Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Thánh Thi 135 - Châm Ngôn 6

Các Công Việc Vĩ Đại Của Chúa

135 Ha-lê-lu-gia!
Hãy ca ngợi danh CHÚA,
    Hỡi các tôi tớ của CHÚA, hãy ca ngợi.
Các ngươi là người phụng sự trong đền CHÚA,
    Trong sân Đức Chúa Trời chúng ta,
Hãy ca tụng CHÚA vì Ngài là thiện.
    Hãy hát lên ca Ngợi Danh Ngài vì Danh Ngài êm dịu.[a]
CHÚA đã chọn Gia-cốp cho Ngài
    Và chọn Y-sơ-ra-ên làm tài sản của mình.
Vì tôi biết rằng CHÚA là vĩ đại
    CHÚA chúng ta lớn hơn tất cả các thần.
CHÚA làm tất cả những gì đẹp lòng Ngài,
    Ngài làm những việc ở trên trời, dưới đất,
    Trên biển và trong tất cả vực sâu.
Ngài làm mây bay lên từ tận cùng quả đất;
    Ngài làm chớp nhoáng trong cơn mưa;
    Ngài khiến gió đến từ trong kho mình.
Đánh chết các con đầu lòng của người Ai-cập,
    Từ con loài người đến con loài thú.
Hỡi Ai-cập, Ngài đã làm dấu lạ, phép mầu ở giữa ngươi
    Để phạt Pha-ra-ôn cùng cả quần thần người.
10 Ngài đánh bại nhiều nước
    Và giết nhiều vua mạnh mẽ;
11 Như Si-hôn vua của người A-mô-rít,
    Óc, vua của Ba-san
    Cùng tất cả các vương quốc vùng Ca-na-an;
12 Và Ngài ban đất ấy cho Y-sơ-ra-ên, dân của Ngài,
    Làm sản nghiệp.
13 Lạy CHÚA, Danh Ngài tồn tại đời đời;
    Lạy CHÚA, Danh tiếng Ngài sẽ được ghi nhớ từ đời nọ đến đời kia.
14 CHÚA sẽ bào chữa cho dân Ngài
    Và tỏ lòng thương xót các tôi tớ Chúa.
15 Những tượng thần của các nước làm bằng bạc và vàng;
    Là sản phẩm của tay người;
16 Chúng có miệng nhưng không nói được;
    Có mắt nhưng không thấy;
17 Có tai nhưng không nghe
    Và cũng chẳng có hơi thở trong miệng.
18 Những kẻ tạo nên các tượng thần
    Cùng tất cả những kẻ tin cậy các tượng ấy đều sẽ giống như chúng.
19 Hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, hãy ca tụng CHÚA,
    Hỡi nhà A-rôn, hãy ca tụng CHÚA;
20 Hỡi nhà Lê-vi, hãy ca tụng CHÚA,
    Hỡi những người kính sợ CHÚA, hãy ca tụng Ngài.
21 Hãy ca tụng CHÚA, Đấng từ Si-ôn,
    Đấng ngự tại Giê-ru-sa-lem.
Ha-lê-lu-gia!

Bài Ca Cảm Tạ

136 Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài là thiện;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời của các thần;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Hãy cảm tạ CHÚA của các chúa;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Chỉ một mình Ngài đã làm những phép lạ lớn lao;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Bởi sự hiểu biết, Ngài đã tạo ra các tầng trời;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Ngài trải đất ra trên nước;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Ngài tạo ra các nguồn sáng lớn;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Mặt trời cai trị ban ngày;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
Mặt trăng và các ngôi sao cai trị ban đêm;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
10 Ngài đã đánh chết các con đầu lòng của người Ai-cập;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
11 Và đem người Y-sơ-ra-ên ra khỏi vòng dân ấy;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
12 Với bàn tay mạnh mẽ và cánh tay giương ra;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
13 Ngài rẽ đôi Biển Đỏ;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
14 Đem Y-sơ-ra-ên đi ngang qua biển ấy;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
15 Nhưng Ngài đánh đổ Pha-ra-ôn và đạo binh người xuống Biển Đỏ;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
16 Ngài đã dẫn dân Ngài đi qua sa mạc;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
17 Ngài đã đánh bại các vua lớn;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
18 Ngài giết chết các vua danh tiếng;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
19 Như Si-hôn, vua của người A-mô-rít;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
20 Óc, vua của Ba-san;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
21 Ngài ban đất của chúng nó cho dân Ngài làm sản nghiệp;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
22 Tức là sản nghiệp cho Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ngài;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
23 Ngài nhớ đến sự thấp hèn của chúng tôi;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
24 Ngài giải cứu chúng tôi khỏi các kẻ thù;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
25 Ngài ban thực phẩm cho mọi sinh vật;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.
26 Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời trên trời;
    Vì tình yêu thương của Ngài tồn tại đời đời.

Bài Ca Ly Hương

137 Chúng tôi ngồi bên các bờ sông tại Ba-by-lôn và khóc
    Khi nhớ đến Si-ôn.
Chúng tôi treo đàn hạc mình
    Trên các cành liễu ở đó.
Vì tại đó những kẻ bắt chúng tôi làm tù binh đòi chúng tôi phải hát;
    Những kẻ áp bức chúng tôi muốn chúng tôi phải vui vẻ;
    Chúng bảo: “Hãy hát cho chúng ta một trong những bài ca của Si-ôn.”
Làm sao chúng tôi có thể hát lên bài ca của CHÚA
    Ở trên đất ngoại quốc?
Hỡi Giê-ru-sa-lem, nếu ta quên ngươi,
    Nguyện tay phải ta quên tài năng nó đi;[b]
Nguyện lưỡi ta mắc cứng nơi vòm miệng
    Nếu ta không nhớ đến Giê-ru-sa-lem;
Không đặt Giê-ru-sa-lem
    Làm niềm vui tuyệt đỉnh của ta.
Lạy CHÚA, xin nhớ rằng
    Trong ngày Giê-ru-sa-lem bị thất thủ,
Dân Ê-đôm đã nói: Hãy phá hủy,
    Hãy phá hủy đến tận nền móng nó.
Này dân Ba-by-lôn[c] là dân sẽ bị hủy diệt,
    Phước cho người báo oán ngươi
    Bằng chính điều ngươi đã hại chúng ta;
Phước cho người bắt các con nhỏ của ngươi
    Và đập chúng vào tảng đá.

Thơ Đa-vít

138 Tôi hết lòng cảm tạ CHÚA và hát ca ngợi Ngài
    Trước mặt các thần.
Tôi cúi đầu hướng về đền thánh Chúa
    Và cảm tạ danh Ngài
    Vì tình yêu thương và lòng thành tín của Ngài;
Vì Chúa đã làm Danh Ngài
    Và lời Ngài vĩ đại hơn mọi sự.[d]
Trong ngày tôi cầu khẩn Chúa, Ngài đáp lời tôi;
    Ngài thêm sức cho tâm hồn tôi.[e]
Lạy CHÚA, mọi vua trên đất sẽ cảm tạ Ngài
    Vì đã nghe những lời từ miệng Ngài.
Họ sẽ ca hát về đường lối của CHÚA,
    Vì vinh quang của CHÚA vĩ đại thay.
CHÚA là cao cả, Ngài quan tâm đến kẻ thấp hèn;
    Nhưng kẻ kiêu căng, Ngài nhận biết từ xa.
Dù tôi đi giữa gian lao,
    Ngài ban cho tôi sức sống;[f]
Ngài đưa tay chống đỡ cơn giận của các kẻ thù tôi;
    Cánh tay phải Ngài cứu rỗi tôi.
CHÚA sẽ hoàn thành điều Ngài hứa[g] cho tôi.
    Lạy CHÚA, Tình yêu thương của Chúa tồn tại đời đời;
    Xin chớ từ bỏ công việc của tay Ngài.

Thơ Đa-vít Cho Nhạc Trưởng

139 CHÚA ôi, Ngài đã xem xét
    Và biết tôi.
Ngài biết khi tôi ngồi, lúc tôi đứng dậy;
    Từ xa Ngài đã nhận thấy tư tưởng tôi.
Ngài thấy rõ con đường tôi đi, lúc tôi nằm nghỉ;
    Mọi đường lối tôi Ngài đều quen thuộc.
Vì trước khi lưỡi tôi nói ra một tiếng,
    Kìa, CHÚA đã biết tất cả rồi.
Ngài bao phủ tôi phía trước lẫn phía sau,
    Ngài đặt tay bảo vệ tôi.
Sự hiểu biết của Ngài thật quá diệu kỳ cho tôi;
    Cao quá để tôi đạt đến được.
Tôi sẽ đi đâu xa khỏi thần Chúa?
    Tôi sẽ trốn đâu khỏi mặt Ngài?
Nếu tôi lên trời, Ngài đang ở đó;
    Nếu tôi nằm dưới Âm Phủ, kìa, Ngài cũng có ở đó.
Nếu tôi cất cánh bay về phía hừng đông
    Hay ở nơi cực tây của biển cả;
10 Tại đó, tay Ngài cũng dẫn dắt tôi;
    Cánh tay phải của Ngài sẽ nắm giữ tôi.
11 Nếu tôi nói, chắc chắn bóng tối sẽ che giấu tôi,
    Ánh sáng sẽ trở nên đêm tối chung quanh tôi;
12 Nhưng chính bóng tối sẽ không tối đối với Ngài;
    Ban đêm cũng sáng như ban ngày;
    Bóng tối như ánh sáng đối với Ngài.
13 Vì chính Chúa tạo nên tạng phủ tôi;
    Ngài dệt thành tôi trong lòng mẹ tôi.
14 Tôi cảm tạ Chúa vì tôi đã được tạo nên một cách đáng sợ và diệu kỳ;
    Các công việc của Chúa thật diệu kỳ,
    Linh hồn tôi biết rõ lắm.[h]
15 Xương cốt tôi không giấu được Chúa
    Khi tôi được tạo nên trong nơi bí ẩn;
Được kết thành một cách tinh vi ở nơi sâu của đất.
16     Mắt Chúa thấy thể chất vô hình của tôi;
Tất cả các ngày định cho tôi
    Đã được ghi vào sổ của Chúa
    Trước khi chưa có một ngày nào trong số các ngày ấy.
17 Lạy Đức Chúa Trời, các tư tưởng Chúa thật quý báu cho tôi thay;
    Số lượng chúng lớn biết bao!
18 Nếu tôi đếm các tư tưởng ấy,
    Thì chúng nhiều hơn cát.
Khi tôi thức dậy
    Tôi vẫn còn ở cùng Ngài.[i]
19 Lạy Đức Chúa Trời, ước gì Ngài diệt kẻ ác,
    Và những kẻ khát máu lìa xa tôi;
20 Là kẻ nói điều ác nghịch Chúa;
    Những kẻ thù nói xấu danh Ngài.[j]
21 Lạy CHÚA, tôi há chẳng ghét những kẻ ghét Chúa ư?
    Và chẳng ghê tởm những kẻ chống nghịch Ngài sao?
22 Tôi hoàn toàn ghét chúng;
    Coi chúng như kẻ thù.
23 Lạy Đức Chúa Trời, xin xem xét tôi và biết lòng tôi;
    Xin thử tôi và biết tư tưởng tôi.
24 Xin Chúa nhìn xem tôi có đường lối ác nào chăng;
    Và xin hướng dẫn tôi trong đường đời đời.

Thơ Đa-vít Cho Nhạc Trưởng

140 CHÚA ôi, xin giải cứu tôi khỏi kẻ ác,
    Bảo vệ tôi khỏi người hung dữ;
Chúng âm mưu điều ác trong lòng;
    Suốt ngày gây chiến.
Chúng mài lưỡi mình nhọn như lưỡi rắn;
    Dưới môi chúng là nọc độc rắn hổ mang. Sê-la
Lạy CHÚA, xin gìn giữ tôi khỏi tay kẻ ác,
    Bảo vệ tôi khỏi người hung dữ;
    Là kẻ âm mưu gây cho tôi vấp ngã.
Những kẻ kiêu ngạo đã gài bẫy hại tôi;
    Chúng giăng dây, bủa lưới dọc bên đường;
    Chúng đặt bẫy hại tôi. Sê-la
Tôi thưa cùng CHÚA rằng chính Ngài là Đức Chúa Trời tôi;
    Lạy CHÚA, xin lắng nghe lời cầu xin của tôi.
Lạy CHÚA, là Chúa tôi, Đấng giải cứu đầy dũng lực của tôi;
    Chúa che phủ đầu tôi trong ngày chiến trận.
Lạy CHÚA, xin đừng ban cho kẻ ác điều chúng ao ước;
    Xin chớ để âm mưu của chúng được thành;
    E chúng tự cao chăng. Sê-la
Nguyện những điều gian ác từ môi miệng những kẻ bao vây tôi
    Tràn ngập đầu chúng nó.
10 Nguyện than lửa đỏ đổ trên chúng nó;
    Nguyện chúng nó bị ném xuống vực sâu
    Không lên được.[k]
11 Nguyện những kẻ miệng lưỡi hay vu cáo không được vững lập trên đất;
    Nguyện tai họa dồn dập săn đuổi kẻ hung dữ.
12 Tôi biết rằng CHÚA sẽ bênh vực quyền lợi cho những kẻ khốn cùng
    Và thi hành công bình cho những kẻ nghèo khó.
13 Chắc chắn những người công chính sẽ cảm tạ danh Chúa,
    Những người ngay thẳng sẽ ở trước sự hiện diện của Ngài.

Thơ Đa-vít

141 CHÚA ôi, tôi cầu khẩn Ngài, xin mau mau đến cùng tôi;
    Xin lắng tai nghe lời cầu xin của tôi khi tôi cầu khẩn Chúa.
Nguyện lời cầu nguyện của tôi như hương dâng lên trước mặt Chúa,
    Nguyện sự khẩn cầu của tôi giống như vật tế lễ buổi chiều.
Lạy CHÚA, xin cử người canh gác miệng tôi;
    Xin gìn giữ môi tôi.
Xin chớ để lòng tôi hướng về điều ác,
    Làm những việc gian tà,
Tham gia với những kẻ làm điều tội lỗi;
    Xin chớ để tôi ăn tiệc với chúng.
Xin để người công chính đánh
    Và mắng tôi trong tình yêu thương;
    Nhưng kẻ ác sẽ chẳng bao giờ xức dầu cho đầu tôi;[l]
Vì tôi luôn luôn cầu nguyện chống lại các việc ác của họ.
    Khi những kẻ cai trị chúng bị ném xuống từ bờ đá,
    Chúng sẽ biết rằng những lời tôi nói là sự thật.
Như người ta cày và vỡ đất,
    Xương cốt chúng nó sẽ bị rải ra trước cửa mộ phần.[m]
Lạy CHÚA, là Chúa tôi, mắt tôi ngưỡng vọng Chúa;
    Tôi trú ẩn nơi Ngài, xin chớ để linh hồn tôi không phương tự vệ.
Nguyện Chúa gìn giữ tôi khỏi bẫy chúng gài hại tôi
    Và khỏi lưới của những kẻ làm ác.
10 Nguyện những kẻ ác cùng nhau sa vào lưới chúng đã gài,
    Còn tôi thì thoát khỏi.

Thơ Đa-vít Để Dạy Dỗ

142 Tôi cất tiếng kêu nài cùng CHÚA;
    Tôi cất tiếng xin CHÚA thương xót.
Trước mặt Chúa tôi dốc lòng than thở;
    Tôi bày tỏ nỗi gian nan trước mặt Ngài.
Khi tâm thần tôi kiệt quệ,
    Chúa biết đường lối tôi;
Trên con đường tôi đi,
    Chúng nó gài bẫy hại tôi.
Xin Chúa nhìn qua bên phải và xem,
    Không ai để ý đến tôi;
Tôi không còn nơi trú ẩn;
    Chẳng ai quan tâm đến sinh mạng[n] tôi.
Lạy CHÚA, tôi kêu nài cùng Chúa;
    Tôi nói rằng, chính Ngài là nơi trú ẩn của tôi,
    Là phần sản nghiệp của tôi trên đất người sống.
Xin Chúa lắng nghe lời cầu xin của tôi
    Vì tôi quá thất vọng;[o]
Xin giải cứu tôi khỏi những kẻ áp bức tôi
    Vì chúng mạnh hơn tôi.
Xin giải cứu linh hồn tôi ra khỏi ngục tù
    Để tôi cảm tạ danh Chúa;
Những người công chính sẽ vây quanh tôi
    Vì Chúa sẽ hậu đãi tôi.

Thánh Thi Đa-vít

143 CHÚA ôi, xin nghe lời cầu nguyện của tôi;
    Vì lòng thành tín Chúa,
Xin lắng nghe lời cầu xin của tôi;
    Trong sự công chính Ngài, xin đáp lời tôi.
Xin chớ đoán xét tôi tớ Chúa
    Vì không có người sống nào là công chính trước mặt Chúa.
Vì kẻ thù săn đuổi linh hồn tôi;
    Chà đạp mạng sống tôi dưới đất;
Bắt tôi ngồi trong bóng tối
    Như kẻ chết từ lâu.
Vì thế tinh thần tôi nao núng,
    Lòng dạ tôi sầu não.
Tôi nhớ lại những ngày xưa,
    Tôi suy gẫm tất cả những phép lạ của Chúa;
    Tôi suy tư về những công việc tay Ngài đã làm.
Tôi giơ tay hướng về Chúa cầu nguyện,
    Linh hồn tôi khao khát Chúa như vùng đất khô khan. Sê-la
Lạy CHÚA, xin mau mau đáp lời tôi;
    Tinh thần tôi bị nao núng;
Xin đừng lánh mặt khỏi tôi,
    E rằng tôi sẽ như người đi xuống huyệt sâu.
Buổi sáng xin cho tôi nghe thấy tình yêu thương Chúa
    Vì tôi tin cậy nơi Ngài;
Xin dạy tôi con đường tôi nên theo
    Vì linh hồn tôi ngưỡng vọng Chúa.
Lạy CHÚA, xin giải cứu tôi khỏi kẻ thù;
    Tôi trú ẩn nơi Chúa.
10 Xin dạy tôi làm theo ý Chúa
    Vì Ngài là Đức Chúa Trời tôi;
Xin thần linh tốt lành của Chúa
    Hướng dẫn tôi vào vùng đất bằng phẳng.
11 Lạy CHÚA, vì cớ danh Ngài, xin ban sức sống cho tôi;
    Vì sự công chính của Chúa xin giải cứu tôi khỏi cơn hoạn nạn.
12 Vì lòng nhân từ của Ngài, xin diệt kẻ thù tôi;
    Xin hủy diệt tất cả những kẻ áp bức tôi,
    Vì tôi là tôi tớ Chúa.

Thơ Đa-vít

144 Hãy ca tụng CHÚA, vầng đá của tôi;
    Ngài huấn luyện tay tôi cho chiến tranh,
    Luyện ngón tay tôi để chiến đấu.
Chúa là Đấng yêu thương tôi và thành lũy của tôi;
    Là thành trì và Đấng giải cứu tôi;
Là thuẫn đỡ và nơi trú ẩn cho tôi;
    Ngài khiến các dân[p] quy phục tôi.
Lạy CHÚA, loài người là gì mà Chúa quan tâm đến,
    Con người là chi mà Chúa nghĩ đến.
Người phàm giống như hơi thở,
    Đời người như bóng lướt qua.
Lạy CHÚA, xin Ngài hạ các tầng trời và ngự xuống;
    Xin Ngài đụng đến các núi và núi sẽ bốc khói.
Xin Ngài làm chớp phát ra, kẻ thù[q] chạy tán loạn;
    Xin Ngài bắn tên ra, đuổi chúng chạy.
Xin Ngài từ trên cao
    Đưa tay cứu tôi,
Vớt tôi ra khỏi nước sâu;
    Cứu tôi thoát khỏi tay người ngoại quốc;
Là người có miệng giả dối,
    Có tay phải thề dối.[r]
Lạy Đức Chúa Trời, tôi sẽ hát một bài ca mới cho Chúa,
    Đánh đàn hạc mười dây cho Ngài.
10 Đấng ban chiến thắng cho các vua,
    Giải cứu Đa-vít, tôi tớ Ngài;
11 Cứu tôi thoát khỏi lưỡi gươm độc ác;
    Giải cứu tôi khỏi tay người ngoại quốc;
Là người có miệng giả dối;
    Có tay phải thề dối.
12 Nguyện các con trai chúng tôi
    Như những cây cao lớn xanh tươi;
Các con gái chúng tôi như những cây cột
    Chạm trổ để trang trí đền thờ.
13 Nguyện các kho của chúng tôi đầy tràn,
    Cung cấp đủ thứ;
Nguyện đàn chiên của chúng tôi ở nơi đồng cỏ sinh sản hàng ngàn,
    Hàng vạn.
14     Nguyện đàn bò chúng tôi sinh sản nhiều,
Không sẩy thai,
    Không mất mát;
    Nguyện không có tiếng khóc đau khổ nơi đường phố chúng tôi.[s]
15 Phước cho dân tộc nào được như vậy;
    Phước cho dân tộc nào có CHÚA là Đức Chúa Trời mình.

Bài Hát Ca Ngợi Của Đa-vít

145 Lạy Đức Chúa Trời tôi, cũng là vua tôi,
    Tôi sẽ tôn cao Chúa và ca tụng danh Ngài mãi mãi vô cùng.
Mỗi ngày tôi sẽ ca tụng Chúa
    Và ca ngợi danh Ngài mãi mãi vô cùng.
CHÚA là vĩ đại và rất đáng ca ngợi;
    Sự vĩ đại của Ngài vượt quá sự hiểu biết của con người.
Đời này sẽ truyền tụng công việc của Chúa cho đời sau;
    Họ sẽ công bố những việc quyền năng của Ngài.
Họ sẽ nói[t] về uy nghi, vinh quang và huy hoàng của Chúa;
    Còn tôi sẽ suy gẫm các phép lạ của Ngài.
Người ta sẽ nói về quyền năng của các công việc đáng sợ của Chúa;
    Còn tôi sẽ công bố sự vĩ đại của Ngài.
Người ta sẽ làm lễ kỷ niệm phúc lành lớn của Chúa
    Và hân hoan ca hát về sự công chính của Ngài.
CHÚA hay ban ơn và có lòng thương xót;
    Chậm nóng giận và đầy tình yêu thương.
CHÚA là phúc lành cho tất cả mọi người;
    Ngài thương xót mọi tạo vật Ngài làm nên.
10 Lạy CHÚA, mọi tạo vật của Chúa đều sẽ cảm tạ Ngài
    Và những người kính sợ Chúa sẽ ca tụng Ngài.
11 Họ sẽ nói về vinh quang nước Chúa
    Và kể lại quyền năng của Ngài;
12 Để loài người biết các việc quyền năng Chúa
    Và sự vinh quang huy hoàng của nước Ngài.
13 Nước Chúa còn mãi vô cùng; quyền cai trị của Ngài đến đời đời.
    CHÚA thành tín trong mọi lời hứa của Ngài và yêu thương đối với mọi công việc Ngài.[u]
14 CHÚA nâng đỡ mọi người bị ngã;
    Ngài đỡ tất cả những người phải cúi đầu đứng dậy.
15 Mắt của mọi vật đều ngưỡng trông Chúa,
    Ngài ban cho chúng đồ ăn đúng thì.
16 Chúa xòe bàn tay Ngài ra,
    Thỏa mãn nhu cầu của mọi sinh vật.
17 CHÚA công chính trong mọi đường lối Ngài
    Và yêu thương đối với mọi công việc Ngài.
18 CHÚA ở gần mọi người cầu khẩn Ngài,
    Tức là những người cầu khẩn Ngài với lòng thành thật.
19 Chúa thỏa mãn nhu cầu của những kẻ kính sợ Ngài;
    Nghe tiếng khóc của họ và giải cứu cho.
20 CHÚA bảo vệ mọi người yêu mến Ngài
    Nhưng sẽ hủy diệt mọi kẻ ghét Ngài.
21 Miệng tôi sẽ dâng lời ca ngợi CHÚA,
    Hỡi mọi loài, hãy ca tụng danh thánh của Ngài muôn đời.

Lời Ca Ngợi Đức Chúa Trời, Đấng Cứu Rỗi

146 Ha-lê-lu-gia!
Hỡi linh hồn ta, hãy ca ngợi CHÚA.
    Suốt đời, tôi sẽ ca ngợi CHÚA;
    Hễ tôi còn sống bao lâu, tôi sẽ hát ca ngợi Đức Chúa Trời tôi bấy lâu.
Chớ tin cậy vua chúa hay người phàm;
    Ở nơi họ không có sự cứu rỗi.
Khi tâm linh[v] lìa khỏi thân xác[w] thì nó trở về bụi đất;
    Ngay chính ngày ấy, các kế hoạch của nó đều tiêu tan.
Phước cho người nào có Đức Chúa Trời của Gia-cốp giúp đỡ
    Và biết trông cậy nơi CHÚA, Đức Chúa Trời mình;
Là Đấng tạo nên trời, đất, biển
    Và muôn vật trong biển;
    Ngài gìn giữ sự chân thật[x] đời đời.
Ngài xét xử công bình cho người bị áp bức,
    Ban bánh cho kẻ đói,
CHÚA trả tự do cho người bị tù đày.
    CHÚA mở mắt những kẻ mù;
CHÚA nâng những kẻ phải cúi đầu đứng dậy;
    CHÚA yêu mến những người công chính.
CHÚA bảo vệ kiều dân;
    Nâng đỡ những cô nhi và quả phụ
    Nhưng bẻ gẫy đường lối những kẻ ác.
10 CHÚA sẽ cai trị muôn đời;
    Hỡi Si-ôn, Đức Chúa Trời ngươi sẽ cai trị đời đời.
Ha-lê-lu-gia!

Ca Ngợi Chúa Toàn Năng

147 Ha-lê-lu-gia!
Thật là tốt đẹp khi ca tụng Đức Chúa Trời chúng ta;
    Thật là thích thú và hợp lý khi ca ngợi Ngài.
CHÚA xây dựng Giê-ru-sa-lem;
    Ngài tập họp lại những kẻ tha hương lưu lạc của Y-sơ-ra-ên.
Ngài chữa lành những tấm lòng tan vỡ,
    Băng bó những vết thương của họ.
Ngài định số lượng các tinh tú,
    Đặt tên cho tất cả các ngôi sao.
CHÚA của chúng ta vĩ đại và đầy quyền năng;
    Sự hiểu biết của Ngài thật vô hạn.
CHÚA nâng đỡ những kẻ khốn cùng,
    Nhưng đánh đổ những kẻ ác xuống đất.
Hãy ca hát cảm tạ CHÚA,
    Hãy gảy đàn hạc và ca ngợi Đức Chúa Trời chúng ta.
Ngài che phủ các tầng trời bằng mây,
    Cung cấp mưa trên đất
    Và làm cỏ mọc trên các đồi;
Ngài ban thực phẩm cho thú vật,
    Ngay cả cho các chim quạ con khi chúng kêu la.
10 Chúa không vui vì sức mạnh của ngựa,
    Cũng không thích vì đôi chân mạnh[y] của một người;
11 Nhưng CHÚA vui lòng về người kính sợ Ngài,
    Là người trông cậy nơi tình yêu thương của Ngài.
12 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy ca tụng CHÚA;
    Hỡi Si-ôn, hãy ca ngợi Đức Chúa Trời ngươi.
13 Vì Ngài làm cho then cổng ngươi vững chắc;
    Chúc phước cho con cái ở giữa ngươi.
14 Ngài cho biên giới ngươi được bình an;
    Đổ đầy cho ngươi thóc lúa tốt nhất.
15 Ngài truyền lệnh ra trên đất;
    Lệnh Ngài được thi hành[z] tức khắc.
16 Ngài cho tuyết phủ như tấm lông chiên;
    Ngài rải sương mai như tro bụi.
17 Ngài đổ băng giá xuống như đá sỏi;
    Ai có thể chịu nổi cơn giá lạnh của Ngài?
18 Ngài truyền lệnh tuyết liền tan ra;
    Ngài làm gió thổi, nước bèn chảy.
19 Ngài truyền lời Ngài cho Gia-cốp,
    Các quy luật và phán quyết cho Y-sơ-ra-ên.
20 Ngài không làm như vậy với một nước nào khác;
    Chúng không hề biết các phán quyết của Ngài.
Ha-lê-lu-gia!

Cả Vũ Trụ Ca Ngợi Đức Chúa Trời

148 Ha-lê-lu-gia!
Từ các tầng trời, hãy ca ngợi CHÚA;
    Hãy ca ngợi Ngài trên các nơi cao.
Hỡi tất cả thiên sứ, hãy ca ngợi Ngài;
    Hỡi cả thiên binh, hãy ca ngợi Ngài.
Hỡi mặt trời, mặt trăng, hãy ca ngợi Ngài;
    Hỡi tất cả ngôi sao sáng, hãy ca ngợi Ngài.
Hỡi các tầng trời cao nhất,
    Và nước trên các tầng trời, hãy ca ngợi Ngài;
Nguyện tất cả đều ca ngợi danh CHÚA
    Vì cớ Ngài ra lệnh, chúng liền được tạo nên.
Ngài thiết lập chúng đến mãi mãi vô cùng;
    Ngài đã ban quy luật thì không thể bị bãi bỏ được.
Hãy ca ngợi CHÚA;
    Từ quả đất, các quái vật của biển và mọi vực sâu,
Lửa và mưa đá, tuyết và mây,
    Bão tố vâng theo lệnh Ngài.
Các núi và mọi đồi,
    Cây ăn trái và mọi cây tùng,
10 Thú rừng và mọi loài súc vật,
    Loài bò sát và chim,
11 Các vua trên đất và tất cả các dân,
    Các hoàng tử cùng tất cả những người lãnh đạo trên đất,
12 Các thanh niên cùng thiếu nữ,
    Những cụ già và trẻ con;
13 Nguyện tất cả đều ca ngợi danh CHÚA,
    Vì chỉ một mình danh Ngài được tôn cao;
    Sự vinh hiển Ngài trổi cao hơn cả trời đất.
14 Ngài đã nâng chiếc sừng của dân Ngài lên;
    Là sự ca ngợi của tất cả những người kính sợ Ngài;
    Tức là dân Y-sơ-ra-ên, một dân thân mật với Ngài.
Ha-lê-lu-gia!

Bài Hát Ca Ngợi Chiến Thắng

149 Ha-lê-lu-gia!
Hãy hát một bài ca mới cho CHÚA;
    Hãy hát ca ngợi Chúa giữa hội những người kính sợ Ngài.[aa]
Nguyện Y-sơ-ra-ên vui vẻ trong Đấng Tạo Hóa mình;
    Nguyện con dân Si-ôn vui mừng nơi Vua mình.
Nguyện chúng nó nhảy múa để ca ngợi danh Chúa;
    Đánh trống cơm, khảy đàn hạc, hát ca ngợi Ngài.
CHÚA vui lòng nơi con dân Ngài;
    Ngài lấy sự cứu rỗi[ab] trang sức cho những kẻ khiêm nhường.[ac]
Nguyện những người kính sợ Chúa vui mừng trong vinh hạnh này;
    Họ sẽ ca hát vui vẻ ngay trên giường mình[ad]
Nguyện lời tung hô Đức Chúa Trời nơi miệng[ae] họ;
    Một thanh gươm hai lưỡi nơi tay họ;
Để trả thù các nước
    Và trừng phạt các dân;
Để trói các vua chúng nó bằng xiềng
    Và cột những kẻ quý tộc của họ bằng xích sắt;
Để thi hành án phạt đã ghi cho chúng.
    Đây là sự vinh quang cho tất cả những người kính sợ CHÚA.
Ha-lê-lu-gia!

Ca Ngợi Chúa

150 Ha-lê-lu-gia!
Hãy ca ngợi Đức Chúa Trời trong đền thánh Ngài;
    Hãy ca ngợi Chúa quyền năng trong nơi cao cả Ngài.[af]
Hãy ca ngợi Chúa vì những việc quyền năng Ngài;
    Hãy ca ngợi Chúa vì Ngài vô cùng vĩ đại.
Hãy dùng kèn để ca ngợi Chúa;
    Hãy dùng đàn hạc, đàn lia mà ca ngợi Ngài.
Hãy đánh trống cơm, nhảy múa để ca ngợi Chúa;
    Hãy khảy đàn, thổi sáo mà ca ngợi Ngài.
Hãy khua chiêng vang dội để ca ngợi Chúa;
    Hãy đánh phèn la lớn tiếng mà ca ngợi Ngài.
Hỡi mọi loài sinh vật[ag] hãy ca ngợi CHÚA.
Ha-lê-lu-gia!

Phần Mở Đầu

Châm Ngôn của Sa-lô-môn, Con Trai Đa-vít, Vua của Y-sơ-ra-ên;
Để biết sự khôn ngoan và lời giáo huấn;
    Để hiểu những lời sáng suốt;
Để nhận lấy lời giáo huấn cho đời sống khôn ngoan,
    Công chính, công bình và bình đẳng;
Để ban cho người dại dột sự khôn ngoan;
    Cho người trẻ tuổi sự hiểu biết và suy xét.
Nguyện người khôn ngoan sẽ nghe và tăng thêm sự học vấn;
    Người sáng suốt sẽ nhận được sự hướng dẫn;
Để hiểu châm ngôn và ngụ ngôn;
    Những lời của người khôn ngoan và câu đố của họ.
Kính sợ CHÚA là khởi đầu[ah] sự hiểu biết;
    Kẻ ngu dại khinh bỉ sự khôn ngoan và lời giáo huấn.
Hỡi con ta, hãy nghe lời giáo huấn của cha con
    Và chớ bỏ lời dạy dỗ của mẹ con.
Vì ấy là vòng hoa xinh đẹp trên đầu con,
    Dây chuyền trang sức trên cổ con.
10 Hỡi con ta, nếu kẻ tội lỗi quyến rũ con,
    Chớ theo.
11 Nếu chúng nói: “Hãy đến cùng chúng ta,
    Hãy mai phục để làm đổ máu;
    Hãy rình rập để hại người vô tội cách vô cớ.
12 Như Âm Phủ, chúng ta hãy nuốt sống chúng nó,
    Nuốt nguyên vẹn như những kẻ xuống huyệt sâu.
13 Chúng ta sẽ lấy hết đồ quý giá,
    Và nhà chúng ta sẽ đầy của cướp.
14 Hãy rút thăm chia phần với chúng ta;
    Chúng ta sẽ có một bao tiền chung.”
15 Hỡi con ta, đừng đi theo con đường của họ;
    Chân con hãy tránh các lối chúng nó.
16 Vì chân chúng nó chạy theo điều ác;
    Chúng nó vội vàng làm đổ máu.
17 Vì giăng lưới trước mắt cả bầy chim
    Là điều vô ích thay;
18 Nhưng chúng nó mai phục để làm đổ máu chính mình;
    Rình để hại chính mạng sống[ai] mình.
19 Đó là con đường của tất cả những kẻ tham lợi phi nghĩa;
    Sự cướp bóc sẽ tước đoạt mạng sống[aj] của kẻ có nó.

Lời Kêu Gọi Của Sự Khôn Ngoan

20 Sự khôn ngoan kêu lớn trên đường phố;
    Lên tiếng giữa quảng trường;
21 Sự khôn ngoan kêu gọi nơi phố chợ nhộn nhịp;
    Diễn thuyết tại cổng dẫn vào thành phố.
22 Hỡi những kẻ dại dột, các ngươi yêu mến sự dại dột cho đến bao giờ?
    Những kẻ nhạo báng vui thích trong việc nhạo báng
    Và những kẻ ngu dại ghét sự hiểu biết cho đến khi nào?
23 Hãy trở lại khi ta quở trách;
    Này ta sẽ đổ thần ta[ak] trên các ngươi;
    Sẽ cho các ngươi biết những lời ta.
24 Vì ta đã kêu gọi nhưng các ngươi từ chối;
    Ta đã đưa tay ra nhưng không ai chú ý;
25 Vì các ngươi đã bỏ mọi lời khuyên của ta;
    Không nhận sự quở trách của ta;
26 Nên ta sẽ chê cười khi các ngươi bị tai họa;
    Ta sẽ chế nhạo khi sự kinh hoàng ập đến.
27 Sự kinh hoàng sẽ kéo đến như bão
    Và tai họa như gió lốc;
    Đau đớn và thống khổ ập đến trên các ngươi.
28 Bấy giờ chúng nó sẽ cầu khẩn ta nhưng ta không đáp lời;
    Chúng nó sẽ cố gắng tìm kiếm ta nhưng không tìm được.
29 Vì chúng nó ghét sự hiểu biết;
    Không chọn sự kính sợ CHÚA;
30 Không theo lời ta khuyên;
    Khinh bỉ mọi điều quở trách của ta;
31 Cho nên chúng sẽ phải ăn nuốt hậu quả của đường lối chúng;
    Và no nê với những mưu chước mình.
32 Vì sự lầm lạc giết kẻ ngây ngô;
    Còn sự vô tâm của kẻ ngu dại hủy diệt chính chúng nó.
33 Nhưng ai nghe ta sẽ sống an toàn
    Và an tâm không sợ tai họa.

Giá Trị Của Sự Khôn Ngoan

Hỡi con ta, nếu con tiếp nhận những lời ta
    Và trân trọng giữ gìn các điều răn ta trong lòng.
Nếu tai con lắng nghe sự khôn ngoan;
    Và lòng con hướng về sự hiểu biết;
Phải, nếu con kêu nài sự sáng suốt;
    Nếu con cất tiếng xin sự hiểu biết;
Nếu con tìm nó như tìm bạc,
    Và kiếm nó như kiếm châu báu ẩn giấu;
Bấy giờ con sẽ hiểu sự kính sợ CHÚA
    Và tìm thấy sự hiểu biết Đức Chúa Trời.
CHÚA ban cho sự khôn ngoan;
    Sự hiểu biết và sáng suốt đến từ miệng Ngài.
Ngài tích lũy sự khôn ngoan[al] cho người ngay thẳng;
    Ngài là thuẫn đỡ cho những kẻ sống chính trực.
Ngài giữ gìn lối đi của người công bình;
    Bảo vệ đường lối của kẻ kính sợ Ngài.
Bấy giờ con sẽ hiểu sự công chính,
    Công bình và bình đẳng cùng mọi đường lối tốt đẹp.
10 Vì sự khôn ngoan sẽ vào lòng con;
    Sự hiểu biết sẽ làm linh hồn con thích thú.
11 Sự khôn khéo sẽ giữ gìn con
    Và sự sáng suốt sẽ bảo vệ con;
12 Giải cứu con khỏi con đường tà,
    Khỏi kẻ nói lời tai ác;
13 Khỏi kẻ từ bỏ con đường ngay thẳng,
    Đi theo đường lối tối tăm.
14 Là kẻ vui vẻ để làm việc dữ;
    Thích thú trong hành động tai ác gian tà;
15 Kẻ có lối đi quanh co,
    Có đường lối xảo quyệt;
16 Giải cứu con khỏi người đàn bà bên ngoài;[am]
    Là người đàn bà xa lạ[an] có lời nói ngọt ngào;
17 Ả đã lìa bỏ bạn đời của tuổi thanh xuân;
    Quên giao ước của Đức Chúa Trời mình.
18 Vì nhà ả chìm xuống cõi chết;
    Đường lối ả dẫn tới Âm Ty.
19 Mọi kẻ đến với ả đều không trở lại,
    Và cũng không đạt được con đường sự sống.
20 Vậy, con hãy đi theo con đường của người thiện
    Và giữ lấy đường lối của người công chính.
21 Vì những người ngay thẳng sẽ được ở trong đất hứa[ao]
    Và những người trọn vẹn vẫn còn ở tại đó luôn.
22 Nhưng những kẻ ác sẽ bị diệt trừ khỏi đất
    Và những người xảo trá[ap] sẽ bị bứng khỏi vùng đất ấy.

Lời Khuyên Tin Cậy Và Tôn Trọng Chúa

Hỡi con ta, chớ quên lời dạy dỗ[aq] của ta,
    Nhưng hãy giữ các điều răn ta trong lòng.
Vì chúng sẽ thêm cho con tuổi thọ[ar] trong đời,
    Và an khang thịnh vượng.[as]
Chớ quên tình yêu thương và lòng trung tín,
    Hãy đeo chúng trên cổ con,
    Hãy ghi chúng vào lòng con.
Nhờ đó con sẽ tìm được ơn lành và tiếng[at] tốt
    Trước mắt Đức Chúa Trời lẫn người ta.
Hãy hết lòng tin cậy CHÚA,
    Chớ nương cậy nơi sự sáng suốt của con.
Hãy nhận biết Ngài trong mọi đường lối mình,
    Ngài sẽ làm cho đường lối của con ngay thẳng.
Chớ khôn ngoan theo mắt mình,
    Nhưng hãy kính sợ CHÚA và tránh điều ác.
Ấy sẽ là sự chữa bệnh cho thân thể[au] con,
    Và sự bổ dưỡng cho xương cốt con.
Hãy lấy tài sản và hoa quả đầu mùa của con
    Mà tôn vinh CHÚA.
10 Bấy giờ kho vựa của con sẽ đầy ắp,
    Và thùng chứa của con sẽ đầy tràn rượu mới.
11 Hỡi con ta, chớ khinh thường sự rèn luyện của CHÚA,
    Cũng đừng nản lòng vì lời quở trách của Ngài.
12 CHÚA khiển trách người Ngài thương,
    Như cha đối với con thân yêu của mình.
13 Phước cho người nào tìm được sự khôn ngoan,
    Và nhận được sự sáng suốt.
14 Vì giá trị của nó quý hơn bạc;
    Lợi ích từ nó tốt hơn vàng.
15 Sự khôn ngoan quý hơn hồng ngọc;[av]
    Tất cả mọi vật con ao ước đều không thể sánh được.
16 Tay phải nó nắm sự trường thọ;
    Tay trái cầm sự giàu sang và vinh hiển.
17 Những con đường của nó dễ chịu;
    Mọi lối đi của nó đều bình an.
18 Sự khôn ngoan là cây sự sống cho ai nắm được nó;
    Người nào giữ chặt lấy nó được gọi là người có phước.
19 CHÚA dùng sự khôn ngoan đặt nền cho quả đất,
    Bởi sự sáng suốt thiết lập các tầng trời.
20 Do sự hiểu biết của Ngài các vực sâu tuôn nước,
    Các đám mây kết tụ thành sương;
21 Hỡi con ta, hãy giữ lấy sự khôn ngoan và suy xét;
    Mắt con chớ rời xa những điều ấy.
22 Chúng sẽ là sự sống cho linh hồn con,
    Và đồ trang sức cho cổ con.
23 Bấy giờ con sẽ đi đường bình an,
    Và chân con sẽ không vấp ngã.
24 Khi đi ngủ con sẽ không sợ,
    Lúc nằm ngủ, con sẽ ngủ ngon.
25 Chớ sợ hãi điều kinh khủng bất ngờ,
    Cũng đừng sợ sự tan hoang ập xuống trên kẻ ác.
26 CHÚA sẽ là sự tin cậy của con;
    Ngài sẽ gìn giữ chân con khỏi mắc bẫy.
27 Đừng từ chối điều tốt đẹp cho người xứng đáng
    Khi tay con có quyền làm điều ấy.
28 Khi có đừng nói với láng giềng con:
    “Hãy đi rồi trở lại, ngày mai tôi sẽ cho anh.”
29 Chớ âm mưu hại người láng giềng
    Khi người sống an toàn cạnh con.
30 Đừng tranh chấp với ai vô cớ
    Khi người ta chẳng làm gì hại con.
31 Chớ ganh tị với người hung dữ,
    Cũng đừng chọn đường lối nào của nó.
32 CHÚA ghê tởm kẻ gian tà,
    Nhưng Ngài thân cận với người ngay thẳng.
33 Sự rủa sả của CHÚA ở trong nhà kẻ ác,
    Nhưng Ngài ban phước cho nơi ở của người công chính.
34 Đối với người nhạo báng, Ngài chế nhạo chúng;
    Nhưng Ngài ban ơn cho kẻ khiêm nhu.
35 Người khôn ngoan sẽ hưởng sự vinh hiển,
    Nhưng kẻ ngu dại sẽ nhận điều xấu hổ.

Hãy Vâng Lời Cha Mẹ

Hỡi các con, hãy nghe lời giáo huấn của người cha;
    Và hãy chú ý để các con biết được sự sáng suốt.
Vì ta ban cho các con một đạo lý tốt lành;
    Đừng từ bỏ lời dạy dỗ của ta.
Khi thơ ấu ta là con của cha ta,
    Và là con một[aw] của mẹ ta.
Người dạy bảo ta rằng:
    Hãy ghi nhớ các lời ta trong lòng;
    Hãy gìn giữ những điều răn ta và sống.
Hãy thu nhận sự khôn ngoan, hãy thu nhận sự sáng suốt;
    Chớ quên, cũng đừng từ bỏ lời phán của ta.[ax]
Đừng từ bỏ sự khôn ngoan[ay] thì nó sẽ gìn giữ con;
    Hãy yêu mến sự khôn ngoan thì nó sẽ bảo vệ con.
Sự khôn ngoan là điều tiên quyết,[az] hãy thu nhận sự khôn ngoan;
    Hãy tận dụng mọi điều con có để nhận được sáng suốt.
Hãy đánh giá cao sự khôn ngoan thì nó sẽ tôn con lên cao;
    Hãy ôm ấp nó thì nó sẽ làm cho con vinh hiển.
Sự khôn ngoan sẽ ban cho đầu con một mão hoa ân huệ,
    Sẽ đội cho đầu con một mão miện vinh hiển.
10 Hỡi con ta, hãy nghe và nhận các lời của ta,
    Thì các năm của đời con sẽ được thêm nhiều.
11 Ta dẫn con trên con đường khôn ngoan,
    Dắt con trong các lối ngay thẳng.
12 Khi đi các bước chân con sẽ không bị ngăn trở
    Và nếu con chạy, con sẽ không bị vấp ngã.
13 Hãy nắm chặt lấy lời giáo huấn, chớ buông ra;
    Hãy gìn giữ nó vì nó là sự sống của con.
14 Đừng vào trong lối của những kẻ ác,
    Chớ đi trên đường của những người dữ.
15 Hãy tránh con đường ấy; đừng đi trên đó;
    Hãy rẽ qua lối khác và cứ đi thẳng luôn.
16 Vì chúng không ngủ được nếu không làm điều ác
    Và bị mất ngủ nếu không làm cho người ta ngã.
17 Vì chúng ăn bánh gian ác,
    Uống rượu hung dữ.
18 Nhưng con đường của người công chính như ánh sáng bình minh;
    Chiếu sáng rạng rỡ cho đến giữa trưa.
19 Còn con đường của kẻ ác giống như tăm tối;
    Chúng nó không biết vật gì làm mình vấp ngã.
20 Hỡi con ta, hãy chú ý đến các lời ta;
    Hãy lắng tai nghe những lời ta nói.
21 Mắt con chớ lìa xa các lời ấy;
    Hãy gìn giữ chúng trong lòng con.
22 Vì những lời ấy là sự sống cho ai tìm được chúng,
    Là sự chữa bệnh cho toàn thân thể họ.
23 Trên hết mọi sự, hãy gìn giữ tấm lòng của con,
    Vì các nguồn sự sống xuất phát từ đó.
24 Hãy từ bỏ miệng gian tà;
    Hãy lìa xa môi xảo quyệt.
25 Mắt con hãy nhìn thẳng trước mặt;
    Mí mắt con hãy hướng thẳng về phía trước.
26 Hãy làm cho bằng phẳng con đường con đi,
    Thì mọi đường lối của con sẽ được chắc chắn.
27 Chớ quay sang bên phải hay bên trái;
    Chân con hãy tránh điều ác.

Lời Khuyên Về Sự Cám Dỗ Tình Dục

Hỡi con ta, hãy chú ý đến sự khôn ngoan ta,
    Hãy lắng tai nghe sự sáng suốt của ta;
Để con nắm giữ sự thận trọng,
    Và môi con gìn giữ sự hiểu biết.
Vì môi của người đàn bà lạ[ba] tiết ra mật ngọt;
    Miệng nó dịu ngọt hơn dầu.
Nhưng rốt cuộc đắng như ngải cứu,
    Sắc như gươm hai lưỡi.
Chân nó đi đến sự chết,
    Bước nó dẫn xuống Âm Phủ.
Nó không cân nhắc con đường sự sống,
    Đường lối nó lầm lạc mà nó không biết.
Hỡi các con ta, giờ đây hãy nghe ta;
    Chớ từ bỏ những lời của miệng ta.
Hãy giữ đường lối con cách xa nó;
    Chớ đến gần cửa nhà nó.
E rằng con sẽ tiêu phí danh dự[bb] con cho những kẻ khác,
    Các năm tháng đời con cho kẻ bạo tàn;
10 E những người lạ sẽ hưởng trọn công sức của con,
    Và công lao con sẽ vào nhà người xa lạ.
11 Rốt cuộc con sẽ rên siết khi xác thịt
    Và thân thể tiêu mòn.
12 Bấy giờ con sẽ nói: “Sao tôi đã ghét sự giáo huấn;
    Lòng tôi đã khinh lời quở trách.
13 Tôi đã không vâng lời các thầy giáo;
    Tôi đã không lắng tai nghe những người dạy dỗ tôi.
14 Tôi gần như hoàn toàn bị hủy hoại
    Ở giữa buổi hội và dân chúng.”[bc]
15 Hãy uống nước từ hồ chứa của con;
    Và nước chảy từ giếng của con;
16 Lẽ nào các nguồn nước của con chảy ra ngoài đường,
    Các dòng suối của con chảy ở nơi phố chợ?
17 Chúng thuộc về riêng con;
    Không thể chung với những người khác.
18 Nguyện nguồn nước của con được phước;
    Hãy vui thích với người vợ từ thuở thanh xuân;
19 Như con hươu đáng yêu, như con nai duyên dáng;[bd]
    Nguyện ngực nàng làm con vui thỏa luôn luôn
    Và tình yêu nàng làm con say mê mãi mãi.
20 Hỡi con ta, tại sao con say mê người đàn bà lạ?
    Tại sao con ôm ấp người đàn bà xa lạ?
21 Vì các đường lối của người ta đều ở trước mắt CHÚA
    Và Ngài xem xét mọi lối đi của nó.
22 Kẻ ác sẽ bởi tội lỗi mình sập bẫy;
    Và bị các dây tội lỗi mình trói buộc.
23 Nó sẽ chết vì thiếu sự giáo huấn
    Và lầm lạc vì quá ngu dại.

Sự Bảo Lãnh

Hỡi con ta, nếu con bảo lãnh cho người láng giềng;
    Nếu con đưa tay hứa với một người lạ.
Nếu con bị mắc bẫy vì môi miệng;
    Nếu con bị mắc bẫy vì lời nói mình.
Hỡi con ta, hãy làm thế này để giải cứu mình.
    Vì con đã lọt vào tay kẻ láng giềng con;
    Hãy đến, cúi đầu nài xin kẻ láng giềng con.
Đừng để cho mắt con ngủ;
    Chớ để cho mí mắt con khép lại.
Hãy thoát thân như nai tơ thoát khỏi tay thợ săn;[be]
    Như chim thoát khỏi tay người đánh bẫy.

Lười Biếng

Hỡi kẻ lười biếng, hãy đến xem con kiến;
    Hãy xem đường lối nó để trở nên khôn ngoan.
Nó không có người lãnh đạo,
    Giám đốc hay người cai trị;
Nhưng nó tích trữ lương thực vào mùa hè
    Và thu nhặt thực phẩm trong mùa gặt.
Hỡi kẻ lười biếng, ngươi còn nằm cho đến chừng nào?
    Bao giờ ngươi mới thức dậy?
10 Ngủ một chút; chợp mắt một chút;
    Khoanh tay nằm nghỉ một chút;
11 Thế là sự nghèo khó của ngươi sẽ đến như kẻ cướp,
    Và sự thiếu thốn của ngươi sẽ đến như người lính nơi chiến trận.[bf]

Sự Gian Tà

12 Người nào sống với môi miệng gian dối
    Là kẻ vô loài, người gian ác.
13     Hắn nháy mắt làm ám hiệu;
    Khều chân,
    Chỉ ngón tay làm dấu;
14     Người có lòng gian tà, âm mưu điều ác;
    Lúc nào cũng gieo điều bất hòa.
15 Cho nên tai họa sẽ thình lình kéo đến,
    Trong chốc lát nó sẽ bị hủy diệt không phương cứu chữa.

Những Điều CHÚA Ghét

16 Có sáu điều CHÚA ghét
    Và bảy điều Ngài ghê tởm:
17     Con mắt tự cao;
    Lưỡi dối trá;
    Bàn tay đổ máu vô tội;
18     Lòng toan tính những âm mưu gian ác;
    Chân vội vàng chạy đến điều dữ;
19     Nhân chứng gian thốt ra lời dối trá;
    Kẻ gieo điều bất hòa giữa vòng anh em.
20 Hỡi con ta, hãy giữ các điều răn của cha con
    Và chớ từ bỏ lời dạy dỗ của mẹ con.
21 Hãy luôn luôn ghi khắc nó trong lòng;
    Hãy đeo nó nơi cổ con.
22 Khi con đi, nó sẽ dẫn con;
    Khi con nằm nó sẽ bảo vệ con;
    Lúc con thức nó sẽ trò chuyện với con.
23 Vì điều răn là ngọn đèn;
    Sự dạy dỗ là ánh sáng
Và lời quở trách để giáo huấn
    Là con đường sự sống;
24 Để giữ con tránh khỏi người đàn bà gian ác;
    Khỏi lưỡi ngọt ngào của người đàn bà lạ.
25 Lòng con chớ thèm muốn sắc đẹp nó;
    Cũng đừng để mí mắt nó chiếm lấy con.
26 Vì gái điếm làm cho con chỉ còn một miếng bánh;[bg]
    Nhưng người đàn bà ngoại tình[bh] săn đuổi chính linh hồn quý giá của con.
27 Có thể nào một người mang lửa trên mình
    Mà quần áo không cháy sao?
28 Hay một người bước đi trên than lửa đỏ
    Mà chân không bị bỏng sao?
29 Người nào ngủ[bi] với vợ người khác cũng như vậy;
    Ai đụng đến nàng sẽ không tránh khỏi hình phạt.
30 Một kẻ cắp sẽ không bị khinh
    Nếu nó đánh cắp để ăn khi đói khát.
31 Nhưng nếu nó bị bắt, nó phải đền gấp bảy lần;
    Nó phải trả bằng tất cả tài sản nhà nó.
32 Người ngoại tình là người mất hết tâm trí;
    Kẻ làm điều đó sẽ hủy diệt linh hồn[bj] mình.
33 Người sẽ bị thương tích và bị sỉ nhục;
    Sự sỉ nhục của người sẽ không thể nào tẩy xóa được.
34 Vì ghen tuông là cơn thịnh nộ của người chồng;
    Người sẽ không dung thứ khi báo thù.
35 Người sẽ không chấp nhận bất cứ một sự đền bù nào;
    Dù con đút lót nhiều quà cáp người cũng không chịu.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)