Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Giô-suê 15:1 - Các Thủ Lãnh 3:27

Lãnh Thổ của Chi Tộc Giu-đa

15 Phần lãnh thổ trúng thăm thuộc về con cái của Giu-đa, theo các gia tộc của họ, đi về hướng nam cho đến biên giới của Ê-đôm, đến miền cực nam của đồng hoang Xin. Ranh giới phía nam của họ chạy từ Biển Muối, tức từ bờ phía nam của biển ấy trở xuống, rồi đi lên Ðèo Bò Cạp, chạy dọc theo đồng hoang Xin, đi ngược lên phía nam của Ca-đe Ba-nê-a, chạy dọc theo Hê-xơ-rôn, trở lên Át-đa, vòng qua Cạc-ca, đi xuyên qua A-xơ-môn, rồi đi ra biển dọc theo Suối Ai-cập, và chấm dứt ở bờ biển. “Ðó sẽ là ranh giới phía nam của ngươi.” Ranh giới phía đông là Biển Muối cho đến cửa Sông Giô-đanh. Ranh giới phía bắc bắt đầu từ bờ biển ở cửa Sông Giô-đanh; đường ranh giới đi lên Bết Hốc-la, rồi chạy dọc theo phía bắc của Bết A-ra-ba; đường ranh giới đi vòng lên Vầng Ðá của Bô-han con trai của Ru-bên; đường ranh giới lại tiếp tục đi lên Ðê-bi, từ Thung Lũng A-cơ chạy về hướng bắc, quay về hướng Ghinh-ganh, tức đối ngang với Dốc A-đum-mim, thuộc về phía nam của thung lũng; đường ranh giới chạy dọc theo hồ nước ở Ên Sê-mếch, rồi ra đến Ên Rô-Ghên. Ðường Ranh giới lại đi lên Thung Lũng Bên Hin-nôm ở triền núi phía nam của dân Giê-bu-si, tức Giê-ru-sa-lem; rồi đường ranh giới đi lên đỉnh núi nằm đối ngang Thung Lũng Hin-nôm về hướng tây, ở cực bắc của Thung Lũng Rê-pha-im; đường ranh giới lại kéo dài từ đỉnh núi đi xuống nguồn nước của Nép-tô-a, từ đó đi xuống các thành của Núi Ép-rôn; rồi đường ranh giới chạy vòng quanh Ba-a-la, tức Ki-ri-át Giê-a-rim; 10 đường ranh giới lại vòng qua hướng tây của Ba-a-la đến Núi Sê-i-rơ, chạy dọc theo triền núi phía bắc của Núi Giê-a-rim, tức Kê-sa-lôn, rồi đi xuống đến Bết Sê-mết, và chạy dọc theo Tim-na; 11 đường ranh giới ra đến triền đồi phía bắc của Éc-rôn; đường ranh giới chạy vòng lại Si-kê-rôn, chạy dọc theo Núi Ba-a-la, và ra đến Giáp-nê-ên; rồi đường ranh giới ra đến biển và chấm dứt. 12 Ranh giới phía tây là Biển Lớn và miền duyên hải. Ðó là đường ranh giới chạy quanh phần đất của con cháu Giu-đa, chia theo các gia tộc của họ.

Ca-lép Chiếm Lấy Sản Nghiệp

(Thủ 1:11-15)

13 Theo như lệnh Chúa đã truyền cho Giô-suê, ông ban cho Ca-lép con trai Giê-phu-nê một phần trong lãnh thổ của Giu-đa, đó là Ki-ri-át Ạc-ba, tức là Hếp-rôn. Ạc-ba là cha của A-nác. 14 Ca-lép đuổi khỏi nơi đó ba con trai của A-nác: Sê-sai, A-hi-man, và Tanh-mai, dòng dõi của A-nác. 15 Từ đó ông đi lên tiến đánh dân Thành Ðê-bi; vả, tên của Ðê-bi trước đó là Ki-ri-át Sê-phe. 16 Ca-lép nói, “Ai tấn công Ki-ri-át Sê-phe và chiếm được nó, tôi sẽ gả Ách-sa con gái của tôi làm vợ người ấy.” 17 Ốt-ni-ên con trai của Kê-na (Kê-na là em trai Ca-lép) chiếm được thành ấy; vì thế ông gả Ách-sa con gái của ông làm vợ Ốt-ni-ên. 18 Khi nàng về nhà chồng, chồng nàng giục nàng[a] xin cha nàng một cánh đồng. Lúc nàng xuống lưng lừa, Ca-lép hỏi nàng, “Con muốn gì đây?”

19 Nàng trả lời ông, “Con muốn xin cha một món quà; bây giờ cha đã gả con về miền nam, xin cha cho con các suối nước.”

Ca-lép cho nàng các suối nước ở miền trên và các suối nước ở miền dưới.

Các Thành của Chi Tộc Giu-đa

20 Ðây là sản nghiệp thuộc chi tộc của con cháu Giu-đa theo các gia tộc của họ.

21 Các thành thuộc về chi tộc của con cháu Giu-đa trong miền cực nam, về hướng biên giới của Ê-đôm là Cáp-xê-ên, Ê-đe, Gia-gua, 22 Ki-na, Ði-mô-na, A-đa-đa, 23 Kê-đét, Ha-xơ, Ít-nan, 24 Xíp, Tê-lem, Bê-a-lốt, 25 Ha-xơ Ha-đát-ta, Kê-ri-ốt Hê-xơ-rôn (tức Ha-xơ), 26 A-mam, Sê-ma, Mô-la-đa, 27 Ha-xa Gát-đa, Hếch-môn, Bết Pê-lét, 28 Ha-xa Su-an, Bê-e Sê-ba, Bi-xi-ô-thi-a, 29 Ba-a-la, I-im, Ê-xem, 30 Ên-tô-lát, Kê-sin, Họt-ma, 31 Xích-lắc, Mát-man-na, San-san-na, 32 Lê-ba-ốt, Sin-him, A-in, và Rim-môn – tất cả là hai mươi chín thành với các làng của các thành ấy.

33 Trong vùng đồng bằng có Ếch-ta-ôn, Xô-ra, Ách-na, 34 Xa-nô-a, Ên Gan-nim, Táp-pu-a, Ê-nam, 35 Giạc-mút, A-đu-lam, Sô-cô, A-xê-ca, 36 Sa-a-ra-im, A-đi-tha-im, và Ghê-đê-ra (tức Ghê-đê-rô-tha-im) – mười bốn thành với các làng của các thành ấy.

37 Xê-nan, Ha-đa-sa, Mích-đan Gát, 38 Ði-lan, Mích-pê, Giốc-thê-ên, 39 La-kích, Bô-cát, Éc-lon, 40 Ca-bon, La-mam, Ki-tích, 41 Ghê-đê-rốt, Bết Ða-gôn, Na-a-ma, và Ma-kê-đa – mười sáu thành với các làng của các thành ấy.

42 Líp-na, Ê-the, A-san, 43 Íp-ta, Ách-na, Nê-xíp, 44 Kê-i-la, Ách-xíp, Ma-rết-sa – chín thành với các làng của các thành ấy.

45 Éc-rôn với các thị trấn trực thuộc và các làng của các thị trấn ấy, 46 từ Éc-rôn đến biển, tất cả các thị trấn trực thuộc và ở gần Ách-đốt với các làng của các thị trấn ấy. 47 Ách-đốt, các thị trấn trực thuộc, và các làng của các thị trấn ấy; Ga-xa, các thị trấn trực thuộc, và các làng của các thị trấn ấy, trải dài cho đến Suối Ai-cập và dọc theo bờ Biển Lớn.

48 Trên miền cao nguyên: Sa-mia, Giát-tia, Sô-cô, 49 Ðan-na, Ki-ri-át San-na (tức Ðê-bi), 50 A-náp, Ếch-tê-mô, A-nim, 51 Gô-sen, Hô-lôn, và Ghi-lô – mười một thành với các làng của các thành ấy.

52 A-rập, Ðu-ma, Ê-san, 53 Gia-nim, Bết Táp-pu-a, A-phê-ca, 54 Hum-ta, Ki-ri-át Ạc-ba (tức Hếp-rôn), Xi-ơ – chín thành với các làng của các thành ấy.

55 Ma-ôn, Cạt-mên, Xíp, Giút-ta, 56 Giê-rê-ên, Giốc-đê-am, Xa-nô-a, 57 Ca-in, Ghi-bê-a, và Tim-na – mười thành với các làng của các thành ấy.

58 Hanh-hun, Bết Xu-rơ, Ghê-đô, 59 Ma-a-rát, Bết A-nốt, và Ên-tê-côn – sáu thành với các làng của các thành ấy.

60 Ki-ri-át Ba-anh (tức Ki-ri-át Giê-a-rim) và Ráp-ba – hai thành với các làng của các thành ấy.

61 Trong đồng hoang: Bết A-ra-ba, Mít-đin, Sê-ca-ca, 62 Síp-san, Thành Muối, và Ên Ghê-đi – sáu thành với các làng của các thành ấy.

63 Nhưng con cháu của Giu-đa không thể đuổi dân Giê-bu-si, tức dân cư ở Giê-ru-sa-lem, đi khỏi; vì thế dân Giê-bu-si vẫn sống giữa dân Giu-đa ở Giê-ru-sa-lem cho đến ngày nay.

Lãnh Thổ của Chi Tộc Ép-ra-im

16 Phần lãnh thổ trúng thăm của con cháu Giô-sép đi từ Sông Giô-đanh, gần Giê-ri-cô, phía đông của hồ nước ở Giê-ri-cô, vào trong đồng hoang, từ Giê-ri-cô đi lên miền cao nguyên của Bê-tên, rồi từ Bê-tên đến Lu-xơ, chạy dọc theo A-ta-rốt, lãnh thổ của dân Ạc-ki; từ đó đi vòng xuống hướng tây đến lãnh thổ của dân Giáp-lết, kéo dài đến lãnh thổ của miền dưới của Bết Hô-rôn, rồi đến Ghê-xe, và chấm dứt ở bờ biển.

Các con cháu của Giô-sép: Ma-na-se và Ép-ra-im nhận lấy phần sản nghiệp của họ.

Lãnh thổ của con cháu Ép-ra-im theo gia tộc của họ gồm: Ranh giới của sản nghiệp họ bắt đầu từ phía đông của A-ta-rốt Át-đa chạy dài đến miền trên của Bết Hô-rôn. Từ đó ranh giới của họ chạy ra hướng biển. Về hướng bắc, ranh giới của họ bắt đầu từ bờ biển đi dọc theo ranh giới phía bắc của Mích-mê-thát, rồi vòng qua hướng đông đi ngang qua Ta-a-nát Si-lô về phía đông của Gia-nô-a; rồi từ Gia-nô-a đi vòng xuống A-ta-rốt và Na-a-ra, đến Giê-ri-cô, và chấm dứt tại bờ Sông Giô-đanh. Từ Táp-pu-a ranh giới lại tiếp tục đi về hướng tây đến Suối Ca-na và chấm dứt ở bờ biển. Ðó là sản nghiệp của con cháu Ép-ra-im theo gia tộc của họ, cùng với các thành dành riêng cho con cháu của Ép-ra-im ở trong sản nghiệp của con cháu Ma-na-se. Ðó là tất cả các thành và làng của họ. 10 Tuy nhiên, họ không đuổi dân Ca-na-an sống ở Ghê-xe đi khỏi, vì thế dân Ca-na-an vẫn cứ sống ở giữa dân Ép-ra-im cho đến ngày nay, dù dân ấy bị bắt phải làm lao dịch.

Lãnh Thổ Phía Tây của Nửa Chi Tộc Ma-na-se

17 Ðây là phần lãnh thổ trúng thăm thuộc về con cháu của Ma-na-se con đầu lòng của Giô-sép. Phần lãnh thổ trúng cho Ma-khia con đầu lòng của Ma-na-se và cha của Ghi-lê-át là miền Ghi-lê-át và Ba-san, vì ông ấy là một chiến sĩ. Những phần trúng thăm khác dành cho các con cháu còn lại của Ma-na-se, theo gia tộc của họ: A-bi-ê-xe, Hê-léc, Át-ri-ên, Sê-chem, Hê-phe, và Sê-mi-đa. Ðó là các con trai của Ma-na-se, con của Giô-sép, theo gia tộc của họ.

Xê-lô-phê-hát con của Hê-phe, cháu của Ghi-lê-át, chắt của Ma-khia, chít của Ma-na-se, không có con trai, nhưng chỉ có các con gái. Tên các con gái của ông là Mác-la, Nô-a, Hốc-la, Minh-ca, và Tiệc-xa. Các cô ấy đến trước Tư Tế Ê-lê-a-xa, Giô-suê con của Nun, và các lãnh tụ của dân và nói, “Chúa đã truyền cho Môi-se ban cho chị em chúng tôi một phần sản nghiệp ở giữa những bà con phái nam của chúng tôi.” Vậy cứ theo lệnh truyền của Chúa, người ta chia cho các cô ấy một phần sản nghiệp ở giữa những anh em của cha các cô. Vì thế chi tộc Ma-na-se được chia cho mười phần đất, không kể miền Ghi-lê-át và Ba-san ở bên kia Sông Giô-đanh, bởi vì các con gái trong chi tộc Ma-na-se cũng nhận được phần sản nghiệp giống như các con trai trong chi tộc ấy. Miền Ghi-lê-át đã được ban cho các con trai khác của con cháu Ma-na-se.

Lãnh thổ của Ma-na-se bắt đầu từ lãnh thổ của A-se chạy đến Mích-mê-thát, tức phía đông của Sê-chem; rồi ranh giới ấy đi dọc về hướng nam đến vùng của dân Ên Táp-pu-a cư ngụ. Xứ của dân Táp-pu-a thuộc về Ma-na-se, nhưng Thành Táp-pu-a ở ranh giới của Ma-na-se lại thuộc về con cháu của Ép-ra-im. Ranh giới ấy chạy xuống Suối Ca-na. Một số các thành ở đây, tức các thành ở về phía nam của suối, thuộc về chi tộc Ép-ra-im; các thành ấy nằm lẫn lộn giữa các thành của Ma-na-se. Ranh giới của Ma-na-se chạy dọc theo bờ suối phía bắc cho đến bờ biển thì chấm dứt. 10 Miền đất phía nam của suối thuộc về Ép-ra-im, còn miền đất phía bắc thuộc về Ma-na-se, với bờ biển làm ranh giới phía tây; phía bắc giáp ranh với lãnh thổ của A-se, còn phía đông giáp ranh với lãnh thổ của I-sa-ca. 11 Trong lãnh thổ của I-sa-ca và A-se, người Ma-na-se còn có Bết Sê-an và các làng của nó, Íp-lê-am và các làng của nó, dân cư của Ðô và các làng của nó, dân cư của Ên Ðô và các làng của nó, dân cư của Ta-a-nách và các làng của nó, dân cư của Mê-ghi-đô và các làng của nó, và một phần ba Na-phát. 12 Tuy nhiên người Ma-na-se không thể chiếm được các thành ấy, nhưng dân Ca-na-an vẫn cứ ở trong xứ. 13 Hễ khi nào dân I-sơ-ra-ên mạnh, họ bắt dân Ca-na-an làm lao dịch, nhưng họ không đuổi tất cả chúng đi khỏi xứ.

Chi Tộc Giô-sép Khiếu Nại

14 Con cháu của Giô-sép đến nói với Giô-suê, “Tại sao ông cho chúng tôi chỉ một thăm và một phần sản nghiệp, trong khi chúng tôi được Chúa ban phước cho có đông người?”

15 Giô-suê nói với họ, “Nếu anh chị em có đông người, hãy lên cao nguyên, phá rừng, và khai khẩn đất hoang trong xứ của dân Pê-ri-xi và dân Rê-pha-im mà ở, nếu miền cao nguyên chia cho Ép-ra-im quá nhỏ đối với anh chị em.”

16 Con cháu Giô-sép nói, “Vùng cao nguyên ấy vẫn không đủ cho chúng tôi. Hơn nữa tất cả dân Ca-na-an ở miền đồng bằng đều có xe chiến mã bọc sắt, đó là các dân sống ở Bết Sê-an cùng các làng của nó và những dân sống trong Thung Lũng Giê-rê-ên.”

17 Bấy giờ Giô-suê nói với nhà Giô-sép, tức nói với con cháu của Ép-ra-im và Ma-na-se, “Ðúng vậy, anh chị em quả là một dân đông đúc và hùng mạnh. Anh chị em không phải chỉ có một phần sản nghiệp, 18 nhưng anh chị em đã được ban cho miền cao nguyên nữa. Bây giờ tuy đó là một vùng rừng núi, nhưng anh chị em có thể phá rừng, khai khẩn đất hoang, và chiếm lấy nó cho đến tận cùng ranh giới đã chia cho anh chị em, vì anh chị em sẽ đuổi dân Ca-na-an đi, mặc dù chúng có các xe chiến mã bọc sắt và hùng mạnh.”

Lãnh Thổ của Các Chi Tộc Còn Lại

18 Bấy giờ toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên nhóm lại tại Si-lô và dựng Lều Hội Kiến tại đó. Lúc ấy xứ đã bị khuất phục trước mặt họ rồi. Trong I-sơ-ra-ên vẫn còn bảy chi tộc chưa được chia phần sản nghiệp. Vì thế Giô-suê nói với dân I-sơ-ra-ên, “Cho đến bao giờ anh chị em mới chịu đi vào chiếm lấy xứ mà Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên anh chị em, đã ban cho anh chị em làm sản nghiệp? Anh chị em hãy chọn cho tôi ba người trong mỗi chi tộc, để tôi sẽ sai họ đi, hầu họ có thể đứng dậy, đi khắp xứ, ghi rõ địa hình của những phần đất các chi tộc sẽ nhận làm sản nghiệp, rồi sẽ trở về đây báo cáo cho tôi. Họ sẽ chia xứ còn lại ra làm bảy phần. Chi tộc Giu-đa sẽ ở trong lãnh thổ đã chia cho họ ở phía nam, còn nhà Giô-sép sẽ ở trong lãnh thổ đã chia cho họ ở phía bắc. Anh chị em sẽ chia xứ còn lại ra làm bảy phần, rồi mang bản đồ có ghi rõ địa hình về đây cho tôi. Tôi sẽ cho anh chị em bắt thăm chia đất tại đây, trước thánh nhan Chúa. Dĩ nhiên người Lê-vi sẽ không được chia phần đất nào ở giữa anh chị em, vì chức vụ tư tế cho Chúa là phần sản nghiệp của họ rồi. Còn chi tộc Gát, chi tộc Ru-bên, và phân nửa chi tộc Ma-na-se đã nhận phần sản nghiệp của họ ở phía đông Sông Giô-đanh, mà Môi-se tôi tớ của Chúa đã ban cho họ.”

Vậy những người ấy đứng dậy và lên đường. Giô-suê ra lịnh cho những người đi vẽ bản đồ của xứ rằng, “Hãy đi khắp xứ và ghi rõ địa hình của nó, rồi trở về đây với tôi. Tôi sẽ cho anh em bắt thăm tại đây, trước thánh nhan Chúa ở Si-lô.”

Vậy những người ấy ra đi, quan sát khắp xứ, vẽ bản đồ, liệt kê các thành, chia xứ làm bảy phần, và ghi chép vào một cuộn sách, rồi trở về doanh trại với Giô-suê tại Si-lô. 10 Kế đó Giô-suê cho họ bắt thăm tại Si-lô, trước thánh nhan Chúa, và tại đó Giô-suê đã chia xứ cho dân I-sơ-ra-ên, mỗi chi tộc một phần.

Lãnh Thổ của Chi Tộc Bên-gia-min

11 Chi tộc của con cháu Bên-gia-min, theo các gia tộc của họ, được trúng thăm trước hết. Lãnh thổ họ bắt thăm được nằm ở giữa lãnh thổ của con cháu Giu-đa và con cháu Giô-sép. 12 Về phía bắc, ranh giới của họ bắt đầu từ Sông Giô-đanh đi dọc theo triền núi phía bắc của Giê-ri-cô, rồi đi lên cao nguyên ở hướng tây, và chấm dứt ở Ðồng Hoang Bết A-vên. 13 Từ đó ranh giới ấy chạy dọc theo sườn núi, trực chỉ Lu-xơ ở hướng nam, rồi chạy dọc theo triền Lu-xơ, tức Bê-tên; ranh giới ấy lại tiếp tục đi xuống A-ta-rốt Át-đa, chạy dọc theo rặng núi nằm về phía nam của miền dưới Bết Hô-rôn. 14 Ranh giới ấy chuyển hướng, chạy theo sườn núi phía tây để đi về hướng nam, rồi từ trên núi ở phía nam đối ngang Bết Hô-rôn tiếp tục chạy về hướng nam, và dừng lại tại Ki-ri-át Ba-anh, tức Ki-ri-át Giê-a-rim, một thành thuộc về con cháu Giu-đa. Ðó là ranh giới phía tây của họ. 15 Ranh giới phía nam bắt đầu từ ngoại vi của Ki-ri-át Giê-a-rim; ranh giới ấy chạy từ đó qua hướng tây, rồi đi về hướng Suối Nước Nép-tô-a; 16 ranh giới ấy lại chạy xuống cho đến hết rặng núi nằm đối diện với Thung Lũng Bên Hin-nôm, tức là ở đầu phía bắc của Thung Lũng Rê-pha-im; từ đó nó chạy xuống Thung Lũng Bên Hin-nôm, dọc theo triền núi phía nam của dân Giê-bu-si, và tiếp tục chạy xuống đến Ên Rô-ghên. 17 Từ đó nó bẻ ngược lên hướng bắc, đi về hướng Ên Sê-méc, rồi đi tiếp về Ghê-li-lốt, tức đối ngang với Dốc A-đum-mim; từ đó nó chạy xuống Tảng Ðá Bô-han (Bô-han là con trai của Ru-bên), 18 rồi tiếp tục chạy dọc theo triền núi phía bắc, đối ngang A-ra-ba; 19 từ đó ranh giới đi theo triền núi phía bắc của Bết Hốc-la; rồi ranh giới dừng lại ở vịnh cực bắc của Biển Muối, tức tại cửa sông cực nam của Sông Giô-đanh. Ðó là ranh giới phía nam của họ. 20 Sông Giô-đanh là ranh giới phía đông của họ. Ðó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min, chia theo gia tộc của họ, với các ranh giới chung quanh.

21 Khi ấy các thành của chi tộc Bên-gia-min chia theo gia tộc của họ là Giê-ri-cô, Bết Hốc-la, Ê-méc Kê-xi, 22 Bết A-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên, 23 A-vim, Pa-ra, Óp-ra, 24 Kê-pha Am-mô-ni, Óp-ni, và Ghê-ba – mười hai thành với các làng trực thuộc các thành ấy. 25 Ghi-bê-ôn, Ra-ma, Bê-ê-rốt, 26 Mích-pê, Kê-phi-ra, Mô-za, 27 Rê-kem, Ia-pê-ên, Ta-ra-la, 28 Xê-la, Ha-ê-lép, Giê-bu, tức Giê-ru-sa-lem, Ghi-bê-a, và Ki-ri-át Giê-a-rim – mười bốn thành với các làng trực thuộc các thành ấy.

Ðó là sản nghiệp của con cháu Bên-gia-min, chia theo gia tộc của họ.

Lãnh Thổ của Chi Tộc Si-mê-ôn

19 Chi tộc Si-mê-ôn bắt được thăm thứ nhì để nhận lấy sản nghiệp cho con cháu của Si-mê-ôn, theo các gia tộc của họ. Sản nghiệp của họ nằm trọn bên trong sản nghiệp của con cháu Giu-đa. Sản nghiệp của họ gồm các thành Bê-e Sê-ba, Sê-ba, Mô-la-đa, Ha-xa Su-an, Ba-la, Ê-xem, Ên-tô-la, Bê-thun, Họt-ma, Xích-lắc, Bết Mạc-ca-bốt, Ha-xa Su-sa, Bết Lê-ba-ốt, và Sa-ru-hên – mười ba thành với các làng trực thuộc các thành ấy. A-in, Rim-môn, Ê-the, và A-san – bốn thành với các làng trực thuộc các thành ấy; cộng với tất cả các làng ở xa hơn quanh các thành ấy cho đến Ba-a-lát Bê-e, cũng có tên là Ra-ma ở Miền Nam.

Ðó là sản nghiệp của con cháu của Si-mê-ôn, chia theo các gia tộc của họ.

Sản nghiệp của con cháu Si-mê-ôn nằm trọn bên trong sản nghiệp của con cháu Giu-đa. Bởi vì sản nghiệp của con cháu Giu-đa quá lớn cho họ, nên con cháu của Si-mê-ôn được ban cho phần sản nghiệp nằm trọn bên trong phần sản nghiệp của chi tộc Giu-đa.

Lãnh Thổ của Chi Tộc Xê-bu-lun

10 Chi tộc của con cháu Xê-bu-lun, theo các gia tộc của họ, bắt được thăm thứ ba để nhận lấy sản nghiệp. Ranh giới của sản nghiệp họ đến tận Sa-rít; 11 rồi ranh giới ấy đi ngược lên hướng tây, trực chỉ đến Ma-ra-la, rồi tới Ðáp-bê-sết, và tiếp tục đến phía đông của Suối Giốc-nê-am. 12 Từ Sa-rít ranh giới ấy đi về hướng đông, tức hướng mặt trời mọc, đến phạm vi của Kích-lốt Ta-bô; rồi từ đó tiếp tục chạy về Ða-bê-rát, quẹo lên Gia-phia; 13 từ đó nó tiếp tục chạy dọc theo hướng đông đến Gát Hê-phe, rồi đến Ết Ka-xin, tiếp tục đến Rim-môn, rồi rẽ qua Nê-a. 14 Còn về hướng bắc, ranh giới ấy quẹo qua Han-na-thôn và chấm dứt ở Thung Lũng Íp-ta Ên. 15 Ngoài ra còn có Cạt-tát, Na-ha-lanh, Sim-rôn, I-đa-la, và Bết-lê-hem – mười hai thành với các làng trực thuộc các thành ấy.

16 Ðó là sản nghiệp của con cháu Xê-bu-lun, chia theo các gia tộc của họ. Họ được chia cho các thành ấy cùng với các làng trực thuộc các thành ấy.

Lãnh Thổ của Chi Tộc I-sa-ca

17 Chi tộc của con cháu I-sa-ca, theo các gia tộc của họ, bắt được thăm thứ tư để nhận lấy sản nghiệp. 18 Lãnh thổ của họ gồm Giê-rê-ên, Kê-su-lốt, Su-nam, 19 Ha-pha-ra-im, Si-ôn, A-na-ha-rát, 20 Ráp-bít, Ki-si-ôn, Ê-bê, 21 Rê-mết, Ên Gan-nim, Ên Hát-đa, Bết Pa-xê; 22 ranh giới ấy cũng chạy đến Ta-bô, Sa-ha-xu-ma, và Bết Sê-mếch, rồi ranh giới ấy chấm dứt tại Giô-đanh – mười sáu thành và các làng của các thành ấy.

23 Ðó là sản nghiệp của con cháu I-sa-ca, chia theo các gia tộc của họ; họ được chia cho các thành ấy cùng với các làng trực thuộc các thành ấy.

Lãnh Thổ của Chi Tộc A-se

24 Chi tộc của con cháu A-se, theo các gia tộc của họ, bắt được thăm thứ năm để nhận lấy sản nghiệp. 25 Ranh giới của họ gồm Hên-cát, Ha-li, Bê-ten, Ách-sáp, 26 A-lam-mê-léc, A-mát, và Mi-sanh. Về hướng tây, ranh giới giáp với Cạt-mên và Si-hơ Líp-na, 27 rồi nó rẽ qua hướng đông, tiến đến Bết Ða-gôn, và tiếp tục cho đến ranh giới của Xê-bu-lun và Thung Lũng Íp-ta Ên; từ đó nó đi về hướng bắc cho đến Bết Ê-méc và Nê-i-ên; nó lại tiếp tục về hướng bắc cho đến Ca-bun, 28 Ép-rôn, Rê-hốp, Ham-môn, Ca-na, và Ðại Ðô Si-đôn; 29 từ đó ranh giới quay về Ra-ma, đến Ty-rơ, một thành kiên cố, rồi ranh giới quay qua Hô-sa, và chấm dứt tại bờ biển. Lãnh thổ của họ cũng bao gồm các thành Ma-ha-láp,[b] Ách-xíp, 30 Um-ma, A-phéc, và Rê-hốp – hai mươi hai thành với các làng trực thuộc các thành ấy.

31 Ðó là sản nghiệp của con cháu A-se, chia theo các gia tộc của họ; họ được chia cho các thành ấy cùng với các làng trực thuộc các thành ấy.

Lãnh Thổ của Chi Tộc Náp-ta-li

32 Chi tộc của con cháu Náp-ta-li, theo các gia tộc của họ, bắt được thăm thứ sáu để nhận lấy sản nghiệp. 33 Ranh giới của họ bắt đầu từ Hê-lép, từ đám sồi của Xa-a-nan-nim đi qua A-đa-mi Nê-kép, qua Giáp-nê-ên, cho đến tận miền La-cum, rồi dừng lại tại Sông Giô-đanh. 34 Kế đến ranh giới quay qua hướng tây đi về A-nốt Ta-bô, rồi từ đó đi đến Húc-cốt, giáp với ranh giới của Xê-bu-lun ở phía nam và A-se ở phía tây, và dừng lại tại Giê-hu-đa nơi bờ Sông Giô-đanh ở phía đông. 35 Các thành kiên cố trong lãnh thổ của họ là Xích-đim, Xê-rơ, Ham-mát, Rắc-cát, Kin-nê-rét, 36 A-đa-ma, Ra-ma, Ha-xơ, 37 Kê-đét, Ét-rê, Ên Ha-xơ, 38 I-rôn, Mích-đan Ên, Hô-rem, Bết A-nát, và Bết Sê-mếch – mười chín thành và các làng trực thuộc các thành ấy.

39 Ðó là sản nghiệp của chi tộc con cháu Náp-ta-li, chia theo các gia tộc của họ; họ được chia cho các thành ấy cùng với các làng trực thuộc các thành ấy.

Lãnh Thổ của Chi Tộc Ðan

40 Chi tộc của con cháu Ðan, theo các gia tộc của họ, bắt được thăm thứ bảy để nhận lấy sản nghiệp. 41 Lãnh thổ của sản nghiệp họ gồm Xô-ra, Ếch-ta-ôn, I-rơ Sê-mếch, 42 Sa-a-láp-bin, Ai-gia-lôn, Ít-la, 43 Ê-lôn, Tim-na, Éc-rôn, 44 Ên-tê-kê, Ghi-bê-thôn, Ba-a-lát, 45 Giê-hút, Bê-nê Bê-rắc, Gát Rim-môn, 46 Mê Giạc-côn, Rắc-côn, và miền dọc theo ranh giới đối ngang Giốp-pa. 47 Tuy nhiên ranh giới của lãnh thổ cho con cháu Ðan rộng hơn ranh giới họ bắt thăm trúng được, vì con cháu của Ðan đã đi lên và đánh Thành Lê-sem. Sau khi hạ được thành ấy, họ đã dùng gươm giết những người trong thành, chiếm lấy thành, rồi định cư luôn trong thành. Họ đổi tên của Thành Lê-sem ra Thành Ðan, theo tên tổ phụ của họ.

48 Ðó là sản nghiệp của con cháu Ðan, chia theo các gia tộc của họ; họ được chia cho các thành ấy cùng với các làng trực thuộc các thành ấy.

Sản Nghiệp của Giô-suê

49 Sau khi họ đã hoàn tất việc chia các lãnh thổ trong xứ cho nhau để làm sản nghiệp, dân I-sơ-ra-ên đã cho Giô-suê con trai của Nun một phần sản nghiệp ở giữa họ. 50 Theo lệnh Chúa, họ cho ông cái thành ông xin: Tim-na Sê-ra, trong miền cao nguyên Ép-ra-im. Ông xây lại thành đó và định cư ở đó.

51 Ðó là những sản nghiệp mà Tư Tế Ê-lê-a-xa và Giô-suê con trai của Nun cùng các tộc trưởng của các gia tộc trong con cháu I-sơ-ra-ên đã bắt thăm để chia xứ cho nhau, trước thánh nhan Chúa, ở cửa Lều Hội Kiến. Như thế họ đã hoàn tất việc chia xứ.

Các Thành Ẩn Náu

20 Bấy giờ Chúa phán với Giô-suê, “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên, ‘Hãy biệt riêng ra một số thành ẩn náu mà Ta đã phán qua Môi-se, hầu những ai ngộ sát hay vô ý làm một người bị chết có thể chạy đến đó ẩn náu. Những thành đó sẽ trở thành những nơi trú ẩn khỏi những kẻ đòi nợ máu. Khi kẻ ngộ sát chạy đến một thành nào trong các thành đó, kẻ ấy sẽ đứng ở cổng thành rồi trình bày hoàn cảnh của mình cho các vị trưởng lão của thành; người ấy sẽ được cho vào trong thành, được ban cho một chỗ ở, và sẽ ở trong thành đó với họ. Nếu kẻ đòi nợ máu đuổi đến nơi, người trong thành sẽ không được trao người đến ẩn náu cho kẻ truy đuổi, bởi vì kẻ chết đã bị chết vì rủi ro và hai người trước đó vốn không có thù oán gì với nhau. Kẻ ngộ sát sẽ cứ ở trong thành ấy cho đến khi được đem ra xử trước hội chúng, hoặc đến khi vị thượng tế đương nhiệm lúc đó qua đời; bấy giờ kẻ ngộ sát mới có thể trở về thành mình và nhà mình, tức thành mà kẻ ấy đã phải trốn đi.’”

Vậy họ biệt riêng Ca-đe ở miền Ga-li-lê trong vùng cao nguyên thuộc lãnh thổ của chi tộc Náp-ta-li, Sê-chem trong miền cao nguyên thuộc lãnh thổ của chi tộc Ép-ra-im, Ki-ri-át Ạc-ba (tức Hếp-rôn) trong miền cao nguyên thuộc lãnh thổ của chi tộc Giu-đa. Còn về bên kia Sông Giô-đanh, phía đông Giê-ri-cô, họ biệt riêng Bê-xê trong vùng đồng hoang ở miền đồng bằng thuộc lãnh thổ của chi tộc Ru-bên, Ra-mốt ở Ghi-lê-át thuộc lãnh thổ của chi tộc Gát, và Gô-lan ở Ba-san thuộc lãnh thổ của chi tộc Ma-na-se.

Ðó là các thành được biệt riêng ra cho toàn dân I-sơ-ra-ên và cho những kiều dân sống ở giữa họ, để ai vô tình gây thiệt mạng cho một người nào có thể chạy đến ẩn náu, hầu khỏi chết dưới tay kẻ đòi nợ máu, cho đến khi có cuộc xử án trước hội chúng.

Các Thành của Người Lê-vi

21 Bấy giờ các trưởng tộc của người Lê-vi đến gặp Tư Tế Ê-lê-a-xa, Giô-suê con trai của Nun, và các trưởng tộc của dân I-sơ-ra-ên tại Si-lô trong xứ Ca-na-an và nói với họ, “Chúa đã truyền qua Môi-se bảo phải cho chúng tôi một số thành để chúng tôi ở, cùng với những đồng cỏ cho các đàn súc vật của chúng tôi.” Vậy theo lịnh của Chúa, dân I-sơ-ra-ên đã lấy từ sản nghiệp của mình cho người Lê-vi những thành sau đây cùng với đồng cỏ của các thành ấy:

Một số gia tộc của con cháu Kê-hát, tức những người Lê-vi thuộc dòng dõi của Tư Tế A-rôn, đã bắt thăm và nhận được mười ba thành trong lãnh thổ của các chi tộc Giu-đa, Si-mê-ôn, và Bên-gia-min. Những người còn lại của con cháu Kê-hát bắt thăm và nhận được mười thành từ các gia tộc của chi tộc Ép-ra-im, chi tộc Ðan, và nửa chi tộc Ma-na-se.

Các con cháu Ghẹt-sôn bắt thăm nhận được mười ba thành từ các gia tộc của chi tộc I-sa-ca, chi tộc A-se, chi tộc Náp-ta-li, và nửa chi tộc Ma-na-se ở vùng Ba-san.

Các con cháu của Mê-ra-ri theo các gia tộc của họ nhận được mười hai thành từ chi tộc Ru-bên, chi tộc Gát, và chi tộc Xê-bu-lun.

Ðó là các thành và những đồng cỏ trực thuộc các thành ấy mà dân I-sơ-ra-ên đã dùng cách bắt thăm để chia cho người Lê-vi, như Chúa đã truyền qua Môi-se.

Phần của Con Cháu Kê-hát

Người ta lấy từ lãnh thổ của chi tộc Giu-đa và chi tộc Si-mê-ôn mà ban những thành được nêu đích danh sau đây 10 cho các gia tộc của Kê-hát, con cháu của A-rôn, những hậu tự của Lê-vi, vì họ được trúng thăm trước hết. 11 Người ta ban cho họ Ki-ri-át Ạc-ba (Ạc-ba là cha của A-nác), tức là Hếp-rôn, trong miền cao nguyên của Giu-đa cùng với những đồng cỏ chung quanh thành ấy. 12 Nhưng những đồng ruộng của thành và các làng trực thuộc thành thì đã được ban cho Ca-lép con trai Giê-phu-nê để ông ấy làm sở hữu chủ.

13 Người ta ban cho con cháu của Tư Tế A-rôn Thành Hếp-rôn, tức thành đã được biệt riêng ra làm thành ẩn náu cho kẻ ngộ sát, với các đồng cỏ của thành ấy, Líp-na với các đồng cỏ của thành ấy, 14 Giát-tia với các đồng cỏ của thành ấy, Ếch-tê-mô-a với các đồng cỏ của thành ấy, 15 Hô-lôn với các đồng cỏ của thành ấy, Ðê-bi với các đồng cỏ của thành ấy, 16 A-in với các đồng cỏ của thành ấy, Giút-ta với các đồng cỏ của thành ấy, và Bết Sê-mếch với các đồng cỏ của thành ấy. Hai chi tộc đó cho họ chín thành.

17 Còn chi tộc Bên-gia-min cũng ban cho họ Ghi-bê-ôn với các đồng cỏ của thành ấy, Ghê-ba với các đồng cỏ của thành ấy, 18 A-na-thốt với các đồng cỏ của thành ấy, và Anh-môn với các đồng cỏ của thành ấy – bốn thành. 19 Như vậy số các thành với các đồng cỏ của các thành ấy được ban cho các con cháu của Tư Tế A-rôn là mười ba thành.

20 Ngoài ra các con cháu còn lại của Kê-hát, trong các gia tộc của Kê-hát, thuộc dòng dõi của Lê-vi, được chia cho các thành khác trong lãnh thổ của chi tộc Ép-ra-im. 21 Người ta ban cho họ Thành Sê-chem, tức thành đã được biệt riêng ra làm thành ẩn náu cho kẻ ngộ sát, với các đồng cỏ của thành ấy trên miền cao nguyên Ép-ra-im, Ghê-xe với các đồng cỏ của thành ấy, 22 Kíp-xa-im với các đồng cỏ của thành ấy, và Bết Hô-rôn với các đồng cỏ của thành ấy – bốn thành. 23 Chi tộc Ðan cũng chia cho họ: Ên-tê-ke với các đồng cỏ của thành ấy, Ghi-bê-thôn với các đồng cỏ của thành ấy, 24 Ai-gia-lôn với các đồng cỏ của thành ấy, Gát Rim-môn với các đồng cỏ của thành ấy – bốn thành. 25 Nửa chi tộc Ma-na-se cũng cho họ Ta-a-nách với các đồng cỏ của thành ấy và Gát Rim-môn với các đồng cỏ của thành ấy – hai thành. 26 Như vậy tất cả các thành đã chia cho các con cháu còn lại của Kê-hát là mười thành với các đồng cỏ của các thành ấy.

Phần của Con Cháu Ghẹt-sôn

27 Còn các con cháu của Ghẹt-sôn, một trong các tộc họ của người Lê-vi, thì phân nửa của chi tộc Ma-na-se chia cho họ Gô-lan ở Ba-san, tức thành đã được biệt riêng ra làm thành ẩn náu cho kẻ ngộ sát, với các đồng cỏ của thành ấy, và Bê Ếch-tê-ra với các đồng cỏ của thành ấy – hai thành. 28 Chi tộc I-sa-ca cũng chia cho họ Ki-si-ôn với các đồng cỏ của thành ấy, Ða-bê-rát với các đồng cỏ của thành ấy, 29 Giạc-mút với các đồng cỏ của thành ấy, Ên Gan-nim với các đồng cỏ của thành ấy – bốn thành. 30 Chi tộc A-se chia cho họ Mi-sanh với các đồng cỏ của thành ấy, Áp-đôn với các đồng cỏ của thành ấy, 31 Hên-cát với các đồng cỏ của thành ấy, và Rê-hốp với các đồng cỏ của thành ấy – bốn thành. 32 Chi tộc Náp-ta-li cũng chia cho họ Ca-đe ở Ga-li-lê, tức thành đã được biệt riêng ra làm thành ẩn náu cho kẻ ngộ sát, với các đồng cỏ của thành ấy, Ham-mốt Ðô với các đồng cỏ của thành ấy, và Cạc-tan với các đồng cỏ của thành ấy – ba thành. 33 Tổng số các thành chia cho các gia tộc của con cháu Ghẹt-sôn là mười ba thành với các đồng cỏ của các thành ấy.

Phần của Con Cháu Mê-ra-ri

34 Ðối với các con cháu còn lại của người Lê-vi, tức các gia tộc của Mê-ra-ri, thì chi tộc Xê-bu-lun chia cho họ Giốc-nê-am với các đồng cỏ của thành ấy, Cạc-ta với các đồng cỏ của thành ấy, 35 Ðim-na với các đồng cỏ của thành ấy, Na-ha-lanh với các đồng cỏ của thành ấy – bốn thành. 36 Chi tộc Ru-bên chia cho họ Bê-xê với các đồng cỏ của thành ấy, Gia-xa với các đồng cỏ của thành ấy, 37 Kê-đê-mốt với các đồng cỏ của thành ấy, và Mê-pha-át với các đồng cỏ của thành ấy – bốn thành. 38 Chi tộc Gát chia cho họ Ra-mốt ở Ghi-lê-át, tức thành đã được biệt riêng ra làm thành ẩn náu cho kẻ ngộ sát, với các đồng cỏ của thành ấy, Ma-ha-na-im với các đồng cỏ của thành ấy, 39 Hếch-bôn với các đồng cỏ của thành ấy, Gia-xe với các đồng cỏ của thành ấy – bốn thành cả thảy. 40 Vậy các thành được chia cho các gia tộc của con cháu Mê-ra-ri, những người còn lại của các gia tộc người Lê-vi, và họ được chia cho mười hai thành cả thảy.

Tổng Kết Việc Chia Xứ

41 Các thành của người Lê-vi ở trong lãnh thổ của dân I-sơ-ra-ên cả thảy là bốn mươi tám thành với các đồng cỏ của các thành ấy. 42 Mỗi thành trong các thành ấy đều có các đồng cỏ chung quanh; thành nào cũng có các đồng cỏ như thế.

43 Vậy Chúa đã ban cho I-sơ-ra-ên tất cả xứ mà Ngài đã thề với tổ tiên họ để ban cho họ. Họ đã chiếm lấy xứ ấy và định cư trong xứ ấy. 44 Chúa cho họ được nghỉ ngơi từ mọi phía như Ngài đã thề với tổ tiên họ. Trong số tất cả các kẻ thù của họ, không một kẻ thù nào chống nổi họ, vì Chúa đã trao tất cả kẻ thù của họ vào tay họ. 45 Không một lời hứa tốt đẹp nào mà Chúa đã hứa với nhà I-sơ-ra-ên là không thành tựu. Tất cả đều được thực hiện.

Các Chi Tộc Phía Ðông Trở Về Sản Nghiệp của Họ

22 Bấy giờ Giô-suê triệu tập những người Ru-bên, những người Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se lại và nói với họ, “Anh em đã vâng giữ mọi điều mà Môi-se tôi tớ Chúa đã truyền cho anh em, và anh em cũng đã vâng lời tôi trong mọi sự tôi đã truyền cho anh em. Anh em đã không bỏ các anh em mình. Cho đến nay đã nhiều ngày rồi anh em đã cẩn thận vâng giữ mọi mạng lịnh của Chúa, Ðức Chúa Trời của anh em. Bây giờ, Chúa, Ðức Chúa Trời của anh em, đã ban cho anh chị em[c] của anh em được nghỉ ngơi như Ngài đã hứa với họ. Vậy bây giờ hãy trở về trại của anh em trong phần đất mà anh em đã làm chủ, nơi Môi-se tôi tớ Chúa đã ban cho anh em phía bên kia Sông Giô-đanh. Khá cẩn thận vâng giữ điều răn và luật pháp mà Môi-se, tôi tớ Chúa, đã truyền cho anh em: Hãy yêu kính Chúa, Ðức Chúa Trời của anh em, bước đi trong mọi đường lối Ngài, vâng giữ các điều răn Ngài, bám chặt lấy Ngài, và phục vụ Ngài một cách hết lòng và hết linh hồn mình.” Vậy Giô-suê chúc phước cho họ rồi tiễn họ lên đường, và họ đã trở về trại của họ.

Lúc ấy phân nửa của chi tộc Ma-na-se đã được Môi-se ban cho phần sản nghiệp ở Ba-san, còn phân nửa kia được Giô-suê ban cho phần sản nghiệp bên cạnh các anh chị em họ trong miền đất ở phía tây Sông Giô-đanh. Giô-suê đã tiễn họ lên đường và chúc phước cho họ. Ông nói với họ, “Hãy trở về trại của anh em, mang theo nhiều của cải, rất nhiều súc vật, bạc, vàng, đồng, sắt, và vô số quần áo. Hãy chia sẻ những chiến lợi phẩm lấy được của quân thù cho bà con của anh em.” Vậy người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se đi về. Họ từ giã dân I-sơ-ra-ên tại Si-lô, trong xứ Ca-na-an để về xứ Ghi-lê-át, phần đất của họ mà họ đã nhận làm sản nghiệp theo lịnh của Chúa đã truyền qua Môi-se.

Bàn Thờ Kỷ Niệm Dựng ở Phía Ðông Sông Giô-đanh

10 Khi họ đến Ghê-li-lốt, một địa điểm ở gần bờ Sông Giô-đanh, vẫn còn trong ranh giới của xứ Ca-na-an, người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se xây tại đó, bên bờ Sông Giô-đanh, một bàn thờ rất đồ sộ. 11 Dân I-sơ-ra-ên nghe báo rằng người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se đã xây một bàn thờ ở ranh giới của xứ Ca-na-an, tại Ghê-li-ốt, gần bờ Sông Giô-đanh, trong ranh giới thuộc về dân I-sơ-ra-ên. 12 Khi người I-sơ-ra-ên nghe tin ấy, toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên tập họp tại Si-lô để đi lên đánh họ.

13 Bấy giờ dân I-sơ-ra-ên sai Tư Tế Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-xa đến gặp người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se trong xứ Ghi-lê-át. 14 Ði với ông có mười thủ lãnh, mỗi người là thủ lãnh của một chi tộc trong I-sơ-ra-ên, mỗi người là tộc trưởng của chi tộc mình trong I-sơ-ra-ên. 15 Phái đoàn ấy đến gặp người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se trong xứ Ghi-lê-át và nói với họ:

16 “Toàn thể hội chúng của Chúa nói rằng, ‘Ðiều gì đã xui khiến anh em phạm tội phản bội Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên mà ngày nay anh em lại quay bỏ Ngài và không theo Chúa nữa? Tại sao ngày nay anh em có thể xây cho mình một bàn thờ để chống lại Chúa như vậy? 17 Tội chúng ta đã phạm tại Pê-ô cho đến nay vẫn chưa tẩy sạch được. Vì tội ấy mà tai họa đã giáng xuống trên hội chúng của Chúa. Ðó nào phải là việc nhỏ sao? 18 Ðiều gì đã làm cho anh em phải quyết định rằng ngày nay anh em không còn muốn theo Chúa nữa? Nếu ngày nay anh em phản bội Chúa, thì ngày mai cơn giận của Chúa ắt sẽ nổi lên nghịch lại cả hội chúng I-sơ-ra-ên. 19 Còn nếu anh em cho rằng xứ anh em đang ở bị ô uế, thì hãy dọn qua bên xứ của Chúa, nơi Ðền Tạm của Chúa được dựng, rồi nhận lấy phần sản nghiệp cho mình ở giữa chúng tôi. Xin anh em chớ phản bội Chúa hay chống lại chúng tôi bằng cách xây cho anh em một bàn thờ khác hơn bàn thờ để thờ Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta. 20 Không phải A-can con trai Xê-ra đã bất trung trong việc lấy những gì đã được biệt riêng ra thánh đến nỗi đã làm cho cơn thịnh nộ giáng xuống trên toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên sao? Và xin nhớ rằng không phải chỉ một mình ông ấy bị phạt chết vì tội của mình đâu!’”

21 Bấy giờ người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se trả lời với các thủ lãnh của các chi tộc I-sơ-ra-ên, 22 Chúa là Ðức Chúa Trời của các thần! Chúa là Ðức Chúa Trời của các thần! Ngài biết rõ. Nguyện I-sơ-ra-ên cũng sẽ biết rõ. Nếu đây là một hình thức phản loạn hay là cách chối bỏ đức tin nơi Chúa, nguyện Ngài đừng cứu chúng tôi hôm nay, 23 vì chúng tôi đã xây dựng một bàn thờ để lìa bỏ và không theo Chúa nữa; hoặc nếu chúng tôi đã xây dựng bàn thờ ấy để sẽ dâng trên đó các của lễ thiêu, các của lễ chay, và các của lễ cầu an, nguyện chính Chúa sẽ phạt chúng tôi.

24 Thưa không, chúng tôi xây dựng bàn thờ ấy vì chúng tôi lo sợ rằng sau nầy con cháu anh em có thể nói với con cháu chúng tôi, ‘Các người có liên hệ gì với Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên chăng? 25 Chúa đã lấy Sông Giô-đanh làm ranh giới để phân biệt giữa chúng tôi và các người, nên các người, là người Ru-bên và người Gát, không có phần gì với Chúa cả.’ Như thế con cháu anh em có thể làm cho con cháu chúng tôi bỏ Chúa mà không kính thờ Ngài nữa. 26 Vì lo sợ như thế nên chúng tôi đã nói với nhau, ‘Chúng ta phải xây một bàn thờ, không phải để dâng của lễ thiêu, cũng không phải để dâng các sinh tế, 27 nhưng để làm chứng giữa chúng tôi và anh em, cùng giữa các con cháu của các thế hệ kế tiếp chúng ta rằng chúng tôi cũng phục vụ Chúa trước thánh nhan Ngài bằng các của lễ thiêu, các sinh tế, và các của lễ cầu an, để trong tương lai con cháu anh em sẽ không thể nói với con cháu chúng tôi rằng, “Các người không có phần gì với Chúa cả.”’ 28 Chúng tôi đã nghĩ rằng, nếu trong tương lai có ai đó nói với chúng tôi hoặc nói với con cháu chúng tôi như thế, thì chúng tôi có thể đáp lại rằng, ‘Hãy xem đây, bàn thờ nầy giống y hệt bàn thờ của Chúa mà tổ tiên chúng ta đã xây dựng. Bàn thờ nầy không phải để dâng các của lễ thiêu, cũng không phải để dâng các sinh tế, mà để làm chứng giữa chúng tôi và anh chị em.’

29 Chúng tôi không hề có ý phản loạn chống lại Chúa, mà ngày nay quay bỏ Ngài, không theo Chúa nữa, rồi xây cho mình một bàn thờ để dâng trên đó các của lễ thiêu, các của lễ chay, hay các sinh tế, khác với bàn thờ của Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, ở phía trước Ðền Tạm đâu.”

30 Khi Tư Tế Phi-nê-a và các thủ lãnh của hội chúng, tức những vị lãnh đạo các chi tộc I-sơ-ra-ên, đi với ông nghe những lời của người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se nói với họ, họ lấy làm mát dạ. 31 Tư Tế Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-xa nói với người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se, “Hôm nay chúng ta biết Chúa thật đang ngự giữa chúng ta, vì anh em không có ý phản bội Chúa. Quả thật anh em đã cứu dân I-sơ-ra-ên khỏi tay Chúa.”

32 Sau đó Tư Tế Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-xa và các thủ lãnh từ giã người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se, trở về xứ Ca-na-an. Họ đến với dân I-sơ-ra-ên và tường trình cho họ những gì họ đã ghi nhận. 33 Lời tường trình đó làm hài lòng dân I-sơ-ra-ên. Dân I-sơ-ra-ên dâng lời ca ngợi Ðức Chúa Trời và không bàn đến việc tham chiến để tàn phá lãnh thổ của người Ru-bên và người Gát đã định cư nữa. 34 Người Ru-bên và người Gát gọi bàn thờ ấy là “Chứng Tích” vì họ bảo rằng, “Bàn thờ ấy sẽ làm một chứng tích ở giữa chúng tôi rằng Chúa là Ðức Chúa Trời.”

Giô-suê Khuyên Dân

23 Một thời gian khá lâu trôi qua, Chúa đã ban cho I-sơ-ra-ên được nghỉ ngơi và khỏi phải đối phó với mọi quân thù chung quanh. Bấy giờ Giô-suê đã già và cao tuổi. Giô-suê triệu tập toàn thể I-sơ-ra-ên lại, tức các vị trưởng lão, các thủ lãnh, các quan xét, và các vị chỉ huy. Ông nói với họ:

“Bây giờ tôi đã già và cao tuổi. Anh chị em đã chứng kiến thể nào Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, đã làm cho tất cả các dân đó vì cớ anh chị em; Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, đã chiến đấu cho anh chị em. Này, tôi đã cho bắt thăm chia xứ của các dân còn sót lại và xứ của các dân đã bị tôi tiêu diệt từ bờ Sông Giô-đanh đến Biển Lớn ở phía tây cho các chi tộc của anh chị em làm sản nghiệp. Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, sẽ đánh lui chúng trước mặt anh chị em và loại trừ chúng khỏi mắt anh chị em. Anh chị em sẽ chiếm lấy xứ của chúng như Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, đã hứa với anh chị em. Vì thế anh chị em phải hết sức cẩn thận vâng giữ và làm theo mọi điều đã chép trong sách luật pháp của Môi-se; chớ quay khỏi mọi điều ấy, dù qua bên phải hoặc bên trái, để anh chị em sẽ không bị đồng hóa với các dân còn sót lại giữa anh chị em. Anh chị em chớ nhắc đến tên các thần của chúng, hoặc nhân danh các thần ấy mà thề, hoặc sấp mình xuống thờ lạy các thần ấy. Nhưng anh chị em phải bám chặt lấy Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, như anh chị em đã làm cho đến ngày nay. Chúa đã đánh đuổi những dân lớn và mạnh đi khỏi mặt anh chị em. Còn về phần anh chị em, đến ngày nay vẫn không ai có thể chống nổi anh chị em. 10 Một người trong anh chị em có thể đánh đuổi một ngàn người bỏ chạy, bởi vì chính Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, chiến đấu cho anh chị em, như Ngài đã hứa với anh chị em. 11 Vậy hãy hết sức cẩn thận yêu kính Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em. 12 Vì nếu anh chị em quay đi và kết hiệp với những kẻ còn sót lại của các dân đang ở giữa anh chị em, nếu anh chị em dựng vợ gả chồng với chúng, tức cưới phụ nữ của chúng làm vợ và gả con gái của mình cho chúng, 13 thì anh chị em khá biết chắc rằng Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, sẽ không tiếp tục đuổi các dân ấy đi khỏi mắt anh chị em đâu; nhưng chúng sẽ trở thành một cái bẫy và một bẫy sập để bắt lấy anh chị em, một roi dây có móc sắt quất vào hông anh chị em, và những cây gai châm vào mắt anh chị em, cho đến khi anh chị em bị diệt mất khỏi xứ tốt đẹp mà Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, đã ban cho anh chị em.

14 Bây giờ tôi sắp sửa đi qua con đường mà mọi loài trên đất đều phải đi. Từ trong đáy lòng và trong linh hồn anh chị em, tất cả anh chị em đều biết rõ rằng mọi điều tốt đẹp mà Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, đã hứa với anh chị em, thì không một điều nào Ngài không thực hiện. Tất cả đều được ứng nghiệm cho anh chị em; không điều nào là không được thực hiện. 15 Nhưng giống như mọi điều tốt đẹp mà Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, đã hứa cho anh chị em đều được thực hiện cho anh chị em, thì Chúa cũng sẽ đem mọi điều dữ đến với anh chị em cho đến khi Ngài tiêu diệt anh chị em khỏi xứ tốt đẹp nầy mà Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, đã ban cho anh chị em, 16 nếu anh chị em vi phạm giao ước của Chúa, Ðức Chúa Trời của anh chị em, mà Ngài đã truyền cho anh chị em phải giữ, và nếu anh chị em đi, phục vụ các thần khác, và sấp mình xuống thờ lạy chúng. Cơn giận của Chúa ắt sẽ nổi phừng lên nghịch lại anh chị em, rồi anh chị em sẽ chóng bị diệt mất khỏi xứ tốt đẹp mà Ngài đã ban cho anh chị em.”

Lễ Tái Cam Kết Giữ Giao Ước

24 Bấy giờ Giô-suê triệu tập tất cả chi tộc của dân I-sơ-ra-ên lại tại Sê-chem. Ông mời các vị trưởng lão, các thủ lãnh, các quan xét, và các vị chỉ huy của I-sơ-ra-ên đến, rồi ông trình diện họ trước mặt Ðức Chúa Trời. Kế đó Giô-suê nói với toàn dân:

Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên phán thế nầy: ‘Thuở xưa tổ tiên của các ngươi, Tê-ra cha của Áp-ra-ham và cha của Na-hô, sống ở bên kia Sông Cả[d] và thờ các thần khác. Ta đã đem Áp-ra-ham tổ phụ các ngươi từ bên kia Sông Cả, rồi dẫn nó qua khắp xứ Ca-na-an và làm cho dòng dõi nó trở nên đông đúc. Ta ban cho nó I-sác; Ta ban cho I-sác hai con là Gia-cốp và Ê-sau. Ta ban cho Ê-sau miền cao nguyên Sê-i-rơ để làm sản nghiệp, nhưng Gia-cốp và các con cháu nó đi xuống Ai-cập. Bấy giờ Ta đã sai Môi-se và A-rôn, và Ta cũng đã sai các tai họa đến với Ai-cập để đánh phạt chúng; sau đó Ta đã đem các ngươi ra đi. Khi Ta đem tổ tiên các ngươi ra khỏi Ai-cập, các ngươi đi đến bờ biển. Người Ai-cập dùng xe chiến mã và kỵ binh đuổi theo tổ tiên các ngươi đến tận Hồng Hải.[e] Khi họ kêu cầu với Chúa, Ta[f] đã cho bóng tối đến ngăn cách giữa các ngươi và người Ai-cập, sau đó Ta đã dùng nước biển phủ trên chúng và chôn vùi chúng. Chính mắt các người đã thấy những gì Ta làm cho người Ai-cập. Sau đó các ngươi đã sống trong đồng hoang một thời gian khá lâu. Kế đó Ta đã đem các ngươi ra khỏi xứ của dân A-mô-ri, tức dân sống ở bên kia Sông Giô-đanh. Chúng đã giao chiến với các ngươi, nhưng Ta đã trao chúng vào tay các ngươi. Các ngươi đã chiếm lấy xứ sở của chúng, và Ta đã tiêu diệt chúng trước mắt các ngươi. Khi ấy Ba-lác con trai Xíp-pô ở Mô-áp kéo quân ra đánh I-sơ-ra-ên. Nó sai người đi mời Ba-la-am con trai Bê-ô đến nguyền rủa các ngươi, 10 nhưng Ta không muốn nhậm lời của Ba-la-am, nên nó phải chúc phước cho các ngươi, và Ta đã cứu các ngươi khỏi tay Ba-lác. 11 Khi các ngươi đi qua Sông Giô-đanh và tiến đến Giê-ri-cô, dân Giê-ri-cô đã nghinh chiến với các ngươi, cũng có các dân A-mô-ri, dân Pê-ri-xi, dân Ca-na-an, dân Hít-ti, dân Ghi-ga-si, dân Hi-vi, và dân Giê-bu-si ra đánh các ngươi, nhưng Ta đã trao tất cả chúng vào tay các ngươi. 12 Ta đã sai ong độc đi trước các ngươi. Chúng đã đuổi hai vua dân A-mô-ri trước mắt các ngươi. Ấy là chúng đã làm điều đó, chứ không phải do cung tên của các ngươi. 13 Ta đã ban cho các ngươi xứ sở mà các ngươi không phải lao động vất vả mới có được, và các thành mà các ngươi không phải bỏ công xây cất. Các ngươi đã sống trong các thành ấy. Các ngươi đã ăn trái của những vườn nho và những vườn ô-liu mà các ngươi không trồng.’

14 Vậy bây giờ anh chị em hãy kính sợ Chúa, hãy thờ Ngài một cách chân thành và trung tín. Hãy bỏ các thần mà tổ phụ anh chị em đã thờ bên kia Sông Cả và trong đất Ai-cập; anh chị em hãy thờ chỉ một mình Chúa mà thôi. 15 Bây giờ nếu anh chị em không muốn thờ Chúa, thì hôm nay hãy chọn lấy thần nào mình muốn thờ, hoặc các thần tổ tiên anh chị em đã thờ bên kia Sông Cả, hoặc các thần của dân A-mô-ri trong xứ anh chị em đang sống đây, nhưng tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ thờ Chúa.”

16 Bấy giờ dân trả lời, “Không đời nào chúng tôi bỏ Chúa mà thờ các thần khác đâu, 17 bởi vì chính Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi, đã đem chúng tôi và tổ tiên chúng tôi lên từ xứ Ai-cập, ra khỏi nhà nô lệ, và đã làm những việc lớn lao lạ lùng trước mắt chúng tôi. Ngài đã bảo vệ chúng tôi suốt cuộc hành trình mà chúng tôi đã đi qua, giữa mọi dân mà chúng tôi đã đi xuyên qua. 18 Ngoài ra Chúa còn đuổi khỏi mắt chúng tôi mọi dân, kể cả dân A-mô-ri đã sống trong xứ. Vì thế chúng tôi sẽ tiếp tục thờ Chúa, vì Ngài là Ðức Chúa Trời của chúng tôi.”

19 Nhưng Giô-suê nói với dân, “Anh chị em sẽ không thể thờ Chúa đâu, bởi vì Ngài là Ðức Chúa Trời thánh khiết, và là Ðức Chúa Trời ghen tương. Ngài sẽ không tha thứ những vi phạm và những tội lỗi của anh chị em đâu. 20 Nếu anh chị em bỏ Chúa mà thờ các thần khác, Ngài sẽ quay lại làm hại anh chị em và tiêu diệt anh chị em, mặc dù trước đó Ngài đã ban phước cho anh chị em.”

21 Nhưng dân đáp với Giô-suê, “Không đâu, chúng tôi quyết chỉ thờ Chúa mà thôi!”

22 Bấy giờ Giô-suê nói với dân, “Vậy anh chị em hãy làm các nhân chứng cho chính mình để xác nhận rằng chính anh chị em đã chọn Chúa để chỉ thờ Ngài.”

Họ đáp, “Chúng tôi xin làm các nhân chứng ấy.”

23 Ông nói, “Vậy hãy dẹp bỏ tất cả các thần của các dân ngoại khỏi giữa anh chị em và hãy hướng lòng của anh chị em về Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên.”

24 Dân đáp với Giô-suê, “Chúng tôi sẽ thờ Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi, và chúng tôi sẽ vâng lời Ngài.”

25 Vậy ngày hôm đó Giô-suê lập một giao ước với dân và lập những luật lệ và mạng lịnh với họ tại Sê-chem. 26 Giô-suê ghi những lời đó trong sách luật pháp của Ðức Chúa Trời; rồi ông lấy một tảng đá lớn và dựng nó lên dưới cây sồi trong nơi thánh của Chúa. 27 Giô-suê nói với toàn dân, “Này, tảng đá nầy sẽ làm chứng cho chúng ta, vì nó đã nghe mọi lời Chúa phán với chúng ta, vì thế nó sẽ làm chứng cho chúng ta nếu chúng ta phản bội Ðức Chúa Trời chúng ta.” 28 Sau đó Giô-suê tiễn họ trở về sản nghiệp của họ.

Giô-suê và Ê-lê-a-xa Qua Ðời

29 Sau các việc đó Giô-suê con trai của Nun, tôi tớ Chúa, qua đời. Ông hưởng thọ một trăm mười tuổi. 30 Người ta chôn ông trong sản nghiệp của ông ở Tim-nát Sê-ra, trong vùng cao nguyên Ép-ra-im, nằm về phía bắc Núi Ga-ách.

31 Dân I-sơ-ra-ên thờ phượng Chúa suốt đời của Giô-suê và suốt đời của tất cả các vị trưởng lão sống sau Giô-suê và biết rõ mọi điều Chúa đã làm cho I-sơ-ra-ên.

32 Hài cốt của Giô-sép mà dân I-sơ-ra-ên đã đem từ Ai-cập lên cũng được chôn tại Sê-chem trong phần đất mà Gia-cốp đã mua của con cháu Ha-mô cha của Sê-chem với giá một trăm miếng bạc. Nơi đó đã trở thành gia sản của con cháu Giô-sép.

33 Sau đó Ê-lê-a-xa con trai A-rôn cũng qua đời. Người ta chôn ông tại Ghi-bê-a, thành của Phi-nê-a con trai ông; đó là thành người ta đã ban cho Phi-nê-a trong vùng cao nguyên Ép-ra-im.

Chi Tộc Giu-đa và Chi Tộc Si-mê-ôn Ðánh Bại A-đô-ni Bê-xéc

Sau khi Giô-suê qua đời, dân I-sơ-ra-ên cầu hỏi Chúa, “Ai trong chúng con sẽ đi đánh dân Ca-na-an trước?”

Chúa phán, “Chi tộc Giu-đa sẽ lên đánh trước. Nầy, Ta sẽ trao xứ ấy vào tay chúng.”

Người Giu-đa nói với người Si-mê-ôn anh em của họ, “Xin anh em lên phụ đánh dân Ca-na-an giúp chúng tôi trong phần đất đã chia cho chúng tôi, sau đó chúng tôi sẽ đi với anh em đánh lấy phần đất đã chia cho anh em.” Vậy người Si-mê-ôn đi lên với họ.

Thế là người Giu-đa đi lên, và Chúa trao dân Ca-na-an và dân Pê-ri-xi vào tay họ. Họ đánh hạ mười ngàn người tại Bê-xéc. Họ đương đầu với Vua A-đô-ni Bê-xéc ở Bê-xéc. Tại đó họ giao chiến với ông và đánh bại dân Ca-na-an và dân Pê-ri-xi. A-đô-ni Bê-xéc chạy trốn nhưng họ đuổi theo và bắt được ông. Họ chặt đứt hai ngón tay cái và hai ngón chân cái của ông. A-đô-ni Bê-xéc nói, “Ðã có bảy mươi vua bị chặt đứt hai ngón tay cái và hai ngón chân cái phải lượm thức ăn rớt dưới bàn ta mà ăn. Những gì ta đã làm cho người khác bây giờ Ðức Chúa Trời báo trả trên ta.” Họ dẫn ông đến Giê-ru-sa-lem và ông chết tại đó.

Chi Tộc Giu-đa Chinh Phục Giê-ru-sa-lem và Hếp-rôn

Người Giu-đa tiến đánh Giê-ru-sa-lem và chiếm lấy thành. Họ dùng gươm tiêu diệt quân trong thành rồi phóng hỏa đốt thành. Sau đó người Giu-đa tiến xuống tấn công dân Ca-na-an sống ở vùng cao nguyên, miền nam, và vùng đồng bằng. 10 Người Giu-đa cũng tiến đánh dân Ca-na-an sống ở Hếp-rôn – tên của Hếp-rôn trước kia là Ki-ri-át Ạc-ba. Họ đánh hạ các thành Sê-sai, A-hi-man, và Tanh-mai.

Ốt-ni-ên Chinh Phục Ðê-bi

(Gsuê 15:13-19)

11 Từ đó họ tiến đánh dân Thành Ðê-bi – tên của Ðê-bi trước kia là Ki-ri-át Sê-phe. 12 Lúc ấy Ca-lép tuyên bố, “Ai tấn công Ki-ri-át Sê-phe và chiếm được nó, tôi sẽ gả Ách-sa con gái của tôi làm vợ người ấy.” 13 Ốt-ni-ên con trai Kê-na, Kê-na là em trai của Ca-lép, đánh hạ được thành ấy, vì thế Ca-lép gả Ách-sa con gái của ông làm vợ Ốt-ni-ên. 14 Khi Ách-sa về nhà chồng, chồng nàng giục nàng[g] xin cha nàng một cánh đồng.

Lúc nàng xuống lưng lừa, Ca-lép hỏi nàng, “Con muốn gì đây?”

15 Nàng đáp, “Con muốn xin cha một món quà; bây giờ cha đã gả con về miền nam, xin cha cho con các suối nước.”

Ca-lép cho nàng các suối nước ở miền trên và các suối nước ở miền dưới.

Chiến Thắng của Chi Tộc Giu-đa

16 Các con cháu của Kê-nít, nhạc phụ của Môi-se, từ Thành Các Cây Kè đi lên chung với người Giu-đa. Họ đến định cư ở giữa dân A-ma-léc[h] đang sống trong vùng đồng hoang của Giu-đa, tức vùng phía nam, gần A-rát.

17 Người Giu-đa và người Si-mê-ôn anh em của họ đi lên đánh bại dân Ca-na-an ngụ tại Xê-phát và hủy diệt nơi ấy. Vì thế họ gọi nơi ấy là Họt-ma.[i] 18 Người Giu-đa chiếm lấy Ga-xa cùng lãnh thổ chung quanh nó, Ách-kê-lôn cùng lãnh thổ chung quanh nó, và Éc-rôn cùng lãnh thổ chung quanh nó. 19 Chúa ở cùng người Giu-đa và họ chiếm lấy vùng cao nguyên; nhưng họ không thể đuổi dân Ca-na-an ở vùng đồng bằng đi được, vì chúng có thiết xa.

20 Theo lịnh của Môi-se đã truyền, người ta ban Hếp-rôn cho Ca-lép. Ông đuổi ba con trai của A-nác ra khỏi vùng ấy.

21 Nhưng người Bên-gia-min không đuổi được dân Giê-bu-si ngụ tại Giê-ru-sa-lem đi, nên dân Giê-bu-si vẫn sống tại Giê-ru-sa-lem giữa người Bên-gia-min cho đến ngày nay.

Nhà Giô-sép Chinh Phục Bê-tên

22 Nhà Giô-sép cũng lên tiến đánh Bê-tên, và Chúa ở với họ. 23 Nhà Giô-sép sai các thám tử đến do thám Bê-tên – tên của thành ấy trước kia là Lu-xơ. 24 Các thám tử thấy một người trong thành đi ra, họ hỏi người ấy, “Hãy chỉ cho chúng tôi lối vào thành, chúng tôi sẽ đối xử tử tế với anh.” 25 Vậy người ấy chỉ cho họ lối vào thành. Họ dùng gươm tiêu diệt thành, nhưng để cho người ấy và gia đình người ấy đi. 26 Vậy người ấy đến trong xứ của dân Hít-ti, xây dựng một thành, và đặt tên là Lu-xơ. Ấy là tên của thành đó cho đến ngày nay.

Các Dân Người I-sơ-ra-ên Chừa Lại

27 Người Ma-na-se không đuổi được dân ở Bết Sê-an và các làng chung quanh nó, hay dân ở Ta-a-nách và các làng chung quanh nó, hay dân ở Ðô và các làng chung quanh nó, hay dân ở Íp-lê-am và các làng chung quanh nó, hay dân ở Mê-ghi-đô và các làng chung quanh nó; nên dân Ca-na-an vẫn cứ ở trong các nơi đó. 28 Khi dân I-sơ-ra-ên cường thịnh, họ bắt dân Ca-na-an phục dịch họ, nhưng họ không đuổi chúng đi.

29 Người Ép-ra-im không đuổi dân Ca-na-an sống ở Ghê-xe đi; nhưng dân Ca-na-an sống ở giữa họ tại Ghê-xe.

30 Người Xê-bu-lun không đuổi dân ở Kít-rôn, hoặc dân ở Na-ha-lôn đi, nhưng dân Ca-na-an vẫn sống ở giữa họ và bị bắt phải phục dịch họ.

31 Người A-se không đuổi dân ở Ắc-cô, dân ở Si-đôn, dân ở A-láp, dân ở Ách-xíp, dân ở Hên-ba, dân ở A-phích, hay dân ở Rê-hốp đi; 32 nhưng người A-se lập nghiệp ở giữa dân Ca-na-an, tức dân cư trong xứ, vì họ không đuổi chúng đi.

33 Người Náp-ta-li không đuổi dân ở Bết Sê-mết hay dân ở Bết A-nát đi, nhưng họ lập nghiệp ở giữa dân Ca-na-an, tức dân cư trong xứ. Tuy nhiên dân Bết Sê-mết và dân Bết A-nát bị bắt phải phục dịch họ.

34 Dân A-mô-ri dồn người Ðan lên cao nguyên sống. Chúng không cho họ xuống đồng bằng. 35 Dân A-mô-ri tiếp tục cư ngụ tại Hạc Hê-rét, Ai-gia-lôn, và Sa-anh-bim. Tuy nhiên tay của nhà Giô-sép đè nặng trên chúng, và chúng bị bắt phải phục dịch họ. 36 Ðịa phận của dân A-mô-ri chạy từ Ðèo Bò Cạp, tức từ Núi Ðá trở lên.

Bấy giờ Thiên Sứ của Chúa đi từ Ghinh-ganh đến Bô-kim và phán rằng, “Ta đã đem các ngươi lên khỏi đất Ai-cập, và Ta đã đem các ngươi vào xứ Ta đã hứa với tổ tiên các ngươi. Ta đã phán, ‘Ta sẽ không bao giờ hủy bỏ giao ước Ta đã lập với các ngươi. Phần các ngươi, các ngươi không được lập giao ước với các dân trong xứ nầy nhưng phải phá đổ các bàn thờ của chúng.’ Tuy nhiên các ngươi không vâng lệnh Ta. Tại sao các ngươi làm như vậy? Vì thế bây giờ Ta phán, ‘Ta sẽ không đuổi chúng đi khỏi mặt các ngươi nữa, nhưng chúng sẽ trở thành những mũi gai ở hai bên hông các ngươi, và các thần tượng của chúng sẽ là cái bẫy cho các ngươi.’”

Sau khi Thiên Sứ của Chúa phán những lời ấy cho cả dân I-sơ-ra-ên, dân chúng cất tiếng lên khóc. Vì thế họ đặt tên chỗ đó là Bô-kim,[j] rồi họ dâng của tế lễ lên Chúa tại đó.

Giô-suê Qua Ðời

(Gsuê 24:29-31)

Sau khi Giô-suê cho dân chúng ra về, mọi người I-sơ-ra-ên trở về sản nghiệp của mình và chiếm lấy xứ. Dân I-sơ-ra-ên thờ Chúa trọn đời của Giô-suê và trọn đời của các trưởng lão sống lâu hơn Giô-suê; họ là những người đã chứng kiến tận mắt những việc lớn lao mà Chúa đã làm cho I-sơ-ra-ên. Giô-suê con trai của Nun, tôi tớ Chúa, qua đời lúc một trăm mười tuổi. Người ta chôn ông trong địa phận thuộc sản nghiệp của ông ở Tim-nát Hê-re, nằm trong miền cao nguyên Ép-ra-im, về phía bắc Núi Ga-ách.

10 Sau đó cả thế hệ ấy đều quy về cùng tổ tiên của họ, một thế hệ khác lớn lên kế tiếp họ. Thế hệ mới nầy chẳng biết Chúa và cũng không biết gì về những việc Ngài đã làm cho I-sơ-ra-ên.

Dân I-sơ-ra-ên Bỏ CHÚA

11 Khi ấy dân I-sơ-ra-ên làm điều tội lỗi trước mặt Chúa và thờ phượng các Thần Ba-anh. 12 Họ bỏ Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên họ, Ðấng đã đem họ ra khỏi đất Ai-cập, mà theo các thần khác, tức các thần của các dân sống chung quanh họ; họ quỳ lạy trước các thần ấy, và họ chọc giận Chúa. 13 Họ bỏ Chúa mà thờ phượng Thần Ba-anh và Nữ Thần Ách-ta-rốt.[k] 14 Vì thế cơn giận của Chúa đã bừng lên nghịch lại I-sơ-ra-ên. Ngài phó họ cho quân cướp để chúng cướp bóc họ; Ngài bán họ vào tay quân thù của họ ở chung quanh họ, để họ không thể chống nổi những kẻ thù của họ. 15 Mỗi khi họ xuất quân ra trận, tay Chúa nghịch lại họ, khiến họ gặp rủi ro, y như Chúa đã cảnh cáo họ và thề với họ trước kia. Vậy họ đã sống trong cảnh cực kỳ bi đát.

16 Sau đó Chúa dấy lên các thủ lãnh để giải cứu họ ra khỏi quyền lực của những kẻ cướp bóc họ. 17 Dầu vậy họ vẫn không chịu nghe theo các thủ lãnh đó, vì họ mê đắm các thần khác và quỳ lạy trước mặt các thần ấy. Họ vội xây bỏ con đường mà tổ tiên họ, những người đã vâng theo mạng lịnh Chúa, đã đi. Họ không noi theo gương của tổ tiên họ. 18 Mỗi khi Chúa dấy lên một thủ lãnh để lãnh đạo họ, Chúa ở cùng vị thủ lãnh đó. Trọn đời của vị thủ lãnh đó Ngài giải thoát họ khỏi tay các kẻ thù, vì Chúa đã động lòng thương xót họ khi nghe họ rên rỉ thở than vì bị quân thù bách hại và đàn áp. 19 Nhưng mỗi khi vị thủ lãnh của họ qua đời, họ liền quay trở về đường cũ. Họ càng trở nên tệ hơn các bậc tiền bối của họ. Họ tin theo các thần khác, thờ phượng các thần ấy, và quỳ lạy trước mặt chúng. Họ chẳng chịu từ bỏ sự thờ phượng sai lạc của họ và cũng chẳng chịu bỏ những đường lối ương ngạnh của họ. 20 Vì thế cơn giận của Chúa đã bừng lên nghịch lại I-sơ-ra-ên, và Ngài phán, “Bởi vì dân nầy đã cố tình vi phạm giao ước Ta đã lập với tổ tiên chúng, và chúng không chịu vâng theo lời Ta, 21 Ta sẽ không đuổi đi khỏi chúng các dân Giô-suê còn chừa lại trước khi qua đời nữa, 22 để thử xem dân I-sơ-ra-ên có bước đi trong đường lối của Chúa như tổ tiên của chúng đã làm chăng.” 23 Vậy Chúa chừa lại các dân đó, không đuổi chúng đi ngay, và đã không trao chúng vào tay Giô-suê.

Các Dân Còn Lại trong Xứ

Ðây là các dân mà Chúa còn chừa lại để dùng họ thử thách những người I-sơ-ra-ên chưa có kinh nghiệm chiến đấu ở Ca-na-an (Ngài làm thế chỉ vì muốn dùng chúng để dạy những thế hệ mới của I-sơ-ra-ên về chiến trận; ấy là những kẻ chưa hề thấy những trận chiến ngày trước): Năm lãnh chúa của dân Phi-li-tin, các dân Ca-na-an, dân Si-đôn, và dân Hi-vi cư ngụ trên rặng Núi Li-băng từ Núi Ba-anh Hẹt-môn cho đến Lê-bô Ha-mát. Các dân ấy được dùng để thử lòng dân I-sơ-ra-ên, xem họ có vâng theo các điều răn mà Chúa đã dùng Môi-se truyền dạy cho các tổ tiên của họ chăng. Vì thế dân I-sơ-ra-ên đã sống lẫn lộn giữa dân Ca-na-an, dân Hít-ti, dân A-mô-ri, dân Pê-ri-xi, dân Hi-vi, và dân Giê-bu-si. Họ cưới các con gái của chúng làm vợ, gả các con gái của họ cho các con trai của chúng, và thờ lạy các thần của chúng.

Ốt-ni-ên

Dân I-sơ-ra-ên làm điều tội lỗi trước mặt Chúa, họ quên Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, mà thờ phượng các Thần Ba-anh và Nữ Thần A-sê-ra. Vì vậy cơn giận của Chúa bừng lên nghịch lại I-sơ-ra-ên. Ngài phó họ vào tay Cút-san Ri-sa-tha-im vua A-ram Na-ha-ra-im. Dân I-sơ-ra-ên phục vụ Cút-san Ri-sa-tha-im tám năm. Nhưng khi dân I-sơ-ra-ên kêu cầu Chúa, Chúa dấy lên một người giải cứu dân I-sơ-ra-ên; người ấy là Ốt-ni-ên con trai Kê-na – Kê-na là em trai của Ca-lép. 10 Thần của Chúa ngự trên ông và ông xử đoán trong I-sơ-ra-ên. Ông dấy binh khởi nghĩa, và Chúa phó Cút-san Ri-sa-tha-im vua A-ram vào tay ông; tay ông thắng hơn Cút-san Ri-sa-tha-im. 11 Nhờ thế xứ được hòa bình bốn mươi năm. Sau đó Ốt-ni-ên con trai của Kê-na qua đời.

Ê-hút

12 Dân I-sơ-ra-ên lại làm điều tội lỗi trước mặt Chúa, nên Chúa cho Éc-lon vua Mô-áp mạnh hơn I-sơ-ra-ên, bởi vì họ đã làm điều tội lỗi trước mặt Chúa. 13 Éc-lon liên minh với dân Am-môn và dân A-ma-léc rồi xuất quân đánh bại dân I-sơ-ra-ên. Chúng chiếm được Thành Các Cây Kè. 14 Thế là dân I-sơ-ra-ên phải phục vụ Éc-lon vua Mô-áp mười tám năm.

15 Nhưng khi dân I-sơ-ra-ên kêu cầu Chúa, Chúa dấy lên một người giải cứu; người ấy là Ê-hút con trai của Ghe-ra, thuộc chi tộc Bên-gia-min. Ê-hút là người thuận tay trái. Dân I-sơ-ra-ên phái ông đem cống vật đến Éc-lon vua Mô-áp. 16 Ê-hút tự làm lấy một đoản gươm hai lưỡi, dài khoảng năm tấc.[l] Ông buộc nó trong đùi phải, khuất dưới áo quần; 17 rồi ông mang cống vật đến nộp cho Éc-lon vua Mô-áp. Vả, Éc-lon là một người rất mập. 18 Khi Ê-hút trình dâng các cống vật xong, ông cho những người mang cống vật đi về trước. 19 Còn ông, khi đến hầm đục đá gần Ghinh-ganh, ông quay trở lại và nói, “Tâu vua, tôi có một việc bí mật muốn tâu riêng với ngài.”

Vua phán, “Im lặng!”

Tất cả những kẻ hầu cận của vua đều lui ra. 20 Ðang khi vua ngồi một mình nơi lầu mát, Ê-hút đến gần vua và nói, “Tôi có một sứ điệp từ Ðức Chúa Trời cho ngài.” Vừa khi vua đứng dậy khỏi ngai, 21 Ê-hút dùng tay trái rút đoản gươm dấu nơi đùi phải và đâm mạnh vào bụng Éc-lon. 22 Cán gươm lút theo với lưỡi, mỡ phủ lại quanh lưỡi gươm, và ruột lòi ra. Ông để nguyên đoản gươm trong bụng, không rút ra, vì nó thấu đến sau lưng. 23 Ê-hút đóng tất cả cửa lầu mát lại, khóa chặt các cửa, rồi lẻn đi.

24 Sau khi Ê-hút đã đi rồi, các tôi tớ của vua trở lại và thấy các cửa lầu mát đều khóa chặt, họ nghĩ, “Chắc nhà vua đang nghỉ trong lầu mát.” 25 Vì thế họ đứng đợi bên ngoài cho đến khi bối rối. Họ cứ đợi mãi mà vẫn thấy vua không mở cửa, nên họ lấy chìa khóa và mở cửa vào. Kìa, vua họ đã nằm chết dưới sàn nhà.

26 Ðang khi họ bối rối và lính quýnh, thì Ê-hút đã chạy thoát được, vượt qua khu tạc tượng đá, và chạy về Sê-i-ra. 27 Về đến nơi, ông thổi kèn tập họp quân dân trong miền cao nguyên Ép-ra-im. Dân I-sơ-ra-ên nhóm lại theo ông xuống núi. Ông đi trước dẫn đầu họ.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang