Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Lê Vi 26:27 - Dân Số 8:14

27 Nếu sau các tai họa đó các ngươi vẫn không nghe Ta và tiếp tục chống nghịch Ta, 28 Ta sẽ chống nghịch các ngươi trong cơn thịnh nộ và chính Ta sẽ hình phạt các ngươi gấp bảy lần nữa vì tội ác các ngươi. 29 Các ngươi sẽ ăn thịt con trai, con gái mình. 30 Ta sẽ phá hủy các nơi cao, triệt hạ các bàn thờ xông hương và làm cho thây các ngươi chồng chất trên xác các thần tượng, vì Ta ghê tởm các ngươi. 31 Ta sẽ làm cho thành thị ngươi trở nên điêu tàn, các Nơi Thánh ngươi ra hoang vắng, và không còn vui lòng chấp nhận hương thơm nữa. 32 Ta sẽ làm cho xứ các ngươi hoang vắng đến nỗi kẻ thù ở đó cũng phải ngạc nhiên. 33 Ta sẽ phân tán các ngươi khắp các nước, rút gươm Ta ra truy nã các ngươi. Lãnh thổ các ngươi sẽ ra hoang vắng, thành thị các ngươi trở nên điêu tàn. 34 Đất các ngươi sẽ hưởng các năm Sa-bát vì bị bỏ hoang trong khi các ngươi sống trên đất kẻ thù; như vậy đất sẽ được nghỉ ngơi và vui hưởng các năm Sa-bát. 35 Trong suốt thời gian hoang vu đất sẽ được an nghỉ vì khi các ngươi còn ở trong xứ, đất không được nghỉ các năm Sa-bát.

36 Đối với những người sống sót, khi họ đang ở trong xứ của kẻ thù, Ta sẽ làm cho lòng họ khiếp đảm đến nỗi tiếng lá rơi cũng đủ làm họ chạy trốn. Họ chạy như chạy trốn gươm đao và sẽ ngã té dù không có ai đuổi theo. 37 Họ sẽ vấp té lên nhau như người chạy trốn gươm đao dù không bị ai rượt đuổi. Vì vậy các ngươi không thể nào đương đầu với quân thù. 38 Các ngươi sẽ bỏ mạng giữa các dân tộc và đất của kẻ thù sẽ nuốt lấy các ngươi. 39 Ai còn sống sót sẽ kiệt quệ trên đất kẻ thù vì tội lỗi của họ cũng như vì tội lỗi của tổ tiên họ.

40 Nhưng nếu họ xưng tội của họ và tội của tổ tiên họ, tức là tội phản bội và chống nghịch Ta, 41 làm cho Ta chống cự họ, đưa họ vào đất kẻ thù, và nếu tấm lòng không chịu cắt bì của họ biết hạ xuống, chấp nhận các hình phạt do tội họ gây ra, 42 thì Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta với Gia-cốp, giao ước Ta với Y-sác và giao ước Ta với Áp-ra-ham và Ta cũng sẽ nhớ đến đất của họ. 43 Đất đã bị họ bỏ hoang và được nghỉ Sa-bát trong thời gian hoang vu không có người ở. Họ phải chịu hình phạt vì khước từ luật pháp Ta và ghê tởm quy luật Ta. 44 Tuy nhiên, khi họ ở trên đất kẻ thù, Ta không khước từ và ghê tởm họ. 45 Ta sẽ vì họ mà nhớ lại giao ước Ta đã lập với tổ tiên họ là những người Ta đem ra khỏi xứ Ai-cập trước mắt các dân tộc để làm Đức Chúa Trời của họ. Ta là CHÚA.

46 Trên đây là các quy luật, sắc lệnh và luật pháp mà CHÚA qua Môi-se thiết lập giữa Ngài với dân Y-sơ-ra-ên tại trên núi Si-nai.

Dâng Hiến Cho CHÚA

27 CHÚA phán dạy Môi-se: Con nói với dân Y-sơ-ra-ên và bảo họ rằng: Nếu một người có lời thề nguyện đặc biệt để dâng hiến cho CHÚA theo trị giá người, thì trị giá của một người đàn ông từ hai mươi đến sáu mươi là năm mươi sê-ken[a] bạc theo sê-ken Nơi Thánh, còn trị giá của một người đàn bà là ba mươi sê-ken, thanh thiếu niên nam từ năm đến hai mươi tuổi trị giá hai mươi sê-ken, còn nữ trị giá mười sê-ken. Một em bé trai từ một tháng đến năm tuổi trị giá năm sê-ken, em bé gái trị giá ba sê-ken. Nếu là người cao niên trên sáu mươi tuổi, thì đàn ông trị giá mười lăm sê-ken, còn đàn bà trị giá mười sê-ken. Nếu một người có lời thề nguyện nhưng vì nghèo quá không thể đóng số tiền đã ấn định, người ấy phải trình diện với thầy tế lễ, và thầy tế lễ ấn định số phải đóng tùy theo khả năng của người có lời thề nguyện.

Nếu một người hứa dâng một con vật để làm sinh tế cho CHÚA, con vật đã dâng cho CHÚA sẽ trở nên thánh. 10 Người đã dâng hiến không được phép thay thế hay đổi thay, dù đem con tốt để thay thế con xấu, hay đem con xấu để thay thế con tốt cũng không được. Nếu đem con vật này thay thế con vật khác, cả hai con đó đều trở nên thánh. 11 Nếu con vật người ấy hứa dâng thuộc vào loại không tinh sạch, là loài vật không được chấp nhận để làm sinh tế dâng lên cho CHÚA, người ấy phải đem con vật đến với thầy tế lễ. 12 Thầy tế lễ sẽ lượng giá tùy theo phẩm chất tốt hay xấu và giá thầy tế lễ ấn định là số tiền người chủ con vật phải trả. 13 Nếu người ấy muốn chuộc nó lại thì phải trả thêm một phần năm trị giá con vật.

14 Nếu có ai dâng hiến ngôi nhà của mình làm một vật thánh cho CHÚA, thầy tế lễ sẽ lượng giá tùy theo phẩm chất tốt hay xấu. Trị giá thầy tế lễ ấn định sẽ là giá nhà. 15 Nếu muốn chuộc nhà lại, người đã hiến dâng phải trả thêm một phần năm trị giá đã ấn định, và nhà sẽ thuộc về người ấy trở lại.

16 Nếu có ai dâng hiến một phần đất của gia đình cho CHÚA, việc ấn định trị giá sẽ căn cứ trên số lượng hạt giống có thể gieo trên đất ấy: miếng đất có thể gieo một ô-me[b] lúa mạch trị giá năm mươi sê-ken bạc. 17 Nếu người ấy dâng miếng đất vào năm hoan hỉ, trị giá đó sẽ không thay đổi. 18 Nhưng nếu người ấy dâng miếng đất sau năm hoan hỉ, thầy tế lễ sẽ ước tính trị giá căn cứ trên số năm còn lại cho đến năm hoan hỉ sau, vì vậy giá miếng đất đó sẽ giảm xuống. 19 Nếu người đã dâng miếng đất muốn chuộc lại, người ấy sẽ cộng thêm một phần năm trị giá của miếng đất và đất sẽ lại thuộc về người. 20 Tuy nhiên nếu người ấy không chuộc đất ấy lại hay nếu đã đem đất bán cho người khác, đất đó vĩnh viễn sẽ không thể chuộc lại. 21 Đến năm hoan hỉ là năm đất được hoàn nguyên chủ thì miếng đất đó sẽ trở thành đất thánh vì đã dâng cho CHÚA và sẽ trở thành tài sản của các thầy tế lễ.

22 Nếu ai dâng cho CHÚA một miếng đất mình mua, chớ không phải là tài sản của gia đình, 23 thầy tế lễ sẽ tính giá đất ấy cho đến năm hoan hỉ, và người dâng sẽ nạp số tiền bằng trị giá miếng đất vào ngày hôm đó như là một của dâng thánh cho CHÚA. 24 Đến năm hoan hỉ, miếng đất đó sẽ hoàn nguyên chủ, tức là được trả lại cho người đã bán đất và là người thừa hưởng đất. 25 Việc quy định trị giá phải căn cứ trên sê-ken Nơi Thánh, mỗi sê-ken bằng hai mươi ghê-ra.[c]

26 Không ai được hiến dâng con vật đầu lòng, vì con vật đầu lòng này đã thuộc về CHÚA; dù bò hay chiên, con vật đầu lòng thuộc về CHÚA. 27 Nhưng nếu con vật thuộc loại không tinh sạch, người ấy có thể mua lại theo giá quy định cộng thêm một phần năm giá ấy. Nếu người ấy không chuộc nó lại, con vật sẽ được bán theo giá quy định.

28 Nhưng khi một người đã tận hiến một vật mình có cho CHÚA, dù là người, súc vật hay đất đai của gia đình, món này không được đem bán cũng không được chuộc lại, vì bất kỳ món gì đã được tận hiến đều trở nên rất thánh cho CHÚA.

29 Ngay cả người đã bị định phải chết[d] không thể được chuộc lại, nhưng phải bị xử tử.

30 Tất cả một phần mười thổ sản, dù là ngũ cốc do đồng ruộng sinh sản hay hoa quả của các loại cây trái đều thuộc về CHÚA; các phần mười đều thánh cho CHÚA. 31 Nếu ai muốn chuộc bất kỳ thứ phần mười nào của mình, người ấy phải trả thêm một phần năm trị giá phần mười đó. 32 Tất cả phần mười của bầy bò hay bầy chiên, tức là tất cả các con thứ mười do người chăn dùng gậy đếm, đều là thánh cho CHÚA. 33 Người chủ không được phân biệt tốt xấu và không được đổi các con vật này. Nếu đổi, cả con bị đổi và con đem đến để đổi đều trở nên thánh và không được phép chuộc lại.

34 Trên đây là các mạng lệnh CHÚA ban bố cho Môi-se trên núi Si-nai để truyền lại cho dân Y-sơ-ra-ên.

Kiểm Tra Dân Số Lần Thứ Nhất

Ngày mồng một tháng hai năm thứ nhì, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, CHÚA phán bảo Môi-se tại Trại Hội Kiến trong sa mạc Si-nai: “Con hãy kiểm tra dân số của toàn dân Y-sơ-ra-ên tùy theo gia tộc và gia đình, liệt kê danh sách tất cả người nam từng người một. Con và A-rôn phải đếm tất cả người nam trong Y-sơ-ra-ên theo từng đơn vị, từ hai mươi tuổi trở lên, là những người có khả năng phục vụ trong quân đội. Các trưởng bộ tộc sẽ đại diện cho bộ tộc mình để cộng tác với con và A-rôn. Đây là danh sách những người đứng ra giúp các ngươi:

Bộ tộc Ru-bên, Ê-li-sua, con trai Sê-đêu;

Bộ tộc Si-mê-ôn, Sê-lu-miên, con trai Xu-ri-ha-đai;

Bộ tộc Giu-đa, Na-ha-sôn, con trai A-mi-na-đáp;

Bộ tộc Y-sa-ca, Na-tha-na-ên, con trai Xu-a;

Bộ tộc Sa-bu-luân, Ê-li-áp, con trai Hê-long.

10 Con cháu Giô-sép:

Bộ tộc Ép-ra-im, Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút;

Bộ tộc Ma-na-se, Ga-ma-liên, con trai Phê-đát-su.

11 Bộ tộc Bên-gia-min, A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni.

12 Bộ tộc Đan, A-hi-ê-xe, con trai Am-mi-sa-đai.

13 Bộ tộc A-se, Pha-ghi-ên, con trai Óc-ran.

14 Bộ tộc Gát, Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên.

15 Bộ tộc Nép-ta-li, A-hi-ra, con trai Ê-nan.”

16 Đó là những người được bổ nhiệm từ trong dân chúng, là bộ tộc trưởng các bộ tộc của tổ phụ mình và là những người chỉ huy các đơn vị quân đội Y-sơ-ra-ên.

17 Môi-se và A-rôn tiếp nhận các người đã được nêu danh, 18 và triệu tập toàn thể dân chúng vào ngày mồng một tháng hai theo danh sách từng người một từ hai mươi tuổi trở lên; mỗi người đăng ký theo gia tộc và gia đình mình, 19 như CHÚA đã truyền lệnh cho Môi-se. Môi-se kiểm tra dân số trong sa mạc Si-nai:

20 Con cháu Ru-bên là trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, 21 tổng số được 46,000 người.

22 Con cháu Si-mê-ôn, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, 23 tổng số được 59,300 người.

24 Con cháu Gát, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, 25 tổng số được 45,650 người.

26 Con cháu Giu-đa, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, 27 tổng số được 74,600 người.

28 Con cháu Y-sa-ca, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, 29 tổng số được 54,400 người.

30 Con cháu Sa-bu-luân, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, 31 tổng số được 57,400 người.

32 Các con trai của Giô-sép gồm có Ép-ra-im và Ma-na-se.

Con cháu Ép-ra-im, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, 33 tổng số được 40,500 người.

34 Con cháu Ma-na-se, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, 35 tổng số được 32,200 người.

36 Con cháu Bên-gia-min, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, 37 tổng số được 35,400 người.

38 Con cháu Đan, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, 39 tổng số được 62,700 người.

40 Con cháu A-se, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, 41 tổng số được 41,500 người.

42 Con cháu Nép-ta-li, dòng dõi họ được liệt kê danh sách theo gia tộc và gia đình mình từ hai mươi tuổi sắp lên tức là tất cả những người nam có khả năng chiến đấu, 43 tổng số được 53,400 người.

44 Đó là những người mà Môi-se, A-rôn và mười hai trưởng bộ tộc của Y-sơ-ra-ên đã kiểm tra, mỗi trưởng bộ tộc đại diện cho bộ tộc mình. 45 Tất cả người Y-sơ-ra-ên từ hai mươi tuổi trở lên và có khả năng chiến đấu được kiểm tra theo gia đình mình. 46 Tổng số được 603,550 người.

47 Tuy nhiên, các gia đình của bộ tộc Lê-vi không được kiểm tra như người các bộ tộc khác. 48 CHÚA đã bảo Môi-se: 49 “Con không nên kiểm kê bộ tộc Lê-vi, hoặc bao gồm họ trong cuộc kiểm tra dân số của người Y-sơ-ra-ên. 50 Nhưng cử người Lê-vi đặc trách Đền Tạm Chứng Cớ, coi sóc tất cả vật dụng và những gì thuộc về Đền Tạm. Họ phải khuân vác Đền Tạm và tất cả các vật dụng, chăm sóc và cắm trại xung quanh Đền Tạm. 51 Khi nào cần di chuyển, người Lê-vi phải tháo dỡ Đền Tạm ra; và mỗi khi dân chúng cắm trại, người Lê-vi sẽ dựng Đền Tạm lên lại. Bất cứ kẻ nào khác đến gần Đền Tạm sẽ bị xử tử. 52 Dân Y-sơ-ra-ên phải cắm trại theo từng đơn vị, mỗi người ở trong trại riêng dưới ngọn cờ của bộ tộc mình. 53 Tuy nhiên người Lê-vi phải dựng trại xung quanh Đền Tạm Chứng Cớ để cơn thạnh nộ không đổ xuống trên dân Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi phải chịu trách nhiệm chăm sóc Đền Tạm Chứng Cớ.”

54 Dân Y-sơ-ra-ên thực thi tất cả những điều CHÚA truyền bảo Môi-se.

Cách Bố Trí Trại Quân Y-sơ-ra-ên

CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn: “Dân Y-sơ-ra-ên phải cắm trại xung quanh nhưng cách xa Trại Hội Kiến, mỗi người phải cắm trại dưới ngọn cờ của đơn vị mình với bảng hiệu bộ tộc.”

Trại quân Giu-đa sẽ cắm tại phía đông, hướng mặt trời mọc với ngọn cờ và các đơn vị mình. Chỉ huy trưởng bộ tộc Giu-đa là Na-ha-sôn, con Am-mi-na-đáp. Quân số của người được 74,600 người.

Bộ tộc Y-sa-ca sẽ cắm trại gần bên Giu-đa. Chỉ huy trưởng của Y-sa-ca là Na-tha-na-ên, con Xu-a. Quân số của người được 54,400 người.

Tiếp theo là bộ tộc Sa-bu-luân. Chỉ huy trưởng của Sa-bu-luân là Ê-li-áp, con Hê-long. Quân số người được 57,400 người.

Tất cả nhân số trong trại quân Giu-đa, chia từng đội ngũ, được 186,400 người. Họ sẽ đi tiên phong.

10 Trại quân Ru-bên sẽ cắm tại phía nam, dưới ngọn cờ mình. Chỉ huy trưởng Ru-bên là Ê-li-sua, con Sê-đêu. 11 Quân số của người được 46,500 người.

12 Bộ tộc Si-mê-ôn sẽ cắm trại gần bên Ru-bên. Chỉ huy trưởng Si-mê-ôn là Sê-lu-miên, con Xu-ri-ha-đai. 13 Quân số của người được 59,300 người.

14 Tiếp theo là bộ tộc Gát. Chỉ huy trưởng Gát là Ê-li-a-sáp, con Đê-u-ên. 15 Quân số của người được 45,650 người.

16 Tất cả nhân số trong trại quân Ru-bên, chia từng đội ngũ, được 151,450 người. Họ sẽ đi thứ nhì.

17 Sau đó, Trại Hội Kiến và trại quân Lê-vi sẽ ra đi chính giữa các trại quân khác. Họ sẽ ra đi theo đúng thứ tự như họ đã cắm trại, mỗi người theo hàng ngũ dưới ngọn cờ mình.

18 Trại quân Ép-ra-im sẽ cắm tại phía tây, dưới ngọn cờ mình. Chỉ huy trưởng Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma, con A-mi-hút. 19 Quân số của người được 40,500 người.

20 Bộ tộc Ma-na-se sẽ cắm trại gần bên Ép-ra-im. Chỉ huy trưởng Ma-na-se là Ga-ma-liên, con Phê-đát-su. 21 Quân số của người được 32,200 người.

22 Tiếp theo là bộ tộc Bên-gia-min. Chỉ huy trưởng Bên-gia-min là A-bi-đan, con Ghi-đeo-ni. 23 Quân số người được 35,400 người.

24 Tất cả nhân số trong trại quân Ép-ra-im, chia từng đội ngũ, được 108,100 người. Họ sẽ đi thứ ba.

25 Trại quân Đan sẽ cắm tại phía bắc, dưới ngọn cờ mình. Chỉ huy trưởng Đan là A-hi-ê-xe, con Am-mi-sa-đai. 26 Quân số của người được 62,700 người.

27 Bộ tộc A-se sẽ cắm trại gần bên Đan. Chỉ huy trưởng A-se là Pha-ghi-ên, con Óc-ran. 28 Quân số của người được 41,500 người.

29 Tiếp theo là bộ tộc Nép-ta-li. Chỉ huy trưởng Nép-ta-li là A-hi-ra, con Ê-nan. 30 Quân số của người được 53,400 người.

31 Tất cả nhân số trong trại quân Đan, chia từng đội ngũ, được 157,600 người. Họ sẽ đi hậu tập.

32 Đó là những người Y-sơ-ra-ên được kiểm kê theo từng bộ tộc. Tổng số quân sĩ trong các trại quân, chia từng đội ngũ, là 603,550. 33 Tuy nhiên, người Lê-vi không được kiểm kê với những người Y-sơ-ra-ên khác, như CHÚA đã truyền bảo Môi-se.

34 Như thế, dân Y-sơ-ra-ên thực thi mọi điều CHÚA đã truyền bảo Môi-se. Đó là cách mà họ bố trí các trại quân dưới ngọn cờ mình; đó cũng là cách xuất quân mỗi người theo gia tộc và bộ tộc mình.

Người Lê-vi

Đây là những người trong gia đình A-rôn và Môi-se trong thời gian CHÚA phán với Môi-se trên núi Si-nai.

Tên các con trai A-rôn là: Na-đáp, con trưởng nam, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma. Đó là tên các con trai A-rôn tức các thầy tế lễ được xức dầu và tấn phong để phục vụ trong chức thầy tế lễ. Tuy nhiên, Na-đáp và A-bi-hu đã ngã chết trước mặt CHÚA khi họ dâng hương lên CHÚA trong sa mạc Si-nai bằng một thứ lửa Ngài không cho phép. Họ không có con trai nên chỉ có Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma phục vụ trong chức thấy tế lễ dưới sự hướng dẫn của A-rôn, cha họ.

CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy đem bộ tộc Lê-vi đến, đặt họ dưới quyền thầy tế lễ A-rôn để họ giúp đỡ người. Họ phải thi hành các nhiệm vụ thay cho A-rôn và toàn thể dân chúng tại Trại Hội Kiến bằng cách phục vụ trong Đền Tạm. Họ phải chăm sóc tất cả các vật dụng trong Trại Hội Kiến, thi hành các bổn phận của dân Y-sơ-ra-ên bằng cách phục vụ trong Đền Tạm. Trong vòng người Y-sơ-ra-ên họ là những người duy nhất được giao trọn cho A-rôn. 10 Con hãy bổ nhiệm A-rôn và các con trai người làm thầy tế lễ; bất cứ người nào khác xâm phạm vào chức vụ này sẽ bị xử tử.”

11 CHÚA lại bảo Môi-se: 12 “Ta đã chọn người Lê-vi giữa dân Y-sơ-ra-ên để thay thế cho các con trai đầu lòng của mỗi người đàn bà Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi thuộc về Ta, 13 vì tất cả các con trai đầu lòng đều thuộc về Ta. Khi Ta đánh hạ tất cả các con trai đầu lòng tại Ai-cập, Ta đã biệt riêng cho Ta tất cả các con trai đầu lòng của Y-sơ-ra-ên, cả người lẫn thú vật. Họ phải thuộc về Ta. Ta là CHÚA.”

14 CHÚA bảo Môi-se tại sa mạc Si-nai: 15 “Con hãy kiểm tra dân số người Lê-vi tùy theo gia tộc và gia đình. Con hãy kiểm kê tất cả người nam từ một tháng trở lên.” 16 Như vậy, Môi-se kiểm kê họ đúng như lời CHÚA truyền bảo mình.

17 Đây là tên các con trai Lê-vi:

Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri.

18 Đây là tên con trai Ghẹt-sôn:

Líp-ni và Si-mê-i.

19 Con trai Kê-hát là:

Am-ram, Dít-sa, Hếp-rôn và U-xi-ên.

20 Con trai Mê-ra-ri là:

Mách-li và Mu-si.

Đó là những nhóm các gia tộc trong bộ tộc Lê-vi.

21 Con cháu Líp-ni là Si-mê-i thuộc về Ghẹt-sôn; đó là gia tộc Ghẹt-sôn. 22 Tổng số người nam từ một tháng trở lên được 7,500 người. 23 Gia tộc Ghẹt-sôn phải cắm trại phía tây đằng sau Đền Tạm. 24 Người lãnh đạo gia tộc Ghẹt-sôn là Ê-li-a-sáp, con La-ên. 25 Trách nhiệm của gia tộc Ghẹt-sôn tại Trại Hội Kiến gồm có: Đền Tạm, trại, mái phủ trại, bức màn tại cửa Trại Hội Kiến, 26 các bức màn trong hành lang, bức màn tại cửa hành lang bao quanh Đền Tạm và bàn thờ, và các sợi dây thừng cùng tất cả các dịch vụ bảo quản những thứ đó.

27 Gia tộc Am-ram, Dít-sa, Hếp-rôn, và U-xi-ên thuộc về Kê-hát; đó là gia tộc Kê-hát. 28 Tổng số người nam từ một tuổi trở lên được 8,600 người. Gia tộc Kê-hát chịu trách nhiệm chăm sóc Nơi Thánh. 29 Gia tộc Kê-hát phải cắm trại phía nam Đền Tạm. 30 Người lãnh đạo gia tộc Kê-hát là Ê-li-sa-phan, con U-xi-ên. 31 Họ chịu trách nhiệm chăm sóc Rương Giao Ước, cái bàn, chân đèn, các bàn thờ, và dịch vụ bảo quản những thứ đó, cùng tấm màn và các vật dụng phụ thuộc. 32 Đứng đầu các vị lãnh đạo bộ tộc Lê-vi là Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn; ông giám sát những người chịu trách nhiệm coi sóc Nơi Thánh.

33 Gia tộc Mách-li và gia tộc Mu-si thuộc về Mê-ra-ri: đó là gia tộc Mê-ra-ri. 34 Tổng số người nam từ một tháng trở lên được 6,200 người. 35 Người lãnh đạo gia tộc Mê-ra-ri là Xu-ri-ên, con A-bi-hai: họ phải cắm trại phía bắc Đền Tạm. 36 Người Mê-ra-ri được bổ nhiệm coi sóc các khung của Đền Tạm, các cây xà ngang, các cây cột, đế cột, cùng tất cả các vật dụng. Họ chịu tránh nhiệm bảo quản những thứ đó 37 cùng coi sóc các cây cột và đế cột xung quanh hành lang, các cây cọc và dây thừng.

38 Môi-se và A-rôn cùng các con trai người phải cắm trại ở phía đông Đền Tạm, về phía mặt trời mọc ngay trước Trại Hội Kiến. Họ phải chịu trách nhiệm coi sóc Nơi Thánh thay cho dân Y-sơ-ra-ên. Kẻ nào khác xâm phạm đến gần Nơi Thánh sẽ bị xử tử.

39 Tổng số người Lê-vi được kiểm kê theo lệnh CHÚA truyền cho Môi-se và A-rôn, chia theo từng gia tộc, tức là các người nam từ một tháng trở lên, được 22,000 người.

40 CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy kiểm kê tất cả các con trai đầu lòng người Y-sơ-ra-ên từ một tháng trở lên, và lập bảng danh sách. 41 Con hãy thu nhận cho Ta người Lê-vi thay cho tất cả các con trai đầu lòng người Y-sơ-ra-ên, và các bầy gia súc của người Lê-vi thay cho tất cả các con đực đầu lòng của gia súc người Y-sơ-ra-ên. Ta là CHÚA.”

42 Như thế, Môi-se kiểm kê tất cả các con trai đầu lòng của người Y-sơ-ra-ên như CHÚA đã truyền bảo người. 43 Tổng số con trai đầu lòng liệt kê từng tên, được 22,273 người.

44 CHÚA lại phán bảo Môi-se: 45 “Con hãy thu nhận người Lê-vi thay cho tất cả các con trai đầu lòng người Y-sơ-ra-ên và gia súc của người Lê-vi thay cho gia súc của người Y-sơ-ra-ên. Người Lê-vi thuộc về Ta. Ta là CHÚA. 46 Về phần 273 con trai đầu lòng Y-sơ-ra-ên là số trội hơn tổng số người Lê-vi, 47 con hãy chuộc lại bằng cách thu mỗi người năm sê-ken bạc[e] theo tiêu chuẩn cân đo trong Nơi Thánh. 48 Hãy giao số bạc chuộc các người Y-sơ-ra-ên phụ trội đó cho A-rôn và các con trai người.”

49 Như thế, Môi-se thu bạc chuộc của những người phụ trội đó. 50 Môi-se thu được một ngàn ba trăm sáu mươi lăm sê-ken bạc[f] của các con trai đầu lòng người Y-sơ-ra-ên, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh. 51 Môi-se giao bạc chuộc đó cho A-rôn và các con trai người, đúng như lời CHÚA đã truyền bảo mình.

Dòng Họ Kê-hát

CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn: “Con hãy kiểm tra dân số người Kê-hát, tức là một ngành trong tộc Lê-vi, theo từng gia tộc và gia đình. Con hãy kiểm kê tất cả người nam từ ba mươi đến năm mươi tuổi, trong lứa tuổi phục vụ để họ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến.

Đây là công việc của người Kê-hát tại Trại Hội Kiến: chăm sóc các vật chí thánh. Khi nào trại quân dời đi, A-rôn và các con trai người phải vào gỡ bức màn ngăn che Nơi Thánh và phủ lên Rương Chứng Cớ; rồi phủ lên trên các tấm da cá heo, trải tấm vải mầu xanh lên trên cùng, rồi sửa đòn khiêng cho ngay ngắn.

Họ sẽ trải lên bàn đựng bánh thánh tấm khăn xanh rồi đặt lên khăn các đĩa, bát, chén và các bình dùng dâng rượu; bánh thánh dâng liên tục vẫn để y trên bàn. Trên tất cả những vật ấy, họ phải trải một tấm khăn đỏ thắm, và trên cùng, phủ lên các tấm da cá heo, rồi xỏ đòn khiêng vào.

Họ phải lấy một tấm khăn xanh phủ lên giá đèn để thắp sáng và các cây đèn, kéo cắt tim đèn và khay, và tất cả các bình đựng dầu để thắp đèn; 10 rồi bọc giá đèn và các đồ phụ tùng bằng tấm da cá heo và đặt lên một đòn khiêng.

11 Họ cũng phải trải một tấm khăn xanh trên bàn thờ bằng vàng, và phủ lên bằng các tấm da cá heo, rồi xỏ đòn khiêng vào.

12 Tất cả các vật dụng trong việc phục vụ tại Nơi Thánh phải gói lại trong một tấm vải xanh và phủ lên bằng các tấm da cá heo.

13 Họ phải hốt tro tại bàn thờ bằng đồng, trải lên bàn thờ một tấm vải mầu tím, 14 và đặt tất cả các khí dụng tế lễ lên trên: các lư hương, xiên, xẻng, bát dùng vào việc rảy nước, tất cả các phụ tùng bàn thờ, rồi phủ lên các tấm da cá heo và xỏ đòn khiêng vào.

15 Sau khi A-rôn và các con trai người đậy xong Nơi Thánh và tất cả các khí dụng thánh, và khi trại quân sẵn sàng dời đi, gia tộc Kê-hát phải đến khuân vác, nhưng họ không được chạm đến các vật thánh kẻo bị thiệt mạng. Gia tộc Kê-hát phải khuân vác các vật dụng trong Trại Hội Kiến.

16 Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, con trai A-rôn, có nhiệm vụ lo về dầu thắp đèn, hương liệu, lễ vật chay hằng dâng và dầu xức; cũng phải coi sóc cả Đền Tạm và các vật dụng bên trong, kể cả các đồ bạc và vật dụng thánh.”

17 CHÚA lại bảo Môi-se và A-rôn: 18 “Đừng để gia tộc Kê-hát phải bị tiêu diệt. 19 Đây là điều phải làm để giữ cho họ khỏi chết khi vào Nơi Thánh: A-rôn và các con ông sẽ vào nơi đó với họ, chỉ cho mỗi người vật gì họ phải khiêng. 20 Tuyệt đối không ai được vào nơi đó để nhìn các vật thánh, dù chỉ trong giây lát; ai bất tuân đều phải chết.”

21 CHÚA bảo Môi-se: 22 “Cũng hãy kiểm tra các con cháu Ghẹt-sôn, tùy theo gia tộc và gia đình họ. 23 Từ ba mươi tuổi cho đến năm mươi tuổi, gồm những người trong lứa tuổi phục vụ, để họ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến.

24 Đây là công việc của họ: 25 họ sẽ khiêng các bức màn của Đền Tạm, Trại Hội Kiến, nóc lều, tấm da phủ nóc lều, tấm màn che cửa lều, 26 các màn quanh hành lang, màn che cửa hành lang, hành lang bao quanh trại, và bàn thờ, dây thừng và các dụng cụ khác. Những người thuộc gia tộc Ghẹt-sôn có nhiệm vụ di chuyển các vật ấy. 27 Hết thảy công việc của con cháu Ghẹt-sôn, món gì họ phải khiêng đi, và việc gì họ phải làm đều sẽ theo lệnh A-rôn và các con trai người chỉ biểu; người phải giao cho họ coi sóc mọi món gì phải khiêng đi. 28 Trong hội mạc, ấy là công việc của các gia tộc con cháu Ghẹt-sôn. Họ sẽ giữ chức phận mình dưới quyền cai trị của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn.

29 Ngươi phải kiểm tra con cháu Mê-ra-ri, tùy theo gia tộc và gia đình của họ, 30 từ ba mươi tuổi cho đến năm mươi, tức là hết thảy những người trong lứa tuổi phục vụ, để họ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến. 31 Họ sẽ khiêng khung Trại, các thanh ngang, trụ và đế trụ, 32 trụ hành lang, đế trụ, cọc lều, dây và các đồ phụ tùng. Khi phân công người nào khiêng vật gì phải lập danh sách rõ ràng. 33 Trên đây là nhiệm vụ của gia tộc Mê-ra-ri tại Trại Hội Kiến dưới sự hướng dẫn của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn.”

34 Vậy, Môi-se, A-rôn và các nhà lãnh đạo dân chúng bắt đầu kiểm tra gia tộc Kê-hát, 35 gồm những người trong lứa tuổi phục vụ, từ ba mươi đến năm mươi tuổi, để đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến; 36 có được 2,750 người. 37 Đó là tổng số người Kê-hát phục vụ tại Trại Hội Kiến do Môi-se và A-rôn kiểm tra theo lời CHÚA truyền cho Môi-se.

38 Còn con cháu Ghẹt-sôn đã được kiểm tra, tùy theo gia tộc và gia đình của họ, 39 từ ba mươi đến năm mươi tuổi, tức là hết thảy những người trong lứa tuổi phục vụ đảm nhiệm công tác tại Trại Hội Kiến, 40 cộng được 2,630 người. 41 Đó là những người về gia tộc Ghẹt-sôn đã được kiểm tra, tức là những người hầu việc trong Trại mà Môi-se và A-rôn tu bộ y theo mạng của CHÚA.

42 Còn những người thuộc về gia tộc Mê-ra-ri đã được kiểm tra, tùy theo gia tộc và gia đình của họ, 43 từ ba mươi cho đến năm mươi tuổi, tức là mọi người có khả năng phục vụ trong Trại, 44 tổng cộng được 3,200 người.

45 Đó là những người về các gia tộc Mê-ra-ri đã được kiểm tra. Môi-se và A-rôn kiểm tra dân, y theo lệnh của CHÚA đã cậy Môi-se truyền dạy.

46 Hết thảy những người Lê-vi mà Môi-se, A-rôn và các quan trưởng Y-sơ-ra-ên kiểm tra, tùy theo gia tộc và gia đình của họ, 47 từ ba mươi cho đến năm mươi tuổi, tức là mọi người đến phục vụ và khuân vác đồ trong Trại, 48 cộng được 8,580 người. 49 Người ta kiểm tra người Lê-vi theo lệnh CHÚA đã cậy Môi-se truyền dạy, cắt đặt cho mỗi người việc mình phải làm, và vật chi mình phải khiêng đi; người ta kiểm tra dân theo lời CHÚA đã phán dạy Môi-se vậy.

Luật Về Người Ô Uế

CHÚA cũng bảo Môi-se: “Con dạy người Y-sơ-ra-ên phải trục xuất các người phung, người có chất lỏng xuất ra từ thân thể và người bị ô uế vì đụng vào xác người chết ra khỏi trại quân. Dù họ là đàn ông hay đàn bà cũng phải trục xuất để họ không làm ô uế trại quân, vì Ta ở giữa trại dân Ta.” Người Y-sơ-ra-ên vâng lời CHÚA.

Luật Bồi Thường

CHÚA lại bảo Môi-se dạy bảo người Y-sơ-ra-ên: “Khi một người, dù đàn ông hay đàn bà phạm một tội gì với một người khác, và do đó phạm tội bất trung với CHÚA, người ấy phải nhận tội mình, phải xưng tội ra, bồi thường thiệt hại do mình gây ra, cộng thêm một phần năm số ấy cho nạn nhân. Trường hợp nạn nhân không còn ai để nhận bồi thường, số bồi thường phải nộp cho CHÚA và số ấy thuộc về thầy tế lễ, cộng thêm một con chiên để làm tế lễ chuộc tội. Phàm lễ vật chi biệt riêng ra thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho thầy tế lễ, đều sẽ thuộc về người. 10 Những vật biệt riêng ra thánh mà mỗi người dâng sẽ thuộc về người; vật chi mỗi người ban cho thầy tế lễ, chắc sẽ thuộc về người vậy.”

Luật Về Ghen Tương

11 CHÚA lại bảo Môi-se: 12 “Hãy phán dạy dân Y-sơ-ra-ên rằng: Nếu một người đàn bà ngoại tình 13 nhưng nàng giấu kín, không bị bắt quả tang, cũng không có nhân chứng, 14 và nếu người chồng đâm nghi, nổi ghen khi vợ mình đã thất tiết hoặc nổi ghen trong khi vợ mình không thất tiết, 15 người ấy nên đưa vợ mình đến gặp thầy tế lễ, cũng đem theo một lễ vật gồm một phần mười ê-pha bột lúa mạch không pha dầu, không rắc nhũ hương lên trên, vì đây là lễ vật ghen tương.

16 Thầy tế lễ sẽ đem người vợ đến trước CHÚA, 17 đổ nước thánh vào một cái bình bằng đất, bốc bụi dưới sàn Đền Tạm bỏ vào. 18 Thầy tế lễ cũng xả tóc nàng, đặt lễ vật ghen tương vào tay nàng, tay thầy tế lễ cầm bình nước đắng nguyền rủa. 19 Thầy tế lễ bảo nàng thề rồi nói: ‘Nếu không có ai nằm với bà ngoài chồng bà, thì nước đắng nguyền rủa này sẽ không làm hại bà được. 20 Nhưng nếu bà đã ngoại tình, 21 cầu CHÚA khiến cho nàng trở nên một mầm rủa sả và trù ẻo giữa vòng dân sự ngươi, làm cho ngươi ốm lòi hông và phình bụng lên; 22 nước đắng rủa sả này khá chui vào ruột gan làm cho bụng ngươi phình lên và ốm lòi hông.’ Nàng sẽ nói: ‘Xin cứ đúng như thế!’[g]

23 Thầy tế lễ viết những lời nguyền rủa này vào sách, rồi rửa sách trong nước đắng. 24 Khi nàng uống nước đắng nguyền rủa, nó sẽ gây nhiều cay đắng trong bụng.[h]

25 Thầy tế lễ sẽ lấy lễ vật ghen tương khỏi tay nàng, đem dâng đưa qua đưa lại trước CHÚA, rồi đem lễ vật đến trước bàn thờ; 26 bốc một nắm bột tượng trưng cho toàn thể lễ vật, đem đốt trên bàn thờ, rồi bảo nàng uống nước. 27 Nếu nàng ngoại tình; nước sẽ trở nên đắng trong bụng, bụng phình lên, đùi sụm xuống, dân chúng sẽ nhắc đến nàng mỗi khi trù ẻo, thề thốt. 28 Nhưng nếu trong sạch nàng sẽ không bị hại mà vẫn có thể sinh nở.[i]

29 Đó là luật lệ về sự ghen tương khi một người đàn bà, ở dưới quyền chồng mình, lỗi đạo và bị ô uế, 30 hoặc khi nào tánh ghen phát sanh nơi người chồng mà ghen vợ mình: người phải đem vợ đến trước mặt CHÚA và thầy tế lễ sẽ làm cho nàng hết thảy điều gì luật lệ này đã truyền dạy. 31 Người chồng sẽ không có lỗi mặc dù hậu quả tai hại xảy ra cho vợ mình trong trường hợp vợ ngoại tình thật.”

Luật Lệ Về Người Na-xi-rê

CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Nếu một người nam hay nữ muốn hứa nguyện biệt mình riêng cho Chúa, làm người Na-xi-rê, thì phải kiêng cử rượu và thức uống làm cho say, cũng không được uống giấm làm bằng rượu hoặc bằng một chất lên men. Cả đến nước ép nho cũng không được uống và không được phép ăn nho tươi hay khô. Suốt thời gian biệt mình riêng cho Chúa làm người Na-xi-rê, người ấy không được ăn uống bất cứ món nào từ cây nho, kể cả hạt nho và vỏ trái nho.

Suốt thời gian thề nguyện biệt mình làm người Na-xi-rê, người không được cạo đầu. Trọn những ngày người biệt mình riêng cho CHÚA, làm người Na-xi-rê, tóc người cũng được biệt riêng ra thánh và người phải để cho tóc mình mọc dài, không được cắt tỉa. Suốt thời gian biệt mình riêng cho CHÚA, không được đến gần xác chết. Đừng vì cha hay mẹ, vì anh em hoặc chị em qua đời mà bị ô uế vì dấu hiệu biệt riêng cho Chúa vẫn ở trên đầu mình. Suốt thời gian biệt riêng đó, người ấy được thánh hóa cho CHÚA.

Nếu ai chết thình lình bên người Na-xi-rê làm cho đầu đã biệt ra thánh của người ấy trở nên ô uế, thì phải cạo đầu mình vào ngày được sạch, tức là ngày thứ bảy. 10 Qua ngày thứ tám, người ấy phải đem hai chim gáy hoặc hai bồ câu con đến cho thầy tế lễ tại cửa Trại Hội Kiến. 11 Thầy tế lễ sẽ dâng một con làm tế lễ chuộc tội và con kia làm tế lễ thiêu để chuộc tội người đã mắc vì xác chết. Ngày ấy, người sẽ biệt đầu mình ra thánh. 12 Người ấy sẽ biệt mình ra thánh cho CHÚA suốt những ngày còn lại trong thời gian làm người Na-xi-rê, cũng phải đem một con chiên con đực một tuổi làm tế lễ chuộc sự mắc lỗi. Những ngày làm người Na-xi-rê đã qua không được kể nữa vì đã bị ô uế.

13 Đây là luật lệ về người Na-xi-rê khi mãn hạn biệt riêng mình cho Chúa: Người ấy phải được đem đến cửa Trại Hội Kiến. 14 Người ấy sẽ dâng các tế lễ lên CHÚA: một con chiên con đực một tuổi không tì vết làm tế lễ thiêu, một con chiên cái một tuổi không tì vết làm tế lễ chuộc tội và một con chiên đực không tì vết làm tế lễ cầu an; 15 một giỏ bánh không men bằng bột lọc, các bánh nhỏ rưới dầu, các bánh tráng không men thoa dầu, luôn với lễ vật chay và lễ tưới rượu.

16 Thầy tế lễ sẽ đem các lễ vật ấy đến trước mặt CHÚA và dâng tế lễ chuộc tội và tế lễ thiêu; 17 dâng luôn con chiên đực làm tế lễ cầu an, cùng dâng tế lễ chay và lễ tưới rượu của người ấy, trừ ra giỏ bánh không men.

18 Tại cửa Trại Hội Kiến, người Na-xi-rê phải cạo tóc trên đầu mình đã biệt riêng và lấy tóc bỏ vào ngọn lửa đang cháy dưới tế lễ cầu an.

19 Sau khi cạo đầu, người Na-xi-rê sẽ được thầy tế lễ đặt trong lòng hai bàn tay cái vai đã luộc chín của con chiên đực, một cái bánh nhỏ không men lấy trong giỏ và một cái bánh tráng không men, 20 rồi dâng đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA: đó là những vật thánh thuộc về thầy tế lễ cũng như cái ngực đã được đưa qua đưa lại và cái đùi đã được dâng lên. Sau đó người Na-xi-rê được uống rượu.

21 Đó là luật lệ về người Na-xi-rê. Ngoài những lễ vật cần thiết kèm theo lời hứa nguyện làm người Na-xi-rê; nếu người có hứa nguyện dâng lên CHÚA những lễ vật nào tùy theo khả năng mình, người phải giữ đúng theo lời mình hứa nguyện.”

Lời Chúc Phước Của Thầy Tế Lễ

22 CHÚA phán dạy Môi-se: 23 “Con hãy bảo A-rôn và các con trai người: Đây là cách chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên:

24 Cầu xin CHÚA ban phước cho ngươi
    Và bảo vệ ngươi!
25 Cầu xin CHÚA làm cho mặt Ngài chiếu sáng ngươi
    Và làm ơn cho ngươi!
26 Cầu xin CHÚA đoái xem ngươi
    Và ban bình an cho ngươi!

27 Như thế, họ sẽ đặt danh Ta trên dân Y-sơ-ra-ên, thì Ta sẽ ban phước cho dân đó.”

Các Lễ Vật Dùng Vào Dịp Khánh Thành Đền Tạm

Dựng xong Đền Tạm, Môi-se xức dầu và biệt riêng ra thánh cả Đền Tạm lẫn tất cả đồ đạc trong ấy. Ông cũng xức dầu và biệt ra thánh bàn thờ và tất cả vật dụng của bàn thờ. Khi ấy các nhà lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên, các gia trưởng làm trưởng bộ tộc đã đặc trách việc kiểm tra dân số, đều dâng lễ vật. Họ đem lễ vật của mình đến trước mặt CHÚA chở trong sáu cỗ xe do mười hai bò đực kéo, mỗi trưởng bộ tộc một con bò và hai trưởng bộ tộc một cỗ xe. Họ dâng các lễ vật đó trước Đền Tạm.

CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy thu các lễ vật của những người này để dùng vào công việc của Trại Hội Kiến. Con hãy giao các lễ vật ấy cho người Lê-vi tùy theo công tác của mỗi người.”

Vậy, Môi-se thu nhận các cỗ xe và bò đực rồi giao lại cho người Lê-vi: hai cỗ xe và bốn con bò cho gia tộc Ghẹt-sôn tùy theo công tác của họ, bốn cỗ xe và tám con bò cho gia tộc Mê-ra-ri tùy theo công tác của họ. Tất cả đều đặt dưới quyền chỉ huy của Y-tha-ma con trai thầy tế lễ A-rôn. Nhưng Môi-se không giao xe và bò cho gia tộc Kê-hát vì các vật dụng thánh họ chịu trách nhiệm phải được khuân vác trên vai.

10 Khi bàn thờ được xức dầu, các nhà lãnh đạo đem lễ vật dâng lên trước bàn thờ để khánh thành. 11 CHÚA đã phán dạy Môi-se: “Các nhà lãnh đạo phải mang đến lễ vật để khánh thành bàn thờ, mỗi ngày một người.”

12 Ngày thứ nhất, Na-ha-sôn con của A-mi-na-đáp, bộ tộc Giu-đa, dâng lễ vật.

13 Lễ vật của người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken[j] và một cái bát nặng bảy mươi sê-ken,[k] theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh: cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay; 14 một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken[l] đựng đầy hương liệu: 15 một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu: 16 một con dê đực làm tế lễ chuộc tội: 17 hai con bò đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Na-ha-sôn, con của A-mi-na-đáp.

18 Ngày thứ nhì, Na-tha-na-ên con của Xu-a, bộ tộc Y-sa-ca, dâng lễ vật.

19 Lễ vật của người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một cái bát nặng bảy mươi sê-ken theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh: cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, 20 một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; 21 một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu; 22 một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; 23 hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Na-tha-na-ên, con của Xu-a.

24 Ngày thứ ba, Ê-li-áp con của Hê-long, bộ tộc Sa-bu-luân, dâng lễ vật.

25 Lễ vật của người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, 26 một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; 27 một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, 28 một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; 29 hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-áp, con của Hê-long.

30 Vào ngày thứ tư, Ê-li-sua con của Sê-đêu, bộ tộc Ru-bên, dâng lễ vật.

31 Lễ vật của người gồm có một chiếc đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, 32 một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; 33 một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, 34 một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; 35 hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi để làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-sua, con của Sê-đêu.

36 Ngày thứ năm, Sê-lu-miên con của Xu-ri-ha-đai, bộ tộc Si-mê-ôn, dâng lễ vật.

37 Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, 38 một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; 39 một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, 40 một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; 41 hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Sê-lu-miên, con của Xu-ri-ha-đai.

42 Ngày thứ sáu, Ê-li-a-sáp con của Đê-u-ên, bộ tộc Gát, dâng lễ vật.

43 Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, 44 một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; 45 một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, 46 một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; 47 hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-a-sáp, con của Đê-u-ên.

48 Ngày thứ bảy, Ê-li-sa-ma con của A-mi-hút, bộ tộc Ép-ra-im dâng lễ vật.

49 Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, 50 một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; 51 một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, 52 một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; 53 hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ê-li-sa-ma, con của A-mi-hút.

54 Ngày thứ tám, Ga-ma-liên con của Phê-đát-su, bộ tộc Ma-na-se, dâng lễ vật.

55 Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, 56 một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; 57 một con bò đực tơ, một con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, 58 một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; 59 hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Ga-ma-liên, con của Phê-đát-su.

60 Ngày thứ chín, A-bi-đan con của Ghi-đeo-ni, bộ tộc Bên-gia-min, dâng lễ vật.

61 Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, 62 một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; 63 một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, 64 một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; 65 hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của A-bi-đan, con của Ghi-đeo-ni.

66 Ngày thứ mười, A-hi-ê-xe con của Am-mi-sa-đai, bộ tộc Đan, dâng lễ vật.

67 Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, 68 một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; 69 một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, 70 một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; 71 hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của A-hi-ê-xe, con của Am-mi-sa-đai.

72 Ngày thứ mười một, Pha-ghi-ên con của Óc-ran, bộ tộc A-se, dâng lễ vật.

73 Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, 74 một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; 75 một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, 76 một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; 77 hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của Pha-ghi-ên, con của Óc-ran.

78 Ngày thứ mười hai, A-hi-ra con của Ê-nan, bộ tộc Nép-ta-li, dâng lễ vật.

79 Lễ vật của người gồm có một đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và một bát nặng bảy mươi sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; cả hai đều đầy bột lọc nhồi dầu, làm tế lễ chay, 80 một cái chén bằng vàng nặng mười sê-ken đựng đầy hương liệu; 81 một con bò đực tơ, môt con chiên đực, và một con chiên con một tuổi làm tế lễ thiêu, 82 một con dê đực làm tế lễ chuộc tội; 83 hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con đực một tuổi làm tế lễ cầu an. Đó là các lễ vật của A-hi-ra, con của Ê-nan.

84 Đó là các lễ vật của các trưởng bộ tộc dân Y-sơ-ra-ên dâng hiến trong lễ khánh thành bàn thờ, khi bàn thờ được xức dầu: mười hai đĩa bạc, mười hai chậu bạc, mười hai chén vàng; 85 mỗi đĩa bạc nặng một trăm ba mươi sê-ken và mỗi bát nặng bảy mươi sê-ken. Tổng cộng đĩa và bát được hai ngàn bốn trăm sê-ken[m] bạc, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; 86 mười hai chén vàng đựng đầy hương liệu, mỗi cái cân nặng mười sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh; tổng cộng được một trăm hai mươi sê-ken[n] vàng. 87 Số bò đực dâng làm tế lễ thiêu được mười hai con, với mười hai con chiên đực, mười hai con chiên con đực một tuổi, cùng các lễ vật chay cặp theo. Ngoài ra, mười hai con dê đực được dâng làm tế lễ chuộc tội. 88 Tổng số sinh tế dâng làm tế lễ cầu an được hai mươi bốn con bò đực, sáu mươi con cừu đực, sáu mươi con dê đực và sáu mươi con chiên con đực một tuổi. Đó là các lễ vật dâng lên để khánh thành bàn thờ sau khi bàn thờ được xức dầu.

89 Khi vào Trại Hội Kiến để thưa chuyện với CHÚA, Môi-se được nghe tiếng phán với mình phát ra giữa hai chê-ru-bim trên Nắp Chuộc Tội đặt trên Rương Giao Ước. Và như thế, CHÚA trò chuyện với Môi-se.

Luật Lệ Về Cách Thắp Đèn Trong Đền Tạm

CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo A-rôn: Khi nào anh sắp đặt các cây đèn, phải để bảy cây đèn chiếu soi phía trước chân đèn.

A-rôn vâng theo, đặt bảy cây đèn lên phía trước chân đèn y như CHÚA đã phán dạy Môi-se. Chân đèn đã được chế tạo bằng vàng dát mỏng, cả đến chân và các hoa cũng đều đánh dát. Như thế, người ta làm chân đèn đúng theo kiểu CHÚA đã chỉ cho Môi-se xem.

Biệt Riêng Người Lê-vi Cho Chúa

CHÚA phán bảo Môi-se: Con hãy phân rẽ người Lê-vi với toàn dân Y-sơ-ra-ên và thanh tẩy họ. Đây là cách thanh tẩy họ: Con hãy rảy nước tẩy trên họ rồi cho họ cạo khắp người, giặt quần áo và dọn mình thanh sạch. Họ phải đem theo một con bò đực với lễ vật chay bằng bột lọc nhồi dầu. Còn con cũng phải bắt một con bò đực tơ để dâng tế lễ chuộc tội. Con hãy bảo người Lê-vi đến gần trước Trại Hội Kiến và tụ họp toàn dân Y-sơ-ra-ên. 10 Con phải bảo người Lê-vi đến gần trước mặt CHÚA rồi cho dân Y-sơ-ra-ên đặt tay trên người Lê-vi. 11 A-rôn phải dâng người Lê-vi lên trước mặt CHÚA như một tế lễ đưa qua đưa lại từ dân Y-sơ-ra-ên, ngõ hầu người Lê-vi sẵn sàng phục vụ CHÚA.

12 Người Lê-vi sẽ đặt tay trên đầu hai con bò đực. Con hãy dâng con bò này làm tế lễ chuộc tội và con kia làm tế lễ thiêu cho CHÚA để chuộc tội cho người Lê-vi. 13 Con hãy bảo người Lê-vi đứng trước mặt A-rôn và các con trai người, rồi dâng họ như một tế lễ đưa qua đưa lại cho CHÚA. 14 Như thế, con sẽ biệt riêng người Lê-vi ra khỏi Y-sơ-ra-ên, thì người Lê-vi sẽ thuộc về Ta.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)