Bible in 90 Days
Lời Cảnh Cáo Giê-ru-sa-lem
29 Khốn cho A-ri-ên, A-ri-ên,
Là thành Đa-vít đã đóng trại.
Năm này đến năm nọ cứ thêm lên;[a]
Cứ để cho lễ hội diễn ra.
2 Nhưng ta sẽ làm cho A-ri-ên buồn thảm;
Sẽ có khóc lóc, than vãn;
Với ta nó vẫn sẽ là A-ri-ên.[b]
3 Ta sẽ đóng trại bao vây[c] ngươi,
Lập đồn chống ngươi
Và đắp lũy chung quanh nghịch ngươi.
4 Ngươi sẽ bị hạ thấp. Ngươi sẽ nói từ dưới đất,
Lời nói ngươi bị hạ thấp từ bụi đất.
Tiếng ngươi sẽ giống như tiếng ma quái ra từ đất,
Lời nói ngươi thì thầm như bụi đất.
5 Nhưng đám đông kẻ thù[d] ngươi sẽ như bụi nhỏ,
Và đám đông tàn bạo sẽ như trấu tung bay.
Nó sẽ xảy đến thình lình, ngay tức khắc.
6 CHÚA Vạn Quân sẽ dùng
Sấm sét, động đất, tiếng động lớn,
Bão trốt, giông tố và ngọn lửa thiêu đốt mà phạt[e] nó.
7 Đám đông tất cả các nước đánh A-ri-ên,
Tất cả những kẻ tấn công, phá thành lũy
Và làm cho nó buồn thảm sẽ như chiêm bao,
Như khải tượng ban đêm.
8 Chúng nó sẽ như người đói mơ thấy mình ăn
Nhưng thức dậy mình vẫn đói;
Như người khát mơ thấy mình uống
Nhưng thức dậy bị kiệt sức, và mình vẫn khát.
Đám đông tất cả các nước
Tấn công núi Si-ôn cũng sẽ như vậy.
9 Hãy kinh ngạc và sững sờ.
Hãy làm cho mình mù lòa và không thấy.
Hãy say nhưng không phải vì rượu nho,
Hãy lảo đảo nhưng không phải vì rượu mạnh.
10 Vì CHÚA đã đổ thần ngủ mê trên các ngươi.
Ngài đã bịt mắt các ngươi, là các tiên tri,
Và trùm đầu các ngươi, là các vị tiên kiến.
11 Khải tượng về tất cả những điều này đối với các ngươi sẽ như lời của một cuốn sách bị niêm phong. Nếu đưa cho một người biết đọc và bảo: “Hãy đọc sách này,” người ấy sẽ nói: “Tôi không thể đọc được vì sách này đã niêm phong.” 12 Và nếu đưa cuốn sách cho một người không biết đọc rồi bảo: “Hãy đọc sách này,” người ấy sẽ nói: “Tôi không biết đọc.”
13 CHÚA phán:
“Vì dân này đến gần Ta[f] bằng miệng;
Tôn vinh Ta[g] bằng môi
Nhưng lòng thì xa cách Ta.
Sự chúng nó kính sợ Ta
Chỉ là điều răn của loài người, do loài người dạy bảo. [h]
14 Cho nên, này một lần nữa, Ta sẽ làm cho dân này kinh ngạc,
Từ kinh ngạc này đến kinh ngạc khác.
Sự khôn ngoan của người khôn ngoan sẽ tiêu mất,
Sự thông thái của người thông thái sẽ bị giấu kín.
15 Khốn cho những kẻ giấu mưu luận mình kín
Khỏi CHÚA.
Chúng làm việc trong bóng tối và nói:
Ai sẽ thấy, ai sẽ biết chúng ta?”
16 Các ngươi thật ngược ngạo.
Thợ gốm mà coi như đất sét!
Đồ vật có nên nói với người làm ra mình:
“Người không làm ra tôi,”
Hay đồ gốm nói với thợ gốm rằng:
“Người không hiểu.”
17 Có phải ít lâu nữa Li-ban sẽ nên ruộng phì nhiêu
Và ruộng phì nhiêu được coi như rừng rậm hay sao?
18 Vào ngày ấy, kẻ điếc sẽ nghe lời trong sách,
Con mắt kẻ mù nơi tối tăm
Sẽ thấy.
19 Những kẻ khốn cùng sẽ một lần nữa vui mừng trong CHÚA.
Những kẻ nghèo khổ giữa loài người sẽ hân hoan trong Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
20 Vì những kẻ bạo ngược sẽ hết,
Những kẻ chế nhạo sẽ không còn
Và tất cả những kẻ sẵn sàng[i] làm ác đều sẽ bị đốn ngã.
21 Những kẻ dùng lời nói làm cho người ta bị kết án;[j]
Những kẻ gài bẫy người thưa kiện tại toà;[k]
Và những kẻ dùng lý do giả dối[l] gạt bỏ sự công bình cho những người vô tội.
22 Cho nên, CHÚA, Đấng cứu chuộc Áp-ra-ham phán về nhà Gia-cốp thế này:
“Gia-cốp sẽ không còn hổ thẹn nữa,
Mặt người sẽ không còn tái xanh nữa.
23 Vì khi người thấy con cái mình ở giữa mình,
Tức là công việc của tay Ta,
Thì chúng sẽ tôn thánh danh Ta;
Tôn thánh Đấng Thánh của Gia-cốp
Và sẽ kính sợ Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
24 Những kẻ có tâm thần lầm lạc sẽ hiểu biết
Và những kẻ hay than phiền sẽ được giáo huấn.”
Lời Đe Dọa Giu-đa
30 CHÚA phán:
“Khốn cho con cái bướng bỉnh,
Lập[m] kế hoạch nhưng không phải của Ta,
Kết liên minh nhưng không phải bởi thần Ta,
Cho nên tội càng thêm tội.
2 Chúng nó đi xuống Ai Cập
Nhưng không hỏi ý[n] Ta,
Nhờ Pha-ra-ôn bảo vệ
Và núp bóng Ai Cập.
3 Cho nên sự bảo vệ của Pha-ra-ôn sẽ là sự hổ thẹn cho các ngươi
Và sự núp bóng Ai Cập sẽ là điều sỉ nhục.
4 Dù các hoàng tử nó đã có mặt tại Xô-an,
Các đại sứ nó đã đến Ha-ne.
5 Tất cả đều sẽ bị hổ thẹn
Vì một dân chẳng ích lợi gì;
Chẳng giúp đỡ cũng chẳng ích lợi gì
Nhưng đem lại hổ thẹn và nhục nhã.”
6 Lời tiên tri về các thú vật ở Nê-ghép.[o]
Trong một vùng đất gian nan, sầu khổ;
Xứ của sư tử đực[p] và sư tử cái;
Xứ của rắn lục và rắn lửa bay.
Chúng nó chở của cải trên lưng lừa,
Chở các báu vật trên lưng lạc đà
Đến một dân chẳng giúp ích gì chúng được.
7 Sự giúp đỡ của Ai Cập chỉ là vô ích, hư không,
Cho nên Ta gọi nó là Ra-háp,
Kẻ ngồi yên chẳng làm được gì!
8 Bây giờ, hãy đi, khắc nó trên một tấm bảng cho họ,[q]
Chép nó vào một cuốn sách
Để làm bằng chứng
Cho những ngày sau đời đời.
9 Vì dân này phản nghịch, con cái bội tín,
Con cái không muốn nghe lời giáo huấn[r] của CHÚA.
10 Chúng nói với những vị tiên kiến rằng:
“Đừng nhìn thấy;”
Với những vị tiên tri:
“Đừng phán tiên tri cho chúng tôi những điều phải.
Hãy nói cho chúng tôi những điều dễ nghe,
Hãy phán tiên tri những điều ảo tưởng cho chúng tôi.
11 Hãy từ bỏ con đường,
Hãy rẽ khỏi lối;
Hãy cất bỏ Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên
Khỏi trước mặt chúng tôi.”
12 Cho nên Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên phán rằng:
“Vì các ngươi đã từ khước lời này
Nhưng tin cậy vào sự áp bức
Và sự lừa dối.
13 Vì vậy, tội các ngươi sẽ
Như một bức tường cao bị nứt, bể ra sắp sụp.
Tường sẽ thành bình vỡ nát trong nháy mắt.
14 Ngài sẽ đập vỡ nó như bình gốm
Bị bể nát không thương tiếc
Đến nỗi người ta không tìm được từ nó một mảnh vụn
Để lấy lửa từ bếp
Hay múc nước từ hồ.”
15 Vì CHÚA, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên phán rằng:
“Các ngươi sẽ được giải cứu[s] nhờ quay trở lại[t] và yên nghỉ.
Các ngươi sẽ được sức mạnh nhờ yên lặng và tin cậy.
Nhưng các ngươi không muốn như thế.
16 Các ngươi nói: ‘Không, chúng tôi sẽ cưỡi ngựa chạy trốn.’
Vì vậy các ngươi sẽ chạy trốn.
‘Chúng tôi sẽ cưỡi ngựa chạy nhanh,’
Vì vậy những kẻ săn đuổi các ngươi cũng chạy nhanh.
17 Một người dọa,
Ngàn người bỏ chạy;
Năm người dọa,
Các ngươi đều bỏ chạy
Cho đến khi số người còn sót lại
Như cây trên đỉnh núi,
Như bảng hiệu trên đồi.”
18 Thật ra, CHÚA chờ đợi để ban ơn cho các ngươi.
Thật vậy, Ngài sẽ đứng lên để tỏ lòng thương xót các ngươi.
Vì CHÚA là Đức Chúa Trời công bình.
Phước cho người nào trông đợi Ngài.
19 Vì hỡi dân ở Si-ôn, những người ở tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi sẽ chẳng khóc lóc nữa. Chắc chắn khi các ngươi kêu, Ngài sẽ ban ơn; khi nghe tiếng ngươi, Ngài sẽ đáp lời. 20 Dù CHÚA ban cho các ngươi bánh nghịch cảnh và nước buồn phiền nhưng Đấng hướng dẫn ngươi[u] sẽ không còn ẩn mặt nữa, mắt ngươi sẽ thấy Đấng hướng dẫn ngươi. 21 Tai các ngươi sẽ nghe tiếng nói từ phía sau: “Đây là con đường, hãy đi theo” khi các ngươi rẽ sang phải hay sang trái. 22 Các ngươi sẽ phế bỏ các tượng dát bạc, các hình tượng bọc vàng của mình. Các ngươi sẽ ném chúng nó ra xa như đồ ô uế và bảo: “Hãy ra khỏi đây!”
23 Ngài sẽ ban mưa cho hạt giống các ngươi gieo trên đồng ruộng. Bánh, là sản phẩm của đồng ruộng sẽ trù phú và nhiều. Vào ngày ấy súc vật của các ngươi sẽ gặm cỏ nơi đồng ruộng. 24 Bò và lừa cày ruộng sẽ ăn rơm rạ sạch người ta dùng chĩa và xẻng rải ra. 25 Vào ngày chém giết lớn, các thành lũy sụp đổ; trên tất cả các núi cao, các đồi lớn đều sẽ có suối nước chảy. 26 Ánh sáng mặt trăng sẽ giống như ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trời sẽ sáng hơn gấp bảy lần như ánh sáng của bảy ngày, trong ngày CHÚA băng bó vết thương của dân Ngài và chữa lành những vết đòn Ngài đã đánh.
27 Kìa, danh CHÚA đến từ xa;
Cơn giận của Ngài bùng cháy, khói đen dày đặc bốn bên.[v]
Môi Ngài đầy thịnh nộ
Và lưỡi Ngài như ngọn lửa thiêu nuốt.
28 Hơi thở Ngài như dòng nước
Tràn ngập đến tận cổ
Để sàng sẩy các nước bằng sàng hủy diệt
Và đặt cái khớp hướng dẫn
Sai lạc trên hàm các dân.
29 Các ngươi sẽ ca hát
Như trong đêm lễ thánh,
Lòng các ngươi sẽ vui mừng
Như người đi ra thổi sáo,
Lên núi của CHÚA,
Đến vầng đá của Y-sơ-ra-ên.
30 CHÚA sẽ làm cho người ta nghe tiếng uy nghiêm của Ngài;
Thấy cánh tay giáng xuống
Trong cơn giận dữ thịnh nộ và ngọn lửa thiêu nuốt;
Trong cơn mưa gió, bão tố và mưa đá.
31 A-si-ri sẽ khiếp sợ vì tiếng của CHÚA;
Ngài sẽ lấy roi đánh nó.
32 Mỗi lằn roi trừng phạt đã định
Mà CHÚA đánh nó
Sẽ có tiếng trống, tiếng đàn.
Trong chiến trận Ngài sẽ giương tay chiến đấu với nó.
33 Vì Tô-phết[w] đã được chuẩn bị từ xa xưa,
Thật vậy, nó được chuẩn bị cho vua.
Hồ lửa sâu và rộng,
Đầy lửa và củi.
Hơi thở của CHÚA
Như suối diêm sinh đốt lửa.
Liên Kết Với Ai Cập Là Vô Ích
31 Khốn cho những kẻ đi xuống Ai Cập để cầu cứu;
Nhờ những ngựa,
Cậy các xe vì chúng nó đông;
Tin cậy vào kỵ binh vì chúng nó mạnh
Nhưng không nhìn xem Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên
Và không tìm kiếm CHÚA.
2 Ngài cũng là Đấng khôn ngoan, là Đấng giáng tai họa,
Đấng không thay lời.
Ngài sẽ đứng dậy nghịch với nhà kẻ ác
Và chống lại những kẻ giúp bọn làm ác.
3 Những người Ai Cập chỉ là người, không phải Đức Chúa Trời,
Ngựa của họ chỉ là xác thịt, không phải thần linh.
Nhưng CHÚA sẽ giương tay ra
Thì kẻ giúp đỡ sẽ vấp,
Kẻ được giúp sẽ ngã,
Và cả hai sẽ cùng nhau bị hủy diệt.
4 Vì CHÚA đã phán với ta:
“Như sư tử gầm thét
Hoặc như sư tử tơ vồ mồi,
Dù một đám người chăn chiên
Họp lại chống nó
Thì nó cũng không sợ vì tiếng la hét
Hay chạy trốn vì tiếng động của họ.
Cũng vậy, CHÚA Vạn Quân sẽ xuống
Để chiến đấu trên núi Si-ôn và các đồi.
5 Như chim bay lượn thể nào
CHÚA Vạn Quân sẽ bảo vệ Giê-ru-sa-lem thể ấy.
Ngài bảo vệ và giải cứu,
Ngài vượt qua và cứu vớt nó.”
6 Hỡi con cái Y-sơ-ra-ên, hãy trở lại cùng Đấng mà các ngươi đã phản loạn rất nhiều. 7 Vì vào ngày ấy, mọi người sẽ ném bỏ các hình tượng bằng bạc, bằng vàng mà tay ngươi đã làm ra trong tội lỗi.
8 “Bấy giờ A-si-ri sẽ sụp đổ vì gươm, không phải do loài người.
Gươm, không phải người ta, sẽ ăn nuốt nó.
Chúng nó sẽ chạy trốn trước lưỡi gươm
Và thanh niên của họ sẽ phải làm lao động cưỡng bách.
9 Thành đá của nó sụp đổ[x] vì sợ hãi,
Các hoàng tử của nó bỏ chạy khi thấy cờ hiệu.”
CHÚA,
Đấng có lửa tại Si-ôn
Và là lửa tại Giê-ru-sa-lem phán như vậy.
Vương Quốc Công Bình
32 Kìa, một vị vua sẽ lấy sự công chính trị vì
Và các hoàng tử thì cai trị bằng sự công bình.
2 Sẽ có một người như nơi núp gió,
Như chỗ che bão,
Như suối nước trong sa mạc,
Như bóng vầng đá lớn nơi đất mòn mỏi.
3 Bấy giờ mắt của những kẻ nhìn sẽ không mờ,
Tai của những người nghe sẽ chú ý.
4 Trí của người hấp tấp sẽ có sự hiểu biết,
Lưỡi của kẻ nói lắp sẽ nói lưu loát và rõ ràng.
5 Người ta sẽ không còn gọi kẻ ngu xuẩn là người cao quí;
Kẻ bất lương là người đáng kính.
6 Vì người ngu dại sẽ nói điều ngu dại;
Lòng nó sẽ làm điều tội lỗi,
Thực hành việc vô đạo,
Nói sai lầm về CHÚA;
Làm cho linh hồn người đói trống không
Và không cho người đang khát uống nước.
7 Kẻ bất lương dùng vũ khí gian ác.
Nó lập mưu ác
Để hại người khốn cùng bằng lời giả dối
Dù khi người nghèo khó nói lời chính đáng.[y]
8 Nhưng người cao quý lập những kế hoạch cao quý
Và người hành động trong sự cao quý.[z]
9 Hỡi những người đàn bà tự mãn,
Hãy dậy mà nghe tiếng Ta;
Hỡi những người con gái vô tâm,
Hãy lắng tai nghe lời Ta.
10 Chỉ hơn một năm nữa,
Các ngươi là những người vô tâm sẽ run sợ
Vì mùa nho sẽ mất,
Mùa cây trái sẽ không đến.
11 Hỡi đàn bà[aa] tự mãn, hãy run rẩy;
Hỡi con gái[ab] vô tâm, hãy run sợ.
Hãy cởi quần áo,
Và mặc đồ tang chế.
12 Hãy đấm ngực than khóc cho những cánh đồng phì nhiêu,
Cho cây nho nhiều trái,
13 Cho đồng ruộng dân Ta
Vì gai gốc và bụi gai mọc lên.
Phải, hãy khóc cho mọi nhà vui vẻ,
Cho thành nhộn nhịp.
14 Vì lâu đài sẽ bỏ hoang,
Thành đông đúc sẽ bị hoang phế.
Đồi và tháp canh sẽ trở nên hang hố đến muôn đời;
Là nơi lừa rừng thích thú, là đồng cỏ cho thú vật,
15 Cho đến khi thần linh từ trên cao được đổ xuống trên chúng ta
Và sa mạc sẽ trở nên đồng ruộng phì nhiêu;
Đồng ruộng phì nhiêu như rừng rậm.
16 Bấy giờ sự công bình sẽ ở trong sa mạc
Và sự công chính sẽ ngụ nơi đồng ruộng phì nhiêu.
17 Việc của sự công chính sẽ là sự bình an,
Kết quả của sự công chính sẽ là sự yên tĩnh và tin cậy muôn đời.
18 Dân Ta sẽ cư ngụ trong nơi bình an,
Trong nhà an toàn,
Tại nơi nghỉ ngơi yên tĩnh.
19 Nhưng mưa đá sẽ đổ xuống trên rừng
Và ngay cả thành sẽ bị hạ thấp.
20 Phước cho các ngươi,
Những người gieo giống bên cạnh mọi bờ nước,
Thả bò, lừa đi lại tự do.
Vua Giải Cứu Si-ôn
33 Khốn cho kẻ hủy diệt,
Ngươi chưa bị hủy diệt.
Còn kẻ phản bội,
Ngươi chưa bị phản bội!
Khi ngươi ngừng hủy diệt,
Ngươi sẽ bị hủy diệt.
Khi ngươi chấm dứt phản bội,
Ngươi sẽ bị phản bội.
2 Lạy CHÚA, xin gia ân cho chúng tôi,
Chúng tôi trông đợi Ngài.
Xin Ngài ban sức mạnh[ac] cho chúng tôi mỗi buổi mai,
Xin Ngài giải cứu khi chúng tôi gặp hoạn nạn.
3 Vì tiếng náo động của Ngài[ad] các dân bỏ chạy,
Vì khi Ngài dấy lên các nước tan vỡ.
4 Của cải của các ngươi bị thâu góp lại như cào cào[ae] thâu góp.
Như đám châu chấu vồ chộp, người ta vồ chộp nó.
5 CHÚA được tôn cao vì Ngài ngự trên cao.
Ngài làm cho Si-ôn đầy dẫy sự công bình và sự công chính.
6 Ngài sẽ là sự bền vững cho thời đại[af] các ngươi;
Sự cứu rỗi, khôn ngoan và tri thức sẽ đầy dẫy.
Sự kính sợ CHÚA sẽ là kho báu của ngươi.[ag]
7 Này, những dũng sĩ kêu la ngoài đường,
Các sứ giả hòa bình khóc lóc đắng cay.
8 Đường cái bị bỏ hoang.
Khách du hành không còn qua lại nữa.
Giao ước bị hủy;
Các thành[ah] bị khinh bỉ;
Con người không được tôn trọng.
9 Đất đai than khóc, mòn mỏi;
Li-ban thì xấu hổ và tàn tạ;
Sa-rôn giống như sa mạc;
Ba-san và Cạt-mên tiêu điều.[ai]
10 CHÚA phán: “Bây giờ Ta sẽ đứng lên;
Bây giờ Ta sẽ nâng Ta lên;
Bây giờ Ta sẽ được tôn cao.
11 Các ngươi mang thai trấu
Và sinh ra rơm rạ,
Hơi thở của các ngươi là lửa thiêu nuốt mình.
12 Các dân sẽ như đá vôi bốc cháy;
Như gai góc bị chặt và cháy trong lửa.”
13 Hỡi những kẻ ở xa, hãy nghe việc Ta đã làm;
Hỡi những người ở gần, hãy biết năng lực Ta.
14 Những kẻ tội lỗi tại Si-ôn khiếp sợ,
Các kẻ vô đạo thì run rẩy.
“Ai trong chúng ta có thể sống với lửa thiêu đốt?
Ai trong chúng ta có thể sống với lửa cháy đời đời?”
15 Những người sống[aj] công chính,
Nói ngay thẳng,
Khinh lợi lộc do áp bức,
Phủi tay không nhận hối lộ,
Bịt tai không bàn[ak] chuyện đổ máu,
Nhắm mắt không chăm chú điều gian ác.
16 Người ấy sẽ sống ở nơi cao,
Trú ẩn trong thành lũy bằng đá;
Bánh sẽ đầy đủ[al]
Và nước không thiếu.[am]
17 Mắt người sẽ thấy sự tốt đẹp của vua,
Sẽ nhìn thấy vùng đất trải rộng.
18 Lòng ngươi sẽ suy gẫm sự khủng khiếp:
“Những người đếm đâu rồi?
Những người cân đâu rồi?
Những người đếm các tháp canh đâu?”
19 Các ngươi sẽ không thấy một dân kiêu căng nữa,
Là dân có tiếng nói xa lạ khó nghe,
Lưỡi líu lo khó hiểu.
20 Hãy nhìn xem Si-ôn, là thành tế lễ hội chúng ta.
Mắt các ngươi sẽ thấy Giê-ru-sa-lem,
Nơi cư trú yên tĩnh, một trại không bị dời đổi,
Các cọc không bao giờ bị nhổ đi
Và tất cả các dây sẽ không bị đứt.
21 Vì CHÚA quyền uy sẽ ở với chúng ta tại đó,
Là nơi có sông ngòi lớn;
Thuyền chèo không đi được
Mà tàu lớn cũng không vượt qua nổi.
22 Thật, CHÚA là Đấng xét đoán chúng ta;
CHÚA là Đấng cai trị chúng ta;
CHÚA là vua chúng ta;
Ngài sẽ cứu rỗi chúng ta.
23 Dây của các ngươi bị tháo lỏng,
Không thể giữ chân cột buồm vững vàng
Và không thể giương buồm được.
Bấy giờ người ta sẽ chia nhau nhiều chiến lợi phẩm;
Ngay cả những kẻ què cũng lấy được của cải.
24 Dân cư sẽ không ai nói: “Tôi bị bịnh.”
Dân cư ngụ tại đó sẽ được tha tội.
Sự Phán Xét Các Nước
34 Hỡi các nước, hãy đến gần mà nghe;
Hỡi các dân, hãy chú ý,
Hỡi trái đất và mọi vật trên đất,
Hỡi thế giới và các vật ở đó, hãy nghe!
2 Vì CHÚA thịnh nộ cùng tất cả các nước;
Ngài nổi giận nghịch cùng tất cả các đạo quân của họ.
Ngài đã định cho họ bị diệt vong
Và giao họ cho sự tàn sát.
3 Kẻ bị giết của chúng sẽ bị ném ra ngoài,
Mùi hôi thối của các xác chết xông lên,
Núi non tràn ngập những máu.
4 Tất cả các thiên thể[an] trên trời sẽ tiêu tan;[ao]
Các từng trời sẽ cuộn lại như cuốn sách.[ap]
Tất cả các thiên thể sẽ rơi xuống
Như lá nho,
Rụng như trái vả non[aq] rụng xuống.
5 Khi lưỡi gươm Ta đã uống say[ar] trên trời,
Này, nó sẽ giáng xuống Ê-đôm,
Xuống dân đã bị định diệt vong để chịu đoán xét.
6 Gươm của CHÚA đầy máu,
Vấy mỡ,
Là máu của cừu và dê,
Mỡ trái thận của cừu đực.
Vì CHÚA có một tế lễ ở Bốt-ra,
Một cuộc tàn sát lớn trên đất Ê-đôm.
7 Các bò rừng sẽ ngã xuống với chúng;
Cả bò tót tơ lẫn bò đực mạnh mẽ.
Đất đai chúng nó sẽ say vì máu,
Bụi đất sẽ đượm những mỡ.
8 Vì CHÚA có một ngày báo thù,
Một năm báo trả vì cớ Si-ôn.
9 Các suối của Ê-đôm sẽ trở thành nhựa thông,
Bụi đất trở thành diêm sinh.
Đất đai nó trở thành nhựa thông bùng cháy
10 Suốt ngày đêm không tắt;
Khói bốc lên mãi mãi;
Nó sẽ bị hoang phế từ đời nọ sang đời kia,
Muôn đời sẽ không ai đi qua đó.
11 Bồ nông và nhím sẽ chiếm lấy nó,
Cú và quạ sẽ ở tại đó.
Ngài sẽ căng dây
Rối loạn trên nó,
Và đo bằng thước trống không.
12 Những người cao quý của họ sẽ không có gì gọi là vương quốc.[as]
Tất cả các hoàng tử đều như không.
13 Gai sẽ mọc trên các lâu đài;
Bụi gai và gai góc sẽ mọc trên thành lũy chúng.
Nó sẽ trở thành hang chó rừng,
Và nơi ở của chim đà điểu.
14 Thú rừng sẽ gặp chó rừng,
Dê rừng đực[at] gọi nhau.
Loài chim ăn đêm[au] nghỉ ngơi ở đó
Và chúng tìm được nơi an nghỉ.
15 Chim cú sẽ làm tổ ở đó, đẻ trứng,
Ấp cho nở và gom con lại dưới bóng cánh mình.
Tại đó, chim ưng cũng tụ họp lại,
Cả trống lẫn mái với nhau.
16 Hãy tìm kiếm sách của CHÚA và đọc đi.
Trong những con vật này không thiếu một con nào,
Không một con nào thiếu đôi.
Vì ấy là miệng Ngài đã truyền lệnh
Và thần linh của Ngài tụ họp chúng lại.
17 Chính Ngài đã bắt thăm cho chúng nó,
Tay Ngài đã dùng dây phân ranh giới cho chúng.
Các thú vật ấy sẽ chiếm cứ đất này mãi mãi,
Chúng sẽ ở đó đời đời.
Phước Hạnh Của Người Được Cứu Chuộc
35 Sa mạc và đất khô sẽ vui mừng,
Đồng hoang sẽ hân hoan và nở hoa
Như bông hồng.[av]
2 Nó sẽ trổ hoa nhiều
Và hân hoan ca hát vui vẻ.
Vinh quang của Li-ban,
Huy hoàng của Cạt-mên và Sha-rôn sẽ được ban cho nó.
Họ sẽ thấy vinh quang của CHÚA
Và huy hoàng của Đức Chúa Trời chúng ta.
3 Hãy làm cho những cánh tay buông thõng mạnh mẽ,
Những đầu gối run rẩy vững chắc.
4 Hãy bảo những người có lòng lo sợ:
“Hãy vững lòng, đừng sợ!
Kìa, Đức Chúa Trời các ngươi sẽ đến
Với sự báo thù,
Đức Chúa Trời báo trả.
Ngài sẽ đến và cứu rỗi các ngươi.”
5 Bấy giờ, mắt người mù sẽ thấy,
Tai kẻ điếc sẽ nghe.
6 Bấy giờ, người què sẽ nhảy như nai,
Lưỡi kẻ câm sẽ ca hát vui vẻ.
Vì nước sẽ tuôn tràn trong sa mạc
Và các dòng suối ở nơi đồng hoang.
7 Cát nóng sẽ trở thành ao,
Đất khô hạn trở thành suối nước.
Hang chó rừng đã ở
Sẽ có cỏ, lau và sậy.
8 Tại đó sẽ có một đại lộ,
Nó sẽ được gọi là Đường thánh.
Người ô uế sẽ không được đi qua,
Nhưng những người đi trên đường ấy[aw]
Dù khờ dại cũng không lầm lạc.[ax]
9 Tại đó không có sư tử,
Thú dữ cũng không lên trên đường ấy,
Người ta không thấy chúng ở đó.
Nhưng những người được giải cứu sẽ đi con đường đó.
10 Những người được cứu chuộc của CHÚA sẽ trở về,
Đi vào Si-ôn trong tiếng hát.
Niềm vui mừng vĩnh cửu sẽ ở trên đầu họ;
Họ đầy niềm hân hoan, vui mừng;
Buồn rầu và than thở sẽ trốn mất.
San-shê-ríp Đe Dọa Giê-ru-sa-lem
36 Vào năm thứ mười bốn đời vua Ê-xê-chia, San-chê-ríp, vua A-si-ri lên đánh tất cả các thành kiên cố của Giu-đa và chiếm lấy. 2 Vua A-si-ri sai Ráp-sa-kê[ay] từ La-ki đem một đạo binh hùng mạnh đến Giê-ru-sa-lem để tấn công vua Ê-xê-chia. Ráp-sa-kê đứng tại cống nước Ao Thượng, nơi con đường đến ruộng thợ nhuộm. 3 Bấy giờ, Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan cai quản cung điện; Sép-na, quan ký lục và Giô-a, con trai A-sáp, quan ngự sử đến cùng người.
4 Ráp-sa-kê nói với họ: “Hãy nói với Ê-xê-chia rằng: ‘Đại Đế, vua A-si-ri phán thế này: Cậy vào đâu mà ngươi tin tưởng như vậy? 5 Ngươi[az] bảo rằng: Lời nói suông sẽ là chiến lược và lực lượng cho chiến tranh chăng? Giờ đây, ngươi cậy ai mà phản loạn cùng ta? 6 Này, ngươi nương cậy Ai Cập, là cái gậy bằng sậy đã gãy mà hễ ai tựa vào nó sẽ bị đâm lủng tay. Pha-ra-ôn, vua Ai Cập cũng như vậy đối với ai nương cậy người. 7 Còn nếu ngươi bảo ta rằng: “Chúng tôi tin cậy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi;” nhưng đó không phải là Đấng mà Ê-xê-chia đã hủy bỏ các nơi cao và các bàn thờ của Ngài rồi truyền cho Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: “Hãy thờ lạy trước bàn thờ này sao?” 8 Nào, bây giờ hãy đánh cuộc với chủ ta, vua A-si-ri: Ta sẽ ban cho ngươi hai ngàn con ngựa nếu ngươi đủ sức tìm đủ lính kỵ để cưỡi! 9 Thế thì làm sao ngươi đánh đuổi được một tướng rất nhỏ trong số các tôi tớ của chủ ta dù ngươi cậy Ai Cập để có xe chiến mã và lính kỵ? 10 Vả lại, không phải nhờ CHÚA mà ta lên đánh xứ này và hủy diệt nó sao? CHÚA bảo ta hãy lên đánh và hủy diệt xứ này.’ ”
11 Ê-li-a-kim, Sép-na và Giô-a nói cùng Ráp-sa-kê rằng: “Xin nói với tôi tớ ông bằng tiếng A-ram vì chúng tôi hiểu tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa cho dân trên tường thành này nghe.” 12 Nhưng Ráp-sa-kê đáp: “Phải chăng chủ ta chỉ sai ta nói những lời này với chủ ngươi và ngươi thôi sao? Không phải cũng nói cho những kẻ ngồi trên tường thành, là những kẻ cùng các ngươi sẽ phải ăn phân, uống nước tiểu mình sao?”
13 Thế rồi Ráp-sa-kê đứng dậy, dùng tiếng Giu-đa kêu to lên rằng: “Hãy nghe lời phán của Đại Đế, là vua A-si-ri: 14 Vua phán: Đừng để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi vì người không đủ sức giải cứu các ngươi. 15 Cũng đừng để Ê-xê-chia thuyết phục các ngươi tin cậy vào CHÚA mà nói rằng: ‘Chắc chắn CHÚA sẽ giải cứu chúng ta, Ngài không để thành này lọt vào tay vua A-si-ri đâu!’
16 Chớ nghe lời Ê-xê-chia vì vua A-si-ri phán thế này: Hãy làm hòa[ba] với ta, đầu hàng ta đi thì mỗi người sẽ được ăn trái nho, trái vả và uống nước giếng mình. 17 Cho đến khi ta đến và đem các ngươi vào vùng đất như đất của các ngươi, tức là đất có lúa và rượu, đất có bánh và vườn nho. 18 Hãy coi chừng kẻo Ê-xê-chia dụ dỗ các ngươi mà nói rằng: ‘CHÚA sẽ giải cứu chúng ta.’ Vậy, có thần nào trong số thần của các nước đã giải cứu đất nước họ ra khỏi tay vua A-si-ri chưa? 19 Các thần của Ha-mát và Ạt-bát ở đâu? Các thần của Sê-phạt-va-im ở đâu? Các thần ấy có cứu Sa-ma-ri khỏi tay ta không? 20 Thần nào trong tất cả thần của các nước đã giải cứu đất nước họ khỏi tay ta? Làm sao CHÚA có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta?”
21 Nhưng họ im lặng, không trả lời một tiếng nào vì vua đã truyền: “Không được trả lời người.” 22 Ê-li-a-kim, con trai Hinh-kia, quan cai quản cung điện; Sép-na, quan ký lục và Giô-a, con trai A-sáp, quan ngự sử đến với vua Ê-xê-chia, xé áo mình mà thuật lại các lời Ráp-sa-kê nói.
Lời Cầu Nguyện Của Vua Ê-xê-chia
37 Nghe thấy thế, vua Ê-xê-chia xé áo mình, mặc đồ tang chế, đi vào đền thờ CHÚA. 2 Vua sai Ê-li-a-kim, quan cai quản cung điện, Sép-na, quan ký lục, các trưởng lão trong hàng thầy tế lễ, đều mặc đồ tang chế đến gặp I-sa, con trai A-mốt, một vị tiên tri. 3 Họ nói với người: “Vua Ê-xê-chia phán như thế này: Hôm nay là ngày sầu thảm, quở trách và nhục nhã; vì con cái đã đến lúc ra đời nhưng không đủ sức để sinh. 4 Có lẽ CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi sẽ nghe những lời mà Ráp-sa-kê, sứ giả của vua A-si-ri, chủ người sai đến để phạm thượng cùng Đức Chúa Trời hằng sống; và có lẽ CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi sẽ trừng phạt nó vì những lời Ngài đã nghe. Vậy hãy cầu nguyện cho dân sót còn lại.”
5 Các tôi tớ vua Ê-xê-chia đến gặp I-sa. 6 I-sa bảo họ: “Hãy nói với chủ các ngươi rằng: CHÚA phán thế này: ‘Đừng sợ vì những lời mà người đã nghe tôi tớ vua A-si-ri nói phạm cùng Ta. 7 Này, Ta sẽ để một thần linh trong nó, nó sẽ nghe tin đồn và trở về xứ mình và Ta sẽ làm cho nó ngã bằng gươm trong xứ mình.’ ”
8 Bấy giờ Ráp-sa-kê trở về, thấy vua A-si-ri đang đánh thành Líp-na vì người nghe rằng vua đã rời khỏi La-ki. 9 Bấy giờ người nghe về Tiệt-ha-ca, vua Ê-thi-ô-bi, rằng vua ấy đem quân đánh vua. Sau khi nghe như thế vua A-si-ri sai các sứ giả đến cùng Ê-xê-chia nói rằng: 10 “Hãy nói với Ê-xê-chia, vua Giu-đa thế này: ‘Chớ để Đức Chúa Trời, Đấng mà ngươi tin cậy, lừa ngươi khi Ngài hứa rằng: Thành Giê-ru-sa-lem sẽ không lọt vào tay vua A-si-ri.’ 11 Này, ngươi có nghe điều vua A-si-ri đã làm cho tất cả các nước không? Người hủy diệt chúng hoàn toàn; còn ngươi sẽ được giải cứu sao? 12 Các thần của các nước mà tổ tiên chúng ta đã hủy diệt, tức là thần của Gô-sen, của Kha-ran, của Rốt-xép, của con cái Ê-đen ở Tê-la-sa, có giải cứu được họ không? 13 Vua của Ha-mát, của Ạt-bát, vua của thành Sê-phạt-va-im, thành Hê-na và thành Y-va ở đâu?”
14 Vua Ê-xê-chia nhận thơ từ tay các sứ giả và đọc nó; người lên đền CHÚA và mở thơ ra trước mặt CHÚA. 15 Vua Ê-xê-chia cầu nguyện cùng CHÚA rằng: 16 “Lạy CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng ngự trên các Chê-ru-bim, chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời của mọi vương quốc trên đất; chính Ngài đã tạo nên trời đất: 17 Lạy CHÚA, xin Ngài hãy nghiêng tai để nghe. Lạy CHÚA, xin Ngài hãy mở mắt để thấy, xin hãy nghe hết những lời mà San-chê-ríp đã sai nói để xúc phạm đến Đức Chúa Trời hằng sống. 18 Lạy CHÚA, thật vậy, các vua A-si-ri đã hủy diệt tất cả các nước[bb] và đất đai họ; 19 ném các thần vào lửa, vì chúng không phải là thần linh, mà công việc bằng gỗ, đá do tay người làm ra nên bị hủy diệt. 20 Vậy, bây giờ, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi, xin giải cứu chúng tôi khỏi tay người để mọi vương quốc trên đất đều biết rằng chỉ một mình Ngài là CHÚA.”
21 I-sa, con trai A-mốt sai người tâu cùng vua Ê-xê-chia rằng: CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán thế này: Vì ngươi đã cầu nguyện cùng ta về San-chê-ríp, vua A-si-ri. 22 Đây là lời của CHÚA phán về nó:
“Con gái đồng trinh của Si-ôn
Khinh bỉ ngươi, chế nhạo ngươi.
Con gái Giê-ru-sa-lem
Lắc đầu sau lưng ngươi.
23 Ngươi đã nhục mạ và xúc phạm cùng ai?
Ngươi đã cất tiếng nghịch cùng ai?
Ngươi đã ngước mắt kiêu kỳ
Nghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
24 Ngươi đã dùng tôi tớ mình
Chế nhạo CHÚA,
Nói rằng:
‘Nhờ nhiều xe chiến mã,
Ta đã lên các đỉnh cao các núi,
Nơi sâu thẳm của Li-ban;
Ta đã chặt những cây tùng cao nhất,
Những cây bách tốt nhất;
Ta đã lên trên đỉnh cao nhất,
Đến nơi rừng rậm nhất.
25 Ta đã đào giếng[bc]
Và uống nước,
Bàn chân Ta đã làm
Khô hạn mọi suối ở Ai Cập.’
26 Ngươi chưa nghe rằng
Ta đã làm điều đó từ xa xưa sao?
Ta đã định từ thượng cổ,
Nay Ta làm cho thành tựu.
Ấy là ngươi sẽ tàn phá các thành kiên cố,
Biến chúng thành những đống đổ nát.
27 Dân cư các thành ấy không còn sức lực,
Kinh hoàng và xấu hổ.
Chúng trở nên như cây ngoài đồng;
Như cỏ non;
Như cỏ trên mái nhà,
Chưa mọc lên[bd] đã khô héo.[be]
28 Ta biết rõ khi ngươi ngồi,
Ngươi đi hay đến,
Và khi ngươi nổi giận nghịch cùng Ta.
29 Vì ngươi nổi giận nghịch cùng Ta,
Sự kiêu căng ngươi đã đến tai Ta,
Ta sẽ móc khoen vào mũi ngươi,
Đặt khớp nơi môi miệng ngươi,
Khiến ngươi quay trở về
Bằng con đường ngươi đã đến.
30 Đây là dấu hiệu cho ngươi, Ê-xê-chia:
Năm nay ngươi sẽ ăn hoa quả do ruộng tự sinh;
Sang năm, ăn những gì từ đó sinh ra.
Đến năm thứ ba hãy gieo và gặt;
Hãy trồng vườn nho và ăn trái.
31 Một lần nữa, dân sót của nhà Giu-đa còn sống sót,
Sẽ đâm rễ ở dưới và kết quả ở trên.
32 Vì từ Giê-ru-sa-lem dân sót sẽ đi ra
Và từ núi Si-ôn dân sống sót sẽ đến.
Lòng nhiệt thành của CHÚA Vạn Quân
Sẽ làm điều này.
33 Cho nên, CHÚA phán thế này về vua A-si-ri:
Người sẽ không vào thành này,
Không bắn vào đó một mũi tên,
Không mang thuẫn vào thành,
Cũng không đắp lũy chống nó.
34 Nó sẽ quay trở về bằng con đường nó đến.
CHÚA phán: Nó sẽ không vào thành này.
35 Ta sẽ bảo vệ và giải cứu thành này
Vì cớ Ta và vì cớ Đa-vít, tôi tớ Ta.”
36 Bấy giờ thiên sứ của CHÚA vào trại quân A-si-ri và giết 185,000 người. Sáng hôm sau khi thức dậy, kìa, toàn là thây người chết. 37 San-chê-ríp, vua A-si-ri, rời nơi đó để ra đi, trở về và ở tại Ni-ni-ve. 38 Một hôm, khi người đang thờ lạy trong đền của thần mình là Nít-róc; các con trai người là A-tra-mê-léc và Sa-rết-se dùng gươm giết người rồi chúng trốn thoát qua xứ A-ra-rát. Con trai người là I-sạt-ba-đôn lên ngôi trị vì thế người.
Vua Ê-xê-chia Được Chữa Lành
38 Vào lúc ấy, vua Ê-xê-chia bị bệnh sắp chết. Tiên tri I-sa, con trai A-mốt, đến nói với vua rằng: “CHÚA phán thế này: Hãy sắp đặt nhà ngươi vì ngươi sẽ chết, không sống được.” 2 Vua Ê-xê-chia xây mặt vào tường và cầu nguyện cùng CHÚA. 3 Người cầu nguyện: “Lạy CHÚA, con cầu xin Ngài, xin nhớ lại thể nào con đã bước đi trung tín[bf] trước mặt Ngài, hết lòng theo Ngài và làm những điều tốt lành trước mặt Ngài;” thế rồi vua Ê-xê-chia khóc lớn tiếng.
4 Bấy giờ có tiếng của CHÚA phán cùng 5 I-sa rằng: “Hãy đến nói với Ê-xê-chia: ‘CHÚA, Đức Chúa Trời của Đa-vít, tổ phụ ngươi phán thế này: Ta đã nghe lời cầu nguyện của ngươi, Ta đã thấy nước mắt ngươi. Này, Ta sẽ thêm cho đời ngươi mười lăm tuổi. 6 Ta sẽ giải cứu ngươi và thành này ra khỏi tay vua A-si-ri; Ta sẽ bảo vệ thành này.
7 Đây là dấu hiệu từ CHÚA ban cho ngươi; CHÚA sẽ làm điều Ngài đã hứa: 8 Này, Ta sẽ làm cho bóng trên các bậc thang[bg] lui lại mười bậc, tức là bóng do mặt trời đi qua chiếu xuống các bậc thang cấp của A-cha.’ ”[bh] Vậy mặt trời lui lại mười bậc trên các bậc thang nó đã đi qua.
9 Lời của Ê-xê-chia, vua Giu-đa sau khi bị bệnh và được lành.
10 Tôi nói: “Đang nửa đời người,
Tôi phải ra đi, những năm tháng còn lại của đời tôi
Bị giao phó cho cửa Âm Phủ.”[bi]
11 Tôi nói: “Tôi sẽ không thấy CHÚA[bj] nữa,
Là CHÚA ở trên đất người sống.
Tôi sẽ không còn nhìn thấy người nữa
Giữa vòng những dân cư trên thế gian.[bk]
12 Nơi ở của tôi đã bị dọn và dời đi khỏi tôi
Như căn lều của kẻ chăn cừu.
Tôi cuốn đời tôi như thợ dệt;
Ngài cắt đứt tôi khỏi khung cửi.
Ngài chấm dứt đời tôi khỏi ngày lẫn đêm.[bl]
13 Tôi kêu la cho đến sáng;
Như sư tử, Ngài đánh gãy tất cả xương cốt tôi.
Ngài chấm dứt đời tôi khỏi ngày lẫn đêm.
14 Như chim én, chim nhạn tôi kêu la;
Tôi rên rỉ như chim bồ câu.
Mắt tôi mòn mỏi trông lên!
Lạy CHÚA, tôi bị áp bức; xin Ngài bảo toàn tôi.”
15 Tôi sẽ nói gì?
Vì Ngài đã phán cùng tôi, và Ngài đã làm việc ấy.
Tôi sẽ bước đi khiêm cung trọn đời[bm]
Vì tâm hồn cay đắng.
16 Lạy CHÚA, người ta sống nhờ những điều này,
Tâm linh tôi sống cũng nhờ những điều đó.
Xin CHÚA phục hồi sức khỏe cho tôi
Và cho tôi sống.
17 Kìa, vì sự phúc lợi cho tôi,
Tôi đã bị cay đắng nhiều.
Nhưng Ngài đã nắm giữ linh hồn tôi
Khỏi sa xuống hố hủy diệt.
Vì Ngài đã ném bỏ mọi tội lỗi tôi
Ra sau lưng Ngài.
18 Vì Âm Phủ không cảm tạ Ngài,
Sự chết không ca ngợi Ngài
Và những kẻ đi xuống vực sâu
Không có hy vọng nơi sự thành tín của Ngài.
19 Kẻ sống, chỉ kẻ sống mới cảm tạ Ngài
Như tôi đã làm hôm nay.
Người cha sẽ dạy cho con cái
Biết sự thành tín của Ngài.
20 CHÚA là Đấng cứu rỗi tôi.
Trọn đời, chúng tôi
Sẽ dùng đàn dây
Đàn ca trong nhà CHÚA.
21 Bấy giờ I-sa bảo: “Hãy lấy một cái bánh trái vả đắp trên vết ung nhọt, người sẽ sống.” 22 Ê-xê-chia đã hỏi: “Có dấu hiệu nào cho ta biết rằng ta sẽ lên nhà CHÚA?”
Sứ Giả Từ Ba-by-lôn
39 Vào lúc ấy, vua Ba-by-lôn là Mê-rô-đác Ba-la-đan, con vua Ba-la-đan sai các sứ giả đem thư và tặng phẩm dâng vua Ê-xê-chia vì người nghe vua đau và đã được lành. 2 Vua Ê-xê-chia chào mừng các sứ giả và cho họ xem kho báu, bạc, vàng, hương liệu, dầu quý, tất cả kho võ khí và tất cả mọi vật trong kho. Không có vật gì trong cung điện hay trong cả vương quốc của mình mà vua Ê-xê-chia không chỉ cho các sứ thần xem.
3 Bấy giờ, tiên tri I-sa đến chầu vua Ê-xê-chia và hỏi: “Những người kia nói gì với vua và họ từ đâu đến thăm vua?” Vua Ê-xê-chia đáp: “Họ từ vùng đất xa xôi đến thăm ta, từ Ba-by-lôn.” 4 I-sa tiếp: “Họ đã xem gì trong cung vua?” Ê-xê-chia đáp: “Họ đã xem tất cả mọi vật trong cung điện ta. Không có vật gì trong kho báu mà ta không chỉ cho họ xem.” 5 I-sa tâu cùng vua Ê-xê-chia rằng: “Xin vua hãy nghe lời phán của CHÚA Vạn Quân. 6 Này, trong những ngày đến, tất cả mọi vật trong cung điện ngươi, là những vật tổ phụ ngươi đã tích trữ cho đến ngày nay, sẽ bị mang qua Ba-by-lôn, không có gì còn lại, CHÚA phán. 7 Một số con cháu[bn] ngươi, những người thuộc dòng dõi ngươi, do ngươi sinh ra sẽ bị bắt đi và làm hoạn quan trong cung vua Ba-by-lôn.” 8 Vua Ê-xê-chia nói với I-sa: “Lời của CHÚA mà ngươi vừa nói là tốt.” Vì vua nói rằng trong thời vua sẽ có hòa bình và an ninh.[bo]
Dân Chúa Được Yên Ủi
40 Đức Chúa Trời của các ngươi phán:
Hãy an ủi, hãy an ủi dân Ta.
2 Hãy dịu dàng[bp] nói với Giê-ru-sa-lem,
Hãy thông báo cho nàng rằng:
Sự lao khổ[bq] của nàng đã chấm dứt;
Tội lỗi nàng đã được trả thay,
Vì tất cả tội lỗi mình,
Nàng đã nhận gấp đôi từ tay CHÚA.
3 Có tiếng kêu rằng:
“Hãy chuẩn bị trong đồng hoang
Một con đường cho CHÚA.
Hãy làm ngay thẳng đường cái trong sa mạc
Cho Đức Chúa Trời chúng ta.
4 Mọi thung lũng sẽ được nâng cao,
Mọi núi đồi sẽ bị hạ thấp.
Những nơi gồ ghề sẽ thành bằng phẳng,
Những chỗ lồi lõm sẽ trở nên đồng bằng.
5 Bấy giờ vinh quang của CHÚA sẽ được khải thị
Và mọi người[br] đều sẽ thấy[bs]
vì miệng CHÚA
đã phán như thế.”
6 Có tiếng nói: “Hãy kêu lên.”
Tôi hỏi:[bt] “Tôi sẽ kêu gì đây?”
Tất cả mọi người chỉ là cỏ,
Mọi sự đẹp đẽ của họ như hoa ngoài đồng.
7 Cỏ khô, hoa rụng
Khi hơi thở CHÚA thổi qua chúng.
Thật vậy, loài người chỉ là cỏ.
8 Cỏ khô, hoa rụng
Nhưng Lời Đức Chúa Trời chúng ta đứng vững đời đời.
9 Hỡi người đem tin mừng đến cho Si-ôn,
Hãy đi lên trên núi cao.
Hỡi người loan báo tin mừng cho Giê-ru-sa-lem,
Hãy hết sức cất tiếng lên,
Hãy cất tiếng lên, đừng sợ.
Hãy nói với các thành của Giu-đa rằng:
“Đức Chúa Trời của các ngươi đây.”
10 Kìa, CHÚA đến với quyền năng
Và Ngài dùng cánh tay mình cai trị.
Kìa, Ngài đem phần thưởng đến với Ngài
Và sự báo trả ở trước mặt Ngài.
11 Ngài sẽ chăn dắt đàn chiên mình như người chăn chiên,
Gom những chiên con trong cánh tay,
Ẵm chúng vào lòng
Và nhẹ nhàng dẫn các chiên mẹ.
12 Ai đã dùng lòng bàn tay đong nước biển,[bu]
Gang bàn tay đo các tầng trời?
Lấy đấu[bv] đong bụi đất?
Cân núi trên bàn cân
Và đồi trên cán cân?
13 Ai có thể lường[bw] được Thần của CHÚA?
Và ai là cố vấn để dạy Ngài?
14 Ngài đã tham khảo ai để được khai sáng?
Ai sẽ dạy Ngài con đường công bình?
Ai sẽ dạy Ngài tri thức?
Ai sẽ chỉ cho Ngài con đường hiểu biết?
15 Kìa, các dân khác nào giọt nước trong chậu,
Bị kể như bụi trên bàn cân.
Kìa, Ngài cầm các hải đảo lên như hạt bụi.
16 Li-ban sẽ không có đủ củi đốt,
Cũng không đủ thú vật để làm tế lễ thiêu.
17 Trước mặt Ngài tất cả các nước đều như không,
Chúng bị kể như chưa có
Và hư vô.
18 Các ngươi sẽ ví Đức Chúa Trời với ai?
Lấy hình ảnh nào để sánh với Ngài?
19 Một tượng thần mà người thợ đúc?
Rồi thợ bạc bọc vàng
Và làm cho các dây chuyền bằng bạc.
20 Một người nghèo khi dâng lễ vật
Thì chọn gỗ[bx] không mục.
Người tìm một thợ khéo
Tạc một bức tượng vững chắc không đổ.
21 Các ngươi chưa biết sao?
Các ngươi chưa nghe sao?
Từ lúc ban đầu các ngươi chưa được bảo cho sao?
Từ khi nền trái đất được lập các ngươi chưa hiểu sao?
22 Đấng ngự trên vòm trái đất và này,
Dân cư trên đất như châu chấu vậy.
Ngài kéo các từng trời ra như bức màn;
Ngài căng chúng lên như lều để ở.
23 Ngài làm cho các hoàng tử trở nên không,
Khiến các kẻ cai trị trái đất trở thành hư vô.
24 Họ vừa mới được trồng,
Họ vừa mới được gieo,
Cây vừa mới đâm rễ trong đất
Thì CHÚA thổi qua và chúng khô héo;
Này, một cơn gió lốc đùa chúng đi như rơm rạ.
25 Đấng Thánh phán: “Các ngươi sẽ so sánh Ta với ai?
Ta sẽ giống[by] ai?”
26 Hãy ngước mắt lên cao,
Và nhìn xem ai đã sáng tạo ra những vật này?
Ai là Đấng đem các thiên thể đến theo số lượng[bz]
Và gọi tất cả thiên thể bằng tên?
Vì sức mạnh vĩ đại và quyền năng mạnh mẽ của Ngài
Không một thiên thể nào thiếu.
27 Hỡi Gia-cốp, tại sao ngươi nói;
Hỡi Y-sơ-ra-ên, tại sao ngươi tuyên bố rằng:
“Đường lối tôi bị che khuất khỏi CHÚA!
Đức Chúa Trời của tôi không quan tâm đến quyền lợi tôi!”
28 Ngươi không biết sao?
Ngươi chưa nghe sao?
CHÚA là Đức Chúa Trời đời đời.
Ngài là Đấng sáng tạo các đầu cùng trái đất.
Ngài không kiệt sức cũng không mỏi mệt,
Và sự hiểu biết của Ngài không thể dò được.
29 Ngài ban năng lực cho người kiệt lực;
Ngài thêm sức cho kẻ thiếu sức.
30 Ngay cả người trẻ tuổi cũng sẽ kiệt lực và mệt mỏi;
Các thanh niên sẽ vấp và ngã quỵ.
31 Nhưng ai trông cậy nơi CHÚA
Sẽ được phục hồi sức mới,
Cất cánh bay cao như chim đại bàng;
Chạy mà không mệt nhọc,
Đi mà không kiệt sức.
Y-sơ-ra-ên Được Chúa Giúp
41 “Hỡi các hải đảo, hãy im lặng trước mặt Ta.
Hãy để cho các nước phục hồi năng lực;
Hãy để chúng đến gần và nói đi.
Chúng ta hãy cùng nhau đến gần để tranh cãi.[ca]
2 Ai đã đánh thức người[cb] từ phương đông?
Trong sự công chính, kêu gọi người đến chân mình?
Trao các nước cho người,
Chà đạp các vua dưới chân.
Trao phó chúng nó cho gươm người như bụi đất?
Phó chúng nó cho cung người như rơm rác gió thổi bay đi?
3 Người săn đuổi chúng, vượt qua một cách an toàn
Con đường mà chân ngươi chưa hề bước đến.
4 Ai đã thực hiện và làm điều này?
Ai đã gọi các thế hệ từ ban đầu?
Chính Ta là CHÚA, là đầu tiên và cũng sẽ hiện diện
Cho đến cuối cùng. Chính Ta là Đấng ấy.”
5 Các hải đảo thấy và sợ hãi,
Các đầu cùng trái đất run rẩy;
Chúng tiến lại gần và đến.
6 Mỗi người giúp kẻ lân cận mình
Và nói với anh em mình: “Hãy can đảm lên.”
7 Thợ mộc khuyến khích thợ vàng;
Thợ gò bằng búa
Khích lệ thợ đập đe;
Thợ hàn lại bảo: “Thế là tốt;”
Rồi họ dùng đinh đóng để nó khỏi ngã.
8 “Nhưng ngươi, hỡi Y-sơ-ra-ên, tôi tớ Ta.
Hỡi Gia-cốp, kẻ ta chọn lựa;
Là dòng dõi Áp-ra-ham, bạn Ta.
9 Ta đã nắm lấy ngươi từ đầu cùng trái đất,
Kêu gọi ngươi từ các góc đất,
Và bảo ngươi: ‘Ngươi là tôi tớ Ta,’
Ta đã chọn ngươi và không bỏ ngươi.
10 Đừng sợ vì Ta ở cùng ngươi.
Chớ kinh hoàng vì Ta là Đức Chúa Trời ngươi.
Ta sẽ thêm sức cho ngươi, giúp đỡ ngươi.
Ta sẽ gìn giữ ngươi bằng tay phải công chính[cc] của Ta.
11 Này, tất cả những kẻ giận ngươi
Sẽ bị hổ thẹn và nhục nhã.
Những kẻ chống nghịch ngươi
Sẽ như không và bị hủy diệt.
12 Những kẻ tranh đấu chống lại ngươi,
Ngươi sẽ tìm chúng nhưng không thấy.
Những kẻ tranh chiến nghịch cùng ngươi
Sẽ như không có gì cả.
13 Vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,
Đấng nắm tay phải ngươi
Và phán cùng ngươi: Đừng sợ,
Chính Ta sẽ giúp đỡ ngươi.
14 Hỡi sâu bọ Gia-cốp, hỡi những người[cd] Y-sơ-ra-ên: Đừng sợ.
Ta sẽ giúp đỡ ngươi.”
Ngài là Đấng cứu chuộc ngươi,
Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên, CHÚA phán như thế.
15 “Này, Ta sẽ làm cho ngươi thành một công cụ đập lúa mới,
Bén và có nhiều răng.
Ngươi sẽ đập các núi và đánh tan chúng.
Ngươi sẽ làm các đồi trở thành như rơm rạ.[ce]
16 Ngươi sẽ sàng sảy chúng rồi gió thổi đi;
Một cơn gió lốc sẽ làm chúng tan tác.
Còn ngươi sẽ vui mừng trong CHÚA;
Và tôn vinh trong Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
17 Những kẻ nghèo nàn và thiếu thốn tìm kiếm nước
Nhưng không có;
Lưỡi họ khô vì khát.
Ta là CHÚA, sẽ đáp lời chúng;
Ta là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, sẽ không từ bỏ họ.
18 Ta sẽ làm cho các sông chảy ra trên đồi trọc;
Các suối ở giữa những thung lũng;
Biến sa mạc thành hồ nước;
Đất khô hạn thành những mạch nước.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)