. Lấy dầu xức cho người bằng cách đổ dầu lên đầu. Cũng mặc áo dài cho các con trai A-rôn, đội khăn lên đầu họ. Sau đó lấy dây thắt lưng thắt cho A-rôn và các con trai người. Họ sẽ giữ chức vụ tế lễ theo một mạng lệnh đời đời. Đó là cách con biệt riêng ra thánh cho A-rôn và các con trai người.

10 Dắt con bò đực đến trước Trại Hội Kiến, rồi A-rôn và các con trai sẽ đặt tay trên đầu con bò. 11 Giết con bò trước sự hiện diện của CHÚA tại cửa vào Trại Hội Kiến. 12 Con lấy ngón tay, nhúng vào huyết bò và bôi lên các sừng bàn thờ và đổ phần huyết còn lại nơi chân bàn thờ. 13 Lấy hết mỡ bọc ruột, mỡ bọc gan, hai quả thận với mỡ bọc quanh đem đốt trên bàn thờ. 14 Nhưng thịt, da và phân bò phải đem đốt bên ngoài trại quân. Đó là tế lễ chuộc tội.

15 Dắt một con cừu đực đến để A-rôn và các con trai người đặt tay lên đầu nó. 16 Giết cừu và lấy huyết cừu rảy khắp xung quanh bàn thờ. 17 Chặt cừu ra từng miếng; rửa bộ lòng và chân rồi đem để chung với đầu và các miếng khác. 18 Sau đó đem đốt cả con cừu trên bàn thờ. Đó là tế lễ thiêu, một tế lễ có mùi thơm, dùng lửa dâng cho CHÚA.

19 Dắt con cừu thứ hai đến để A-rôn và các con trai người đặt tay lên đầu nó. 20 Giết cừu, lấy huyết cừu bôi lên trái tai bên phải, trên ngón cái bàn tay phải và trên ngón cái bàn chân phải của A-rôn và của các con trai người. Rồi lấy huyết cừu rảy khắp các phía của bàn thờ. 21 Lấy một ít huyết trên bàn thờ trộn với một ít dầu xức, đem rảy trên A-rôn và trên quần áo người, trên các con trai A-rôn và trên quần áo họ. Như vậy A-rôn, các con trai người với quần áo của họ đều trở nên thánh.

22 Vì đây là con cừu dùng vào việc biệt riêng ra thánh, nên con lấy mỡ cừu, gồm cả mỡ đuôi và mỡ bọc bộ lòng, phần bọc lá gan, hai trái thận với mỡ bọc quanh, cái đùi phải; 23 cũng lấy trong giỏ bánh không men ở trước mặt CHÚA một ổ bánh, một bánh ngọt pha dầu và một bánh kẹp, 24 rồi đem đặt các món này vào tay A-rôn và tay các con trai người để họ đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA, làm tế lễ đưa qua đưa lại. 25 Sau đó con lấy các món ấy từ tay họ và đem đốt trên bàn thờ cùng với tế lễ thiêu có mùi thơm dâng lên CHÚA, và là một tế lễ dùng lửa dâng cho CHÚA. 26 Sau khi con lấy cái ngực con cừu dùng vào việc biệt riêng ra thánh, đưa qua đưa lại cái ngực ấy trước mặt CHÚA làm tế lễ đưa qua đưa lại, rồi cái ngực đó sẽ thuộc phần con.

27 Con làm nên thánh các phần của con cừu dùng vào việc biệt riêng ra thánh, là các phần thuộc về A-rôn và các con trai người, tức là cái ức đã đưa qua đưa lại với cái đùi đã trình dâng. 28 Đây là phần do dân Y-sơ-ra-ên dâng hiến và được chia cho A-rôn và các con trai người. Đây là phần do dân Y-sơ-ra-ên đóng góp khi họ dâng tế lễ cầu an cho CHÚA.

29 Bộ áo thánh của A-rôn sẽ được truyền lại cho con cháu, để họ mặc khi được xức dầu và được tấn phong. 30 Người con trai kế vị A-rôn làm thầy tế lễ sẽ mặc bộ áo thánh này trong bảy ngày khi đến Trại Hội Kiến và thi hành chức vụ trong Nơi Thánh.

31 Đem con cừu dùng vào việc biệt riêng ra thánh và nấu thịt nó trong một Nơi Thánh. 32 A-rôn và các con trai người phải ăn thịt con cừu đó với bánh trong giỏ tại cửa vào Trại Hội Kiến. 33 Họ phải ăn các món này là tế lễ chuộc tội và họ được phong chức và được biệt riêng ra thánh. Không một ai khác được ăn các món này, vì là thức ăn thánh. 34 Nếu thịt và bánh còn thừa đến sáng hôm sau, phải đem đốt hết và không được ăn, vì là các món thánh.

35 Con phải thực hiện cho A-rôn và các con trai người tất cả mọi điều Ta truyền bảo con và lễ tấn phong họ sẽ kéo dài trong bảy ngày. 36 Mỗi ngày phải dâng một con bò làm tế lễ chuộc tội. Làm cho bàn thờ tinh sạch bằng cách làm lễ chuộc tội, và thánh hóa bàn thờ bằng cách xức dầu. 37 Trong bảy ngày con làm lễ chuộc tội và thánh hóa bàn thờ. Sau đó bàn thờ sẽ trở nên rất thánh và bất cứ cái gì đụng đến bàn thờ đều trở nên thánh.

38 Đây là những thứ con phải thường xuyên dâng mỗi ngày trên bàn thờ: hai cừu con một tuổi. 39 Dâng một con vào buổi sáng và một con vào chạng vạng tối. 40 Cùng với con cừu thứ nhất, con dâng một phần mười ê-pha[a] bột mịn trộn với một phần tư hin[b] dầu ép từ trái ô-liu, và một phần tư hin rượu nho để làm lễ tưới rượu.[c] 41 Dâng con cừu thứ hai vào lúc chạng vạng tối, với tế lễ chay và lễ tưới rượu cũng giống như dâng vào buổi sáng: đó là tế lễ dùng lửa dâng có mùi thơm lên CHÚA.

42 Từ thế hệ này sang thế hệ khác, tế lễ thiêu phải được dâng thường xuyên tại cửa vào Trại Hội Kiến trước mặt CHÚA. Tại đó Ta sẽ gặp và trò chuyện với con; 43 tại đó Ta cũng sẽ gặp dân Y-sơ-ra-ên và vinh quang Ta sẽ làm cho nơi này nên thánh.

44 Như vậy Ta sẽ thánh hóa Trại Hội Kiến và bàn thờ, cũng thánh hóa A-rôn và các con trai người để họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. 45 Ta sẽ ở giữa dân Y-sơ-ra-ên và sẽ là Đức Chúa Trời của họ. 46 Họ sẽ biết Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của họ, Đấng đã đem họ ra khỏi Ai-cập để Ta có thể ở giữa họ. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của họ.

Bàn Thờ Dâng Hương

30 Làm một bàn thờ bằng gỗ si-tim để dâng hương. Bàn thờ này hình vuông, dài một am-ma, ngang một am-ma và cao hai am-ma,[d] có các sừng được gắn liền và trở thành một khối với bàn thờ. Dùng vàng ròng bọc mặt bàn, các cạnh bàn, các sừng và làm đường viền khắp xung quanh bàn. Làm mỗi bên bàn hai cái khoen vàng và gắn khoen vào ngay bên dưới đường viền, để giữ đòn khiêng. Làm hai cái đòn khiêng bằng gỗ si-tim bọc vàng. Đặt bàn thờ này trước bức màn che Rương Giao Ước và Nắp Chuộc Tội đậy trên Rương, là nơi Ta sẽ gặp con.

A-rôn phải đốt hương thơm trên bàn thờ này vào mỗi buổi sáng, khi trông nom các đèn, và cũng phải đốt hương khi người đốt đèn lúc chạng vạng tối; như vậy hương sẽ được đốt thường xuyên trước mặt CHÚA, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đừng đốt trên bàn thờ này thứ hương gì khác, cũng đừng dâng tế lễ thiêu hay lễ tưới rượu trên đó. 10 Mỗi năm một lần, A-rôn sẽ thực hiện lễ chuộc tội trên các sừng của bàn thờ. Lễ chuộc tội hằng năm này phải được thực hiện với huyết con sinh tế chuộc tội cho các thế hệ tương lai. Đây là một bàn thờ rất thánh cho CHÚA.

Tiền Chuộc Tội

11 Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se rằng: 12 “Khi con kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên, mỗi người phải nộp cho CHÚA một món tiền chuộc mạng. Như vậy chứng bệnh dịch sẽ không phát ra khi con kiểm tra họ. 13 Mỗi người được kiểm kê sẽ nộp nửa sê-ken[e] theo hệ cân đo Nơi Thánh, mỗi sê-ken bằng hai mươi gê-ra. Nửa sê-ken này là tiền dâng hiến cho CHÚA. 14 Tất cả những người được kiểm tra, là người từ hai mươi tuổi trở lên đều phải nộp món tiền dâng này cho CHÚA. 15 Người giàu không nộp hơn nửa sê-ken và người nghèo không nộp kém khi các ngươi dâng hiến cho CHÚA để chuộc mạng sống mình. 16 Con nhận tiền chuộc mạng này do dân Y-sơ-ra-ên nộp và xử dụng vào việc Trại Hội Kiến. Đây là một kỷ niệm cho dân Y-sơ-ra-ên trước mặt CHÚA, khi họ nộp tiền để chuộc mạng mình.”

Bồn Nước Bằng Đồng

17 CHÚA phán dạy Môi-se rằng: 18 “Làm một cái bồn bằng đồng, với chân cũng bằng đồng, dùng để rửa ráy. Đặt bồn vào khoảng giữa Trại Hội Kiến và bàn thờ và đổ nước vào bồn. 19 A-rôn và các con trai người sẽ dùng nước trong bồn để rửa tay chân. 20 Bất cứ khi nào vào Trại Hội Kiến, họ phải lấy nước rửa tay chân để khỏi chết. Cũng vậy, mỗi khi đến gần bàn thờ để dâng tế lễ thiêu cho CHÚA 21 họ cũng phải rửa tay và chân để khỏi phải chết. Đây là một mạng lệnh vĩnh viễn cho A-rôn và dòng dõi người từ thế hệ này sang thế hệ khác.”

Dầu Thánh

22 CHÚA phán dạy Môi-se rằng: 23 “Con lấy các hương liệu sau đây: năm trăm sê-ken[f] một dược nước, hai trăm rưởi sê-ken đan quế, hai trăm rưởi sê-ken nhựa thơm,[g] 24 năm trăm sê-ken quế bì, tất cả đều theo hệ cân đo Nơi Thánh, và một hin[h] dầu ô-liu. 25 Một thợ chuyên chế nước hoa sẽ dùng các hương liệu này chế ra một thứ dầu thánh. Đây là một thứ dầu thánh. 26 Dùng dầu này xức lên Trại Hội Kiến, Rương Giao Ước, 27 bàn và các dụng cụ của bàn, chân đèn và các dụng cụ đốt đèn, bàn thờ dâng hương, 28 bàn thờ dâng tế lễ thiêu và các dụng cụ của bàn thờ, bồn nước và chân bồn. 29 Con biệt riêng các món này ra thánh để tất cả đều trở nên rất thánh và bất cứ thứ gì đụng đến cũng đều được thánh hóa.

30 Con xức dầu phong chức lên A-rôn và các con trai người để họ phục vụ Ta trong chức vụ thầy tế lễ. 31 Con cũng hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Đây là dầu thánh và các ngươi phải coi là một vật thánh. 32 Đừng đổ dầu này trên thân thể của người nào cả và cũng đừng chế dầu theo công thức này. Đây là dầu thánh và các ngươi phải coi là một vật thánh. 33 Bất cứ ai chế dầu giống như dầu này và bất cứ người nào đổ dầu trên người không phải là thầy tế lễ sẽ bị truất ra khỏi hội chúng dân Y-sơ-ra-ên.’ ”

Hương Thánh

34 CHÚA phán dạy Môi-se: “Con lấy các hương liệu gồm có hoa yểm hương, phong tử hương và nhũ hương nguyên chất, tất cả đều có phần lượng bằng nhau, 35 và một thợ chuyên chế nước hoa sẽ chế thành một thứ hương thánh. Đây là thứ hương thánh, có muối và tinh chất. 36 Lấy một phần nghiền thành bột và rảy bột này trước Rương Giao Ước trong Trại Hội Kiến là nơi Ta sẽ gặp con. Hương này rất thánh. 37 Không được chế hương theo công thức này để dùng cho mình; phải coi đây là một vật thánh cho CHÚA. 38 Bất cứ ai làm một thứ hương giống hương này để thưởng thức sẽ phải bị truất khỏi hội chúng Y-sơ-ra-ên.”

Bết-sa-lê-ên Và Ô-hô-li-áp

31 CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Này, Ta đã chọn Bết-sa-lê-ên, con trai U-ri, cháu Hu-rơ, thuộc bộ tộc Giu-đa, và Ta đã cho người này đầy dẫy thần của Đức Chúa Trời, với tài khéo, khả năng và hiểu biết trong ngành thủ công nghệ, để vẽ kiểu và chế tạo các món bằng vàng, bạc và đồng, để cắt và nhận ngọc, để chạm gỗ và làm các loại thủ công nghệ. Ngoài ra, Ta cũng chỉ định Ô-hô-li-áp, con trai A-hi-sa-mạc, thuộc bộ tộc Đan để làm phụ tá cho Bết-sa-lê-ên. Ta cũng ban tài năng cho các thợ khéo để họ thực hiện mọi thứ Ta đã truyền dạy con, kể cả Trại Hội Kiến, Rương Giao Ước với Nắp Chuộc Tội đậy trên Rương và tất cả mọi dụng cụ khác trong Đền, gồm có bàn và các món dụng cụ, chân đèn bằng vàng ròng và các món dụng cụ, bàn thờ dâng hương, bàn thờ dâng tế lễ thiêu và các dụng cụ khác, bồn nước và chân bồn, 10 cũng như các thứ áo lễ: bộ áo lễ thánh cho thầy tế lễ A-rôn, các bộ áo lễ cho các con trai người khi những người này thi hành chức tế lễ, 11 dầu xức thánh và hương thánh cho Nơi Thánh. Họ phải thực hiện các món này đúng theo mạng lệnh Ta đã truyền cho con.”

Luật Ngày Sa-bát

12 CHÚA phán dạy Môi-se rằng: 13 “Con hãy truyền mạng lệnh này cho dân Y-sơ-ra-ên: ‘Các ngươi phải giữ ngày Sa-bát của Ta. Đây là một dấu hiệu giữa Ta và các ngươi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, để các ngươi biết Ta là CHÚA, Đấng làm các ngươi nên thánh.’

14 Phải giữ ngày Sa-bát vì là ngày thánh cho các ngươi. Ai vi phạm ngày ấy sẽ bị xử tử, ai làm bất cứ công việc gì trong ngày ấy phải bị truất khỏi hội chúng Y-sơ-ra-ên. 15 Các ngươi làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát tức là ngày nghỉ và thánh cho CHÚA. Ai làm bất cứ công việc gì trong ngày Sa-bát phải bị xử tử. 16 Người Y-sơ-ra-ên phải giữ ngày Sa-bát, từ thế hệ này sang thế hệ khác vì đây là một giao ước đời đời. 17 Đây là một dấu hiệu vĩnh viễn giữa Ta và dân Y-sơ-ra-ên, vì CHÚA dựng nên trời đất trong sáu ngày và qua ngày thứ bảy Ngài dừng công việc và nghỉ ngơi.” 18 Sau khi phán dạy Môi-se những điều này trên núi Si-nai, CHÚA ban cho Môi-se hai bảng Giao Ước, là hai bảng đá do ngón tay của Đức Chúa Trời viết lên trên.

Bò Con Vàng

32 Khi thấy đã quá lâu mà Môi-se chưa xuống núi, dân Y-sơ-ra-ên họp quanh A-rôn và nói: “Xin ông làm ra một vị thần để hướng dẫn chúng ta, vì không biết có gì đã xảy ra cho Môi-se, người đã đem chúng ta ra khỏi Ai-cập.”

A-rôn đáp: “Hãy tháo các bông tai bằng vàng của vợ, con trai và con gái các ông và đem đến đây cho tôi.” Như vậy dân chúng tháo bông tai của họ và đem đến cho A-rôn. Ông lấy các món họ đem đến, đúc một tượng hình bò con và dùng dụng cụ trau chuốt. Rồi họ reo hò: “Hỡi người Y-sơ-ra-ên, đây là thần của các ngươi, đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập.”

Khi thấy vậy, A-rôn lập một bàn thờ trước con bò con và tuyên bố: “Ngày mai chúng ta sẽ tổ chức lễ mừng CHÚA.” Qua ngày hôm sau dân chúng dậy sớm, dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an rồi đứng dậy ăn uống vui chơi.

Lúc ấy, CHÚA phán dạy Môi-se: “Con xuống núi đi, vì đoàn dân con đem ra khỏi Ai-cập đã hư hỏng rồi. Chúng đã vội bỏ con đường Ta truyền dạy mà làm cho mình một tượng hình bò con. Chúng đã quỳ lạy trước tượng đó, dâng tế lễ cho nó và nói: ‘Hỡi người Y-sơ-ra-ên, đây là thần của chúng ta, đã đem chúng ta ra khỏi Ai-cập.’ ”

CHÚA phán tiếp với Môi-se: “Ta đã thấy rõ dân này, chúng là một dân cứng cổ. 10 Con để mặc Ta để cho cơn giận Ta phừng lên nghịch với chúng và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Rồi Ta sẽ làm cho con trở thành một dân tộc lớn.”

11 Nhưng Môi-se nài xin ơn huệ của CHÚA, Đức Chúa Trời của mình rằng: “Lạy CHÚA, tại sao cơn giận của Chúa phừng lên nghịch dân Chúa, là dân Chúa đã đem ra khỏi xứ Ai-cập với quyền năng lớn và với cánh tay toàn năng? 12 Tại sao để cho người Ai-cập nói rằng: ‘Khi đem họ ra Chúa có ác ý là để cho họ chết trên núi và để xóa sạch họ khỏi mặt đất?’ Xin Chúa nguôi cơn giận, đổi ý và không giáng tai họa trên dân Chúa. 13 Xin Chúa nhớ lại các tôi tớ của Chúa là Áp-ra-ham, Y-sác và Y-sơ-ra-ên, là những người được Chúa chỉ chính mình Chúa mà thề rằng: ‘Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông như sao trên trời, Ta sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả đất đai Ta đã hứa với họ, và đất đó sẽ là cơ nghiệp vĩnh viễn của họ.’ ” 14 CHÚA đổi ý không giáng tai họa trên dân của Ngài như Ngài đã đe dọa.

15 Môi-se quay xuống núi, trong tay có cầm hai bảng Giao Ước. Hai bảng này viết cả hai mặt, mặt trước và mặt sau. 16 Hai bảng này là việc của Đức Chúa Trời làm, chữ trên đó là chữ của Đức Chúa Trời và được khắc trên bảng đá.

17 Khi Giô-suê nghe tiếng dân chúng reo hò liền nói với Môi-se: “Có tiếng chiến tranh trong trại quân.” 18 Nhưng Môi-se đáp: “Đó không phải là tiếng chiến thắng, cũng không phải là tiếng chiến bại; tiếng ta nghe là tiếng hát xướng.”

19 Khi đến gần trại quân và thấy bò con với cảnh nhảy múa, Môi-se nổi giận, ném hai bảng đá vào chân núi, làm vỡ tan tành. 20 Sau đó ông lấy tượng bò con đem đốt trong lửa; rồi ông nghiền tượng nát thành bột, đem bột rắc trên nước và bắt dân Y-sơ-ra-ên uống.

21 Rồi Môi-se nói với A-rôn: “Dân này đã làm gì cho anh mà anh dẫn họ vào tội lỗi trầm trọng như thế này?” 22 A-rôn đáp: “Xin chúa tôi đừng giận; chúa đã biết họ là dân có khuynh hướng làm điều ác. 23 Họ nói với tôi: ‘xin ông làm ra một vị thần để hướng dẫn chúng tôi vì không biết có gì xảy ra cho Môi-se là người đã đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập.’ 24 Vì vậy tôi nói với họ: ‘Ai có các món đồ bằng vàng thì tháo ra’. Họ đem vàng đến cho tôi, tôi ném vàng đó vào lửa và từ đó mà ra bò con này.”

25 Môi-se nhận thấy dân chúng phóng đãng, vì A-rôn đã để cho họ buông lung và họ đã trở thành trò cười cho quân thù. 26 Vì vậy ông đứng tại cửa vào trại quân và nói: “Ai thuộc về CHÚA, hãy đến đây với tôi.” Tất cả người Lê-vi tập họp xung quanh Môi-se. 27 Môi-se nói với những người này: “Đây là điều CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán: ‘Mỗi người phải đeo gươm bên mình, rồi đi qua đi lại suốt trại quân từ đầu này đến đầu kia, mỗi người giết anh em, bạn hữu và láng giềng của mình.’ ” 28 Người Lê-vi vâng theo mạng lệnh Môi-se và trong ngày đó có độ ba ngàn người chết. 29 Môi-se nói với họ: “Hôm nay anh em đã được biệt riêng ra cho CHÚA, chẳng sá gì đến cả con cái và anh em mình; vì vậy Chúa giáng phước cho anh em hôm nay.”

30 Qua ngày hôm sau, Môi-se nói với dân chúng: “Anh chị em đã phạm một trọng tội. Nhưng tôi sẽ lên với CHÚA, có lẽ tôi có thể chuộc tội cho anh chị em.” 31 Vậy, Môi-se trở lên gặp CHÚA và thưa: “Chúa ôi! Dân này đã phạm tội quá nặng, đã làm cho mình một thần bằng vàng. 32 Nhưng xin Chúa tha tội cho họ, nếu không, xin Chúa xóa tên con khỏi sách Chúa đã viết đi!” 33 CHÚA đáp lời Môi-se: “Ai phạm tội với Ta, Ta sẽ xóa tên người đó khỏi sách Ta. 34 Còn bây giờ, con phải đi dẫn dân Y-sơ-ra-ên đến nơi Ta đã bảo con và thiên sứ của Ta sẽ đi trước con. Tuy nhiên, khi thời điểm hình phạt đến. Ta sẽ hình phạt dân này vì tội lỗi của họ.” 35 CHÚA giáng bệnh dịch trên dân Y-sơ-ra-ên vì họ thờ phượng bò con A-rôn đã làm ra.

33 Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Con và dân sự con đã đem ra khỏi Ai-cập hãy rời bỏ chỗ này và đi lên xứ Ta đã hứa ban cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp khi Ta thề với họ: ‘Ta sẽ ban xứ này cho dòng dõi các con.’ Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước dẫn đường cho con và Ta sẽ đuổi các dân Ca-na-an, A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít đi. Các ngươi sẽ vào xứ tràn đầy sữa và mật ong. Nhưng Ta không đi với các ngươi đâu, vì các ngươi là một dân cứng cổ và Ta có thể tiêu diệt các ngươi dọc đường.”

Khi nghe tin dữ này, dân chúng đều khóc than như có tang và không một người nào đeo đồ trang sức. CHÚA có phán bảo Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên: “Các ngươi là một dân cứng cổ; nếu Ta đi với các ngươi, dù chỉ trong một thời gian ngắn, Ta có thể tiêu diệt các ngươi. Bây giờ, hãy tháo hết đồ trang sức, đợi xem Ta sẽ quyết định làm gì cho các ngươi.” Vì vậy ngay từ khi rời khỏi núi Hô-rếp dân Y-sơ-ra-ên tháo hết mọi đồ trang sức.

Trại Hội Kiến

Lúc đó Môi-se đem cái lều thánh ra dựng bên ngoài trại quân một khoảng xa và gọi lều ấy là “Trại Hội Kiến”. Ai muốn cầu hỏi ý CHÚA đều đến lều này ở bên ngoài trại quân. Mỗi khi Môi-se đi ra Lều, toàn dân đều đứng lên và đứng ở cửa trại của họ, nhìn theo Môi-se cho đến khi ông vào Lều. Vừa khi ông vào Lều, trụ mây hạ xuống và dừng trước cửa trong khi CHÚA trò chuyện với Môi-se. 10 Khi thấy trụ mây dừng ở cửa vào Lều, ai nấy đều đứng lên ở cửa trại mình rồi cúi sấp mình xuống mà thờ phượng. 11 CHÚA đối diện trò chuyện với Môi-se, như một người nói chuyện với bạn mình. Sau đó, Môi-se trở về trại quân, nhưng thanh niên phụ tá ông là Giô-suê, con trai Nun, không rời khỏi Lều.

Môi-se Và Vinh Quang Của CHÚA

12 Môi-se thưa với CHÚA: “Chúa có bảo con lãnh đạo dân này, nhưng Chúa không cho con biết Chúa sẽ sai ai đi với con. Chúa cũng đã phán ‘Ta biết đích danh con và con làm vui lòng Ta’. 13 Nếu con làm Chúa vui lòng, xin dạy con đường lối Chúa để con biết Chúa và tiếp tục nhận được đặc ân của Chúa. Xin Chúa nhớ dân này là dân của Chúa.” 14 CHÚA đáp: “Chính Ta[i] sẽ đi với con và sẽ cho con được an nghỉ.” 15 Môi-se thưa: “Nếu chính Chúa không đi với chúng con, xin đừng sai chúng con đi khỏi đây. 16 Làm sao người ta biết được rằng con và dân này được Chúa vui lòng nếu Chúa không đi với chúng con? Việc Chúa đi với chúng con sẽ phân biệt con và dân Chúa với tất cả các dân tộc khác trên mặt đất.”

17 CHÚA phán với Môi-se: “Ta sẽ làm mọi điều con cầu xin, vì con làm Ta vui lòng và vì Ta biết đích danh con.” 18 Lúc ấy Môi-se thưa: “Xin cho con được nhìn xem vinh quang Chúa.” 19 CHÚA đáp: “Ta sẽ bày tỏ đức nhân ái Ta trước mặt con, Ta sẽ tuyên bố danh Ta, là CHÚA trước mặt con. Ta bầy tỏ lòng từ ái với ai Ta muốn từ ái, Ta bày tỏ lòng thương xót với ai Ta muốn thương xót. 20 Nhưng con không thể thấy mặt Ta, vì không ai thấy mặt Ta mà còn sống.” 21 Rồi CHÚA phán tiếp: “Kìa là tảng đá bên cạnh Ta, con hãy đứng nơi đó. 22 Khi vinh quang Ta đi ngang qua, Ta sẽ đặt con vào khe đá và lấy tay che con cho đến khi Ta qua khỏi. 23 Lúc ấy Ta sẽ rút tay lại và con sẽ thấy sau lưng Ta, chứ không thấy được mặt Ta.”

Bảng Đá Mới

34 CHÚA phán dạy Môi-se: “Con đục hai bảng đá giống hai bảng trước, và Ta sẽ viết lại trên đó những lời đã viết trên hai bảng con đã đập vỡ. Hãy sẵn sàng, sáng mai con sẽ lên đỉnh núi Si-nai để trình diện Ta. Không ai được đi theo con, cũng không ai được ở trên núi; cả đến bầy bò, cừu cũng không được ăn cỏ dưới chân núi.”

Vậy, Môi-se đục hai bảng đá giống hai bảng đá trước. Vừa sáng sớm, Môi-se thức dậy, tay cầm hai bảng đá đi lên núi Si-nai như CHÚA bảo. CHÚA giáng lâm trong đám mây, đứng đó với Môi-se và tuyên bố danh Ngài là CHÚA. Chúa đi ngang qua trước mặt Môi-se và tuyên bố: “Ta là CHÚA, Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời có lòng thương xót và ân huệ, chậm giận, đầy dẫy tình thương và thành tín, giữ lòng yêu thương đến ngàn đời, tha thứ gian ác, phản nghịch và tội lỗi; nhưng không để cho người có tội được thoát hình phạt và nhân tội tổ phụ phạt con cháu đến ba bốn đời.”

Môi-se lập tức cúi mặt sát đất và thờ phượng. Ông thưa với CHÚA: “Ôi CHÚA! Nếu con được đặc ân dưới mắt Chúa, xin Chúa cùng đi với chúng con. Xin Chúa tha thứ gian ác và tội lỗi chúng con, chấp nhận chúng con là sản nghiệp của Chúa, mặc dù chúng con là một dân cứng cổ.”

10 CHÚA phán: “Này Ta lập giao ước với các con. Trước mặt dân con, Ta sẽ làm những phép lạ trước đây chưa hề thấy trong bất cứ dân tộc nào trên đất. Toàn dân Y-sơ-ra-ên, là dân con chung sống, sẽ thấy những việc hết sức đáng sợ mà Ta, CHÚA, sẽ làm cho các ngươi. 11 Phải tuân theo mạng lệnh Ta truyền cho con hôm nay. Ta sẽ đuổi các dân A-mô-rít, Ca-na-an, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít trước mặt các ngươi. 12 Phải cẩn thận không được kết ước với các dân sinh sống trong xứ các ngươi sẽ vào, vì nếu làm vậy, họ sẽ thành cạm bẫy cho các ngươi. 13 Phải hủy phá bàn thờ, đập nát các tượng thờ và triệt hạ các trụ A-sê-ra[j] của các dân ấy. 14 Đừng thờ lạy bất cứ thần nào khác, vì CHÚA kỵ tà, Đức Chúa Trời Kỵ Tà là danh Ngài.

15 Phải cẩn thận đừng kết ước với các dân bản xứ, vì khi họ hành dâm với các tà thần, dâng sinh tế cho các thần đó rồi mời mọc các ngươi và các ngươi sẽ ăn của cúng. 16 Cũng đừng cưới con gái họ cho con trai các ngươi, vì những người con gái này sẽ hành dâm với các tà thần và hướng dẫn con trai các ngươi thờ lạy các thần ấy.

17 Đừng đúc thần tượng cho các ngươi. 18 Phải giữ lễ Bánh Không Men. Trong bảy ngày phải ăn bánh không men như Ta đã truyền dạy con. Giữ lễ này vào thời điểm đã ấn định trong tháng giêng, vì trong tháng đó các ngươi ra khỏi Ai-cập.

19 Tất cả các con đầu lòng đều thuộc về Ta, kể cả con đực đầu lòng của bầy gia súc, dù là bầy cừu hay bầy bò. 20 Dùng cừu con để chuộc con lừa đầu lòng; nếu không chuộc thì phải bẻ gẫy cổ con lừa. Phải chuộc tất cả con trưởng nam của các ngươi. Không ai đi tay không đến thờ phượng Ta.

21 Các ngươi làm việc trong sáu ngày, nhưng phải nghỉ vào ngày thứ bảy; ngay trong mùa cầy cấy và mùa gặt hái, các ngươi cũng phải nghỉ. 22 Phải giữ lễ Các Tuần với hoa lợi đầu mùa của mùa gặt lúa mì, và lễ Thu Hoạch vào cuối năm.[k] 23 Mỗi năm ba lần tất cả người nam phải đến thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 24 Ta sẽ đuổi các dân tộc khỏi các ngươi, mở rộng bờ cõi các ngươi, và không một ai sẽ thèm muốn xứ sở các ngươi khi các ngươi đến thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi mỗi năm ba lần.

25 Đừng dâng huyết con sinh tế cho Ta chung với men và đừng để thịt sinh tế tế lễ Vượt Qua còn lại đến sáng hôm sau. 26 Phải đem hoa lợi đầu mùa tốt nhất của ruộng đất ngươi lên nhà của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đừng nấu dê con trong sữa mẹ nó.”

27 Rồi CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy ghi chép lại những lời này, vì căn cứ trên những lời này mà Ta đã lập giao ước với con và với dân Y-sơ-ra-ên.” 28 Môi-se ở trên núi với CHÚA bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, không ăn bánh cũng không uống nước. CHÚA viết trên hai bảng đá lời của giao ước, tức là Mười Điều Răn.

Mặt Môi-se Sáng Rực

29 Khi từ trên núi Si-nai xuống, với hai bảng Giao Ước trong tay, Môi-se không biết rằng mặt ông sáng rực vì ông đã trò chuyện với CHÚA. 30 Khi A-rôn và toàn dân Y-sơ-ra-ên thấy mặt Môi-se sáng rực thì sợ không dám đến gần ông. 31 Nhưng khi nghe Môi-se gọi, A-rôn và tất cả các vị quản trị trong hội chúng đến và ông trò chuyện với họ. 32 Sau đó, toàn thể dân Y-sơ-ra-ên cũng đến gần và ông truyền lại cho họ tất cả các mạng lệnh CHÚA đã ban cho ông trên núi Si-nai.

33 Sau khi nói chuyện với họ, Môi-se lấy mạng che mặt mình lại. 34 Nhưng khi vào trong sự hiện diện của CHÚA để thưa chuyện với Ngài, ông tháo mạng che mặt cho đến khi ông trở ra và truyền lại cho dân Y-sơ-ra-ên những mạng lệnh của Chúa. 35 Lúc ấy dân chúng thấy mặt ông sáng rực nên ông lấy mạng che mặt cho đến khi ông trở lại hầu chuyện với CHÚA.

Luật Về Ngày Sa-bát

35 Môi-se triệu tập toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên lại và nói với họ: “Đây là những điều CHÚA truyền bảo anh chị em phải vâng giữ. Sáu ngày đầu là những ngày để làm việc nhưng ngày thứ bảy là ngày thánh, tức là ngày nghỉ dành cho CHÚA. Bất cứ người nào làm công việc gì trong ngày đó phải bị xử tử. Lửa cũng không được đốt lên trong ngày Sa-bát, bất cứ nơi nào các ngươi ở.”

Vật Liệu Để Dựng Đền Tạm

Môi-se nói với toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng: “Đây là điều CHÚA truyền dạy: Anh chị em trích trong của cải mình có để dâng hiến cho CHÚA. Mỗi người tự nguyện đem dâng cho CHÚA vàng, bạc và đồng; chỉ xanh, tím, đỏ, sợi lanh, lông dê, da cừu nhuộm đỏ, da dê, gỗ si-tim, dầu ô-liu để thắp đèn, các hương liệu để chế dầu xức và hương thơm; bạch ngọc và các thứ ngọc để gắn lên ê-phót và bảng đeo ngực.

10 Tất cả những người khéo tay trong dân phải đến để làm mọi thứ CHÚA truyền bảo: 11 Đền Tạm với trại, mái che, móc, khuôn, thanh xà ngang, trụ và đế trụ; 12 Rương Giao Ước với đòn khiêng và Nắp Chuộc Tội, bức màn che Rương; 13 các bàn, đòn khiêng cùng với tất cả phụ tùng và bánh thánh; 14 cây đèn với các đồ phụ tùng, đèn và dầu thắp đèn; 15 bàn thờ dâng hương và đòn khiêng, dầu biệt riêng ra thánh và hương thơm; màn che cửa vào Đền Tạm; 16 bàn thờ dâng tế lễ thiêu, rá đồng, đòn khiêng với các dụng cụ khác; bồn nước bằng đồng và chân bồn; 17 màn che hành lang, trụ và lỗ trụ; màn che cửa hành lang; 18 cọc cắm lều cùng với dây dùng cho Đền Tạm và hành lang; 19 các bộ áo lễ thêu dệt công phu dùng trong Nơi Thánh, gồm có bộ áo lễ thánh cho thầy tế lễ A-rôn và các con trai người khi họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ.”

20 Nghe Môi-se dạy xong, toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên ra về. 21 Sau đó những người được lòng mình thúc giục tự nguyện đem đến các lễ vật dâng hiến cho CHÚA để dựng Đền Tạm, làm tất cả trang bị cần thiết cho sự thờ phượng và các bộ áo thánh. 22 Tất cả những người tự nguyện, cả nam lẫn nữ, đều mang đến đủ loại trang sức bằng vàng như vòng đeo mũi, bông tai, nhẫn, vòng đeo tay dâng hiến lên CHÚA. 23 Những người khác đem đến chỉ xanh, tím, đỏ, hay sợi lanh, lông dê, da cừu nhuộm đỏ, da dê để dâng hiến. 24 Tất cả những người nào để dành bạc và đồng dâng lên CHÚA đều mang đến. Những người có gỗ si-tim để dâng vào việc thờ phượng đều mang đến dâng. 25 Các phụ nữ khéo tay đem đến chỉ xanh, vàng, đỏ, và sợi lanh chính tay họ đã làm, 26 cũng có bà tình nguyện dệt lông dê theo khả năng mình. 27 Các cấp lãnh đạo dâng hiến bạch ngọc và các loại ngọc khác để gắn lên ê-phót và bảng đeo ngực. 28 Họ cũng mang đến dầu ô-liu để thắp đèn và các hương liệu để chế dầu tấn phong và hương thơm. 29 Như vậy, toàn dân Y-sơ-ra-ên, cả nam lẫn nữ, đều vui lòng đem dâng hiến lên CHÚA những lễ vật tự nguyện để làm tất cả các công việc CHÚA đã truyền bảo họ qua Môi-se.

Bết-sa-lê-ên Và Ô-hô-li-áp

30 Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên: “Này, CHÚA đã gọi đích danh Bết-sa-lê-ên, con U-ri, cháu Hu-rơ thuộc bộ tộc Giu-đa 31 và cho người đầy dẫy thần của Đức Chúa Trời, với tài khéo, khả năng và hiểu biết về mọi ngành thủ công nghệ, 32 để vẽ kiểu và chế tạo các vật bằng vàng, bạc, đồng, 33 để cắt và nhận ngọc, chạm gỗ và làm mọi công tác mỹ thuật. 34 Bết-sa-lê-ên cùng với Ô-hô-li-áp, con trai A-hi-sa-mạc, thuộc bộ tộc Đan, được Chúa ban cho khả năng để dạy người khác. 35 Chúa cũng phú cho hai người này tài khéo để làm tất cả các công việc chạm trổ thủ công, vẽ kiểu, thêu thùa và dệt với chỉ xanh, đỏ, tím và sợi lanh, vì cả hai đều có biệt tài thủ công và vẽ kiểu.”

36 Như vậy, Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp cùng với những người được CHÚA phú cho tài khéo và khả năng để hiểu biết và thực hiện tất cả công việc liên quan đến việc thờ phượng trong Nơi Thánh phải làm công việc đúng theo mạng lệnh CHÚA truyền.

Môi-se triệu tập Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp và những người khác đã được CHÚA phú cho khả năng và có tinh thần tự nguyện đến để bắt tay vào việc. Họ nhận từ tay Môi-se những lễ vật dân Y-sơ-ra-ên đã đem đến dâng vào công việc thờ phượng trong Nơi Thánh. Mỗi buổi sáng dân chúng cứ tiếp tục mang lễ vật đến, làm cho các người thợ chuyên môn đang tham dự vào việc thiết lập Đền Tạm phải dừng công việc. Họ nói với Môi-se: “Dân chúng dâng hiến quá nhiều, hơn số cần thiết để thực hiện các việc CHÚA đã dạy bảo.”

Vì vậy Môi-se ra lệnh và cho người loan báo trong khắp trại quân rằng: “Đừng ai đem bất cứ lễ vật nào cho công tác thiết lập Đền Tạm nữa.” Phải ngăn cản dân chúng như vậy để họ đừng dâng hiến thêm, vì đã có thừa vật liệu để làm tất cả các công việc.

Đền Tạm

Tất cả những thợ khéo nhất trong số người tham gia công tác thiết lập Đền Tạm dệt mười bức màn bằng chỉ lanh mầu xanh, tím và đỏ với hình chê-ru-bim thêu sắc sảo. Mười bức màn này đều có cùng cỡ: dài hai mươi tám am-ma,[l] rộng bốn am-ma[m] 10 Họ nối năm bức màn lại với nhau, năm bức màn kia cũng được nối lại như vậy. 11 Họ kết các vòng bằng chỉ xanh dọc theo đường biên của tấm màn lớn thứ nhất, rồi làm các vòng trên đường biên của tấm thứ hai. 12 Họ cũng làm năm mươi cái vòng trên tấm màn thứ nhất và năm mươi vòng trên tấm màn thứ hai, để cho các vòng đối diện nhau. 13 Sau đó họ làm năm mươi cái móc bằng vàng và dùng các móc này kết hai tấm màn lại thành một đơn vị duy nhất dùng làm Đền Tạm.

14 Họ làm mười một bức màn bằng lông dê để làm cái trại che trên Đền Tạm. 15 Mười một bức màn này có cùng một cỡ: dài ba mươi am-ma, rộng bốn am-ma.[n] 16 Họ kết năm bức màn này thành một bộ, và kết sáu bức màn còn lại thành bộ thứ hai. 17 Rồi họ làm năm mươi cái vòng dọc theo đường biên của tấm màn lớn thứ nhất, và cũng làm vòng dọc đường biên của tấm màn lớn thứ hai. 18 Họ làm năm mươi móc đồng để kết hai bộ này lại thành một mái lều cho Đền Tạm. 19 Họ cũng làm một tấm phủ che lều bằng da cừu nhuộm đỏ rồi làm bên trên mái này một tấm phủ khác cũng bằng da dê.

20 Họ dùng ván si-tim làm các bức vách thẳng đứng cho Đền Tạm. 21 Mỗi tấm ván dài hai mươi tám am-ma, rộng một am-ma rưỡi,[o] 22 với hai cái mộng song song. Họ làm tất cả các bức vách trong Đền Tạm theo cách này. 23 Họ làm hai mươi tấm ván cho bức vách phía nam Đền Tạm 24 và làm bốn mươi lỗ mộng bằng bạc, mỗi tấm ván có hai lỗ mộng, ngay dưới hai cái mộng của tấm ván. 25 Phía đối diện, tức là phía bắc của Đền Tạm, họ cũng làm hai mươi tấm ván, 26 với bốn mươi đế bằng bạc, cứ mỗi tấm ván có hai đế có ổ ăn khớp với mộng. 27 Họ làm sáu tấm ván cho phía sau, tức là phía tây của Đền Tạm, 28 và làm hai tấm nữa cho hai góc phía sau của Đền Tạm. 29 Ở hai góc này, hai tấm ván được ghép đôi, từ đất lên đến mái, và có một cái khoen cài lại. Cả hai tấm ván ở hai góc đều làm giống nhau. 30 Như vậy phía tây có tám tấm ván và mười sáu đế bằng bạc có ổ ăn khớp với mộng, mỗi tấm ván có hai đế bạc.

31 Họ cũng làm các thanh xà ngang bằng gỗ si-tim: năm thanh cho bức vách ở một phía Đền, 32 năm thanh cho bức vách phía tây, về phía sau của Đền Tạm. 33 Họ cũng làm thanh chính giữa đặt nằm giữa các tấm ván, từ đầu này đến đầu kia của vách. 34 Họ lấy vàng bọc các tấm ván vách và làm các khoen vàng để giữ các thanh xà ngang. Các thanh xà ngang cũng được bọc bằng vàng.

35 Họ làm một bức màn bằng sợi lanh với chỉ xanh, tím, đỏ và có hình chê-ru-bim thêu sắc sảo. 36 Họ làm bốn cây trụ bằng gỗ si-tim để treo bức màn và lấy vàng bọc các trụ này. Họ cũng làm các móc vàng cho các cây trụ, và đúc bốn đế có lỗ trụ bằng bạc để dựng trụ lên. 37 Để che cửa vào Đền Tạm, họ làm một bức màn bằng sợi lanh, thêu với chỉ màu xanh, tím và đỏ rất tinh xảo; 38 họ làm năm cây trụ với các móc, lấy vàng bọc đầu trụ và các đai trụ và làm năm đế có lỗ trụ bằng đồng.

Rương Giao Ước

37 Bết-sa-lê-ên đóng cái rương bằng gỗ si-tim, dài hai am-ma rưỡi, ngang một am-ma rưỡi và cao một am-ma rưỡi.[p] Ông lấy vàng ròng bọc cả bên trong lẫn bên ngoài và làm đường viền quanh Rương. Ông làm bốn cái khoen vàng và gắn vào bốn chân rương, hai khoen phía này và hai khoen phía kia. Ông cũng làm các đòn khiêng bằng cây si-tim bọc vàng, rồi xỏ đòn vào các khoen ở hai bên để khiêng rương đi.

Ông làm Nắp Chuộc Tội bằng vàng ròng, bề dài hai am-ma rưỡi và bề ngang một am-ma rưỡi.[q] Ông dùng vàng dát làm hai chê-ru-bim gắn liền ở hai đầu Nắp Chuộc Tội, một chê-ru-bim ở đầu này và một chê-ru-bim ở đầu kia; cả hai được gắn liền vào hai đầu và trở nên một khối với Nắp Chuộc Tội. Các chê-ru-bim đứng đối diện nhau, mặt cúi xuống Nắp Chuộc Tội và xòe hai cánh ra phủ trên Nắp.

Bàn Bánh Thánh

10 Ông làm một cái bàn bằng gỗ si-tim, bề dài hai am-ma, bề ngang một am-ma và bề cao một am-ma rưỡi.[r] 11 Ông lấy vàng ròng bọc bàn và làm đường viền quanh bàn. 12 Ông đóng khung quanh mặt bàn, bề rộng của khung bằng một gang tay[s] rồi làm đường viền vàng xung quanh khung. 13 Ông làm bốn cái khoen và gắn khoen vào bốn chân ở bốn góc bàn. 14 Các khoen này được gắn gần khung của mặt bàn để xỏ đòn dùng khiêng bàn. 15 Các đòn khiêng làm bằng cây si-tim bọc vàng. 16 Ông cũng lấy vàng ròng làm các dụng cụ là: chén đĩa, bát và bình dùng cho lễ tưới rượu.

Chân Đèn

17 Bết-sa-lê-ên làm một cây đèn bằng vàng ròng: chân đèn, thân đèn, đài, bầu và nụ đều bằng vàng dát và dính liền với nhau thành một khối. 18 Từ thân đèn mọc ra sáu cành, ba cành bên này và ba cành bên kia. 19 Cành thứ nhất có ba cái hoa, mầm và nụ giống hình hoa hạnh nhân; cành kế bên và cả sáu cành mọc từ thân đèn ra đều có hoa như vậy. 20 Thân đèn có bốn cái hoa, với mầm và nụ, giống hình hoa hạnh nhân. 21 Ông cũng làm một cái bầu bên dưới hai cành thứ nhất từ thân đèn ra, rồi làm cái bầu thứ hai ở dưới hai cành thứ hai, và làm cái bầu thứ ba ở dưới hai cành thứ ba, có tất cả sáu cành. 22 Bầu và cành được làm bằng vàng ròng dát ra, và gắn liền thành một khối với chân đèn. 23 Ông cũng làm bảy ngọn đèn, kéo cắt tim đèn và đĩa đựng tàn bằng vàng ròng. 24 Ông dùng một ta-lâng[t] vàng ròng để làm chân đèn và đồ phụ tùng.

Bàn Thờ Dâng Hương

25 Bết-sa-lê-ên đóng bàn thờ dâng hương bằng gỗ si-tim. Bàn thờ hình vuông, bề dài một am-ma, bề ngang một am-ma và bề cao hai am-ma.[u] Các sừng được gắn liền với bàn thờ thành một khối. 26 Ông lấy vàng ròng bọc mặt bàn, các cạnh bàn, các sừng và làm đường viền quanh bàn. 27 Ông làm hai cái khoen vàng, gắn bên dưới đường viền, mỗi bên một khoen, để xỏ đòn khiêng. 28 Ông làm đòn khiêng bằng gỗ si-tim bọc vàng. 29 Ông cũng chế dầu xức thánh và hương thơm tinh khiết, tinh chế cách chuyên nghiệp.

Bàn Thờ Dâng Sinh Tế

38 Bết-sa-lê-ên đóng bàn thờ dâng sinh tế bằng gỗ si-tim hình vuông, bề dài năm am-ma, bề ngang năm am-ma và bề cao ba am-ma.[v] Ông đẽo bốn góc bàn thờ nhô lên như bốn cái sừng, sừng dính liền vào một khối với bàn thờ, rồi lấy đồng bọc bàn thờ. Ông cũng làm tất cả đồ phụ tùng bằng đồng, gồm có thùng đựng tro, xẻng, bình để rảy, chỉa ba và nồi đựng than lửa. Ông làm một cái rá bằng lưới đồng, đặt dưới thành bàn thờ, để nó thòng xuống đến phân nửa chiều cao của bàn thờ. Ông làm bốn khoen đồng ở bốn góc rá để xỏ đòn khiêng. Các đòn khiêng này làm bằng cây si-tim bọc đồng. Đòn khiêng được xỏ vào các khoen đồng ở hai bên bàn thờ để khiêng đi. Bàn thờ được đóng bằng ván và rỗng ở giữa.

Bồn Nước Bằng Đồng

Ông dùng các gương soi bằng đồng do các phụ nữ phục vụ tại cửa vào Trại Hội Kiến dâng hiến để làm ra bồn nước và chân bồn.

Hành Lang Đền Tạm

Sau đó ông làm hành lang. Phía nam hành lang dài một trăm am-ma,[w] có màn che làm bằng sợi lanh, 10 với hai mươi cây trụ và hai mươi lỗ trụ bằng đồng, cùng với các móc và đai bạc gắn vào trụ. 11 Phía bắc hành lang cũng dài một trăm am-ma,[x] với hai mươi cây trụ, hai mươi lỗ trụ bằng đồng, cùng với các móc và đai bạc gắn vào trụ.

12 Phía tây hành lang dài năm mươi am-ma,[y] có màn che, với mười cây trụ và mười lỗ trụ, cùng với các móc và đai bạc gắn vào trụ. 13 Phía đông, là hướng mặt trời mọc, cũng dài năm mươi am-ma.[z] 14 Một bên cửa vào hành lang có bức màn dài mười lăm am-ma,[aa] cùng với ba cây trụ và ba lỗ trụ; 15 bên kia cửa vào cũng có một bức màn dài mười lăm am-ma, cùng với ba cây trụ và ba lỗ trụ. 16 Tất cả các bức màn chung quanh hành lang đều làm bằng sợi lanh, 17 các cây trụ và lỗ trụ bằng đồng, các móc và đai trụ bằng bạc và các đầu trụ đều bọc bạc. Các cây trụ trong hành lang đều có đai bạc.

18 Bức màn che cửa vào hành lang bằng sợi lanh, do một thợ thêu bằng chỉ xanh, tím và đỏ. Màn này dài hai mươi am-ma,[ab] có bề cao bốn am-ma[ac] như các bức màn bao quanh hành lang, 19 cùng với bốn cây trụ và bốn lỗ trụ bằng đồng. Các cây trụ này có móc và đai bằng bạc với đầu trụ bọc bạc. 20 Tất cả các cọc cắm trại dùng cho Đền Tạm và hành lang xung quanh đều bằng đồng.

Tổng Kết Vật Liệu Được Xử Dụng

21 Sau đây là tổng số vật liệu dùng để thực hiện Đền Tạm, là Đền Tạm Giao Ước. Những người Lê-vi ghi chép lại tổng số này theo lệnh của Môi-se và dưới sự hướng dẫn của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn. 22 Bết-sa-lê-ên, con U-ri, cháu Hu-rơ thuộc bộ tộc Giu-đa, hoàn tất mọi việc theo mạng lệnh CHÚA truyền; 23 cộng tác với ông có Ô-hô-li-áp, con A-hi-sa-mạc, thuộc bộ tộc Đan, là người có tài thủ công, vẽ kiểu và thêu thùa với chỉ xanh, tím, đỏ và sợi lanh. 24 Tổng số vàng được dùng để thực hiện các công việc trong Đền Tạm, do dân Y-sơ-ra-ên dâng hiến theo cách dâng đưa qua đưa lại, là hai mươi chín ta-lâng vàng[ad] theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh.

25 Tổng số bạc do những người được kiểm tra dân số đem đến dâng là một trăm ta-lâng[ae] theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh. 26 Có tất cả sáu trăm lẻ ba ngàn năm trăm năm chục nam công dân từ hai mươi tuổi trở lên được kiểm tra, mỗi người dâng một nửa sê-ken,[af] tức là nửa sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh. 27 Có một trăm ta-lâng bạc được dùng để làm một trăm lỗ mộng cho các bức màn trong Đền Tạm, có tất cả một trăm lỗ mộng và một trăm ta-lâng, mỗi ta-lâng dùng làm một lỗ mộng. 28 Số một ngàn bảy trăm bảy mươi lăm sê-ken[ag] bạc còn lại được dùng để bọc đầu trụ và để làm móc và đai.

29 Tổng số đồng được dâng hiến theo cách dâng nâng lên là bảy mươi ta-lâng đồng.[ah] 30 Số đồng này được dùng để làm lỗ trụ cho cửa vào Trại Hội Kiến, bàn thờ bằng đồng với rá đồng và các đồ phụ tùng của bàn thờ này, 31 các đế có lỗ trụ của hành lang, các đế có lỗ trụ cửa vào hành lang và tất cả các cọc cắm trại dùng cho Đền Tạm và hành lang.

Lễ Phục Của Thầy Tế Lễ

39 Bết-sa-lê-ên dùng chỉ xanh, tím và đỏ để dệt các bộ áo lễ tinh xảo dùng cho công tác phục vụ trong Nơi Thánh và làm bộ áo lễ thánh cho A-rôn, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se.

Ê-phót

Bết-sa-lê-ên dùng vàng, chỉ xanh, tím, đỏ và sợi lanh để làm cái ê-phót. Ông dát mỏng vàng, cắt thành sợi rồi thêu cách tinh vi lên sợi lanh cùng với chỉ xanh, tím và đỏ. Họ làm hai cầu vai và nối hết vào hai thân của ê-phót ở hai đầu ráp thành một áo. Thắt lưng cũng được may bằng sợi lanh và thêu bằng vàng sợi, chỉ xanh, tím, đỏ và được gắn thành một với ê-phót, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se.

Ông gắn các viên bạch ngọc vào khuôn vàng và khắc tên các con trai Y-sơ-ra-ên lên ngọc như cách khắc con dấu. Rồi họ gắn các viên ngọc lên hai cầu vai của ê-phót để làm ngọc tưởng niệm cho các con trai Y-sơ-ra-ên, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se.

Bảng Đeo Ngực

Bết-sa-lê-ên làm bảng đeo ngực một cách tinh vi, và cũng như khi làm ê-phót, ông dùng vàng, chỉ xanh, tím, đỏ và sợi lanh. Bảng này hình vuông, bề dài một gang tay bề ngang một gang tay và may hai lớp vải. 10 Họ gắn lên bốn hàng ngọc, hàng thứ nhất có hồng mã não, hoàng ngọc và hồng ngọc; 11 hàng thứ nhì gồm có bích ngọc, lam ngọc và kim cương; 12 hàng thứ ba gồm có ngọc hồng bửu, ngọc mã não và ngọc tím; 13 hàng thứ tư gồm có lục ngọc, bạch ngọc và vân ngọc. Ngọc được nhận trên khuôn bằng vàng. 14 Tất cả mười hai viên ngọc, mỗi viên có khắc tên một con trai Y-sơ-ra-ên, theo cách khắc con dấu. Các viên ngọc tượng trưng cho mười hai bộ tộc.

15 Họ làm dây chuyền bằng vàng ròng, bện chặt lại cho bảng đeo ngực. 16 Họ cũng làm hai khuôn vàng với hai khoen vàng và gắn khoen vào hai góc của bảng đeo ngực. 17 Họ gắn một đầu của hai dây chuyền vàng vào hai cái khoen, nơi góc bảng đeo ngực, 18 còn đầu kia gắn vào hai khuôn vàng rồi gắn vào hai cầu vai phía trước ê-phót. 19 Họ làm hai khoen vàng và gắn vào hai góc bên trong của bảng đeo ngực, sát với ê-phót. 20 Họ làm thêm hai khoen vàng khác và gắn vào bên dưới của hai dải đeo vai ở phía trước ê-phót, gần với đường nối ngay trên thắt lưng của ê-phót. 21 Ông dùng dây mầu xanh buộc các khoen của bảng đeo ngực lại với các khoen của ê-phót và để cho bảng đeo ngực nằm yên lên trên đai lưng thêu tinh xảo và không xê dịch trên áo ê-phót, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se.

Các Áo Lễ Khác

22 Áo khoác ngoài ê-phót được dệt toàn bằng chỉ len mầu xanh, 23 có khoét cổ để tròng đầu, quanh cổ áo có đường viền để cho khỏi sờn rách. 24 Họ dùng chỉ mầu xanh, tím, đỏ và chỉ gai thắt trái lựu và kết vòng theo gấu áo. 25 Họ cũng làm các lục lạc bằng vàng và gắn trên gấu áo, xen kẽ giữa các trái lựu. 26 Các chuông vàng và trái lựu được kết xen kẽ quanh gấu áo. Thầy tế lễ phải mặc áo này khi phục vụ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se.

27 Họ dùng sợi lanh dệt áo dài cho A-rôn và các con trai người. 28 Sợi lanh mịn cũng được dùng để dệt mũ, mũ xếp cao và quần lót ngắn. 29 Dây thắt lưng được dệt với sợi lanh mịn và thêu chỉ xanh, tím, và đỏ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. 30 Họ làm một bông hoa, một biệt hiệu thánh bằng vàng ròng và khắc trên đó như khắc dấu ấn dòng chữ: THÁNH CHO CHÚA. 31 Rồi họ dùng dây mầu xanh buộc thẻ vào khăn đội đầu, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se.

Môi-se Thanh Tra Đền Tạm

32 Như vậy việc thiết lập Đền Tạm và Trại Hội Kiến được hoàn tất. Dân Y-sơ-ra-ên làm xong mọi việc đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. 33 Họ đem Đền Tạm đến cho Môi-se: lều, các đồ phụ tùng, móc, vách ván, thanh xà ngang, trụ và đế trụ, 34 mái che bằng da cừu nhuộm đỏ, mái che bằng da dê và các bức màn, 35 Rương Giao Ước với đòn khiêng và Nắp Chuộc Tội, 36 bàn với các đồ phụ tùng và bánh thánh, 37 cây đèn bằng vàng ròng, các đèn gắn lên cây đèn theo thứ tự hẳn hoi, tất cả đồ phụ tùng và dầu thắp, 38 bàn thờ bằng vàng, dầu xức, hương thơm và bức màn che cửa Đền, 39 bàn thờ bằng đồng với rá đồng, đòn khiêng và tất cả các đồ phụ tùng, bồn nước và chân bồn, 40 các bức màn che quanh hành lang với các trụ và đế trụ, bức màn che cửa vào hành lang, dây thừng và cọc cắm trại cho hành lang cùng với tất cả các đồ phụ tùng dùng trong Đền Tạm tức Trại Hội Kiến; 41 các bộ áo lễ tinh xảo may dệt cho các thầy tế lễ mặc khi thi hành chức vụ tại Nơi Thánh, kể cả các bộ áo lễ thánh cho thầy tế lễ A-rôn và các con trai người khi họ thi hành chức vụ thầy tế lễ.

42 Dân Y-sơ-ra-ên làm tất cả các công việc đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. 43 Môi-se thanh tra và thấy họ làm đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền nên ông chúc phước cho họ.

Dựng Đền Tạm

40 Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se: “Con dựng Đền Tạm tức Trại Hội Kiến vào ngày mồng một tháng giêng. Đặt Rương Giao Ước vào trong Đền và lấy bức màn để ngăn che Rương. Đem cái bàn vào, sắp đặt các đồ phụ tùng trên bàn. Rồi đem cây đèn vào và gắn đèn lên cây đèn. Đặt bàn thờ dâng hương bằng vàng trước Rương Giao Ước và giăng bức màn che cửa Đền Tạm.

Đặt bàn thờ dâng sinh tế trước cửa Đền Tạm, tức là Trại Hội Kiến; đặt bồn nước giữa Trại Hội Kiến và bàn thờ rồi đổ nước vào bồn. Dựng hành lang xung quanh Đền Tạm và giăng bức màn che cửa vào hành lang. Con lấy dầu thánh xức cho Đền Tạm và mọi vật trong Đền; hiến dâng Đền và mọi vật trong Đền và Đền sẽ được thánh hóa. 10 Sau đó con xức dầu cho bàn thờ dâng sinh tế và các đồ phụ tùng; hiến dâng bàn thờ và bàn thờ sẽ trở nên rất thánh. 11 Con cũng xức dầu cho bồn nước và chân bồn và hiến dâng bồn.

12 Con đem A-rôn và các con trai người đến cửa vào Trại Hội Kiến và lấy nước rửa họ. 13 Sau đó mặc cho A-rôn bộ áo lễ thánh, xức dầu cho người và hiến dâng người để người có thể phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. 14 Con cũng đem các con trai A-rôn đến và mặc áo dài cho họ. 15 Xức dầu cho họ cũng như con đã xức dầu cho cha họ để họ có thể phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. Lễ xức dầu phong chức thầy tế lễ này có hiệu lực vĩnh viễn từ thế hệ này sang thế hệ khác.” 16 Môi-se làm tất cả mọi điều đúng theo mạng lệnh CHÚA truyền dạy.

17 Như vậy, Đền Tạm được dựng lên vào ngày mồng một tháng giêng năm thứ hai. 18 Khi dựng Đền Tạm, Môi-se đặt các lỗ trụ, dựng các vách ván, đặt các thanh xà ngang và dựng các trụ. 19 Sau đó, ông dựng trại lên che Đền và giăng mái che bên trên trại, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. 20 Môi-se để hai bảng đá có ghi Mười Điều Răn vào Rương Giao Ước, xỏ đòn khiêng vào và đặt Nắp Chuộc Tội lên trên Rương. 21 Sau đó ông đem Rương vào Đền Tạm rồi giăng bức màn che, để ngăn che Rương Giao Ước, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy.

22 Môi-se đặt cái bàn trong Trại Hội Kiến, về phía bắc, bên ngoài bức màn 23 và để bánh thánh trên bàn, trước mặt CHÚA, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. 24 Ông đặt cây đèn trong Trại Hội Kiến đối diện với bàn, về phía nam 25 và thắp đèn lên trước mặt CHÚA, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. 26 Môi-se đặt bàn thờ bằng vàng trong Trại Hội Kiến trước bức màn 27 rồi đốt hương trên bàn thờ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. 28 Sau đó ông giăng bức màn che cửa Đền Tạm. 29 Ông đặt bàn thờ dâng sinh tế gần cửa Trại Hội Kiến rồi dâng tế lễ thiêu và tế lễ chay trên bàn thờ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. 30 Ông đặt bồn nước ở khoảng giữa Trại Hội Kiến và bàn thờ rồi đổ nước vào bồn để rửa. 31 Môi-se, A-rôn và các con trai A-rôn dùng nước này để rửa tay chân. 32 Mỗi lần vào Trại Hội Kiến hay đến gần bàn thờ, họ rửa tay chân đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se.

33 Môi-se dựng hành lang xung quanh Đền Tạm và bàn thờ, giăng bức màn che cửa vào hành lang. Vậy, Môi-se đã hoàn tất mọi công việc.

Vinh Quang Của CHÚA

34 Một đám mây bao phủ Trại Hội Kiến và vinh quang của CHÚA đầy dẫy Đền Tạm. 35 Môi-se không thể vào Trại Hội Kiến vì mây bao phủ Lều và vinh quang của CHÚA tràn ngập Đền Tạm.

36 Trong suốt cuộc hành trình của dân Y-sơ-ra-ên, mỗi khi thấy trụ mây bay lên khỏi Đền Tạm, họ nhổ trại ra đi 37 nhưng nếu trụ mây không bay lên, họ cũng không ra đi nhưng cứ ở lại cho đến khi trụ mây bay lên. 38 Như vậy toàn dân Y-sơ-ra-ên thấy trụ mây của CHÚA ở trên Đền Tạm vào ban ngày, còn vào ban đêm có lửa trong đám mây trong suốt cuộc hành trình của họ.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)