Bible in 90 Days
15 Trong niềm hân hoan vui mừng họ được dẫn vào cung vua.
16 Các con trai Ngài sẽ nối dòng tổ phụ,
Ngài sẽ lập chúng làm vương, hầu trên khắp trái đất.
17 Ta sẽ làm danh ngươi được ghi nhớ mãi mãi.
Vì vậy các dân sẽ ca ngợi ngươi đời đời.
Thơ Con Cháu Cô-rê Làm Theo Điệu A-la-mốt
46 Đức Chúa Trời là nơi trú ẩn và sức lực chúng ta.
Ngài sẵn sàng[a] giúp đỡ lúc gian truân.
2 Vì vậy, chúng ta sẽ không sợ dù quả đất biến đổi,
Núi đồi rung chuyển và đổ xuống lòng biển.[b]
3 Dù đại dương gầm thét và sôi bọt,
Dù núi đồi lay chuyển và náo động. Sê-la
4 Có một con sông, các dòng nước nó làm vui thành Đức Chúa Trời,
Là nơi ngự thánh của Đấng Chí Cao.
5 Đức Chúa Trời ở giữa thành ấy, thành sẽ không bị lay chuyển.
Vừa hừng đông Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ thành.
6 Các nước náo động, các vương quốc ngả nghiêng.
Đức Chúa Trời[c] lên tiếng, quả đất liền tan chảy.
7 CHÚA Vạn Quân ở cùng chúng ta.
Đức Chúa Trời của Gia-cốp là thành lũy chúng ta. Sê-la
8 Hãy đến xem các công việc của CHÚA,
Đấng làm cho đất hoang tàn.
9 Ngài dẹp yên chiến tranh đến tận cùng trái đất.
Ngài bẻ gẫy cung, đập nát giáo
Và đốt xe trong lửa.
10 Hãy yên lặng và biết rằng chính Ta là Đức Chúa Trời.
Ta sẽ được tán dương giữa các nước
Và được tôn cao trên đất.
11 CHÚA Vạn Quân ở cùng chúng ta.
Đức Chúa Trời của Gia-cốp là thành lũy của chúng ta. Sê-la
Thơ Con Cháu Cô-rê Làm
47 Hỡi các dân, hãy vỗ tay.
Hãy reo mừng chiến thắng cho Đức Chúa Trời.
2 Vì CHÚA Chí Cao[d] thật đáng kính sợ,
Là Vua lớn trên toàn trái đất.
3 Ngài khiến các dân quy phục chúng tôi,
Làm các nước phục dưới chân chúng tôi.
4 Ngài chọn cơ nghiệp cho chúng tôi,
Là niềm kiêu hãnh của Gia-cốp[e] người Ngài yêu mến. Sê-la
5 Đức Chúa Trời ngự lên trong tiếng reo hò chiến thắng,
CHÚA đi lên giữa tiếng kèn vang dậy.
6 Hãy hát lên ca ngợi Đức Chúa Trời, hãy hát lên.
Hãy hát lên ca ngợi Vua chúng ta, hãy hát lên.
7 Vì Đức Chúa Trời là vua của cả trái đất.
Hãy hát thánh thi[f] mà ca ngợi Ngài.
8 Đức Chúa Trời cai trị các nước,
Đức Chúa Trời ngự trên ngôi thánh Ngài.
9 Hoàng tử của thế gian nhóm họp lại
Làm dân Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham.
Vì các bậc quyền thế[g] trên đất đều thuộc về Đức Chúa Trời.
Ngài được tôn rất cao.
Thơ Con Cháu Cô-rê Làm. Bài Hát
48 CHÚA thật vĩ đại, rất đáng được ca ngợi
Trong thành của Đức Chúa Trời chúng ta và trên núi thánh Ngài.
2 Núi thánh Ngài cao vút đẹp đẽ,
Là niềm vui cho toàn trái đất.
Núi Si-ôn, đỉnh cao của Sa-phan,
Là thành đô của vua lớn.
3 Từ giữa các đền đài[h] của thành ấy,
Đức Chúa Trời chứng tỏ Ngài là nơi trú ẩn vững vàng.
4 Vì kìa, các vua tụ họp lại,
Cùng nhau tiến lên đánh thành.
5 Họ thấy thành nên kinh hoàng
Và hoảng sợ tháo chạy.
6 Tại đó, họ run rẩy rụng rời,[i]
Đau đớn như đàn bà sinh đẻ.
7 Như các tàu Ta-rê-si
Bị gió đông đánh tan nát.
8 Những gì chúng tôi đã nghe,
Thì chúng tôi đã thấy
Trong thành của CHÚA Vạn Quân,
Tức là thành của Đức Chúa Trời chúng ta.
Đức Chúa Trời vững lập thành muôn đời.
9 Lạy Đức Chúa Trời, tại giữa đền thờ Ngài,
Chúng tôi suy gẫm về tình yêu thương của Ngài.
10 Lạy Đức Chúa Trời, danh Ngài thể nào,
Thì lời ca ngợi Ngài cũng vang ra tận cùng trái đất thể ấy.
Tay hữu Ngài đầy sự công bình.
11 Núi Si-ôn hân hoan,
Các con gái[j] Giu-đa mừng rỡ
Vì sự đoán xét của Ngài.
12 Hãy đi khắp Si-ôn, đi vòng quanh thành,
Đếm các ngọn tháp nó.
13 Hãy chú ý đến các chỗ kiên cố,[k]
Xem xét[l] các thành lũy,
Để thuật lại cho thế hệ tương lai
14 Rằng: Ngài là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời của chúng ta.
Chính Ngài sẽ hướng dẫn chúng ta mãi mãi.[m]
Thơ Con Cháu Cô-rê Làm
49 Hỡi các dân, hãy nghe điều này,
Hỡi toàn thể dân cư trên thế giới, hãy lắng tai nghe.
2 Cả người bình dân[n] hay quyền thế.[o]
Cả người giàu sang lẫn nghèo hèn.
3 Miệng tôi sẽ nói những lời khôn ngoan.[p]
Sự suy tư trong lòng tôi là những điều thông sáng.[q]
4 Tôi sẽ lắng tai nghe lời châm ngôn,
Tôi sẽ giải câu đố với đàn hạc phụ họa.
5 Tại sao tôi phải sợ trong ngày tai họa?
Khi kẻ thù gian ác[r] bao vây tôi?
6 Là những kẻ tin cậy nơi tiền của mình,
Khoe khoang về giàu sang dư dật của họ.
7 Không ai có thể chuộc mạng cho anh em mình,[s]
Cũng không thể đóng tiền chuộc nơi Đức Chúa Trời cho người.
8 Vì giá cứu chuộc mạng sống họ quá mắc,
Người sẽ chẳng bao giờ trả nổi,[t]
9 Để được sự sống đời đời,
Không phải thấy vực sâu.[u]
10 Vì người thấy kẻ khôn ngoan chết,
Người khờ dại cùng kẻ ngu ngốc cũng bị diệt vong,
Để lại tiền của cho kẻ khác.
11 Chúng thầm nghĩ rằng: nhà mình sẽ còn mãi mãi.
Chỗ ở mình sẽ tồn tại từ đời nọ sang đời kia.
Chúng lấy tên mình đặt tên cho ruộng đất mình.
12 Loài người dù giàu sang cũng không còn mãi.[v]
Nó giống như loài thú phải diệt vong.
13 Đây là con đường của những kẻ tin vào ngu dại,
Cùng những kẻ theo sau cũng tin môi miệng chúng. Sê-la
14 Chúng nó như đàn chiên bị định xuống Âm Phủ,
Sự chết sẽ chăn giữ chúng nó.
Ban mai người ngay thẳng sẽ cai trị chúng nó.
Hình thể chúng nó sẽ bị tiêu diệt nơi Âm Phủ,
Xa cách nơi mình ở.
15 Nhưng Đức Chúa Trời sẽ chuộc linh hồn tôi, cứu tôi khỏi móng vuốt[w] Âm Phủ.
Vì Ngài sẽ tiếp nhận tôi. Sê-la
16 Đừng sợ khi một người trở nên giàu có,
Hoặc khi nhà người ấy sang trọng hơn.
17 Vì khi chết người không mang được gì cả,
Sự sang trọng cũng không xuống Âm Phủ theo người.
18 Dù khi còn sống người được kể là hạnh phúc.[x]
Và người ta ca ngợi vì sự thành công của người.
19 Người sẽ trở về thế hệ tổ tiên mình,
Họ sẽ không bao giờ thấy ánh sáng nữa.
20 Loài người dù giàu sang nhưng không hiểu biết,
Nó giống như loài thú phải diệt vong.
Thơ A-sáp
50 Đấng Quyền Năng, Đức Chúa Trời, là CHÚA[y] phán:
Ngài triệu tập khắp cả trái đất,
Từ đông sang tây.[z]
2 Từ Si-ôn tốt đẹp, tuyệt mỹ,
Đức Chúa Trời đã chiếu sáng ra.
3 Đức Chúa Trời của chúng ta đến, Ngài không im lặng.
Trước mặt Ngài là đám lửa thiêu đốt,
Xung quanh Ngài có bão tố dữ dội.
4 Ngài triệu tập các tầng trời trên cao
Lẫn đất thấp để phán xét dân Ngài.
5 Hãy tụ họp dân thánh[aa] lại cùng ta,
Là những người đã lập giao ước với ta bằng tế lễ.
6 Các tầng trời tuyên bố sự công chính Ngài.
Vì chính Đức Chúa Trời là đấng phán xét. Sê-la
7 Hỡi dân ta, hãy nghe, ta sẽ phán:
Hỡi Y-sơ-ra-ên, Ta sẽ làm chứng nghịch ngươi.
Chính Ta là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời ngươi.
8 Ta không trách ngươi vì các tế lễ,
Hoặc tế lễ thiêu ngươi vẫn dâng trước mặt ta.
9 Ta không cần[ab] bò đực nơi nhà ngươi,
Hay dê đực trong bầy ngươi.
10 Vì tất cả thú rừng đều là của ta.
Súc vật trên ngàn đồi cũng vậy.[ac]
11 Ta biết mọi loài chim trên núi,[ad]
Những sinh vật ngoài đồng đều thuộc về ta.
12 Nếu ta đói, ta đã không nói cho ngươi biết sao?
Vì thế giới và mọi vật trong đó đều thuộc về ta.
13 Ta có ăn thịt bò đực
Hay uống máu dê chăng?
14 Hãy dâng tế lễ cho Đức Chúa Trời bằng lời cảm tạ,[ae]
Hãy hoàn tất lời khấn nguyện cho Đấng Chí Cao.
15 Trong ngày gian truân, hãy kêu cầu Ta.
Ta sẽ giải cứu ngươi và ngươi sẽ tôn vinh Ta.
16 Nhưng đối với kẻ ác,
Đức Chúa Trời phán: Tại sao ngươi đọc lên luật lệ Ta?
Vì sao ngươi nhận giao ước Ta bằng môi miệng?
17 Vì ngươi ghét sự rèn luyện,
Gạt bỏ sau lưng lời dạy dỗ Ta.
18 Khi ngươi thấy kẻ trộm thì thỏa thuận với nó.
Ngươi đồng lõa[af] với những kẻ ngoại tình.
19 Miệng ngươi nói ra những điều ác,
Lưỡi ngươi thêu dệt điều lừa dối.
20 Ngươi ngồi nói xấu anh em mình,
Chê trách con trai của mẹ ngươi.
21 Ngươi đã làm những điều này nhưng Ta im lặng.[ag]
Ngươi tưởng Ta giống như ngươi,
Nhưng Ta sẽ quở trách ngươi,
Buộc tội ngươi ngay trước mặt ngươi.
22 Vậy, hỡi những kẻ quên Đức Chúa Trời, hãy suy xét điều đó.
Kẻo Ta sẽ xé nát ngươi và không ai giải cứu.
23 Người nào dâng tế lễ bằng lời cảm tạ[ah] tôn vinh Ta.
Ai theo đường lối Ta,[ai]
Ta sẽ chỉ cho thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Tiên Tri Na-than Đến Gặp Đa-vít Sau Khi Người Đến Với Bà Bát-sê-ba
51 Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi
Tùy theo tình yêu thương Chúa.
Vì lòng thương xót dư dật của Ngài,
Xin xóa bỏ các vi phạm tôi.
2 Xin rửa sạch mọi gian ác tôi,
Và luyện sạch các tội lỗi tôi.
3 Vì tôi nhận biết các vi phạm tôi,
Tội lỗi tôi hằng ở trước mặt tôi.
4 Tôi đã phạm tội cùng Ngài, chỉ một mình Ngài thôi.
Tôi đã làm điều ác trước mặt Ngài,
Cho nên Ngài là công bình khi tuyên án,
Ngài là chính đáng[aj] khi phán xét.
5 Thật vậy,[ak] tôi vốn gian ác từ khi sinh ra,[al]
Tôi vốn tội lỗi từ khi được hoài thai trong bụng mẹ.[am]
6 Này, Ngài muốn sự chân thật nơi bề trong cũng như nơi sâu kín của lòng tôi.
Xin Ngài dạy tôi sự khôn ngoan.[an]
7 Xin Ngài dùng nhánh bài hương tẩy sạch tôi, thì tôi sẽ tinh sạch.
Xin Ngài rửa tôi thì tôi sẽ trắng hơn tuyết.
8 Xin cho tôi nghe tiếng vui vẻ và mừng rỡ,
Nguyện xương cốt mà Ngài đã đánh gẫy được vui mừng.
9 Xin Ngài ngoảnh mặt đừng để ý đến các tội lỗi tôi,
Và xóa bỏ mọi gian ác tôi.
10 Đức Chúa Trời ôi, xin tạo nên trong tôi một tấm lòng trong sạch
Và làm mới lại trong tôi một tâm linh chân chính.[ao]
11 Xin chớ xua đuổi tôi khỏi trước mặt Ngài,
Cũng đừng cất thánh linh Ngài khỏi tôi.
12 Xin phục hồi cho tôi niềm vui của sự cứu rỗi Ngài.
Xin ban cho tôi một tinh thần sẵn sàng để giữ vững tôi.[ap]
13 Tôi sẽ dạy các đường lối Ngài cho những kẻ vi phạm,
Và những kẻ tội lỗi sẽ quay về cùng Ngài.
14 Lạy Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời cứu rỗi tôi,
Xin giải cứu tôi khỏi tội đổ huyết[aq]
Thì lưỡi tôi sẽ lớn tiếng ca ngợi sự công chính Ngài.
15 Lạy Chúa, xin mở môi tôi,
Thì miệng tôi sẽ ca ngợi Ngài.
16 Vì Ngài không vui lòng về tế lễ hy sinh,
Bằng không tôi đã dâng.[ar] Tế lễ thiêu Ngài cũng không thích.
17 Tế lễ hy sinh đẹp lòng Đức Chúa Trời[as] là tâm thần tan vỡ.
Đức Chúa Trời ôi, tấm lòng ăn năn tan vỡ
Ngài không khinh bỉ đâu.
18 Theo lòng nhân từ Ngài, xin ban phúc lành[at] cho Si-ôn.
Xin xây dựng[au] các tường thành Giê-ru-sa-lem.
19 Bấy giờ, Ngài sẽ vui lòng về các tế lễ công chính,[av]
Tế lễ thiêu và tế lễ toàn thiêu.
Bấy giờ, bò đực sẽ được dâng trên bàn thờ Ngài.
Thánh Thi Đa-vít Để Dạy Dỗ Khi Đô-e, Người Ê-đôm Báo Cho Sau-lơ Biết Đa-vít Đã Vào Nhà A-bi-mê-léc
52 Hỡi người mạnh bạo,[aw]
Tại sao ngươi khoe khoang về điều ác?
Tình yêu thương của Đức Chúa Trời tồn tại mãi mãi.
2 Ngươi mưu toan hủy diệt,
Lưỡi ngươi như dao cạo bén
Nói[ax] điều lừa dối.
3 Ngươi chuộng điều ác hơn điều thiện,
Thích gian dối hơn lời ngay thẳng. Sê-la
4 Hỡi lưỡi lừa dối,
Ngươi thích tất cả những lời độc hại.[ay]
5 Cho nên,[az] Đức Chúa Trời sẽ phá hủy ngươi hoàn toàn.[ba]
Ngài sẽ bắt ngươi,[bb] kéo ngươi ra khỏi trại
Và nhổ ngươi khỏi đất người sống. Sê-la
6 Nhưng những người công chính sẽ thấy và sợ.
Họ sẽ cười ngươi rằng:
7 Kìa, là người không cậy Đức Chúa Trời
Làm thành lũy mình,
Nhưng tin cậy nơi sự giàu có dư dật của mình,
Trở nên mạnh mẽ[bc] trong sự gian ác mình.[bd]
8 Nhưng tôi thì giống như cây ô-liu
Xanh tươi trong nhà Đức Chúa Trời.
Tôi hằng tin cậy nơi tình yêu thương của Đức Chúa Trời
Đến đời đời.
9 Tôi ca ngợi Ngài đời đời vì những điều Ngài đã làm.[be]
Tôi sẽ trông cậy nơi danh Ngài trước mặt những người trung tín của Ngài[bf]
Vì danh ấy là tốt lành.
Thơ Đa-vít Cho Nhạc Trưởng Để Dạy Dỗ Theo Điệu Ma-ha-lat
53 Kẻ ngu dại nói trong lòng rằng
Không có Đức Chúa Trời.
Chúng nó đều tồi bại và làm những điều gian ác ghê tởm.
Không có ai làm điều thiện.
2 Đức Chúa Trời từ trên trời
Nhìn xuống loài người,[bg]
Để xem thử có ai khôn ngoan,
Tìm kiếm Đức Chúa Trời không?
3 Chúng nó hết thảy đều lui trở lại,
Đều suy đồi như nhau.
Không có ai làm điều thiện,
Dù một người cũng không.
4 Phải chăng những kẻ làm ác thiếu hiểu biết?
Chúng ăn nuốt dân ta như ăn bánh,
Cũng chẳng cầu khẩn Đức Chúa Trời.
5 Kìa, chúng nó bị kinh hoàng lớn
Dù không có gì đáng kinh hoàng.[bh]
Vì Đức Chúa Trời vung vãi xương cốt những kẻ dàn quân tấn công ngươi.[bi]
Ngươi sẽ làm cho chúng hổ thẹn vì Đức Chúa Trời đã từ bỏ chúng nó.
6 Ôi, ước gì sự giải cứu Y-sơ-ra-ên từ Si-ôn đã đến.
Khi Đức Chúa Trời phục hồi cơ đồ[bj] cho dân Ngài,
Thì Gia-cốp sẽ hân hoan, Y-sơ-ra-ên sẽ mừng rỡ.
Khi Người Xíp Đến Nói Cùng Sau-lơ Rằng: Không Phải Đa-vít Đang Trốn Giữa Chúng Tôi Sao?
54 Lạy Đức Chúa Trời, nhờ danh Ngài, xin giải cứu tôi,
Xin dùng năng lực Ngài minh oan cho tôi.
2 Lạy Đức Chúa Trời, xin nghe lời cầu nguyện tôi,
Xin lắng tai nghe tiếng nói của miệng tôi.
3 Vì những kẻ xa lạ[bk] nổi lên chống tôi,
Những người tàn ác tìm hại mạng sống tôi.[bl]
Chúng không để Đức Chúa Trời trước mặt mình.
4 Kìa, Đức Chúa Trời là Đấng giúp đỡ tôi,
Chúa là Đấng gìn giữ linh hồn tôi.
5 Ngài sẽ lấy ác báo trả các kẻ thù tôi,[bm]
Vì sự thành tín của Ngài, xin hãy hủy diệt chúng nó.
6 Lạy CHÚA, tôi sẽ dâng cho Ngài tế lễ tự nguyện,
Tôi sẽ ca ngợi danh Ngài
Vì danh ấy là tốt lành.
7 Vì Ngài giải cứu tôi khỏi mọi gian nguy
Và mắt tôi nhìn đắc thắng[bn] trên các kẻ thù tôi.
Thơ Đa-vít Để Dạy Dỗ, Cho Nhạc Trưởng, Có Đàn Dây Phụ Họa
55 Đức Chúa Trời ôi, xin lắng tai nghe lời cầu nguyện tôi,
Xin chớ lánh mặt không nghe lời cầu khẩn của tôi.
2 Xin hãy chú ý và đáp lời tôi.
Tôi bồn chồn trong lo âu và bối rối.
3 Vì tiếng la hét của kẻ thù,
Vì sự áp bức của kẻ ác,
Bởi vì chúng thêm khốn khổ cho tôi, làm tôi lảo đảo.
Chúng căm giận giữ lòng hận thù nghịch lại tôi.
4 Tôi đau đớn trong lòng mình,
Mối sợ hãi chết chóc giáng xuống trên tôi.
5 Tôi sợ sệt và run rẩy,
Nỗi kinh khiếp tràn ngập.
6 Tôi tự nhủ: ôi, ước gì tôi có cánh như chim bồ câu,
Tôi sẽ bay đi xa và ở yên ổn.
7 Này, tôi sẽ trốn đi xa
Và ở trong sa mạc. Sê-la
8 Tôi vội vàng tìm nơi ẩn núp
Tránh cơn cuồng phong bão tố.
9 Lạy Chúa, xin hãy làm rối loạn,[bo] làm lẫn lộn tiếng nói chúng nó.
Vì tôi thấy bạo lực và xung đột trong thành.
10 Ngày đêm chúng đi vòng quanh trên tường thành,
Sự độc ác và xấu xa ở trong thành.
11 Sự hủy hoại ở trong đó,
Áp bức và lừa gạt không lìa khỏi phố chợ.
12 Vì không phải kẻ thù là người chế giễu tôi,
Nếu thế, tôi sẽ chịu đựng nổi.
Cũng không phải kẻ ghét tôi tự tôn nghịch tôi,
Nếu thế, tôi sẽ lẩn tránh nó.
13 Nhưng chính ngươi, là người bình đẳng với tôi,[bp]
Là bạn bè, thân hữu của tôi.
14 Chúng tôi thường trò chuyện thân mật với nhau,
Cùng đi với đoàn người trong nhà Đức Chúa Trời.
15 Nguyện sự chết thình lình giáng trên chúng.[bq]
Nguyện chúng phải xuống Âm Phủ khi còn sống.[br]
Vì điều ác ở trong nhà, ở trong lòng chúng nó.[bs]
16 Còn tôi, tôi kêu cầu Đức Chúa Trời
Và CHÚA giải cứu tôi.
17 Buổi sáng, trưa và chiều
Tôi than thở và rên xiết;
Ngài sẽ nghe tiếng tôi.
18 Ngài giải cứu linh hồn tôi an toàn ra khỏi chiến trận;
Vì nhiều người chiến đấu chống nghịch tôi.[bt]
19 Đức Chúa Trời là Đấng hằng ngự trị từ ngàn xưa,
Ngài sẽ nghe và báo trả[bu] chúng nó.
Là những kẻ không thay đổi đường lối mình
Và không kính sợ Đức Chúa Trời. Sê-la
20 Kẻ ấy giơ tay hại người sống hòa bình với mình
Và bội lời cam kết.
21 Môi miệng nó trơn hơn mỡ
Nhưng lòng thì gây chiến tranh.
Lời nói nó dịu hơn dầu
Nhưng thật như lưỡi gươm tuốt trần.
22 Hãy trao gánh nặng mình cho CHÚA,
Chính Ngài sẽ nâng đỡ ngươi.
Ngài sẽ không bao giờ để người công chính bị rúng động.
23 Nhưng lạy Đức Chúa Trời,
Ngài sẽ ném kẻ khát máu và gian hùng xuống huyệt sâu.[bv]
Chúng sẽ không sống được nửa đời người.[bw]
Còn tôi, tôi sẽ tin cậy nơi Ngài.
Khi Người Phi-li-tin Bắt Ông Tại Thành Gát
56 Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi. Vì người ta chà đạp[bx] tôi,
Hằng ngày kẻ thù[by] áp bức tôi.
2 Hằng ngày kẻ thù chà đạp tôi,
Vì nhiều người kiêu căng chiến đấu chống tôi.[bz]
3 Trong ngày sợ hãi,
Tôi sẽ tin cậy Ngài.
4 Nhờ Đức Chúa Trời[ca] tôi sẽ ca ngợi Ngài.
Tôi sẽ tin cậy nơi Đức Chúa Trời và không sợ hãi,
Người phàm sẽ làm chi tôi?
5 Hằng ngày chúng xuyên tạc các lời tôi nói.[cb]
Tư tưởng gian ác của chúng toan hại tôi.
6 Chúng âm mưu[cc] phục kích,[cd]
Chúng theo dõi các bước chân tôi,
Chờ hại mạng sống tôi.
7 Gian ác như thế mà chúng sẽ thoát khỏi sao?
Lạy Đức Chúa Trời, trong cơn thịnh nộ Ngài, hãy đánh đổ các dân.
8 Ngài ghi chép các đoạn đường đi lại[ce] của tôi.
Xin Ngài đựng nước mắt tôi trong bình của Chúa.
Nước mắt tôi không được ghi trong sách Ngài sao?
9 Ngày nào tôi cầu khẩn thì các kẻ thù tôi sẽ thối lui,
Vì tôi biết điều này:
Đức Chúa Trời ở cùng tôi.
10 Nhờ Đức Chúa Trời, tôi sẽ ca ngợi lời Ngài,
Nhờ CHÚA, tôi sẽ ca ngợi lời Ngài.
11 Tôi sẽ tin cậy nơi Đức Chúa Trời và không sợ hãi.
Loài người sẽ làm chi tôi?
12 Lạy Đức Chúa Trời, tôi vẫn giữ lời khấn nguyện cùng Ngài.[cf]
Tôi sẽ dâng tế lễ tạ ơn Ngài.
13 Vì Ngài đã giải cứu linh hồn tôi khỏi chết,
Không để chân tôi vấp ngã.
Tôi sẽ bước đi trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời
Trong ánh sáng của sự sống.[cg]
Khi Người Trốn Trong Hang Đá Thoát Khỏi Sau-lơ
57 Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi, xin thương xót tôi,
Vì linh hồn tôi trú ẩn nơi Ngài.
Tôi sẽ náu mình dưới bóng cánh Ngài
Cho đến khi cơn hủy diệt đã qua.
2 Tôi sẽ cầu khẩn Đức Chúa Trời Chí Cao,
Là Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành cho tôi.
3 Từ trời Ngài sẽ ban ơn[ch] cứu rỗi tôi;
Ngài quở trách[ci] kẻ chà đạp tôi. Sê-la
Đức Chúa Trời sẽ ban tình yêu thương và sự thành tín Ngài.
4 Linh Hồn tôi ở giữa những sư tử,
Tôi nằm giữa loài thú ăn thịt[cj] người.
Răng chúng nó như giáo và tên,
Lưỡi chúng nó như gươm sắc bén.
5 Lạy Đức Chúa Trời, nguyện Ngài được tôn cao hơn các tầng trời,
Nguyện vinh quang Ngài tỏa khắp trái đất.
6 Chúng nó gài lưới cho chân tôi,
Linh hồn tôi nao sờn.[ck]
Chúng đào hố trước mặt tôi
Nhưng chính chúng nó lại sa xuống đó. Sê-la
7 Lạy Đức Chúa Trời, lòng tôi kiên định,
Lòng tôi kiên định.
Tôi sẽ hát và ca ngợi Ngài.
8 Hỡi vinh quang Ta,[cl] hãy tỉnh thức,
Hỡi đàn hạc, đàn lia hãy tỉnh thức,
Ta sẽ đánh thức hừng đông dậy.
9 Lạy Chúa, tôi sẽ cảm tạ Ngài trong các dân,
Tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa các nước.
10 Vì tình yêu thương Ngài lớn hơn các tầng trời,
Sự thành tín Ngài cao vút tận các tầng mây.
11 Lạy Đức Chúa Trời, nguyện Ngài được tôn cao hơn các tầng trời,
Nguyện vinh quang Ngài tỏa khắp trái đất.
Lời Cầu Nguyện Xin Trừng Phạt Kẻ Ác
58 Hỡi các lãnh chúa quyền thế, khi im lặng các người thật sự nói công bình sao?
Các ngươi có phán xét loài người một cách ngay thẳng không?
2 Không, các người phạm các điều ác trong lòng,
Tay các người thi hành[cm] bạo lực trên đất.
3 Kẻ ác lầm lạc từ trong lòng mẹ,
Chúng sai quấy, nói dối từ lúc mới sanh.
4 Nọc độc chúng nó như nọc độc loài rắn,
Chúng như rắn hổ mang bị điếc, bị bịt tai lại,
5 Không nghe tiếng người dụ rắn
Hay lời thần chú của thầy bùa cao tay.
6 Lạy Đức Chúa Trời, xin đập bể răng trong miệng chúng nó,
Lạy CHÚA, xin bẻ gẫy nanh sư tử tơ.
7 Nguyện chúng nó bị đùa đi như nước chảy,
Khi nó nạp tên nhắm bắn thì tên bị chặt đứt.[cn]
8 Nguyện chúng nó như con ốc sên tiêu tan khi bò đi,
Như thai của người đàn bà bị sẩy, không hề thấy mặt trời.
9 Trước khi nơi các ngươi nhận thấy gai góc,
Nguyện Ngài quét sạch chúng nó đi, dù còn xanh hay cháy.[co]
10 Người công chính sẽ vui mừng khi thấy sự báo thù,
Người sẽ rửa chân mình trong máu kẻ ác.
11 Người ta sẽ nói rằng:
Chắc hẳn người công chính sẽ được thưởng,
Chắc hẳn là có Đức Chúa Trời, Đấng phán xét trên đất.
Khi Sau-lơ Canh Giữ Nhà Người Để Giết Người
59 Lạy Đức Chúa Trời tôi, xin giải cứu tôi khỏi các kẻ thù tôi,
Xin bảo vệ tôi khỏi những kẻ nổi dậy chống tôi.
2 Xin giải cứu tôi khỏi các kẻ làm ác,
Xin cứu tôi khỏi những kẻ làm đổ máu.
3 Vì kìa, lạy CHÚA! Chúng rình hại mạng sống[cp] tôi,
Những kẻ hung dữ[cq] họp lại chống tôi,
Không phải vì sự vi phạm hay tội lỗi tôi.
4 Tôi cũng không có tội ác gì, nhưng chúng xông đến định tấn công tôi.[cr]
Xin hãy xem, xin Ngài thức dậy để giúp đỡ tôi.
5 Chính Ngài là CHÚA, là Đức Chúa Trời Vạn Quân, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
Xin hãy thức dậy và trừng phạt hết thảy các nước,
Xin chớ thương xót kẻ nào phản bội làm điều gian ác. Sê-la
6 Tối đến, chúng trở lại,
Tru như chó
Và đi rình mò quanh thành.
7 Kìa, miệng chúng nó buông lời rủa sả,
Môi như những thanh gươm.
Vì chúng nghĩ rằng: có ai sẽ nghe đâu?
8 Nhưng lạy CHÚA, chính Ngài sẽ cười chúng nó,
Sẽ chế nhạo tất cả.
9 Hỡi sức lực của tôi,[cs] các nước trông nơi Ngài,
Vì Đức Chúa Trời là thành lũy của tôi.
10 Đức Chúa Trời yêu thương của tôi sẽ đến giúp[ct] tôi,
Đức Chúa Trời sẽ cho tôi nhìn đắc thắng[cu] trên các kẻ thù tôi.
11 Xin đừng giết chúng nó,
E dân tộc tôi quên đi chăng,
Nhưng lạy Chúa, là thuẫn đỡ cho chúng tôi,
Bởi quyền năng Ngài, xin làm tản lạc và đánh bại chúng nó.
12 Vì tội lỗi từ miệng chúng nó,
Lời từ môi chúng nó
Lời nguyền rủa và láo toét chúng nói ra,
Nguyện chúng bị mắc bẫy trong sự kiêu căng của chúng.
13 Xin tiêu diệt chúng nó bằng sự thịnh nộ Ngài,
Xin hoàn toàn tiêu diệt chúng nó.[cv]
Để người ta biết rằng lời Đức Chúa Trời cai trị nơi Gia-cốp
Cho đến tận cùng trái đất. Sê-la
14 Tối đến, chúng trở lại,
Tru như chó
Và đi rình mò quanh thành.
15 Chúng đi lang thang kiếm ăn,
Nếu không no chúng sẽ ở lại thâu đêm.[cw]
16 Còn tôi, tôi sẽ hát về sức lực Ngài,
Và mỗi sáng tôi sẽ ca ngợi tình yêu thương Ngài,
Vì Ngài là thành lũy của tôi,
Và nơi tôi trú ẩn trong lúc gian truân.
17 Hỡi sức lực của tôi, tôi ca ngợi Ngài,
Vì Đức Chúa Trời là thành lũy của tôi, là Đức Chúa Trời yêu thương tôi.
Khi Ông Giao Chiến Với Dân Sy-ri Ở Na-ha-ra-im Và Ở Xô-ba Và Giô-áp Trở Lui Giết 12,000 Quân Ê-đôm Tại Thung Lũng Muối
60 Đức Chúa Trời ôi, Ngài đã từ bỏ chúng tôi, Ngài đã phá vỡ chúng tôi.
Ngài đã nổi giận, xin trở lại cùng chúng tôi.[cx]
2 Ngài đã làm đất lay chuyển và nứt ra,
Xin sửa lại những nơi đổ vỡ vì nó bị rung chuyển.
3 Ngài đã làm dân Ngài thấy sự lầm than,
Ngài khiến chúng tôi uống rượu nên bị choáng váng.
4 Ngài đã ban cho những người kính sợ Ngài cờ hiệu,
Để họ trương lên vì chân lý.[cy]
5 Để giải cứu những người yêu dấu của Ngài.
Xin lấy tay phải Ngài cứu rỗi chúng tôi và đáp lời chúng tôi.
6 Từ Nơi Thánh của Ngài,[cz] Đức Chúa Trời phán:
Ta sẽ hân hoan chia cắt Si-chem
Và phân phối thung lũng Su-cốt.
7 Ga-la-át thuộc về Ta, Ma-na-se cũng vậy,
Ép-ra-im là mũ bảo vệ đầu Ta,[da]
Giu-đa là gậy uy quyền của Ta.
8 Mô-áp là bồn tắm rửa của Ta,
Ta sẽ cởi dép ra trên Ê-đôm.[db]
Ta sẽ reo hò chiến thắng trên Phi-li-tin.[dc]
9 Ai sẽ đưa tôi vào thành kiên cố?
Ai sẽ dẫn tôi đến Ê-đôm?
10 Lạy Đức Chúa Trời, chẳng phải Ngài là Đấng đã từ bỏ chúng tôi sao?
Hỡi Đức Chúa Trời, sao Ngài không còn xông pha cùng quân đội chúng tôi nữa?
11 Xin giúp chúng tôi chống lại kẻ thù.[dd]
Vì sự cứu giúp của người phàm là vô ích.
12 Nhờ Đức Chúa Trời, chúng tôi sẽ hành động dũng cảm,[de]
Vì Ngài sẽ chà đạp các kẻ thù chúng tôi.
Thơ Đa-vít Cho Nhạc Trưởng, Có Đàn Dây Phụ Họa
61 Lạy Đức Chúa Trời, xin nghe tiếng kêu van của tôi,
Xin lắng nghe lời cầu nguyện của tôi.
2 Từ nơi tận cùng quả đất
Tôi sẽ kêu cầu Ngài khi tôi ngã lòng.[df]
Xin dẫn tôi đến núi đá cao hơn tôi.
3 Vì Ngài là nơi trú ẩn cho tôi,
Là ngọn tháp kiên cố chống lại kẻ thù.
4 Xin cho tôi ở trong trại Ngài mãi mãi,
Và trú ẩn an toàn[dg] dưới cánh Ngài. Sê-la
5 Lạy Đức Chúa Trời, vì Ngài đã nghe lời hứa nguyện của tôi.
Ngài đã ban cho tôi sản nghiệp của những người kính sợ danh Ngài.
6 Xin gia tăng tuổi thọ cho vua,
Thêm các năm người đến nhiều đời.
7 Nguyện người cai trị đời đời trước mặt Đức Chúa Trời.
Xin Ngài truyền tình yêu thương và chân lý[dh] gìn giữ người.
8 Như vậy, tôi sẽ ca ngợi danh Ngài mãi mãi,
Và hằng ngày làm trọn lời hứa nguyện tôi.
Thơ Đa-vít Cho Nhạc Trưởng Theo Điệu Giê-đu-thun
62 Linh hồn tôi được an bình[di] nơi một mình Đức Chúa Trời;
Sự cứu rỗi tôi đến từ Ngài.
2 Chỉ một mình Ngài là vầng đá,
Là sự cứu rỗi và thành lũy của tôi,
Tôi sẽ không bị lay chuyển nhiều.
3 Các ngươi tấn công một người cho đến bao giờ?
Tất cả các ngươi định sát hại[dj] người
Như bức tường nghiêng, như hàng rào sắp ngã sao?
4 Thật vậy, chúng chỉ bàn mưu phá đổ địa vị cao của người,
Chúng thích giả dối;
Miệng thì chúc phúc nhưng lòng lại nguyền rủa. Sê-la
5 Linh hồn tôi được an bình[dk] nơi một mình Đức Chúa Trời,
Vì tôi hy vọng nơi Ngài.
6 Chỉ một mình Ngài là núi đá,
Là sự cứu rỗi và thành lũy của tôi, tôi sẽ không bị lay chuyển.
7 Sự cứu rỗi và vinh hiển của tôi ở nơi Đức Chúa Trời;
Núi đá uy lực và nơi trú ẩn của tôi đều ở nơi Đức Chúa Trời.
8 Hỡi dân ta, hãy luôn luôn tin cậy nơi Ngài.
Hãy dốc đổ lòng mình ra trước mặt Ngài.
Đức Chúa Trời là nơi trú ẩn của chúng ta. Sê-la
9 Thật vậy, kẻ hạ lưu[dl] chỉ như hơi thở,
Người thượng lưu[dm] chỉ là ảo tưởng.[dn]
Đặt trên cân, chúng nhẹ bổng,
Tất cả chúng nó đều nhẹ hơn hơi thở.
10 Chớ tin cậy vào bạo lực,[do]
Cũng đừng hy vọng hão huyền nơi trộm cướp,
Dù sự giàu có gia tăng,
Đừng để lòng vào đó.
11 Đức Chúa Trời có phán một lần,[dp]
Tôi đã nghe điều này hai lần,[dq]
Rằng: Quyền năng thuộc về Đức Chúa Trời
12 Và lạy Chúa, tình yêu thương thuộc về Chúa.
Vì chính Ngài sẽ báo trả cho mỗi người
Tùy việc họ làm.
Thơ Đa-vít, Khi Người Ở Trong Sa Mạc Giu-đa
63 Lạy Đức Chúa Trời, chính Ngài là Đức Chúa Trời của tôi,
Tôi tha thiết[dr] tìm kiếm Ngài.
Linh hồn tôi khát khao Chúa,
Thể xác tôi mong ước Ngài
Như mảnh đất khô khan,
Nứt nẻ,[ds] không có nước.
2 Như tôi đã thấy Ngài trong Nơi Thánh,
Để chiêm ngưỡng quyền năng và vinh quang Ngài.
3 Vì tình yêu thương của Ngài quý hơn mạng sống,
Môi tôi sẽ ca ngợi Ngài.
4 Như vậy, tôi sẽ ca tụng Ngài trọn đời,
Tôi sẽ nhân danh Ngài đưa tay lên cầu khẩn.
5 Linh hồn tôi được thết tiệc như ăn vật béo bổ,
Môi miệng[dt] tôi sẽ hân hoan ca ngợi Ngài.
6 Khi nằm trên giường, tôi nhớ đến Ngài,
Tôi suy gẫm về Ngài suốt canh khuya.
7 Vì Ngài đã giúp đỡ tôi,
Nên dưới bóng cánh Ngài tôi sẽ ca hát vui vẻ.
8 Linh hồn tôi bám chặt lấy Ngài,
Tay phải Ngài nâng đỡ tôi.
9 Nhưng những kẻ tìm hại mạng sống tôi,
Sẽ sa xuống vực sâu dưới đất.[du]
10 Chúng sẽ bị phó cho gươm giáo,[dv]
Làm mồi cho chồn sói.
11 Nhưng vua sẽ vui mừng trong Đức Chúa Trời.
Tất cả những người nhân danh Ngài mà hứa nguyện sẽ tôn vinh Ngài.
Vì Ngài sẽ làm câm miệng những kẻ nói dối.
Thơ Đa-vít Cho Nhạc Trưởng
64 Lạy Đức Chúa Trời, xin nghe tiếng tôi than thở,
Xin bảo vệ tôi[dw] khỏi khiếp sợ kẻ thù.
2 Xin Ngài giấu tôi khỏi âm mưu của kẻ ác,
Khỏi đám đông làm điều dữ.
3 Chúng mài lưỡi mình như gươm,
Nhắm bắn mũi tên, tức là lời độc ác.
4 Từ nơi ẩn núp, chúng bắn người vô tội,
Chúng bắn thình lình và không sợ hãi gì.
5 Chúng khuyến khích nhau trong mưu ác mình,
Bàn tính để gài bẫy bí mật,
Chúng tự nghĩ ai sẽ thấy chúng ta?
6 Chúng tìm kiếm mưu ác, và nghĩ:
Chúng ta đã lập xong mưu hay.
Tâm trí và lòng dạ con người thật nham hiểm.
7 Nhưng Đức Chúa Trời sẽ bắn tên vào chúng nó,
Thình lình chúng nó bị thương.
8 Ngài sẽ hủy diệt chúng vì lưỡi chúng nó nghịch lại chúng nó.[dx]
Tất cả những ai thấy chúng đều lắc đầu.
9 Và tất cả mọi người đều sẽ sợ,
Chúng sẽ rao truyền các công việc của Đức Chúa Trời
Và suy nghĩ về điều Ngài đã làm.
10 Người công chính sẽ vui mừng trong CHÚA
Và trú ẩn nơi Ngài.[dy]
Tất cả những người có lòng ngay thẳng sẽ ca ngợi Ngài.
Thơ Đa-vít Cho Nhạc Trưởng, Bài Hát
65 Lạy Đức Chúa Trời tại Si-ôn,
Thật đáng[dz] ca ngợi Ngài và giữ trọn lời hứa nguyện với Ngài.
2 Lạy[ea] Đấng nghe lời cầu nguyện,
Cả nhân loại[eb] sẽ đến cùng Ngài.
3 Về vấn đề gian ác, các sự vi phạm đã thắng hơn tôi,
Nhưng Ngài tha thứ cho.
4 Phước cho người Ngài đã chọn
Và khiến đến gần để ở nơi hành lang Ngài.
Chúng tôi sẽ thỏa nguyện với phúc lành của nhà Ngài,
Tức là đền thánh Ngài.
5 Lạy Đức Chúa Trời cứu rỗi của chúng tôi,
Ngài sẽ đáp lời chúng tôi bằng sự công chính qua những việc diệu kỳ.[ec]
Ngài là sự tin cậy của mọi người ở tận cùng trái đất
Cũng như ở vùng biển cả xa xăm.
6 Ngài dùng quyền năng thiết lập núi non,
Vì Ngài nai nịt bằng sức mạnh.
7 Ngài dẹp yên biển động,
Sóng gió ầm ầm
Cùng các dân xáo động.
8 Những người ở nơi xa xôi cùng tận trái đất thấy dấu lạ của Ngài đều sợ hãi.
Ngài làm rạng đông và hoàng hôn cho những vùng ở chân trời, góc bể[ed]
Đều reo hò vui vẻ.
9 Ngài chăm sóc đất,
Làm cho đất màu mỡ[ee] và rất phì nhiêu.
Dòng suối Đức Chúa Trời đầy nước,
Ngài cung cấp thóc lúa.
Ngài chuẩn bị đất bằng cách:
10 Tưới nước các luống cầy,
Ban bằng những gò nổng.
Ngài ban mưa rào thấm nhuần đất đai,
Chúc lành cho hoa quả[ef] xum xuê.
11 Ngài đội mão triều phúc lành cho năm,
Các lối Ngài đi qua đượm nhuần màu mỡ.[eg]
12 Các đồng cỏ nơi sa mạc được xanh tươi,[eh]
Và các đồi núi đầy dẫy[ei] sự vui mừng.
13 Các bầy chiên tràn ngập đồng cỏ,
Thóc lúa bao phủ các thung lũng,
Chúng cùng nhau reo hò, ca hát.
Thánh Thi Cho Nhạc Trưởng, Bài Hát
66 Hỡi cả trái đất, hãy hân hoan reo hò cho Đức Chúa Trời.
2 Hãy ca ngợi sự vinh quang của danh Ngài,
Hãy hát lên lời ca ngợi tôn vinh Ngài.
3 Hãy thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: công việc của Ngài thật đáng sợ thay.
Vì quyền năng vĩ đại của Ngài,
Các kẻ thù đều quy phục Ngài.
4 Cả trái đất thờ phượng Ngài,
Ca ngợi Ngài;
Họ ca ngợi danh Ngài. Sê-la
5 Hãy đến, xem các công việc của Đức Chúa Trời,
Công việc của Ngài giữa loài người thật đáng sợ thay.
6 Ngài biến biển thành đất khô,
Người ta đi bộ vượt qua sông.
Vì thế,[ej] hãy vui mừng trong Ngài.
7 Ngài cai trị đời đời bằng quyền năng mình,
Mắt Ngài xem xét các nước.
Hỡi những kẻ phản nghịch, chớ tự cao. Sê-la
8 Hỡi các dân, hãy chúc tụng Đức Chúa Trời chúng ta,
Hãy làm cho tiếng ca ngợi Ngài vang dội.[ek]
9 Ngài đã bảo tồn mạng sống[el] chúng ta,
Không để chân chúng ta trượt ngã.
10 Vì, lạy Đức Chúa Trời, Ngài đã thử chúng tôi,
Ngài đã luyện chúng tôi như luyện bạc.
11 Ngài đã đem chúng tôi vào bẫy lưới,[em]
Chất gánh nặng trên lưng chúng tôi.
12 Ngài để người ta cỡi trên đầu chúng tôi,
Chúng tôi phải băng qua lửa, qua nước.
Nhưng Ngài đã đem chúng tôi đến chỗ thịnh vượng.
13 Tôi sẽ đem tế lễ thiêu vào nhà Ngài,
Giữ trọn lời hứa nguyện tôi với Ngài.
14 Lời hứa nguyện môi tôi đã hứa và vui mừng,
Miệng tôi đã nói lúc gian nguy.
15 Tôi sẽ dâng con sinh tế mập làm tế lễ thiêu
Cùng với tế lễ thiêu chiên đực có mùi thơm lên Ngài.
Tôi sẽ dâng tế lễ những bò đực và dê đực. Sê-la
16 Hỡi tất cả những người kính sợ Đức Chúa Trời,
Hãy đến và nghe.
Tôi sẽ thuật điều Ngài đã làm cho linh hồn tôi.
17 Miệng tôi kêu cầu Ngài
Và lưỡi tôi tôn cao Ngài.
18 Nếu tôi giữ[en] điều ác trong lòng,
Ắt Chúa đã chẳng nghe tôi.
19 Thật vậy, Đức Chúa Trời đã nghe,
Ngài đã lắng nghe lời cầu nguyện của tôi.
20 Chúc tụng Đức Chúa Trời,
Vì Ngài không khước từ lời cầu nguyện của tôi,
Cũng không từ bỏ tình yêu thương Ngài đối với tôi.
Thánh Thi Có Đàn Dây Phụ Họa Cho Nhạc Trưởng. Bài Hát
67 Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót chúng tôi,
Xin ban phước cho chúng tôi và soi sáng mặt Ngài trên chúng tôi.[eo] Sê-la
2 Để đường lối Ngài được thông biết trên đất,
Và sự cứu rỗi Ngài được thông hiểu trên khắp các quốc gia.
3 Lạy Đức Chúa Trời, nguyện các dân ca ngợi Ngài,
Nguyện muôn dân ca ngợi Ngài.
4 Hỡi các nước, hãy vui mừng và ca hát,
Vì Ngài phán xét công bình các dân
Và hướng dẫn các nước trên đất.
5 Lạy Đức Chúa Trời, nguyện các dân ca ngợi Ngài,
Nguyện muôn dân ca ngợi Ngài.
6 Nguyện đất sinh sản hoa màu,[ep]
Nguyện Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời chúng tôi ban phước cho chúng tôi.
7 Lạy Đức Chúa Trời, xin ban phước cho chúng tôi,[eq]
Nguyện các dân trên khắp trái đất[er] hãy kính sợ Ngài.
Thơ Đa-vít Cho Nhạc Trưởng. Bài Hát
68 Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy đứng dậy, khiến kẻ thù Ngài chạy tan tác,
Đuổi những kẻ ghét Ngài trốn khỏi trước mặt Ngài.[es]
2 Như khói tan đi thể nào,
Xin Ngài đánh tan chúng nó thể ấy,
Như sáp tan chảy trong lửa thể nào,
Những kẻ ác cũng sẽ bị hủy diệt trước mặt Đức Chúa Trời thể ấy.
3 Nhưng người công chính sẽ vui mừng,
Hân hoan trước mặt Đức Chúa Trời.
Họ sẽ vô cùng vui mừng.[et]
4 Hãy hát mừng Đức Chúa Trời, hãy ca ngợi danh Ngài.
Hãy cất tiếng hát cho Đấng cưỡi trên các tầng mây.[eu]
Danh Ngài là CHÚA,
Hãy vui mừng trước mặt Ngài.
5 Đức Chúa Trời ở trong Nơi Thánh, Ngài là cha của những trẻ mồ côi
Và là Đấng bảo vệ những người góa bụa.
6 Đức Chúa Trời làm cho kẻ cô đơn có gia đình để ở,
Dẫn kẻ bị cầm tù ra chỗ thịnh vượng.[ev]
Nhưng những kẻ phản nghịch phải ở nơi đồng hoang cỏ cháy.
7 Lạy Đức Chúa Trời, khi Ngài đi ra trước dân Ngài,
Khi Ngài đi băng qua sa mạc, Sê-la
8 Thì đất rung chuyển,
Các tầng trời đổ mưa xuống trước mặt Đức Chúa Trời,
Núi Si-nai rúng động, trước mặt Đức Chúa Trời,
Là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
9 Lạy Đức Chúa Trời, Ngài ban mưa dồi dào,
Ngài phục hồi sản nghiệp Ngài khi đã điêu tàn.[ew]
10 Dân Ngài sinh sống tại đó.
Lạy Đức Chúa Trời, vì lòng nhân từ, Ngài cung cấp cho kẻ khốn cùng.
11 Chúa truyền lịnh,
Thì ngay cả đàn bà cũng loan tin như một đạo binh đông đảo.
12 Các vua và các đạo binh[ex] bỏ chạy, họ chạy trốn.
Những người đàn bà tại nhà chia của cướp được.
13 Dù các người ở lại giữa chuồng chiên,[ey]
Thì cũng có cánh bồ câu bọc bạc
Và lông nó mạ vàng xanh.
14 Đấng toàn năng đánh các vua ở đó
Chạy tan tác như tuyết đổ tại Sanh-môn.
15 Hỡi núi hùng vĩ,
Hỡi núi của các thần, núi Ba-san,
Hỡi núi có nhiều đỉnh, núi Ba-san.
16 Hỡi núi có nhiều đỉnh, tại sao ngươi nhìn một cách ghen tị
Núi mà Đức Chúa Trời đã chọn để ngự.
Phải, CHÚA sẽ ở tại đó đời đời.
17 Các xe chiến mã của Đức Chúa Trời đông
Hàng ngàn hàng vạn,[ez]
Chúa ở giữa chúng, Đức Chúa Trời từ núi Si-nai[fa] vào Nơi Thánh.
18 Ngài đã ngự lên núi cao,
Đem theo tù binh;
Ngài nhận lễ vật từ nhiều người,
Ngay cả những kẻ phản nghịch.[fb]
CHÚA, Đức Chúa Trời sẽ ngự tại đó.
19 Hãy ca ngợi Chúa, Ngài mang gánh nặng cho chúng ta hằng ngày,
Tức là Đức Chúa Trời cứu rỗi chúng ta.
20 Đức Chúa Trời của chúng ta là Đức Chúa Trời cứu rỗi.
Nhờ CHÚA là Chúa mà chúng ta thoát khỏi sự chết.
21 Thật vậy, Đức Chúa Trời sẽ đập nát đầu của các kẻ thù nghịch,
Là những kẻ đầu tóc xõa[fc] cứ miệt mài phạm tội.
22 Chúa đã phán: từ Ba-san Ta sẽ đem chúng nó về,
Ta sẽ đem chúng nó về từ các vực sâu biển cả.
23 Để chân các ngươi dẫm lên máu kẻ thù nghịch,
Và lưỡi của chó nhà ngươi cũng được phần nơi kẻ thù.
24 Lạy Đức Chúa Trời, người ta đã thấy lễ nghinh rước Ngài,
Đám rước của Đức Chúa Trời tôi, vua của tôi đi vào Nơi Thánh.[fd]
25 Những người ca hát đi trước, các kẻ khảy đàn theo sau,
Ở giữa là các cô gái đánh trống cơm.
26 Hỡi những người có nguồn gốc Y-sơ-ra-ên,
Từ giữa hội chúng lớn, hãy ca ngợi Đức Chúa Trời, là CHÚA.
27 Kìa, Bên-gia-min, bộ tộc nhỏ nhất dẫn đầu,[fe]
Những người lãnh đạo Giu-đa và đoàn tùy tùng,[ff]
Những người lãnh đạo Sa-bu-luân và những người lãnh đạo Nép-ta-li.
28 Đức Chúa Trời ngươi đã truyền sức lực cho người,[fg]
Lạy Đức Chúa Trời, hãy bày tỏ quyền năng Ngài như Ngài đã làm cho chúng tôi.
29 Từ đền thờ Ngài tại Giê-ru-sa-lem,
Các vua sẽ đem lễ vật đến dâng Ngài.
30 Xin hãy trách những dã thú nơi lau sậy,
Hãy mắng đàn bò đực cùng các con bê, tức là các dân,[fh]
Là những kẻ dẫm chân lên những miếng bạc.[fi]
Xin hãy làm tản lạc các dân tộc thích chiến tranh.
31 Các sứ giả từ Ai-cập sẽ đến,
Người Ê-thi-ô-bi sẽ vội vàng đưa tay cầu khẩn Đức Chúa Trời.
32 Hỡi các vương quốc trên đất, hãy hát mừng Đức Chúa Trời,
Hãy ca ngợi Chúa. Sê-la
33 Tức là Đấng cưỡi trên các tầng trời, các tầng trời thái cổ.
Kìa, Ngài lên tiếng,[fj] tiếng đầy uy lực.
34 Hãy tuyên dương uy lực cho Đức Chúa Trời,
Là sự uy nghiêm Ngài trên Y-sơ-ra-ên
Và uy lực Ngài trên các tầng trời.
35 Lạy Đức Chúa Trời, từ Nơi Thánh, Ngài thật đáng sợ.[fk]
Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là Đấng ban uy lực và sức mạnh cho dân Ngài.
Hãy ca ngợi Đức Chúa Trời.
Thơ Đa-vít Theo Điệu Hoa Huệ, Cho Nhạc Trưởng
69 Lạy Đức Chúa Trời, xin Ngài cứu vớt tôi,
Vì các dòng nước đã tràn đến linh hồn[fl] tôi.
2 Tôi bị lún trong bùn sâu,
Không nơi tựa chân.
Tôi đã đến chỗ nước sâu
Và dòng nước lũ tràn ngập tôi.
3 Tôi kêu cứu đến kiệt sức,
Cổ họng tôi đau rát.
Mắt tôi mòn mỏi
Vì[fm] trông đợi Đức Chúa Trời tôi.
4 Những kẻ ghét tôi vô cớ
Nhiều hơn tóc trên đầu tôi.
Những kẻ thù ghét tôi vô cớ,[fn]
Những kẻ muốn hủy diệt tôi thật là mạnh thay.
Tôi buộc phải bồi thường,
Vật tôi không ăn cắp.
5 Lạy Đức Chúa Trời, Ngài biết sự dại dột của tôi,
Những tội lỗi tôi đã phạm không giấu được Ngài.
6 Lạy Chúa là CHÚA Vạn Quân, xin đừng để những người trông cậy Ngài
Phải hổ thẹn vì tôi.
Lạy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,
Xin chớ để những người tìm kiếm Ngài
Phải nhục nhã vì tôi.
7 Ấy là vì Ngài mà tôi mang điều nhục nhã,
Mặt tôi bị phủ đầy sự khinh bỉ.
8 Tôi đã trở nên một người xa lạ đối với anh em mình,
Một người ngoại quốc đối với anh em cùng một mẹ.
9 Vì lòng nhiệt thành về nhà Chúa đã ăn nuốt tôi,
Những lời sỉ nhục mà người ta lăng nhục Ngài đã đổ xuống trên tôi.
10 Dù khi linh hồn tôi khóc lóc[fo]
Và kiêng ăn thì điều đó cũng trở thành cớ để tôi bị lăng nhục.
11 Dù khi tôi mặc vải thô tang chế
Thì tôi cũng trở nên trò cười[fp] cho chúng.
12 Những người ngồi nơi cổng thành chế giễu tôi,
Tôi thành đề tài câu hát của kẻ say sưa.
13 Lạy CHÚA, còn tôi, vào lúc Ngài gia ân,
Tôi cầu nguyện cùng Ngài.
Lạy Đức Chúa Trời, vì tình yêu thương lớn lao, và sự giải cứu chắc chắn của Ngài,
Xin đáp lời tôi.
14 Xin cứu tôi khỏi vũng bùn,
Xin đừng để tôi bị lún,
Xin giải cứu tôi khỏi những kẻ ghét tôi
Và khỏi vùng nước sâu.
15 Xin chớ để dòng nước lũ tràn ngập tôi,
Vực sâu không nuốt sống tôi
Và miệng huyệt mả không lấp lại trên tôi.
16 Lạy CHÚA, vì tình yêu thương tốt lành của Ngài, xin đáp lời tôi,
Vì lòng thương xót dồi dào của Ngài, xin quay lại cùng tôi.
17 Xin chớ lánh mặt cùng tôi tớ Ngài, vì tôi đang lâm cảnh hoạn nạn,
Xin mau mau đáp lời tôi.
18 Xin hãy lại gần tôi, cứu chuộc linh hồn tôi.[fq]
Xin giải phóng tôi khỏi[fr] kẻ thù nghịch.
19 Chính Ngài biết những điều nhục nhã, sự hổ thẹn và sự sỉ nhục của tôi.
Tất cả các kẻ thù tôi đều ở trước mặt Chúa.
20 Tôi thật đau khổ,
Lòng tôi tan nát vì nhục nhã.
Tôi mong được cảm thông nhưng không có,
Tôi tìm người an ủi nhưng không gặp.
21 Chúng nó cho tôi cỏ đắng làm thức ăn
Và khi tôi khát chúng cho tôi uống giấm.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)