Bible in 90 Days
20 Bấy giờ, Môi-se bảo họ: “Nếu anh em làm đúng như thế, nếu anh em mang vũ khí ra trận trước mặt CHÚA, 21 nếu mọi người cầm vũ khí đi qua sông Giô-đanh trước mặt CHÚA, cho đến khi Ngài đuổi hết quân thù đi, 22 thì khi CHÚA đã chinh phục xong lãnh thổ, anh em mới được về, và mới được miễn trách nhiệm với CHÚA và với Y-sơ-ra-ên. Và trước mặt CHÚA, đất này lúc đó sẽ thuộc về quyền sở hữu của anh em.
23 Nhưng nếu anh em không làm đúng như thế, anh em sẽ mắc tội với CHÚA, và nhớ rằng tội này sẽ kết buộc anh em. 24 Bây giờ, hãy xây thành cho con cái mình ở, dựng chuồng cho bầy súc vật, nhưng anh em phải nhớ làm điều mình đã hứa.”
25 Người Gát và Ru-bên đáp lời Môi-se: “Các tôi tớ ông xin làm đúng như lời Chúa tôi dặn bảo. 26 Vợ con và súc vật của chúng tôi sẽ ở lại đây, trong những thành của đất Ga-la-át. 27 Còn các tôi tớ ông, tất cả những người được vũ trang để chiến đấu, sẽ qua sông để ra trận trước mặt CHÚA, như chúa tôi đã nói.”
28 Sau đó, Môi-se chỉ thị cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê con của Nun và các trưởng bộ tộc Y-sơ-ra-ên về việc này. 29 Ông nói: “Nếu tất cả những người được vũ trang để chiến đấu của bộ tộc Gát và Ru-bên cùng qua sông Giô-đanh với các ông trước mặt CHÚA, thì khi lãnh thổ đã bình định xong, các ông sẽ cho họ đất Ga-la-át làm cơ nghiệp. 30 Nhưng nếu họ không đi qua cùng với các ông để chiến đấu, họ phải nhận phần cơ nghiệp chung với các ông trong xứ Ca-na-an.”
31 Người Gát và Ru-bên nói: “Điều CHÚA truyền dạy, các tôi tớ ông xin tuân hành! 32 Chúng tôi sẽ mang vũ khí qua sông, vào đất Ca-na-an trước mặt CHÚA, nhưng đất chúng tôi nhận làm cơ nghiệp sẽ ở bên này sông Giô-đanh.”
33 Vậy, Môi-se cấp cho bộ tộc Gát, bộ tộc Ru-bên và phân nửa bộ tộc Ma-na-se (con Giô-sép) đất của Si-hôn vua A-mô-rít và của Óc vua Ba-san, toàn lãnh thổ với các thành thị và thôn ấp chung quanh.
34 Người Gát xây cất Đi-hôn, A-ta-rốt, A-rô-e, 35 Ạt-rốt Sô-phan, Gia-ê-xe, Giô-bê-ha, 36 Bết Nim-ra và Bết Ha-ran là những thành có hào lũy kiên cố. Họ cũng dựng chuồng cho bầy gia súc. 37 Người Ru-bên cất tại Hết-bôn, Ê-lê-a-lê, Ki-ri-a-tha-im, 38 Nê-bô, Ba-anh Mê-ôn (những tên này bị đổi), và Síp-ma. Họ đặt tên mới cho các thành vừa tái thiết.
39 Con cháu Ma-ki (con Ma-na-se) đi đánh chiếm Ga-la-át, đuổi người A-mô-rít đi. 40 Vậy Môi-se cấp cho con cháu Ma-ki (con Ma-na-se) đất Ga-la-át, và họ sinh sống tại đó. 41 Giai-rơ (con Ma-na-se) đi chiếm một số thôn ấp, đặt tên là thôn Giai-rơ. 42 Nô-bách chiếm Kê-nát và các thôn ấp chung quanh, rồi đặt tên là Nô-bách (theo tên mình).
33 Lộ trình và các địa điểm hạ trại từ Ai-cập đến Giô-đanh. 2 Đây là các địa điểm dân Y-sơ-ra-ên hạ trại sau khi rời Ai-cập tiến lên theo hàng ngũ dưới quyền chỉ huy của Môi-se và A-rôn. Môi-se vâng lịnh CHÚA ghi chép cuộc hành trình của dân chúng theo thứ tự các địa điểm hạ trại. Đây là các chặng đường: 3 dân Y-sơ-ra-ên từ Ram-se lên đường ngày mười lăm tháng giêng, một ngày sau Lễ Vượt Qua, họ anh dũng kéo ra trước mắt toàn dân Ai-cập. 4 Dân ấy đang chôn cất các con trai đầu lòng mà CHÚA đã đánh hạ, vì CHÚA đã đoán phạt các thần của họ.
5 Sau khi bỏ Ram-se, dân Y-sơ-ra-ên hạ trại tại Su-cốt; 6 rời Su-cốt và hạ trại tại Ê-tam; nơi giáp ranh sa mạc; 7 rời Ê-tam quay lại Phi Ha-hi-rốt, phía đông Ba-an Sê-phôn, và hạ trại tại Mích-đôn.
8 Họ rời Phi Ha-hi-rốt, đi qua giữa biển mà vào sa mạc; đi được ba ngày trong sa mạc Ê-tam, họ hạ trại tại Ma-ra. 9 Rời Ma-ra họ đến Ê-lim; là nơi có mười hai dòng suối và bảy mươi cây chà là và hạ trại tại đó.
10 Rời Ê-lim, họ hạ trại bên bờ Hồng-hải;
11 rời bờ Hồng Hải họ đóng trại trong sa mạc Sin.
12 Rời sa mạc Sin họ đóng trại tại Đáp-ca.
13 Rời Đáp-ca họ hạ trại tại A-lúc.
14 Rời A-lúc họ hạ trại tại Rê-phi-đim, là nơi không có nước ngọt cho người ta uống.
15 Rời Rê-phi-đim họ hạ trại trong sa mạc Si-nai.
16 Rời sa mạc Si-nai họ hạ trại tại Kíp-rốt-Ha-tha-va.
17 Rời Kíp-rốt Ha-tha-va họ hạ trại tại Hát-sê-rốt.
18 Rời Hát-sê-rốt họ hạ trại tại Rít-ma.
19 Rời Rít-ma họ hạ trại tại Ri-môn Phê-rết.
20 Rời Ri-môn Phê-rết họ hạ trại tại Líp-na.
21 Rời Líp-na họ hạ trại tại Ri-sa.
22 Rời Ri-sa họ hạ trại tại Kê-hê-la-tha.
23 Rời Kê-hê-la-tha họ hạ trại tại núi Sê-phe.
24 Rời núi Sê-phe họ hạ trại tại Ha-ra-đa.
25 Rời Ha-ra-đa họ hạ trại tại Mác-hê-lốt.
26 Rời Mác-hê-lốt họ hạ trại tại Ta-hát.
27 Rời Ta-hát họ hạ trại tại Ta-rách.
28 Rời Ta-rách họ hạ trại tại Mít-ga.
29 Rời Mít-ga họ hạ trại tại Hách-mô-na.
30 Rời Hách-mô-na họ hạ trại tại Mô-sê-rốt.
31 Rời Mô-sê-rốt họ hạ trại tại Bê-nê Gia-can.
32 Rời Bê-nê Gia-can họ hạ trại tại Hô-ghi-gát.
33 Rời Hô-ghi-gát họ hạ trại tại Dốt-ba-tha.
34 Rời Dốt-ba-tha họ hạ trại tại Áp-rô-na.
35 Rời Áp-rô-na họ hạ trại tại Ê-xi-ôn Ghê-be.
36 Rời Ê-xi-ôn Ghê-be họ hạ trại trong sa mạc Xin, nghĩa là tại Ca-đê.
37 Rời Ca-đê họ hạ trại tại núi Hô-rơ, ở chót đầu xứ Ê-đôm. 38 Theo lệnh CHÚA, thầy tế lễ A-rôn leo lên núi Hô-rơ rồi qua đời ngày mồng một tháng năm năm thứ bốn mươi sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. 39 A-rôn hưởng thọ được một trăm hai mươi ba tuổi khi qua đời trên núi Hô-rơ.
40 Vua A-hát người Ca-na-an sống tại miền nam Ca-na-an đã nghe tin dân Y-sơ-ra-ên sắp đến nơi.
41 Rời núi Hô-rơ họ hạ trại tại Xa-mô-na.
42 Rời Xa-mô-na họ hạ trại tại Phu-nôn.
43 Rời Phu-nôn họ hạ trại tại Ô-bốt.
44 Rời Ô-bốt họ hạ trại tại Y-giê A-ba-rim, trên bờ cõi Mô-áp.
45 Rời Y-giê A-ba-rim, họ hạ trại tại Đi-bôn Gát.
46 Rời Đi-bôn Gát, họ hạ trại tại Anh-môn Đíp-lát-tha-im.
47 Rời Anh-môn Đíp-lát-tha-im, họ hạ trại trên núi A-ba-rim, gần Nê-bô.
48 Rời núi A-ba-rim, họ hạ trại trong đồng ruộng Mô-áp bên sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô.
49 Tại đồng bằng Mô-áp, họ hạ trại dọc sông Giô-đanh từ Bết-giê-si-mốt cho đến A-bên Si-tim.
50 Trong đồng bằng Mô-áp bên sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô, CHÚA bảo Môi-se: 51 “Con hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, khi các ngươi qua sông Giô-đanh để vào xứ Ca-na-an, 52 hãy đuổi tất cả dân cư trong xứ đi. Hãy hủy diệt các tượng chạm và tượng đúc và phá đổ tất cả các nơi cao của họ. 53 Hãy chiếm hữu đất đai và định cư tại đó vì Ta đã ban cho các ngươi chiếm hữu xứ ấy. 54 Hãy bắt thăm chia đất theo bộ tộc của họ, cho nhóm đông được hưởng miếng đất lớn, nhóm nhỏ được hưởng miếng đất nhỏ, và được làm chủ miếng đất ấy. Hãy phân phối đất đai theo bộ tộc.
55 Nhưng nếu các ngươi không đuổi dân cư trong xứ, những kẻ các ngươi cho ở lại sẽ như gai đâm trong mắt, chông xóc vào hông. Họ sẽ gây rối cho các ngươi trong xứ các ngươi ở. 56 Lúc ấy, Ta sẽ làm cho các ngươi điều Ta đã làm cho họ.”
Ranh Giới Các Chi Tộc
34 CHÚA bảo Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên: 2 “Khi các ngươi vào Ca-na-an là đất Ta cho làm sản nghiệp, giới hạn đất ấy sẽ được ấn định như sau:
3 Về phía nam, đất gồm có sa mạc Xin, chạy dọc theo ranh nước Ê-đôm. Khởi đầu từ mũi Biển Chết về phía đông, 4 Biên giới phía nam của dốc núi Ạc-ráp-bim, tiếp tục chạy dài đến sa mạc Xin, sâu xuống đến phía nam của Ca-đê Ba-nê-a rồi từ đấy chạy đến Hát-sa-át-đa, ngang qua Át-môn. 5 Từ Át-môn, biên giới sẽ quay qua suối Ai-cập và dừng lại ở biển Địa Trung Hải.
6 Biên giới phía tây là bờ Địa Trung Hải.
7 Biên giới phía bắc chạy từ Địa Trung Hải cho đến núi Hô-rơ. 8 Từ đấy vạch một đường đến lối vào Ha-mát, qua sông Xê-đát, 9 Xíp-rôn và chấm dứt ở Hát-sa-ê-nan.
10 Biên giới phía đông sẽ bắt đầu từ Hát-sa-ê-nan chạy đến Sê-pham, 11 từ đó xuống Ríp-lát về phía đông của A-in, rồi tiếp tục xuống nữa cho đến khi giáp phía đông của biển Ki-nê-rết. 12 Từ biển Ki-nê-rết, biên giới chạy dọc theo sông Giô-đanh và chấm dứt ở Biển Chết.”
13 Môi-se nói: “Đó là đất của chín bộ tộc mới. Họ sẽ bắt thăm chia đất theo lệnh của CHÚA, 14 vì bộ tộc Ru-bên, Gát và phân nửa bộ tộc Ma-na-se 15 đã nhận phần đất của mình bên bờ phía đông sông Giô-đanh.”
16 CHÚA lại bảo Môi-se: 17 “Sau đây là những người có trách nhiệm chia đất: Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai của Nun, 18 và mỗi bộ tộc một nhà lãnh đạo. 19 Đây là danh sách các nhà lãnh đạo các bộ tộc:
Ca-lép, con trai Giê-phu-nê
đại diện Giu-đa.
20 Sê-mu-ên, con A-mi-hút,
đại diện cho bộ tộc Si-mê-ôn;
21 Ê-li-đát, con Kít-long,
đại diện Bên-gia-min;
22 Bu-ki, con Giốc-đi,
đại diện Đan;
23 Ha-ni-ên, con Ê-phát,
đại diện Ma-na-se.
24 Kê-mu-ên, con Síp-tan,
đại diện Ép-ra-im.
25 Ê-li-sa-phan, con Phác-nát,
đại diện Sa-bu-luân,
26 Pha-ti-ên, con A-xan,
đại diện Y-sa-ca;
27 A-hi-hút, con Sê-lô-mi,
đại diện A-se
28 Phê-đa-ên, con A-mi-hút,
đại diện bộ tộc Nép-ta-li.
29 Đó là những người Ta chỉ định đứng ra chia đất Ca-na-an cho người Y-sơ-ra-ên.”
Các Thành Dành Cho Người Lê-vi
35 Tại đồng bằng Mô-áp bên bờ sông Giô-đanh đối ngang Giê-ri-cô, CHÚA phán dạy Môi-se: 2 “Con hãy ra lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên tặng người Lê-vi các thành cho họ ở, lấy từ trong sản nghiệp dân Y-sơ-ra-ên sẽ được sở hữu. Hãy cho họ các đồng cỏ để chăn nuôi xung quanh các thành ấy. 3 Như thế họ sẽ có các thành để cư trú và các đồng cỏ để chăn nuôi bầy bò, bầy cừu và tất cả các gia súc khác.
4 Các bãi cỏ chăn nuôi xung quanh các thành mà các ngươi tặng người Lê-vi chiều rộng phải được một ngàn am-ma[a] tính từ các bức tường của thành. 5 Ngoài thành, hãy đo hai ngàn am-ma[b] về phía đông, hai ngàn am-ma về phía nam, hai ngàn am-ma về phía tây, hai ngàn am-ma về phía bắc, lấy thành làm trung tâm. Họ sẽ được vùng đất ấy để chăn nuôi.
Các Thành Ẩn Náu
6 Trong số các thành các ngươi tặng người Lê-vi, phải dành sáu thành làm thành ẩn náu ngõ hầu kẻ sát nhân có thể trốn vào. Ngoài ra, các ngươi hãy tặng họ bốn mươi hai thành khác. 7 Như vậy, các ngươi sẽ tặng người Lê-vi bốn mươi tám thành tất cả luôn cả đất xung quanh thành làm bãi cỏ chăn nuôi. 8 Các thành các ngươi tặng người Lê-vi lấy trong lãnh thổ dân Y-sơ-ra-ên phải tỷ lệ với cơ nghiệp của mỗi bộ tộc: bộ tộc nào có nhiều thành hãy lấy nhiều, bộ tộc nào có ít thành hãy lấy ít.”
9 CHÚA phán dạy Môi-se: 10 “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Khi các ngươi vượt sông Giô-đanh vào xứ Ca-na-an, 11 hãy chọn một số thành làm thành ẩn náu để kẻ nào ngộ sát có thể trú ẩn. 12 Các thành ấy sẽ làm nơi trú ẩn để tránh người báo thù ngõ hầu kẻ nào bị tố cáo giết người khỏi phải chết trước khi ra tòa của dân chúng. 13 Sáu thành này mà các ngươi cho người Lê-vi sẽ làm các thành ẩn náu cho các ngươi: 14 ba thành bên tả ngạn sông Giô-đanh và ba thành trong xứ Ca-na-an sẽ làm thành ẩn náu. 15 Sáu thành ấy sẽ là nơi ẩn náu cho dân Y-sơ-ra-ên, cho các ngoại kiều và cho các dân nào khác sống giữa dân Y-sơ-ra-ên ngõ hầu kẻ nào ngộ sát có thể trốn đến đó.
16 Nếu một người dùng một vật bằng sắt đả thương trí mạng kẻ khác, nó phạm tội sát nhân; kẻ sát nhân sẽ bị xử tử. 17 Hoặc nếu kẻ nào cầm trong tay một cục đá có thể giết người và nó đả thương trí mạng người khác, thì nó phạm tội sát nhân; kẻ sát nhân sẽ bị xử tử. 18 Hoặc nếu kẻ nào cầm trong tay một dụng cụ bằng gỗ có thể giết người, nếu nó đả thương người khác thì nó phạm tội sát nhân và sẽ bị xử tử. 19 Người báo thù huyết sẽ xử tử kẻ sát nhân; khi nào gặp kẻ sát nhân người phải giết nó đi. 20 Nếu kẻ có gian ý định tâm xô lấn người khác hoặc dụng ý liệng vật gì trúng người đó khiến người đó chết đi 21 hoặc vì sự thù địch mà đánh người bằng tay vì thế người này chết đi, thì kẻ đánh người sẽ bị xử tử vì nó đã giết người. Người báo thù huyết sẽ xử tử kẻ sát nhân khi gặp nó.
22 Nhưng nếu không do thù hằn, một người thình lình xô lấn người khác hoặc vô tình ném vật gì trúng người ấy, 23 hoặc vì không thấy người kia mà thả xuống một tảng đá trúng nhằm người, nếu người ấy chết dù người ấy không phải là kẻ cừu thù và đương sự không dụng ý làm hại người, 24 hội đồng dân chúng phải xét xử giữa đương sự và người báo thù huyết căn cứ theo các quy luật này. 25 Hội đồng dân chúng phải bảo vệ kẻ bị người báo thù huyết tố cáo phạm tội giết người và cho người ấy trở về thành ẩn náu mà người ấy đã đến trốn. Người ấy phải ở đó cho đến khi thầy tế lễ tối cao đã được xức dầu thánh qua đời.
26 Nhưng nếu kẻ sát nhân ra khỏi giới hạn ở ngoài thành ẩn náu, là nơi người đã đến trốn 27 và nếu người báo thù huyết bắt gặp, giết nó ở ngoài giới hạn ở ngoài thành ẩn náu thì người báo thù huyết không mắc tội sát nhân; 28 kẻ sát nhân phải ở trong thành ẩn náu cho đến khi thầy tế lễ tối cao qua đời. Sau khi thầy tế lễ tối cao qua đời kẻ sát nhân ấy được trở về với sản nghiệp mình.
29 Bất luận các ngươi sống nơi nào đều phải áp dụng quy luật này cho mình và cho các thế hệ tương lai.
30 Nếu ai giết người, phải cứ theo lời khai của các nhân chứng mà xử tử kẻ sát nhân, nhưng một nhân chứng không đủ để kết án xử tử.
31 Các ngươi không được nhận tiền chuộc mạng của một tên sát nhân đã đủ bằng chứng mắc tội và đáng chết vì nó buộc phải bị tử hình.
32 Các ngươi đừng nhận tiền chuộc mạng của người đã trốn đến một thành ẩn náu và củng đừng cho phép nó trở về sống trong sản nghiệp mình trước khi thầy tế lễ tối cao qua đời.
33 Đừng làm ô uế đất đai mà các ngươi đang sinh sống; máu đổ ra làm ô uế đất đai và không thể nào chuộc tội cho đất đai đã thấm máu đã đổ ra. Phải dùng máu của kẻ đổ máu người mới chuộc tội cho đất đai được. 34 Đừng làm ô uế đất đai mà các ngươi sinh sống và cũng là nơi Ta ngự vì Ta là CHÚA ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên.”
Cơ Nghiệp Các Cô Con Gái Của Sê-lô-phát
36 Các gia trưởng Ga-la-át là con trai Ma-ki, cháu Ma-na-se trong dòng hậu tự Giô-sép, đến thưa chuyện với Môi-se cùng các nhà lãnh đạo và các trưởng bộ tộc trong dân Y-sơ-ra-ên. 2 Họ nói: “Khi CHÚA truyền lệnh cho ngài chia đất đai cho dân Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp, Ngài đã ra lệnh cho chúa tôi ban sản nghiệp của anh Sê-lô-phát chúng tôi cho các con gái anh. 3 Nếu các cô ấy kết hôn với những người Y-sơ-ra-ên trong các bộ tộc khác, thì sản nghiệp của chúng sẽ bị cất đi khỏi sản nghiệp của tổ phụ chúng tôi, mà đem qua sản nghiệp của bộ tộc nào chúng gia nhập. Thế nên, phần đất đó đã bắt thăm cho bộ tộc chúng tôi sẽ bị lấy đi. 4 Đến năm hân hỉ cho dân Y-sơ-ra-ên, sản nghiệp của chúng sẽ bị đem qua cho bộ tộc mà chúng gia nhập. Như thế sản nghiệp của chúng sẽ bị truất khỏi cơ nghiệp của tổ tiên chúng tôi.”
5 CHÚA truyền lệnh cho Môi-se ban bố chỉ thị này cho dân Y-sơ-ra-ên: “Bộ tộc của con Giô-sép nói có lý. 6 Đây là điều CHÚA phán dạy về các con gái của Sê-lô-phát, chúng muốn kết hôn với ai tuỳ ý nhưng chỉ hãy kết hôn trong các gia tộc trong bộ tộc của tổ phụ mình. 7 Không một sản nghiệp nào trong dân Y-sơ-ra-ên được chuyển từ bộ tộc này qua bộ tộc khác vì mỗi công dân Y-sơ-ra-ên sẽ giữ đất đai của bộ tộc mình thừa hưởng từ tổ tiên. 8 Mỗi người con gái được thừa hưởng đất đai trong bất cứ bộ tộc nào của Y-sơ-ra-ên cũng phải kết hôn với người thuộc trong bộ tộc của cha mình ngõ hầu mỗi công dân Y-sơ-ra-ên được sở hữu sản nghiệp của tổ phụ mình. 9 Không một sản nghiệp nào được chuyển từ bộ tộc này qua bộ tộc khác, vì mỗi bộ tộc Y-sơ-ra-ên phải giữ đất đai mình đã thừa hưởng.”
10 Vậy, các con gái của Sê-lô-phát làm theo điều CHÚA phán dạy Môi-se. 11 Các con gái của Sê-lô-phát: Mách-đa, Thiệt-sa, Hốt-la, Minh-ca và Nô-a đều kết hôn với anh em chú bác của mình. 12 Các cô ấy kết hôn trong vòng các gia tộc của dòng dõi Ma-na-se con trai Giô-sép, nên sản nghiệp họ vẫn còn lại trong bộ tộc và gia tộc của cha mình.
13 Đó là các mệnh lệnh và quy luật mà CHÚA dùng Môi-se ban hành cho dân Y-sơ-ra-ên trong các đồng bằng Mô-áp bên bờ sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô.
Chúa Ban Lệnh Rời Hô-rếp
1 Sau đây là lời của Môi-se nói với toàn dân Y-sơ-ra-ên, tại sa mạc về phía đông sông Giô-đanh, tức là trong vùng A-ra-ba, gần thành Su-phơ, ở khoảng giữa thành Pha-ran, một bên là Tô-phên, bên kia là các thành La-ban, Hát-sê-rốt và Đi-xa-háp. 2 Phải mất mười một ngày để đi từ núi Hô-rếp đến Ca-đê Ba-nê-a theo đường núi Sê-i-rơ.
3 Vào ngày mồng một, tháng mười một, năm bốn mươi[c] Môi-se truyền lại cho dân Y-sơ-ra-ên tất cả mọi điều CHÚA đã truyền dạy liên hệ đến họ. 4 Việc này xảy ra sau khi ông đánh bại Si-hôn, vua dân A-mô-rít, đóng đô ở Hết-bôn và tại Ết-rê-i, ông đánh bại Óc, vua xứ Ba-san, đóng đô ở Ách-ta-rốt.
5 Khi đang ở trong lãnh thổ Mô-áp, về phía đông sông Giô-đanh, Môi-se dẫn giải Kinh Luật của Đức Chúa Trời; ông nói:
6 CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta có phán dạy chúng ta tại Hô-rếp: “Các ngươi ở tại núi này đã khá lâu. 7 Hãy nhổ trại và tiến vào đồi núi của dân A-mô-rít; đến nơi những dân tộc lân bang ở trong vùng A-ra-ba, tiến vào các vùng cao nguyên, vùng đất thấp về phía tây, vào vùng Nê-ghép[d] và dọc bờ biển, vào lãnh thổ của người Ca-na-an cho đến Li-ban, và tiến đến tận sông cái, là sông Ơ-phơ-rát. 8 Ta đã ban cho các ngươi tất cả các vùng đó. Cứ tiến vào chiếm lấy tất cả đất đai CHÚA đã thề hứa ban cho tổ phụ các ngươi là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp và cho dòng dõi của họ.”
Bổ Nhiệm Các Cấp Lãnh Đạo
9 Lúc ấy tôi có nói với anh chị em rằng: “Trách nhiệm hướng dẫn anh chị em là một trách nhiệm quá nặng nề, một mình tôi không thể gánh nổi. 10 CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã gia tăng dân số anh chị em, nên ngày nay anh chị em đông như sao trên trời. 11 Nguyện xin CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ anh chị em tăng gia dân số anh chị em gấp ngàn lần và giáng phước hạnh cho anh chị em như Ngài đã hứa. 12 Nhưng một mình tôi làm thế nào giải quyết tất cả các vấn đề khó khăn và các cuộc tranh chấp của anh chị em? 13 Vậy, anh chị em hãy lựa chọn những người khôn ngoan, hiểu biết và nhiều kinh nghiệm trong mỗi bộ tộc để tôi bổ nhiệm họ làm những người lãnh đạo anh chị em.”
14 Anh chị em trả lời: “Ông đề nghị điều đó phải lắm.”
15 Vì vậy tôi đem những người khôn ngoan, đáng kính trọng trong các bộ tộc và bổ nhiệm họ vào các cấp lãnh đạo, có người chỉ huy một ngàn, người chỉ huy một trăm, người chỉ huy năm mươi và có người chỉ huy mười người. 16 Lúc đó tôi căn dặn những người giữ chức vụ thẩm phán: Phải để ý nghe các vụ tranh chấp của anh em mình và phân xử cách công minh, dù là vụ tranh chấp giữa người Y-sơ-ra-ên với nhau, hay vụ tranh chấp giữa người Y-sơ-ra-ên với ngoại kiều. 17 Đừng thiên vị trong khi xét xử, phải để ý nghe người thấp hèn cũng như người cao sang. Đừng sợ ai cả vì việc xét xử là của Đức Chúa Trời. Khi gặp vụ nào khó xử, cứ mang đến cho tôi và tôi sẽ nghe. 18 Lúc đó tôi căn dặn anh chị em tất cả những điều anh chị em phải làm.
Sai Phái Các Trinh Sát
19 Sau đó, vâng theo mạng lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta truyền dạy, chúng ta rời Hô-rếp ra đi hướng về đồi núi của dân A-mô-rít, băng qua sa mạc mênh mông khủng khiếp như anh chị em đã thấy và chúng ta đến Ca-đê Ba-nê-a. 20 Tôi nói với anh chị em: “Chúng ta đã đến xứ đồi núi của dân A-mô-rít là xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta ban cho chúng ta. 21 Kìa, CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã ban xứ phía trước cho anh chị em. Hãy tiến lên, chiếm xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ anh chị em đã hứa. Đừng sợ hãi cũng đừng nản chí.”
22 Lúc đó anh chị em đến nói với tôi: “Chúng ta nên sai trinh sát đi do thám xứ để báo cáo cho chúng ta biết về các đường phải đi và về tình hình các thành chúng ta sẽ tiến đến.”
23 Lời đề nghị ấy có vẻ hợp lý nên tôi chọn mười hai người làm trinh sát, mỗi bộ tộc một người. 24 Họ ra đi, vào vùng đồi núi và đến thăm dò thung lũng Ếch-côn, 25 hái một số hoa quả trong xứ, mang về cho chúng ta và báo cáo: “Xứ CHÚA, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta là một xứ tốt đẹp.”
Phản Nghịch CHÚA
26 Nhưng anh chị em phản nghịch, chống đối mạng lệnh của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và không chịu tiến lên. 27 Anh chị em càu nhàu trong lều mình và nói: “CHÚA ghét chúng ta nên đem chúng ta ra khỏi Ai-cập để giao cho dân A-mô-rít tiêu diệt. 28 Chúng ta đi đâu bây giờ? Các anh em làm chúng ta sợ hãi vì nói rằng: ‘Dân ấy mạnh mẽ cao lớn hơn chúng ta; thành của họ rộng lớn với tường thành cao tận trời. Chúng tôi cũng có thấy người A-na-kim ở đó nữa.’ ”
29 Tôi có nói với anh chị em: “Anh chị em đừng khiếp đảm cũng đừng sợ hãi họ. 30 CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ đi trước và chiến đấu cho anh chị em như Ngài đã chiến thắng dân Ai-cập ngay trước mắt anh chị em; 31 còn trong sa mạc, CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã bồng bế anh chị em như một người cha bồng bế con trai mình, qua suốt mọi chặng đường cho đến nơi này.”
32 Dù vậy, anh chị em không tin tưởng CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, 33 là Đấng đi trước anh chị em trên mọi nẻo đường, ban đêm trong trụ lửa còn ban ngày trong trụ mây, để tìm cho anh chị em nơi đóng trại và chỉ dẫn cho anh chị em con đường phải đi.
34 Khi nghe các lời anh chị em nói CHÚA nổi giận và thề rằng: 35 “Không một người nào thuộc thế hệ tội ác này được vào trong xứ tốt đẹp Ta hứa ban cho tổ tiên họ, 36 ngoại trừ Ca-lép, con trai Giê-phu-nê. Người sẽ thấy xứ đó và Ta sẽ ban cho người và con cháu người đất bàn chân người sẽ đạp lên, vì người đã hết lòng theo CHÚA.”
37 Vì anh chị em, CHÚA cũng giận tôi và phán: “Con cũng không được vào xứ đó đâu. 38 Nhưng phụ tá của con là Giô-suê, con trai của Nun, sẽ vào đó. Con hãy khuyến khích Giô-suê vì người này sẽ lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên vào chiếm xứ đó làm cơ nghiệp. 39 Còn những trẻ con các ngươi cho rằng sẽ làm mồi ngon cho quân thù, con cái các ngươi là những em bé chưa biết phân biệt thiện ác, chính chúng nó sẽ vào đất hứa. Ta sẽ ban đất cho chúng nó và chúng nó sẽ chiếm hữu đất đó. 40 Nhưng các ngươi phải quay lại và đi vào sa mạc, theo con đường dẫn về hướng Biển Đỏ.”
41 Lúc đó anh chị em thưa: “Chúng tôi có tội với CHÚA. Chúng tôi sẽ đi lên và chiến đấu, theo mạng lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi đã truyền dạy.” Như vậy mỗi người tự trang bị vũ khí, tưởng chừng việc tiến vào xứ đồi núi là dễ dàng lắm.
42 Nhưng CHÚA phán bảo tôi: “Con nói với họ: ‘Đừng tiến lên chiến đấu vì Ta không đi với họ đâu. Họ sẽ bị quân thù đánh bại.’ ”
43 Tôi thuật lại lời đó cho anh chị em nhưng anh chị em không chịu nghe. Anh chị em chống nghịch mạng lệnh của CHÚA và tiến vào xứ đồi núi với lòng kiêu căng. 44 Dân A-mô-rít ở trên các đồi núi đổ ra, đuổi anh chị em chạy như đàn ong vỡ tổ và đánh bại anh chị em từ Sê-i-rơ cho đến con đường đi Họt-ma. 45 Anh chị em chạy về khóc lóc trước mặt CHÚA, nhưng Ngài bịt tai không để ý đến tiếng kêu khóc của anh chị em. 46 Rồi anh chị em ở lại Ka-đe lâu ngày, qua một thời gian khá dài.
Đi Lòng Vòng Trong Sa Mạc
2 Sau đó chúng ta quay lại, đi vào sa mạc theo con đường dẫn về hướng Biển Đỏ, như CHÚA đã phán dạy tôi. Chúng ta đi vòng quanh vùng đồi núi Sê-i-rơ trong một thời gian rất lâu.
2 CHÚA bảo tôi: 3 “Dân chúng đi vòng quanh xứ đồi núi này đủ rồi, bây giờ hãy di chuyển về hướng bắc. 4 Con truyền cho họ mạng lệnh này: ‘Các ngươi sẽ đi qua lãnh thổ của anh em mình là dân Mô-áp, con cháu Ê-sau, đang sinh sống trong xứ Sê-i-rơ. Họ sẽ sợ các ngươi, nhưng các ngươi phải hết sức cẩn thận, 5 đừng khiêu chiến với họ, vì Ta không ban cho các ngươi phần đất nào trong lãnh thổ của họ, dù một chút đất vừa lọt bàn chân cũng không cho. Ta đã ban cho Ê-sau vùng đồi núi Sê-i-rơ làm sản nghiệp. 6 Các ngươi phải lấy bạc để mua thức ăn và nước uống.’ ”
7 CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã ban phước cho mọi công việc tay anh chị em làm. Suốt cuộc hành trình trong sa mạc mênh mông, Ngài vẫn chăm nom săn sóc anh chị em. CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã ở với anh chị em trong bốn mươi năm qua và anh chị em không thiếu thốn gì cả.
8 Vậy chúng ta đi cách xa các anh em chúng ta là con cháu Ê-sau đang ở trong xứ Sê-i-rơ. Chúng ta rời đường A-ra-ba, là con đường từ Ê-lát và Ê-xi-ôn Ghê-be đi lên Biển Chết, mà đi theo con đường vào sa mạc Mô-áp.
9 CHÚA phán dạy tôi: “Đừng quấy rối người Mô-áp cũng đừng gây hấn với họ, vì Ta không cho các ngươi một phần nào trong lãnh thổ của họ. Ta đã ban A-rơ cho dòng dõi Lót làm cơ nghiệp.”
10 (Trước kia người Ê-mim ở trong vùng đó. Họ là một dân mạnh và đông, cao lớn như người A-na-kim. 11 Họ cũng được gọi là dân Rê-pha-im[e] như người A-na-kim, nhưng người Mô-áp gọi họ là dân Ê-mim. 12 Người Hô-rít trước kia ở trong vùng Sê-i-rơ, nhưng con cháu Ê-sau đánh đuổi và tiêu diệt họ, rồi định cư ở đó, cũng như dân Y-sơ-ra-ên chiếm cứ và định cư trong xứ CHÚA ban cho họ làm cơ nghiệp.)
13 CHÚA phán dạy: “Các ngươi đứng dậy, đi băng qua khe Xê-rết.” Vậy chúng ta đi băng qua đó.
14 Thời gian từ lúc chúng ta rời Ca-đê Ba-nê-a cho đến lúc chúng ta đi băng qua khe Xê-rết là ba mươi tám năm. Đến lúc đó cả một thế hệ vào lứa tuổi chiến sĩ đã chết hết, đúng theo lời CHÚA đã thề với họ. 15 Tay CHÚA đã đưa ra chống nghịch họ cho đến khi Ngài đã tiêu trừ họ khỏi trại quân.
16 Khi tất cả các chiến sĩ trong dân đã chết, 17 CHÚA phán dạy ta: 18 “Hôm nay các ngươi phải đi ngang qua bờ cõi của Mô-áp ở A-rơ. 19 Khi đến gần đất của người Am-môn, các ngươi đừng quấy rối cũng đừng gây hấn với họ, vì Ta không ban cho các ngươi lãnh thổ của người Am-môn đâu. Ta đã ban lãnh thổ ấy cho con cháu Lót làm cơ nghiệp.”
20 (Lãnh thổ này cũng được coi là đất của người Rê-pha-im, vì trước kia dân này sống ở đấy, nhưng người Am-môn gọi họ là dân Xam-xu-mim. 21 Họ là một dân mạnh mẽ, đông đúc và cao lớn như người A-na-kim. CHÚA tiêu diệt họ trước mặt người Am-môn. Người Am-môn đánh đuổi họ và định cư trong xứ của họ. 22 CHÚA cũng làm như thế cho dòng dõi của Ê-sau ở Sê-i-rơ, khi Ngài tiêu diệt dân Hô-rít trước mặt họ. Họ đánh đuổi dân này và định cư ở đó cho đến ngày nay. 23 Còn dân A-vim, trước kia ở trong các làng mạc xa đến tận Ga-xa, đã bị dân Cáp-tô-rim từ Cáp-tô đến tiêu diệt và chiếm hữu đất đai.)
Đánh Bại Si-hôn, Vua Hết-bôn
24 “Bây giờ các ngươi lên đường băng qua sông cạn[f] Ạt-nôn. Kìa, Ta đã trao vào tay các ngươi Si-hôn người A-mô-rít, vua Hết-bôn và xứ của người. Các ngươi tiến đánh và chiếm lấy đất đai. 25 Hôm nay Ta bắt đầu làm cho các dân dưới trời kinh khiếp sợ hãi các ngươi. Họ sẽ nghe báo cáo về các ngươi và sẽ run rẩy, khốn khổ.”
26 Từ sa mạc Kê-đê-mốt, tôi sai các sứ giả đến gặp Si-hôn vua Hết-bôn đề nghị hòa bình với vua: 27 “Xin vua để chúng tôi đi băng ngang qua lãnh thổ của vua. Chúng tôi sẽ đi trên đường cái và không quay qua bên phải hay bên trái. 28 Xin vua bán cho chúng tôi thức ăn nước uống và chúng tôi sẽ trả đúng giá bằng bạc. Chỉ xin vua cho chúng tôi đi bộ băng qua xứ vua, 29 như các con cháu Ê-sau ở Sê-i-rơ và như dân Mô-áp ở A-rơ đã cho phép chúng tôi cho đến khi chúng tôi đi ngang qua sông Giô-đanh để vào xứ CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi hứa ban cho chúng tôi.” 30 Nhưng Si-hôn vua Hết-bôn từ chối không cho chúng ta đi qua, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã làm cho vua có tinh thần ương ngạnh và tấm lòng cứng cỏi để trao vua này vào tay anh chị em. Đó là điều Chúa đã làm.
31 CHÚA bảo tôi: “Hãy xem, Ta khởi sự trao cho các ngươi Si-hôn và đất đai của người. Bây giờ các ngươi bắt đầu chiếm hữu đất đó đi.”
32 Khi Si-hôn và đạo quân của vua kéo ra giao chiến với chúng ta ở Gia-hát, 33 CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã trao vua cho chúng ta và chúng ta đã đánh giết vua, cùng với các con trai và toàn thể đạo quân của vua. 34 Chúng ta chiếm hết mọi thành của họ và tiêu diệt cả đàn ông, đàn bà và trẻ con, không để một người nào sống sót. 35 Nhưng chúng ta thâu đoạt và mang đi các bầy súc vật và chiến lợi phẩm từ các thành đó. 36 Từ thành A-rô-e trên mé khe Ạt-nôn và từ thành trong trũng đến tận Ga-la-át, không có thành nào kiên cố quá cho chúng ta, vì CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã ban tất cả các thành đó cho chúng ta. 37 Nhưng vâng theo lệnh của CHÚA, anh chị em không xâm phạm đến đất của người Am-môn, đất dọc theo mé sông Gia-bốc hay các thành trên đồi núi.
Đánh Bại Óc, Vua Ba-san
3 Sau đó, chúng ta quay qua theo con đường đi lên về hướng Ba-san và Óc, vua Ba-san kéo toàn lực ra nghênh chiến với chúng ta tại Ếch-rê-i. 2 CHÚA phán dạy tôi: “Đừng sợ vua ấy vì Ta đã trao vua cùng với toàn thể đạo quân và lãnh thổ của vua cho các ngươi. Các ngươi phải đối xử với vua ấy theo cách đã đối xử với Si-hôn vua dân A-mô-rít ở Hết-bôn.”
3 Như vậy CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã trao vào tay chúng ta Óc, vua Ba-san và toàn quân của vua. Chúng ta đánh giết tất cả, không để một ai sống sót. 4 Lúc đó chúng ta chiếm hết các thành. Trong số sáu mươi thành trong vùng Ạt-gốp, lãnh thổ của Óc, vua Ba-san, chúng ta không chừa một thành nào cả. 5 Các thành này đều có công sự phòng thủ với tường lũy cao và hai cửa có cài then. Ngoài ra cũng có nhiều làng mạc không có tường lũy bao bọc. 6 Chúng ta hủy diệt hoàn toàn các nơi đó như đã hủy diệt trong lãnh thổ của Si-hôn vua Hết-bôn, triệt hạ thành, đánh giết đàn ông, đàn bà, con trẻ. 7 Nhưng chúng ta thâu đoạt và mang đi các bầy súc vật và chiến lợi phẩm.
8 Như vậy, chúng ta chiếm hết đất đai của hai vua dân A-mô-rít, nằm về phía đông sông Giô-đanh, từ sông cạn Ạt-nôn cho đến tận núi Hẹt-môn. 9 (Người Si-đôn gọi núi Hẹt-môn là Si-ri-ôn còn người A-mô-rít gọi là Sê-ni-rơ). 10 Chúng ta chiếm tất cả các thành miền cao nguyên, toàn xứ Ga-la-át và toàn xứ Ba-san cho đến tận Sanh-ca và Ết-rê-i là hai thành thuộc lãnh thổ của Óc trong xứ Ba-san. 11 (Óc vua Ba-san là người Rê-pha-im sống sót sau cùng. Giường của vua này bằng sắt, dài chín am-ma rộng bốn am-ma,[g] nay vẫn còn tại Ráp-ba, một thành của dân Am-môn.)
Phân Chia Đất Đai
12 Với đất đai đã chiếm được, tôi chia cho hai bộ tộc Ru-bên và Gát phần đất từ thành A-rô-e bên bờ sông cạn Ạt-nôn, trải lên phía bắc đến phân nửa xứ Ga-la-át là vùng đồi núi, cùng với các thành ở đó. 13 Phân nửa xứ Ga-la-át còn lại và toàn xứ Ba-san, là lãnh thổ của Óc, được chia cho phân nửa bộ tộc Ma-na-se. (Toàn vùng Ạt-gốp xứ Ba-san trước kia được gọi là lãnh thổ của người Rê-pha-im. 14 Giai-rơ, một người thuộc dòng dõi Ma-na-se chiếm toàn vùng Ạt-gốp cho đến tận biên giới đất của dân Gơ-sua và dân Ma-a-ca; vì vậy cho đến ngày nay xứ Ba-san được gọi là Ha-vốt Giai-rơ theo tên của Giai-rơ). 15 Tôi cũng chia miền bắc đất Ga-la-át cho Ma-ki. 16 Hai bộ tộc Ru-bên và Gát được tôi chia cho lãnh thổ kéo dài từ miền nam Ga-la-át cho đến sông cạn Ạt-nôn (chính giữa lòng sông là ranh giới). Ranh giới phía bắc là sông Gia-bốc, sông này là biên giới lãnh thổ của người Am-môn. 17 Biên giới phía tây là thung lũng sông Giô-đanh trong đất A-ra-ba, từ Ki-nê-rết cho đến Biển A-ra-ba tức là Biển Mặn,[h] bên dưới triền núi Phích-ga về phía đông.
18 Lúc đó tôi căn dặn: “CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã ban cho anh chị em đất này để làm cơ nghiệp. Nhưng tất cả những thanh niên mạnh khỏe và có vũ trang phải qua sông, đi trước các anh em mình là người Y-sơ-ra-ên. 19 Tuy nhiên, vợ con và súc vật của anh chị em (tôi biết anh chị em có nhiều súc vật) có thể ở lại trong các thành tôi đã chia cho anh chị em, 20 cho đến khi CHÚA ban cho anh em của anh chị em được nghỉ ngơi, như Ngài đã ban cho anh chị em; tức là khi các anh em đó đã chiếm được phần đất CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ban cho họ ở bên kia sông Giô-đanh. Chỉ khi đó anh em mới trở về với cơ nghiệp tôi đã phân chia cho anh chị em.”
Môi-se Không Được Phép Qua Sông Giô-đanh
21 Lúc đó tôi bảo Giô-suê: “Anh đã thấy tận mắt tất cả những điều CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã làm cho hai vua kia. CHÚA cũng sẽ làm y như thế cho các vương quốc ở bên kia sông là nơi anh sẽ đến. 22 Đừng sợ họ, vì chính CHÚA, Đức Chúa Trời của anh sẽ chiến đấu cho anh em.”
23 Lúc bấy giờ tôi cũng có cầu khẩn với CHÚA: 24 “Kính lạy CHÚA, Chúa đã bắt đầu cho tôi tớ Chúa thấy đặc tính vô cùng vĩ đại và cánh tay quyền năng của Chúa. Có thần nào ở trên trời hoặc dưới đất có thể làm được những hành động và công việc quyền năng như Chúa làm không? 25 Xin Chúa cho con qua sông để được thấy xứ tốt tươi, đồi núi xinh đẹp với rặng núi Li-ban bên kia sông Giô-đanh.”
26 Nhưng vì anh chị em mà CHÚA giận tôi và không nhậm lời tôi. Ngài phán: “Đủ rồi, đừng đem việc này nói với Ta nữa. 27 Con sẽ lên đỉnh núi Phích-ga, nhìn về hướng tây, hướng bắc, hướng nam và hướng đông. Con được lấy mắt nhìn đất hứa nhưng con sẽ không được đi qua sông Giô-đanh. 28 Con truyền chức vụ cho Giô-suê và dùng lời khích lệ để làm cho người mạnh mẽ, vì Giô-suê sẽ dẫn dân qua sông và đưa họ vào chiếm hữu xứ con sẽ được ngắm nhìn.” 29 Vì vậy chúng ta ở lại trong thung lũng gần Bết Phê-ô.
Kêu Gọi Phải Vâng Lời
4 Hỡi Y-sơ-ra-ên! Hãy nghe các quy luật và sắc lệnh tôi sẽ chỉ dạy để anh chị em được sống và tiến vào chiếm hữu đất đai CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ sắp ban cho anh chị em. 2 Đừng thêm gì vào, cũng đừng bớt chi cả, nhưng phải vâng giữ các mạng lệnh của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, là mạng lệnh tôi sắp truyền lại.
3 Anh chị em đã thấy tận mắt những gì CHÚA đã làm trong vụ Ba-anh Phê-ô. CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã tiêu diệt tất cả những người trong vòng anh chị em theo Ba-anh Phê-ô, 4 nhưng ai trung kiên với CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, đều còn sống đến ngày nay.
5 Tôi chỉ dạy anh chị em các quy luật và sắc lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời của tôi đã truyền cho tôi, để anh chị em có thể vâng giữ khi đã ở trong xứ anh chị em sẽ vào chiếm hữu. 6 Phải thận trọng vâng giữ các quy luật và sắc lệnh này để nhờ đó các dân tộc khác thấy được sự khôn ngoan hiểu biết của anh chị em, và khi ai nghe các quy luật này cũng nói: “Đây thật là một dân khôn ngoan hiểu biết.” 7 Có một nước nào, dù lớn đến đâu, có các thần ở gần họ như CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta, luôn ở gần bất kỳ khi nào chúng ta cầu khẩn, hay không? 8 Có nước nào, dù lớn đến đâu, có được những quy luật và sắc lệnh công minh như Kinh Luật tôi đang trình bầy cho anh chị em, hay không?
9 Chỉ cần anh chị em thận trọng giữ mình để đừng quên những điều chính mắt anh chị em đã thấy, và đừng bao giờ để những điều đó lìa khỏi lòng anh chị em. Anh chị em cũng phải truyền dạy các điều ấy lại cho con cái, cháu chắt. 10 Phải nhớ lại ngày anh chị em đứng trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em tại Hô-rếp, khi Ngài phán dạy tôi: “Con triệu tập dân chúng đến trước mặt Ta cho họ nghe lời Ta để tập kính sợ Ta suốt những ngày họ sống trên đất và để họ dạy lại cho con cái.” 11 Anh chị em đến gần và đứng ở chân núi trong khi trên núi lửa cháy dữ dội, ngọn cao tận trời với mây đen kịt và bóng tối dày đặc. 12 Từ giữa đám lửa, CHÚA phán dạy anh chị em. Anh chị em nghe tiếng nói nhưng không thấy hình dáng nào cả, chỉ nghe được tiếng thôi. 13 Ngài công bố với anh chị em giao ước của Ngài, tức là Mười Điều Răn, là những điều Ngài truyền cho anh chị em phải vâng giữ, rồi Ngài viết các điều ấy trên hai bảng đá. 14 Lúc đó CHÚA truyền bảo tôi dạy các quy luật và sắc lệnh Ngài cho anh chị em để anh chị em vâng giữ khi ở trong xứ anh chị em sẽ chiếm hữu sau khi qua sông Giô-đanh.
Cấm Thờ Thần Tượng
15 Khi CHÚA từ trong đám lửa phán dạy anh chị em tại núi Hô-rếp, anh chị em không trông thấy một hình dáng nào cả, 16 vì thế anh chị em phải hết sức giữ mình, đừng sa đọa mà chạm khắc cho mình một pho tượng bất cứ với hình dáng nào, như hình đàn ông, đàn bà, 17 hình súc vật trên mặt đất, hình chim bay trên trời, 18 hình các loài bò trên đất hay hình cá sống dưới nước. 19 Khi nhìn lên trời và thấy mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, tức là đội binh các tinh tú trên trời, anh chị em đừng để mình bị dụ dỗ mà sấp mình thờ lạy các vật đó, vì đó chỉ là những vật CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã phân phối cho mọi dân dưới trời. 20 Riêng phần anh chị em, CHÚA đã nắm lấy và đem anh chị em ra khỏi lò luyện sắt, là xứ Ai-cập, để làm một dân thuộc riêng về Chúa như ngày nay.
21 Nhưng CHÚA giận tôi vì cớ anh chị em và Ngài đã long trọng thề rằng tôi sẽ không được qua sông Giô-đanh để vào xứ tốt lành CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta sắp ban cho anh chị em làm cơ nghiệp. 22 Thật vậy, tôi sẽ qua đời trong xứ này, và sẽ không qua sông Giô-đanh, nhưng anh chị em sắp qua sông để chiếm hữu lấy một xứ tốt đẹp kia. 23 Phải thận trọng, đừng quên giao ước CHÚA, Đức Chúa Trời đã lập với anh chị em; đừng làm một hình tượng nào với bất cứ hình dáng nào mà CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã cấm ngặt. 24 Vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em là lửa thiêu đốt và là Đức Chúa Trời kỵ tà.
25 Khi anh chị em đã có con cháu và đã sống nhiều năm trong xứ, nếu anh chị em trở thành sa đọa, chạm khắc tượng thờ dù dưới hình thức nào mà làm điều ác trước mắt CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và khiêu khích chọc giận Ngài, 26 thì hôm nay tôi kêu gọi trời đất chứng giám cho tôi rằng tôi đã cảnh cáo anh chị em. Nếu anh chị em phạm tội chọc giận Chúa, anh chị em sẽ bị tiêu diệt cách nhanh chóng khỏi xứ anh chị em sẽ chiếm hữu sau khi qua sông Giô-đanh. Anh chị em sẽ không sinh sống lâu dài ở đó đâu nhưng chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. 27 CHÚA sẽ phân tán anh chị em giữa các dân tộc khác và chỉ có một số ít còn sống sót tại những nơi CHÚA đuổi anh chị em đến. 28 Ở đó anh chị em sẽ thờ lạy những thần bằng gỗ, bằng đá do người ta làm ra, là thần không thấy, không nghe, không ăn, không ngửi được. 29 Nhưng nếu anh chị em tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, anh chị em sẽ gặp được Ngài khi tìm kiếm Ngài hết lòng và với tất cả linh hồn, 30 nếu anh chị em trở lại với CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em và sẽ vâng lời Ngài sau khi anh chị em lâm vào cảnh khốn cùng vì tất cả những điều này xảy đến cho anh chị em. 31 CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em là Đức Chúa Trời đầy lòng thương xót; Ngài không từ bỏ hay tận diệt anh chị em, cũng không quên giao ước Ngài đã dùng lời thề lập với tổ phụ anh chị em.
CHÚA Là Đức Chúa Trời
32 Anh chị em thử hỏi quá khứ xa xưa, từ ngày Đức Chúa Trời dựng nên loài người trên đất, thử hỏi từ góc trời này cho đến góc trời kia, xem đã bao giờ có công việc vĩ đại như thế này xảy ra, hay có ai được nghe câu chuyện tương tự như thế này không? 33 Có dân tộc nào được nghe tiếng Đức Chúa Trời phán từ đám lửa như anh chị em đã nghe mà còn sống không? 34 Có bao giờ có thần nào dùng thử nghiệm, dùng dấu kỳ phép lạ, dùng chiến tranh và quyền năng mạnh mẽ, hay dùng những hành động vĩ đại kinh hồn để đem dân tộc này ra khỏi một nước khác, như CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã thực hiện trong xứ Ai-cập ngay trước mắt anh chị em không?
35 Anh chị em được Ngài cho thấy những việc đó để anh chị em biết rằng CHÚA là Đức Chúa Trời, ngoài Ngài ra không có chúa nào khác. 36 Ngài cho anh chị em nghe tiếng Ngài từ trên trời để khép anh chị em vào kỷ luật. Dưới đất Ngài cũng cho anh chị em thấy trụ lửa lớn và tiếng Ngài từ giữa lửa vang ra. 37 Vì Đức Chúa Trời yêu thương tổ phụ anh chị em và lựa chọn dòng dõi họ nên chính Ngài[i] và quyền năng vô hạn của Ngài đã đem anh chị em ra khỏi xứ Ai-cập 38 và đánh đuổi những dân tộc lớn mạnh hơn anh chị em rồi đem anh chị em vào đất của những dân tộc đó và ban đất ấy cho anh chị em làm cơ nghiệp, như anh chị em thấy ngày nay.
39 Vậy ngày nay anh chị em phải ý thức và ghi khắc vào lòng rằng CHÚA là Đức Chúa Trời của cả trời đất, ngoài Ngài không có thần nào khác. 40 Anh chị em phải vâng giữ mạng lệnh và luật lệ của Ngài do tôi truyền lại ngày nay để anh chị em và con cháu hưởng phước hạnh và sống lâu trên đất mà CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta ban cho anh chị em vĩnh viễn.
Thành Trú Ẩn
41 Bấy giờ Môi-se để riêng ba thành nằm về phía đông sông Giô-đanh, 42 làm nơi dành cho ai lỡ tay giết người có thể chạy đến trú ẩn nếu không có ác ý trước. Người ấy có thể đến một trong ba thành này để cứu mạng sống mình. 43 Ba thành đó là Bết-se trong sa mạc vùng cao nguyên, dành cho người Ru-bên; Ra-mốt trong Ga-la-át, dành cho người Gát và Gô-lan thuộc Ba-san, dành cho người Ma-na-se.
Giới Thiệu Bộ Luật
44 Sau đây là bộ luật của Đức Chúa Trời do Môi-se ban hành cho người Y-sơ-ra-ên. 45 Các điều khoản, quy luật và sắc lệnh được Môi-se công bố sau khi họ ra khỏi xứ Ai-cập, 46 lúc họ đang ở trong thung lũng nằm gần Ba-anh Phê-ô, phía đông sông Giô-đanh. Xứ này vốn thuộc Si-hôn vua dân A-mô-rít ở Hết-bôn, là vua đã bị Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên đánh bại sau khi họ ra khỏi xứ Ai-cập. 47 Dân Y-sơ-ra-ên đã chiếm xứ này và xứ của Óc, vua Ba-san. Đó là hai vua người A-mô-rít ở phía đông sông Giô-đanh. 48 Vùng này kéo dài từ A-rô-e trên bờ sông cạn Ạt-nôn cho đến núi Si-ri-ôn, tức là núi Hẹt-môn, 49 và bao gồm toàn thung lũng sông Giô-đanh về phía đông đến tận biển A-ra-ba[j] dưới triền núi Phích-ga.
Mười Điều Răn
5 Môi-se triệu tập toàn dân Y-sơ-ra-ên và nói với họ: Toàn dân Y-sơ-ra-ên nghe đây các quy luật và sắc lệnh tôi công bố hôm nay, để anh chị em học tập và thực hành. 2 CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã lập giao ước với chúng ta tại Hô-rếp. 3 Ngài không lập giao ước này với tổ tiên chúng ta, nhưng với tất cả chúng ta là những người hôm nay đang sống tại đây. 4 CHÚA đã đối diện phán dạy chúng ta từ trong đám lửa ở trên núi. 5 (Lúc đó tôi đứng giữa CHÚA và anh chị em để truyền lại lời của CHÚA cho anh chị em, vì anh chị em sợ đám lửa không dám lên núi.) Chúa truyền dạy rằng:
6 “Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi đất nô lệ.
7 Ngoài Ta ra, các ngươi không được thờ các thần khác.
8 Các ngươi không được chạm khắc cho mình một tượng nào theo hình dạng của bất cứ thứ gì ở trên trời cao, ở trên mặt đất hay ở dưới nước. 9 Các ngươi không được sấp mình thờ phượng các tượng ấy, vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, Đức Chúa Trời kỵ tà. Ta hình phạt con cháu cho đến thế hệ thứ ba hoặc thứ tư vì tội khước từ Ta của tổ tiên họ, 10 nhưng bầy tỏ tình thương đến ngàn đời cho ai yêu mến Ta và vâng giữ các điều răn Ta.
11 Các ngươi không được dùng tên CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi cách thiếu tôn kính, vì CHÚA không coi người dùng tên Ngài cách thiếu tôn kính là người vô tội.
12 Phải nhớ ngày Sa-bát và giữ làm ngày thánh theo mạng lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã truyền dạy các ngươi. 13 Các ngươi phải làm tất cả công việc của mình trong sáu ngày, 14 nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát dành cho CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Trong ngày đó các ngươi, con trai con gái, tôi trai tớ gái, bò lừa hay bất kỳ loài vật nào, cả đến khách ở trong thành các ngươi đều không được làm việc gì cả, để cho tôi trai tớ gái các ngươi và chính các ngươi được nghỉ ngơi. 15 Hãy nhớ các ngươi vốn là nô lệ trong xứ Ai-cập và CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã đem các ngươi ra khỏi xứ đó bằng quyền năng lớn lao. Vì vậy CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã truyền lệnh cho các ngươi phải giữ ngày Sa-bát.
16 Phải hiếu kính cha mẹ, như điều CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã truyền dạy, để các ngươi sống lâu và hưởng phước hạnh trong xứ CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi sắp ban cho.
17 Không được giết người.
18 Không được tà dâm.
19 Không được trộm cắp.
20 Không được làm chứng dối nghịch người khác.
21 Không được tham muốn vợ người khác. Các ngươi đừng để lòng tham muốn nhà cửa, đất đai, tôi trai tớ gái, bò lừa hay bất kỳ vật gì thuộc về người khác.”
22 Đó là các điều răn CHÚA đã lớn tiếng truyền dạy toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên, ở trên núi từ trong đám lửa, mây đen kịt và bóng tối dày đặc. Ngài không thêm điều gì khác. Sau đó Ngài ghi các điều răn này trên hai bảng đá và trao cho tôi.
23 Khi anh chị em nghe tiếng nói từ trong bóng tối dày đặc phát ra và thấy núi cháy phừng phừng, các cấp lãnh đạo và các trưởng lão thuộc các bộ tộc đến với tôi 24 và nói: “CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã bày tỏ vinh quang và uy nghi Ngài và chúng tôi có nghe tiếng phán của Ngài từ trong đám lửa. Hôm nay chúng tôi ý thức được rằng người ta có thể còn sống mặc dù được Đức Chúa Trời phán với mình. 25 Nhưng tại sao chúng tôi lại phải chịu nguy cơ mất mạng? Đám lửa hừng này sẽ thiêu hủy chúng tôi, và nếu chúng tôi cứ tiếp tục nghe tiếng của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi nữa, chúng tôi sẽ chết.
26 Có ai là người phàm được nghe tiếng của Đức Chúa Trời hằng sống phán từ trong đám lửa, như chúng tôi nghe mà còn sống không? 27 Xin ông đến gần để nghe tất cả những điều CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi dạy rồi truyền lại cho chúng tôi, chúng tôi sẽ nghe và vâng theo.”
28 CHÚA nghe những lời anh chị em nói và Ngài phán dạy tôi: “Ta đã nghe điều dân này nói với con. Những gì họ nói với con đều đúng cả. 29 Ôi, nếu lòng họ cứ kính sợ Ta và luôn vâng giữ mọi điều răn Ta, họ và con cháu họ sẽ được phước mãi mãi!
30 Con cho họ về trại mình đi. 31 Còn con cứ ở đây với Ta để Ta ban cho con tất cả các mạng lệnh, quy luật và sắc lệnh; con sẽ dạy lại họ để họ làm theo khi đã ở trong xứ Ta sắp ban cho họ.”
32 Vậy, anh chị em phải thận trọng thi hành những điều CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã truyền dạy; đừng làm lệch qua phải hay qua trái, 33 nhưng phải theo đúng đường lối CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã truyền để được sống, được thịnh vượng và trường thọ trong xứ anh chị em sắp chiếm hữu.
Kính Yêu CHÚA, Đức Chúa Trời Các Ngươi
6 Đây là các điều răn, quy luật và sắc lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã truyền tôi dạy cho anh chị em vâng giữ khi sinh sống trong xứ anh chị em sẽ chiếm hữu sau khi qua sông Giô-đanh, 2 để anh chị em và con cháu anh chị em biết kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em suốt thời gian sống trên đất và nhờ giữ các mạng lệnh, điều răn đó, anh chị em sẽ được sống lâu. 3 Anh chị em Y-sơ-ra-ên! Anh chị em hãy nghe và cẩn thận làm theo để anh chị em được phước hạnh và trở nên đông đúc trong xứ tràn trề sữa và mật ong, như CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên đã hứa với anh chị em.
4 Toàn dân Y-sơ-ra-ên hãy nghe đây! CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta là CHÚA có một không hai. 5 Phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức yêu kính CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. 6 Anh chị em phải ghi lòng tạc dạ các điều răn tôi truyền lại cho anh chị em hôm nay. 7 Phải ân cần dạy dỗ con cái những điều này, dạy chúng khi ngồi ở nhà cũng như khi đang đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. 8 Phải buộc lời này vào tay như một biểu hiệu và đeo trên trán để nhớ. 9 Phải viết lời này trên khung cửa nhà và trên cổng thành.
10 Khi CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã đem anh chị em vào xứ mà Ngài đã thề hứa ban cho tổ phụ chúng ta là Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp và cho anh chị em chiếm hữu những thành to lớn giàu có không do anh chị em kiến thiết, 11 nhà cửa đầy dẫy những vật tốt đẹp không do anh chị em mua sắm; giếng nước không do anh chị em đào, vườn nho và vườn ô-liu không do anh chị em trồng, và khi được ăn uống thỏa thích, 12 anh chị em phải cẩn thận đừng quên CHÚA, là Đấng đã đem anh chị em ra khỏi Ai-cập là đất nô lệ.
13 Phải kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em, chỉ phục vụ một mình Ngài và lấy danh Ngài mà thề nguyện. 14 Đừng theo các thần khác, là thần của các dân tộc lân bang; 15 vì CHÚA, Đức Chúa Trời, Đấng hiện diện giữa anh chị em, là Đức Chúa Trời kỵ tà, nếu anh chị em thờ các thần khác, cơn thịnh nộ của Ngài sẽ nổi dậy nghịch với anh chị em và Ngài sẽ tiêu diệt anh chị em khỏi mặt đất. 16 Vậy đừng thử thách CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em như anh chị em đã làm tại Ma-sa. 17 Phải nhất quyết tuân hành các điều răn của CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em cùng với các điều khoản và mạng lệnh tôi đã truyền lại. 18 Phải làm những việc gì CHÚA cho là đúng và tốt, như vậy anh chị em mới được phước và có thể vào chiếm lấy xứ tốt đẹp CHÚA đã thề hứa ban cho các tổ phụ, 19 và mọi quân thù cũng sẽ bị quét sạch như CHÚA đã hứa.
20 Sau này, khi con cái anh chị em hỏi: “Các điều khoản, quy luật và sắc lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta đã truyền có ý nghĩa gì?” 21 Anh chị em sẽ trả lời: “Ngày xưa chúng ta là nô lệ của Pha-ra-ôn trong xứ Ai-cập, nhưng CHÚA đã dùng tay quyền năng đem chúng ta ra khỏi Ai-cập. 22 Chúng ta đã thấy CHÚA làm nhiều dấu kỳ phép lạ rất lớn và rất khủng khiếp để hình phạt Ai-cập, Pha-ra-ôn và cả hoàng gia. 23 Nhưng Ngài đem chúng ta ra khỏi xứ đó và dẫn chúng ta vào xứ Ngài đã thề hứa với các tổ phụ và ban cho chúng ta xứ này. 24 CHÚA có truyền dạy chúng ta phải tuân hành tất cả các mạng lệnh này và kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta, để chúng ta được thịnh vượng và sống còn như ngày hôm nay. 25 Nếu chúng ta thận trọng vâng theo tất cả điều răn này của CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta, chúng ta được kể là công chính.”
Đánh Đuổi Các Dân Tộc Trong Xứ Ca-na-an
7 Khi CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đem anh chị em vào để chiếm hữu đất hứa và đánh đuổi trước mắt anh chị em các dân Hê-tít, Ghi-rê-ga-sít, A-mô-rít, Ca-na-an, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít là bảy dân tộc lớn mạnh hơn anh chị em. 2 Khi CHÚA, Đức Chúa Trời trao họ cho anh chị em và anh chị em đã chiến thắng, phải hoàn toàn tiêu diệt họ cách không thương xót và đừng ký kết giao ước với họ. 3 Đừng kết thông gia với họ, đừng gả con gái cho con trai họ cũng đừng cưới con gái họ cho con trai anh chị em, 4 vì họ sẽ dụ dỗ con trai anh chị em từ bỏ CHÚA để đi theo và phục vụ các thần của họ, mà làm cho cơn thịnh nộ của CHÚA phừng cháy và tiêu diệt anh chị em cách nhanh chóng. 5 Đây là cách anh chị em phải đối xử với họ: phá đổ các bàn thờ, đập nát các tượng đá, chặt gẫy các trụ A-sê-ra và thiêu các hình tượng của họ trong lửa, 6 vì anh chị em là một dân tộc thánh thuộc riêng về CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em. Anh chị em đã được Ngài lựa chọn trong tất cả các dân tộc trên đất để làm dân CHÚA và cơ nghiệp quý báu của Ngài.
7 CHÚA thương xót và lựa chọn anh chị em không phải vì anh chị em đông hơn các dân khác, thực ra anh chị em là dân tộc ít người nhất. 8 Nhưng vì CHÚA thương yêu anh chị em và vì giữ lời thề với các tổ phụ mà Ngài dùng tay quyền năng cứu chuộc và đem anh chị em ra khỏi đất nô lệ, khỏi quyền lực của Pha-ra-ôn, vua Ai-cập. 9 Như vậy, anh chị em phải ý thức rằng CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em là Đức Chúa Trời độc nhất: Ngài là Đức Chúa Trời thành tín, giữ giao ước và tình yêu thương của Ngài đến cả ngàn thế hệ cho người nào kính yêu Chúa và vâng theo mạng lệnh Ngài. 10 Nhưng ai từ bỏ Ngài sẽ bị Ngài báo ứng ngay lập tức bằng cách tiêu diệt người ấy, vì Ngài không trì hoãn nhưng báo ứng ngay lập tức người nào từ khước Ngài.
11 Vì vậy anh chị em phải cẩn thận làm theo các điều răn, quy luật và sắc lệnh tôi truyền lại hôm nay.
12 Nếu anh chị em để ý và cẩn thận làm theo các luật lệ này, CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ giữ giao ước và tình yêu thương với anh chị em, như Ngài đã thề với các tổ phụ. 13 Chúa sẽ yêu thương, ban phước và tăng gia nhân số anh chị em. Chúa sẽ ban phước cho con cháu anh chị em, cho thổ sản ngoài đồng kể cả ngũ cốc, rượu nho và dầu, cho các con mới sinh của bầy bò và bầy chiên tại trong xứ Ngài thề hứa với các tổ tiên là sẽ ban cho anh chị em. 14 Anh chị em sẽ được phước hơn mọi dân tộc khác, sẽ không một người nào, dù nam hay nữ, bị son sẻ và không một súc vật nào không có khả năng sinh sản. 15 CHÚA sẽ giữ cho anh chị em khỏi mắc bệnh tật. Ngài không giáng trên anh chị em các chứng bệnh hiểm nghèo anh chị em đã thấy trong xứ Ai-cập, nhưng sẽ giáng các chứng bệnh ấy cho những người nào thù ghét anh chị em. 16 Anh chị em phải tiêu diệt hoàn toàn các dân tộc CHÚA trao vào tay anh chị em. Đừng thương xót họ cũng đừng phục vụ các thần của họ, vì nếu làm như vậy anh chị em sẽ bị mắc bẫy.
17 Anh chị em có thể tự nhủ thầm: “Những dân tộc này mạnh hơn chúng ta, làm sao chúng ta đánh đuổi họ được?” 18 Anh chị em đừng sợ họ nhưng phải nhớ rõ những gì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em đã làm cho Pha-ra-ôn và cho cả xứ Ai-cập. 19 Chính mắt anh chị em đã thấy những cuộc thử thách lớn lao, những dấu kỳ phép lạ và cánh tay quyền năng của CHÚA đã đưa ra để đem anh chị em ra khỏi Ai-cập. CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em cũng sẽ làm như vậy cho những dân tộc anh chị em đang sợ. 20 Ngoài ra, CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ sai ong vò vẽ đến trên họ đến nỗi những người sống sót đang tìm chỗ trốn cũng sẽ bị tiêu diệt hết. 21 Đừng sợ hãi họ, vì CHÚA, Đức Chúa Trời đang ở giữa anh chị em là Đức Chúa Trời vĩ đại và đáng kính sợ. 22 CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em sẽ lần lần đánh đuổi các dân tộc ấy trước mắt anh chị em. Ngài không cho phép anh chị em diệt tất cả các dân tộc ấy cùng một lúc, vì nếu làm vậy các thú rừng sẽ sinh sôi nẩy nở xung quanh anh chị em. 23 Nhưng CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em chắc chắn sẽ giao phó họ cho anh chị em, làm cho họ hoang mang, hoảng sợ cho đến khi bị tiêu diệt hết. 24 Ngài sẽ trao vua các nước ấy vào tay anh chị em và anh chị em sẽ xóa sạch tên họ khỏi dưới trời. Không một ai có thể chống cự anh chị em và anh chị em sẽ tiêu diệt họ hết. 25 Anh chị em phải thiêu hủy các thần tượng của họ. Đừng tham lam và chiếm giữ cho mình bạc vàng dùng bọc trên các tượng này kẻo anh chị em mắc bẫy vì CHÚA, Đức Chúa Trời của anh chị em ghê tởm những thứ đó. 26 Đừng đem các thứ đáng ghê tởm vào nhà anh chị em để lãnh họa diệt vong. Phải ghê tởm và ghét các thứ này là thứ để dành cho lửa thiêu hủy.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)