Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Giê-rê-mi 48 - Ai Ca 1

Lời Tiên Tri Về Dân Mô-áp

48 Về Mô-áp.

CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy:

“Đáng thương thay cho thành Nê-bô đổ nát!
    Thành Ki-ri-a-tha-im xấu hổ vì bị chiếm đóng,
    Thành trì kiên cố nhục nhã, tan hoang!
Danh tiếng Mô-áp không còn nữa.
    Tại Hết-bôn, chúng bàn mưu hại Mô-áp:
    ‘Nào, chúng ta hãy tận diệt dân này, xóa bỏ Mô-áp trên bản đồ các nước!’
Thành Mát-mên, ngươi cũng sẽ than khóc,
    Gươm đao sẽ đuổi theo ngươi!
Dân thành Hô-rô-na-im kêu than:
    ‘Điêu tàn và đổ nát tan hoang!
Mô-áp sụp đổ rồi!’
    Tiếng kêu than vang đến thành Xoa.[a]
Trên đường lên thành Lu-hít,
    Chúng không ngừng khóc lóc.
Trên đường xuống thành Hô-rô-na-im,
    Sự tàn phá gây nên bao tiếng la thất thanh.
Hãy trốn chạy thoát mạng!
    Hãy sống như lừa rừng[b] trong sa mạc!
Vì ngươi cậy vào công lao của cải mình,
    Nên chính ngươi cũng sẽ bị chiếm đóng.
Thần Kê-mốt của ngươi cũng sẽ đi đày
    Cùng với các thầy tế lễ và quan cận thần.
Kẻ hủy diệt sẽ tàn phá mọi thành phố,
    Không thành nào thoát khỏi.
Thung lũng sẽ điêu tàn,
    Vùng cao nguyên cũng tan nát,
    Y như lời CHÚA phán.
Hãy rải muối trên xứ Mô-áp,
    Vì nó chắc sẽ bị hủy diệt tan tành.
Các thành phố nó điêu tàn,
    Không người ở.
10 Khốn nạn cho kẻ làm công việc CHÚA cách dối trá!
    Khốn nạn cho kẻ không cho gươm mình vấy máu!
11 Mô-áp quen sống an nhàn từ thuở nhỏ,
    Giống như rượu nằm yên trên cặn,
Chưa chắt gạn từ bình này sang bình khác,
    Chưa hề đi lưu đày,
Cho nên mùi rượu còn y nguyên,
    Vì rượu chưa dịu xuống.”
12 CHÚA phán:
    “Vì thế, sẽ có ngày Ta sai thợ chắt rượu đến,
Chúng sẽ gạn chắt sạch bình
    Rồi đập tan cả vò.
13 Và Mô-áp sẽ xấu hổ về thần Kê-mốt
    Cũng như nhà Y-sơ-ra-ên xấu hổ
    Về Bê-tên mà chúng tin cậy.
14 Sao các ngươi dám tự hào:
    ‘Chúng tôi là chiến sĩ dũng cảm, anh hùng thiện chiến?’
15 Kẻ hủy diệt xông lên tàn phá Mô-áp và các thành phố nó,
    Các thanh niên ưu tú bị đưa xuống lò sát sinh.
    Đó là lời của Đức Vua, danh Ngài là CHÚA Vạn Quân.
16 Mô-áp sắp đến thời nguy kịch,
    Tai họa hối hả kéo đến.
17 Hết thảy các nước lân bang,
    Và mọi người nghe danh Mô-áp,
Hãy chia buồn với nó:
    ‘Ôi, gậy uy quyền, gậy vinh quang đã gãy đổ!’
18 Hỡi nàng Đi-bôn ngự chễm chệ,
    Hãy bước xuống khỏi ngai vinh hiển,
    Ngồi dưới đất khô cằn.[c]
Vì kẻ hủy diệt Mô-áp
    Đã xông lên đánh ngươi,
    Tàn phá các thành trì kiên cố của ngươi.
19 Hỡi nàng A-rô-e ngự chễm chệ,
    Hãy đứng nơi đường cái trông chờ,
Hãy hỏi những người chạy thoát, cả nam lẫn nữ:
    ‘Chuyện gì đã xảy ra?’ ”
20 “Mô-áp nhục nhã vì đã bị tàn phá.
    Hãy khóc lóc kêu than!
Hãy loan báo khắp vùng sông Ạt-nôn:
    Mô-áp bị hủy diệt!”
21 Cả vùng cao nguyên bị trừng phạt:
    Các thành Hô-lôn, Gia-xa, Mê-phát,
22     Đi-bôn, Nê-bô, Bết Đíp-lát-tha-im,
23     Ki-ri-a-tha-im, Bết Ga-num, Bết Mê-ôn,
24     Kê-ri-giốt, Bốt-ra,
    Và tất cả các thành xa gần trong xứ Mô-áp.
25 CHÚA phán:
“Sừng của Mô-áp đã bị chặt đứt,
    Cánh tay nó đã gãy.
26 Hãy cho Mô-áp uống say túy lúy,
    Vì nó đã xấc xược chống lại CHÚA.
Mô-áp sẽ nôn mửa lai láng
    Và chính nó sẽ thành trò cười.
27 Có phải ngươi cũng đã từng xem Y-sơ-ra-ên như trò cười sao?
    Y-sơ-ra-ên có bao giờ bị bắt quả tang cùng với bọn trộm cướp không?
Mà sao hễ khi nào ngươi nhắc đến nó,
    Ngươi cũng lắc đầu chế nhạo?
28 Hỡi dân Mô-áp, hãy lìa bỏ nơi đô thị,
    Hãy ẩn náu nơi các khe đá!
Hãy nên như chim bồ câu,
    Xây tổ nơi sườn vực sâu!
29 Chúng tôi có nghe về tính kiêu căng của Mô-áp,
    Kiêu căng vô cùng,
Kiêu ngạo, kiêu căng,
    Tự đắc, tự cao, tự đại!”
30 CHÚA phán:
“Chính Ta biết tính xấc xược của nó,
    Lời nó khoe khoang không nền tảng,
    Việc nó làm không giá trị.
31 Vì thế tôi sẽ than khóc Mô-áp,
    Tôi sẽ kêu la vì toàn cõi Mô-áp,
    Tôi sẽ rên xiết vì dân thành Kiệt Hê-re.
32 Hỡi cây nho Síp-ma,
    Ta khóc ngươi nhiều hơn ta khóc Gia-xe!
Các nhánh ngươi vươn xa tận bờ biển,
    Vươn lên tận thành Gia-xe.
Kẻ hủy diệt đã đáp xuống,
    Phá hại trái cây mùa hạ và mùa nho của ngươi.
33 Vui mừng hoan hỉ không còn nữa
    Trong xứ Mô-áp,
Vốn là đất ruộng màu mỡ.
    Ta đã khiến cho các bể đạp nho cạn hết rượu,
Không còn ai đạp nho với tiếng hò reo vui nữa,
    Tiếng hò hét không phải là tiếng hò vui.
34 Dân chúng kêu gào vang dội từ thành Hết-bôn
    Đến thành Ê-lê-a-lê và Gia-hát,
Chúng cất tiếng kêu la từ thành Xoa, đến thành Hô-rô-na-im và Ê-lát Sê-li-sia.
    Ngay cả nước sông Nim-rim cũng khô cạn.”
35 CHÚA phán:
“Ta sẽ dứt khỏi Mô-áp
    Những kẻ nào cúng tế tại các miếu đền,
    Những kẻ dâng sinh tế cho thần tượng.”
36 Vì thế, tôi than khóc Mô-áp như tiếng sáo rên da diết,
    Tôi than khóc dân thành Kiệt Hê-re như tiếng sáo ủ ê,
    Vì của cải chúng thâu góp đã tiêu tan.
37 Mọi người đều cạo trọc đầu,
    Cạo sạch râu,
Cắt rạch tay,
    Quấn vải tang ngang lưng.
38 CHÚA phán:
“Trong toàn xứ Mô-áp, mọi người đều khóc than tang chế
    Trên mọi sân thượng,
Tại các quảng trường,
    Vì Ta đã đập bể Mô-áp
    Như một cái bình không ai ưa thích.
39 Ôi, Mô-áp tan nát! Chúng khóc lóc thảm thương!
    Ôi, Mô-áp quay lưng, tủi nhục!
Mô-áp đã thành trò cười,
    Nỗi khiếp sợ cho mọi nước lân bang.”

40 CHÚA phán như vầy:

“Kìa, kẻ thù bay vút lên cao như chim đại bàng,
    Xòe cánh ra bao phủ đất Mô-áp!
41 Thành Kê-ri-giốt bị chiếm đóng,
    Các đồn lũy thất thủ.
Ngày ấy, các chiến sĩ Mô-áp dũng cảm đều mất hết hồn vía
    Như thiếu phụ chuyển bụng đẻ.
42 Dân tộc Mô-áp sẽ bị tiêu diệt,
    Vì chúng dám tự cao tự đại chống nghịch CHÚA.”
43 CHÚA phán:
“Hỡi dân Mô-áp,
    Kinh hoàng, vực sâu, cạm bẫy đang chờ các ngươi!”
44 CHÚA phán:
“Người nào thoát khỏi kinh hoàng sẽ rơi xuống vực sâu.
    Người nào leo lên khỏi vực sâu sẽ sa vào cạm bẫy.
Vì Ta sẽ giáng mọi điều ấy xuống dân Mô-áp
    Vào năm Ta trừng phạt chúng.
45 Dân tỵ nạn kiệt sức
    Dừng lại dưới bóng thành Hết-bôn.
Vì lửa đã phát ra từ Hết-bôn,
    Ngọn lửa từ giữa cung Si-hôn,
Thiêu nuốt toàn dân Mô-áp,
    Sọ của dân ồn ào xấc xược.
46 Hỡi Mô-áp, khốn cho ngươi!
    Dân của thần Kê-mốt đã bị hủy diệt,
Vì con trai ngươi bị bắt đi đày,
    Con gái ngươi cũng vậy.”
47 CHÚA phán:
“Tuy nhiên, đến thời cuối cùng,
    Ta sẽ phục hồi dân tộc Mô-áp.”

Lời tiên tri về sự trừng phạt dân Mô-áp chấm dứt tại đây.

Chúa Trừng Phạt Dân Am-môn

49 Về dân Am-môn.
CHÚA phán như vầy:
“Phải chăng Y-sơ-ra-ên không có con trai?
    Không người thừa kế?
Tại sao thần Minh-côm[d] xâm chiếm tỉnh Gát,
    Và dân nó định cư trong các thành của Gát?”
CHÚA phán:
    “Vì thế, sẽ có ngày,
Ta sẽ khiến tiếng hò hét của chiến trận vang dội
    Khắp thủ đô Ráp-ba của dân Am-môn:
Thủ đô sẽ thành gò đổ nát hoang tàn,
    Các làng mạc xung quanh sẽ bị lửa thiêu hủy,
Và Y-sơ-ra-ên sẽ đánh đuổi
    Quân xâm lược.”
CHÚA phán vậy.
“Hỡi Hết-bôn, hãy gào than, vì thành A-hi[e] điêu tàn!
    Hỡi các làng mạc xung quanh Ráp-ba, hãy kêu la,
Hãy quấn vải tang ngang lưng, hãy đấm ngực,
    Hãy rạch cắt mình, chạy tới chạy lui![f]
Vì thần Minh-côm sẽ đi đày
    Cùng với các thầy tế lễ và quan cận thần.
Hỡi cô gái bội bạc,
    Sao ngươi tự hào về thung lũng,
Về thung lũng phì nhiêu của mình?
    Ngươi tin cậy vào của cải mình, và thách thức:
    ‘Ai dám tấn công ta?’ ”
CHÚA Vạn Quân phán: “Này, Ta sẽ khiến kinh hoàng đổ ập xuống ngươi
    Từ mọi nước xung quanh.
Các ngươi sẽ tháo chạy tán loạn, mỗi người mỗi ngả,
    Không ai tập hợp dân tỵ nạn.”
CHÚA phán: “Tuy nhiên, sau này, Ta sẽ phục hồi dân Am-môn.”

Lời CHÚA Phán Về Ê-đôm

Về dân Ê-đôm.

CHÚA Vạn Quân phán:

“Phải chăng vùng Thê-man không còn người khôn ngoan?
    Người thông sáng đã mất tài cố vấn?
    Trí khôn ngoan của họ đã mòn?
Hỡi dân Đê-đan, hãy quay đi, trốn chạy,
    Hãy ẩn mình nơi sâu kín,
Vì Ta sẽ giáng tai họa xuống nhà Ê-sau,
    Đến thời Ta trừng phạt nó.
Nếu thợ hái nho đến vườn ngươi,
    Chúng sẽ không chừa sót lại quả nào cho người mót.
Nếu bọn trộm đến ban đêm,
    Chúng sẽ cướp phá thỏa thuê.[g]
10 Thật vậy, chính Ta đã lột trần Ê-sau,
    Phơi bày chỗ ẩn núp của nó,
    Để nó không thể trú ẩn được.
Con cháu, họ hàng, láng giềng nó đều chết mất.
    Không ai ra tay cứu giúp:[h]
11 ‘Hãy giao cô nhi cho tôi lo liệu,
    Các quả phụ hãy tin cậy tôi.’ ”

12 CHÚA phán như vầy: “Nếu những kẻ không đáng tội uống chén này vẫn phải uống, lẽ nào ngươi tránh khỏi sự trừng phạt? Không đâu, ngươi sẽ bị trừng phạt. Ngươi chắc chắn phải uống chén này.” 13 CHÚA phán: “Ta chỉ chính mình Ta thề rằng thành Bốt-ra sẽ điêu tàn, đổ nát, bị khinh chê, nguyền rủa, và hết thảy các thành xung quanh nó đều sẽ thành đống vụn đổ nát mãi mãi.”

14 Tôi nghe tin từ CHÚA,
    Ngài đã sai sứ giả đến với các nước:
“Hãy tập hợp lại, tấn công nó!
    Hãy chuẩn bị ra trận!
15 Này, Ta sẽ khiến ngươi nên hèn mọn nhất giữa các nước,
    Bị nhân loại khinh chê.
16 Sự kinh hoàng ngươi gieo rắc,
    Và lòng ngạo mạn của ngươi đã lừa gạt ngươi;
Ngươi sống trong khe đá,
    Ngươi chiếm đỉnh đồi cao;
Dù ngươi xây tổ mình trên cao như chim đại bàng,
    Ta cũng sẽ hạ ngươi xuống.”
Đấy là lời CHÚA.
17 Ê-đôm sẽ hoang vắng đến phát khiếp;
    Mọi người đi ngang qua đều kinh hồn xuýt xoa
    Trước tất cả những cảnh tượng tàn khốc ấy.
18 CHÚA phán:
“Ê-đôm sẽ bị hủy diệt giống như Sô-đôm và Gô-mô-rơ,
    Và các thành phụ cận.
Sẽ không có người sống tại đó,
    Cũng không ai đến đó định cư.
19 Này, như sư tử từ rừng rậm sông Giô-đanh
    Phóng vào đồng cỏ bốn mùa xanh tươi,
Ta sẽ đuổi người chăn ra khỏi nước trong chốc lát,
    Và Ta sẽ lập người Ta chọn lên cai trị.
Vì ai giống như Ta? Ai dám đòi Ta khai báo?
    Có kẻ chăn nào dám chống đối Ta?
20 Vì thế, hãy nghe điều CHÚA dự định làm cho Ê-đôm,
    Và kế hoạch Ngài dự trù cho dân Thê-man:
Ngay cả những con chiên nhỏ cũng sẽ bị lôi đi,
    Và đồng cỏ sẽ kinh hoàng vì số phận của chúng.
21 Đất rúng động khi nghe chúng sụp đổ,
    Tiếng kêu la vang dội đến Biển Đỏ.
22 Này, kẻ thù giống như chim đại bàng bay vút lên cao,
    Dang cánh ra bủa đánh Bốt-ra;
Trong ngày ấy, tinh thần các chiến sĩ Ê-đôm
    Giống như lòng người phụ nữ đang chuyển bụng.”

Lời CHÚA Phán Về Thành Đa-mách

23 Về Đa-mách.

Dân thành Ha-mát và Ạt-bát đều bối rối
    Vì chúng nghe tin dữ;
Chúng lo âu thấp thỏm
    Như biển cả không lặng sóng.
24 Dân thành Đa-mách bủn rủn
    Quay lưng bỏ chạy;
    Chúng khiếp vía kinh hồn,
Đau đớn quặn thắt
    Như người phụ nữ đang chuyển bụng.
25 Ôi, thành phố danh tiếng, đô thị nhộn nhịp,
    Đã rơi vào quên lãng!
26 Vì thế, trong ngày ấy, những người trai trẻ sẽ ngã xuống ngoài đường phố,
    Và hết thảy các chiến sĩ sẽ nằm yên, không động đậy.
CHÚA Vạn Quân phán vậy.
27 Ta sẽ nhen lửa đốt tường thành Đa-mách,
    Và lửa sẽ thiêu nuốt các thành trì kiên cố của Bên Ha-đát.

Lời CHÚA Phán Về Dân Kê-đa

28 Về dân Kê-đa và các làng định cư trong sa mạc bị vua Nê-bu-cát-nết-sa xâm chiếm.

CHÚA phán:

“Hãy nổi dậy tiến đánh Kê-đa,
    Tàn phá dân phương đông.
29 Chúng sẽ đem đi lều trại và bầy súc vật,
    Luôn cả màn trại và hết thảy các vật dụng khác,
    Lạc đà chúng cũng cưỡi đi,
Và từ trên lưng lạc đà chúng la hét:
    ‘Kinh hoàng tứ phía!’ ”
30 CHÚA phán:
“Hãy bỏ chạy, lánh đi thật xa,
    Hãy ẩn náu nơi sâu kín với dân các làng định cư,
Vì Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, dự trù hại các ngươi,
    Và lập kế hoạch chống lại các ngươi.”
31 CHÚA phán:
“Hãy nổi dậy tiến đánh một dân tộc sống nhàn hạ, yên ổn,
    Sống tách biệt, không cần cửa đóng, then gài.”
32 CHÚA phán:
“Nhưng lạc đà của chúng sẽ cướp đi,
    Bầy bò đông đảo sẽ thành chiến lợi phẩm;
Ta sẽ rải dân cạo tóc màng tang ra khắp các hướng gió;
    Ta sẽ giáng tai họa trên chúng từ mọi phía.
33 Làng định cư sẽ thành hang chó rừng,
    Tiêu điều hoang vắng đến muôn đời.
Không ai sống tại đó,
    Cũng không người nào đến đó định cư.”

Lời CHÚA Phán Về Ê-lam

34 Đây là lời CHÚA phán với tiên tri Giê-rê-mi về Ê-lam, vào đầu triều vua Sê-đê-kia, nước Giu-đa.

35 CHÚA Vạn Quân phán như vầy:

“Này, Ta sẽ bẻ gãy cung của Ê-lam,
    Là rường cột của sức mạnh chúng.
36 Ta sẽ kéo đến Ê-lam
    Bốn ngọn gió từ bốn phương trời,
Ta sẽ rải dân Ê-lam ra theo tất cả các ngọn gió ấy,
    Đến nỗi sẽ không còn nước nào
    Mà dân tị nạn Ê-lam không kéo đến.
37 Ta sẽ khiến Ê-lam kinh hãi trước kẻ thù,
    Và những kẻ tìm hại mạng sống chúng.”
CHÚA phán:
“Ta sẽ giáng họa trên chúng,
    Giáng cơn phẫn nộ phừng phừng của Ta,
Ta sẽ sai gươm đuổi theo chúng,
    Cho đến khi nào Ta tận diệt chúng.”
38 CHÚA phán:
“Ta sẽ đặt ngai Ta tại Ê-lam,
    Và Ta sẽ tiêu diệt vua quan khỏi nước.”
39 CHÚA phán:
“Tuy nhiên, trong những ngày đến,
    Ta sẽ phục hồi dân Ê-lam.”

Lời CHÚA Phán Về Ba-by-lôn Lần Thứ Nhất

50 Đây là lời CHÚA phán qua tiên tri Giê-rê-mi về Ba-by-lôn, đất nước người Canh-đê.

“Hãy rao ra giữa các nước, hãy thông báo,
    Hãy giương cờ và thông báo,
    Đừng che giấu gì cả, hãy nói lên:
‘Ba-by-lôn sẽ bị xâm chiếm,
    Thần Bên xấu hổ,
    Thần Mê-rô-đác[i] khiếp đảm,
Các tượng đúc xấu hổ,
    Các thần tượng khiếp đảm.’
Vì một dân từ phương bắc tấn công đánh nó,
    Làm cho đất nước nó tiêu điều hoang vắng,
Đến nỗi không một ai sống tại đó nữa,
    Cả người và thú đều trốn chạy, mất biệt.”
CHÚA phán:
“Trong những ngày ấy, vào lúc ấy,
    Dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa sẽ cùng nhau đến,
Chúng vừa đi vừa khóc lóc,
    Tìm kiếm CHÚA, Đức Chúa Trời mình.
Chúng sẽ hỏi đường về Si-ôn,
    Chúng sẽ quay mặt về hướng ấy:
‘Hãy đến, chúng ta hãy kết hiệp với CHÚA,
    Với một giao ước đời đời
    Không hề quên lãng.’
Dân Ta là đàn cừu đang chết mất;
    Bọn chăn dẫn chúng đi lạc,
    Rẽ loanh quanh trên núi;
Chúng lang thang từ núi đến đồi,
    Quên mất ràn của mình.
Ai gặp chúng cũng ăn nuốt chúng;
    Kẻ thù chúng còn bảo: ‘Chúng tôi sẽ không bị buộc tội,
Vì chúng đã phạm tội với CHÚA, chính Ngài là đồng cỏ chân chính,
    Và nguồn hy vọng của tổ phụ chúng; Ngài là CHÚA.’
Hãy trốn khỏi Ba-by-lôn,
    Hãy ra khỏi đất nước người Canh-đê,
    Hãy trở nên như dê đực dẫn đầu bầy dê cừu.
Này, Ta sẽ dấy lên một liên hiệp các nước lớn từ phương bắc;
    Chúng sẽ tiến đánh Ba-by-lôn,
Chúng sẽ dàn binh,
    Đánh chiếm thành;
Mũi tên chúng là mũi tên của chiến sĩ gieo tang tóc,[j]
    Không trở về tay không.”
10 CHÚA phán:
Đất nước Canh-đê sẽ bị cướp phá,
    Tất cả những người cướp phá nó sẽ no nê.
11 Hỡi những kẻ cướp bóc tài sản của Ta,
    Dù các ngươi vui mừng hí hửng,
Dù các ngươi nhảy nhót như bò cái tơ đạp lúa,[k]
    Và hí lên như ngựa giống,
12 Mẹ các ngươi sẽ xấu hổ vô cùng,
    Người sinh đẻ các ngươi sẽ mang tủi nhục,
Vì này, đất nước các ngươi sẽ trở nên hèn yếu nhất,
    Một sa mạc, khô hạn và hoang vu.
13 Vì cơn phẫn nộ của CHÚA,
    Toàn cõi đất nước sẽ hoang vu, không người ở;
Ai đi ngang qua Ba-by-lôn cũng kinh hoàng xuýt xoa
    Vì tất cả đều hoàn toàn đổ nát.
14 Hỡi tất cả những chiến sĩ bắn cung,
    Hãy dàn quân bao vây Ba-by-lôn!
Hãy bắn vào thành, đừng tiếc mũi tên nào,
    Vì nó phạm tội chống nghịch CHÚA!
15 Hãy reo hò tứ phía!
    Nó giơ tay đầu hàng; Các tháp canh sụp đổ,
    Các tường thành bị phá sập.
Đây là sự báo trả của CHÚA.
    Hãy báo trả nó!
    Hãy xử với nó y như nó đã xử!
16 Người gieo giống và người cầm lưỡi liềm vào mùa gặt,
    Hãy rời khỏi Ba-by-lôn!
Vì lưỡi gươm ức hiếp,
    Ai nấy hãy quay về với dân tộc mình,
    Hãy trốn về quê hương mình!
17 Dân Y-sơ-ra-ên là đàn cừu tản lạc,
    Bị sư tử rượt đuổi;
Trước kia, vua A-si-ri ăn nuốt chúng,
    Sau này, Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, gặm xương chúng.

18 Vì thế, CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy:

“Này, Ta sẽ trừng phạt vua Ba-by-lôn và đất nước nó,
    Như Ta đã trừng phạt vua A-si-ri.
19 Nhưng Ta sẽ đem dân Y-sơ-ra-ên trở về đồng cỏ chúng,
    Chúng sẽ ăn cỏ trên núi Cạt-mên và đồi Ba-san,
Chúng sẽ ăn thỏa thuê
    Trên núi Ép-ra-im và Ga-la-át.”
20 CHÚA phán:
“Trong những ngày ấy, đến lúc ấy,
Không ai tìm được
    Tội ác của Y-sơ-ra-ên,
Cũng chẳng ai kiếm được
    Lỗi của Giu-đa,
    Vì Ta sẽ tha thứ những người Ta cho phép sống.”
21 CHÚA phán:
“Hãy tiến lên đánh phá đất nước Mê-ra-tha-im
    Và những người sống ở Phê-cốt![l]
Hãy tàn sát, hãy tận diệt chúng,
    Hãy thi hành mọi điều Ta phán dạy.
22 Trong nước vang rền tiếng giặc giã,
    Tàn phá khốc liệt khắp mọi nơi.
23 Ôi, cây búa của toàn thế giới
    Bị chặt gãy và đập nát tan tành!
Ôi, Ba-by-lôn nằm giữa các nước,
    Hoang vu rùng rợn!
24 Hỡi Ba-by-lôn, Ta đã gài bẫy ngươi,
    Và ngươi bị sập bẫy mà không biết;
Ngươi đã bị lùng bắt
    Vì ngươi thách thức CHÚA.
25 CHÚA đã mở toang kho vũ khí,
    Ném ra ngoài các khí giới phẫn nộ;
CHÚA Vạn Quân có việc phải làm
    Trong đất nước Canh-đê.
26 Hãy tiến vào đất nó từ mọi phía,
    Hãy mở toang các vựa lúa,
    Hãy chất thành đống như đống lúa,
Hãy diệt sạch,
    Đừng chừa sót một ai!
27 Hãy giết tất cả những con bò đực,
    Hãy đưa chúng xuống lò sát sinh!
Khốn thay cho chúng,
    Vì ngày đoán phạt chúng đã đến!
28 Nghe này, dân tị nạn trốn khỏi Ba-by-lôn,
    Đến Si-ôn thuật lại
Về sự báo trả của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta;
    Ngài báo thù cho đền thờ của Ngài,
29 Hãy triệu tập tất cả những người bắn cung
    Đánh lại Ba-by-lôn!
Hãy đóng quân bao vây thành,
    Đừng cho ai chạy thoát!
Hãy báo trả nó tùy theo việc nó làm,
    Hãy xử với nó y như nó đã xử,
Vì nó xấc xược với CHÚA,
    Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.”
30 CHÚA phán:
“Vì thế, những kẻ trai trẻ của nó sẽ ngã xuống ngoài đường phố,
    Và tất cả những lính chiến của nó bị giết chết trong ngày ấy.”
31 CHÚA Vạn Quân phán:
    “Này, Ta chống nghịch ngươi, hỡi kẻ xấc xược!
Vì ngày của ngươi đã đến,
    Giờ Ta trừng phạt ngươi đã tới.
32 Kẻ xấc xược sẽ vấp ngã,
    Không ai đỡ nó dậy.
Ta sẽ nhen lửa đốt các thành nó,
    Và lửa sẽ thiêu nuốt mọi vật xung quanh.”

33 CHÚA Vạn Quân phán như vầy:

“Dân Y-sơ-ra-ên bị ức hiếp,
    Dân Giu-đa cũng vậy.
Tất cả những người đã bắt giữ chúng
    Đều nắm chặt lấy chúng, không chịu thả chúng đi.
34 Nhưng Đấng Cứu Chuộc chúng thật quyền oai,
    Danh Ngài là CHÚA Vạn Quân.
Ngài chắc chắn sẽ bênh vực chúng,
    Cho đất nước chúng thanh bình,
    Nhưng dân Ba-by-lôn lại gặp rối loạn.”
35 CHÚA phán:
“Lưỡi gươm chống nghịch dân Canh-đê,
Và những người sống ở Ba-by-lôn,
    Các quan chức và những kẻ khôn ngoan trong nước.
36 Lưỡi gươm chống nghịch bói toán,
    Khiến chúng ra ngu dại.
Lưỡi gươm chống nghịch các chiến sĩ,
    Làm cho chúng khiếp vía.
37 Lưỡi gươm chống nghịch các ngựa chiến và xe chiến mã,
    Và tất cả bọn lính thuê,
    Khiến chúng thành đàn bà.
Lưỡi gươm chống nghịch các kho châu báu,
    Khiến chúng bị cướp phá.
38 Cơn hạn hán giáng xuống các mạch nước,
    Khiến chúng cạn khô.
Vì đây là đất thờ hình tượng,
    Và dân chúng điên cuồng chạy theo các tượng ghê rợn.
39 Vì thế, mèo rừng và chó rừng sẽ ở đó,
    Cùng với đà điểu;
Không hề có người đến đó ở nữa,
    Từ đời này qua đời kia, không ai đến đó định cư.”
40 CHÚA phán:
“Như khi Đức Chúa Trời hủy diệt Sô-đôm, Gô-mô-rơ,
    Và các thành phụ cận,
Sẽ không có người ở đó,
    Cũng chẳng ai đến đó lập cư.
41 Này, một dân kéo đến từ phương bắc,
    Một dân tộc hùng mạnh,
    Và nhiều vua dấy lên từ các đầu cùng đất.
42 Chúng nắm chặt cung và lao,
    Chúng hung ác, không thương xót,
Tiếng chúng hét tựa như biển cả gào thét,
    Chúng cưỡi ngựa,
Chúng trang bị như chiến sĩ sẵn sàng xông trận đánh ngươi,
    Hỡi Ba-by-lôn, cô gái mỹ miều!
43 Vua Ba-by-lôn nghe tiếng đồn về bọn chúng,
    Tay vua rụng rời,
Vua lo sợ, lòng vua quặn thắt
    Như người sản phụ chuyển dạ.
44 Này, như sư tử từ rừng rậm sông Giô-đanh
    Phóng vào đồng cỏ bốn mùa xanh tươi,
Ta sẽ đuổi chúng ra khỏi nước trong chốc lát;
    Và Ta sẽ lập người Ta chọn lên cai trị.
Vì ai giống như Ta? Ai dám đòi Ta khai báo?
    Có kẻ chăn nào dám chống đối Ta?
45 Vì thế, hãy nghe điều CHÚA dự định làm cho Ba-by-lôn,
    Và kế hoạch Ngài dự trù cho đất nước Canh-đê:
Ngay cả những con chiên nhỏ cũng sẽ bị lôi đi,
    Và đồng cỏ sẽ kinh hoàng vì số phận của chúng.
46 Đất rúng động khi nghe Ba-by-lôn thất thủ,
    Tiếng kêu la vang dội giữa các nước.”

Lời Chúa Phán Về Ba-by-lôn Lần Thứ Nhì

51 CHÚA phán như vầy:

“Này, Ta sẽ khiến gió nổi lên
    Hủy diệt Ba-by-lôn và dân Canh-đê.[m]
Ta sẽ sai bọn rê thóc[n] đến, chúng sẽ rê sạch Ba-by-lôn,
    Làm cho đất nước điêu tàn,
Vì chúng vây đánh nó tứ phía,
    Trong ngày hoạn nạn.
Người bắn cung hãy giương cung,
    Mặc áo giáp đứng sẵn sàng.
Đừng thương xót những kẻ trai tráng,
    Hãy giết sạch toàn đội quân.
Kẻ bị đâm ngã xuống đất Canh-đê,
    Người bị thương ngã xuống ngoài đường phố.
Vì Y-sơ-ra-ên và Giu-đa không gặp cảnh góa bụa,
    Không thiếu vắng Đức Chúa Trời, CHÚA Vạn Quân;
Nhưng đất Canh-đê đầy dẫy tội lỗi,
    Chống nghịch Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
Hãy trốn khỏi Ba-by-lôn!
    Ai nấy phải lo cứu mạng sống mình!
    Đừng chết lây vì tội ác nó!
Vì đây là thời kỳ báo ứng của CHÚA,
    Ngài sẽ báo trả nó xứng đáng.
Ba-by-lôn vốn là một cái chén vàng trong tay CHÚA,
    Làm cho thế giới say mèm;
Các dân tộc uống rượu của Ba-by-lôn,
    Vì thế chúng phát điên.
Bỗng chốc Ba-by-lôn sụp đổ tan tành.
    Hãy khóc than nó!
Hãy xoa dầu lên vết thương nó!
    Biết đâu nó sẽ lành.
Chúng ta cố gắng cứu chữa Ba-by-lôn,
    Nhưng nó vẫn không lành.
Hãy bỏ mặc nó! Chúng ta ai nấy hãy trở về quê hương mình,
    Vì sự đoán phạt nó lên đến tận trời,
    Cao đến tận mây.
10 CHÚA đã báo thù cho chúng ta.
    Hãy đến, chúng ta hãy rao truyền tại Si-ôn
    Công việc của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta.
11 Hãy chuốt mũi tên, bỏ đầy bao![o]
    CHÚA đã giục lòng các vua Mê-đi
Xông đánh Ba-by-lôn,
    Vì Ngài có chương trình hủy diệt nó;
Vì đây là sự báo trả của CHÚA,
    Ngài báo trả cho đền thờ của Ngài.
12 Hãy giương cờ chống lại tường thành Ba-by-lôn,
    Hãy tăng cường trạm gác,
Hãy đặt lính canh,
    Chuẩn bị quân phục kích!
CHÚA đã hoạch định,
    Và Ngài sẽ thi hành điều Ngài phán về dân Ba-by-lôn.
13 Ngươi sống giữa nhiều dòng sông,
    Ngươi có nhiều kho của báu,
Đời ngươi đã kết thúc,
    Phần lời bất lương của ngươi đã bị cắt.
14 CHÚA Vạn Quân lấy chính mình Ngài mà thề:
    Chắc chắn Ta sẽ khiến quân địch tràn ngập thành như châu chấu,
    Tiếng chúng reo hò chiến thắng vang dội khắp nơi.

CHÚA Là Đấng Tạo Hóa[p]

15 Chính Ngài tạo dựng địa cầu bởi quyền năng Ngài,
    Sáng lập thế giới bởi sự khôn ngoan Ngài,
    Và giương các tầng trời bởi trí thức Ngài.
16 Khi Ngài lên tiếng, các nguồn nước trên trời náo động,
    Ngài khiến hơi nước bốc lên từ nơi đầu cùng đất,
Ngài khiến chớp lóe lên trong cơn mưa,
    Và lùa gió ra khỏi kho tàng của Ngài.
17 Mọi người đều u mê, thiếu hiểu biết,
    Người thợ đúc tượng nào cũng xấu hổ vì tượng chạm mình,
Vì thần tượng người đúc chỉ là thần giả để lừa bịp,
    Chẳng có hơi thở bên trong.
18 Các thần tượng đều không có giá trị, chỉ là vật nhạo báng gạt gẫm,
    Đến ngày đoán phạt, chúng sẽ bị tiêu diệt.
19 Nhưng phần cơ nghiệp của Gia-cốp chẳng giống chúng đâu,
    Vì chính Ngài nắn tạo vạn vật,
Và Y-sơ-ra-ên[q] là bộ tộc của cơ nghiệp Ngài,
    Danh Ngài là CHÚA Vạn Quân.

Ba-by-lôn Bị Trừng Phạt

20 Ngươi là cây búa,
    Là vũ khí chiến trận của Ta,
Ta dùng ngươi đập tan các nước,
    Tiêu diệt các vương quốc.
21 Ta dùng ngươi đập tan ngựa chiến và kỵ binh,
    Ta dùng ngươi đập tan xe ngựa và người đánh xe;
22 Ta dùng ngươi đập tan đàn ông và đàn bà,
    Ta dùng ngươi đập tan già và trẻ,
    Ta dùng ngươi đập tan thanh niên và thiếu nữ;
23 Ta dùng ngươi đập tan người chăn và bầy dê cừu,
    Ta dùng ngươi đập tan người cầy ruộng và bò kéo cày,
    Ta dùng ngươi đập tan tỉnh trưởng và quận trưởng.”

24 CHÚA phán: “Nhưng Ta sẽ báo trả Ba-by-lôn và toàn dân Canh-đê tất cả những công việc ác chúng làm cho Si-ôn, ngay trước mắt các ngươi.”

25 CHÚA phán:
“Này, hỡi núi hủy diệt, Ta chống nghịch ngươi,
    Ngươi hủy diệt cả thế giới,
Nhưng Ta sẽ dang tay đánh ngươi,
    Ta sẽ khiến ngươi lăn xuống hốc đá,
    Ngươi sẽ thành một núi gạch vụn cháy đen.”
26 CHÚA phán:
“Không ai sẽ moi ra được từ ngươi một tảng đá dùng làm đá góc nhà
    Hoặc để xây nền,
    Vì ngươi sẽ điêu tàn mãi mãi.
27 Hãy giương cờ lên cao trên đất!
    Hãy thổi tù và vang khắp các nước!
Hãy biệt riêng các dân tộc ra tranh chiến với nó!
    Hãy điều động các vương quốc A-ra-rát, Minh-ni,
    Và Ách-kê-na chống lại nó!
Hãy cử tổng tư lệnh!
    Ngựa chiến hãy xung trận như châu chấu lởm chởm đầy mặt đất!
28 Hãy biệt riêng các dân tộc ra tranh chiến với nó:
    Vua Mê-đi
Và các tỉnh trưởng, quận trưởng,
    Và tất cả các lãnh thổ dưới quyền vua.
29 Đất rúng động trong cơn đau quặn thắt,
    CHÚA thực hiện ý định của Ngài,
Biến đất nước Ba-by-lôn thành sa mạc hoang vu,
    Không người ở.
30 Các chiến sĩ Ba-by-lôn ngừng giao chiến,
    Nép mình trong đồn lũy;
Họ cạn sức,
    Trở nên như đàn bà;
Nhà cửa trong thành bị đốt cháy,
    Then cài cổng thành bị bẻ gãy.
31 Người đưa tin chạy gặp người đưa tin,
    Sứ giả chạy gặp sứ giả,
Báo cáo lên vua Ba-by-lôn:
    Cả kinh thành đều thất thủ.
32 Những khúc sông cạn, có lối đi băng qua, đều bị chiếm giữ;
    Các ao sậy đều bị đốt cháy;
    Các chiến sĩ kinh hồn khiếp vía.”

33 CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy:

“Ba-by-lôn giống như sân đạp lúa
    Trong giờ đạp lúa;
    Mùa gặt sẽ đến trong chốc lát.
34 Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn,
    Ăn nuốt tôi và phá rối tôi,
    Vét sạch tôi như một cái nồi trống,
Nuốt chửng tôi như rắn nuốt mồi,
    Ăn đầy bụng những món cao lương mỹ vị của tôi,
    Rồi đuổi tôi đi.
35 Dân thành Si-ôn nói: ‘Cầu xin sự tàn ác gây cho tôi và dòng họ tôi
    Đổ lại trên dân Ba-by-lôn!’
Giê-ru-sa-lem nói:
    ‘Cầu xin huyết tôi đổ lại trên dân Canh-đê!’ ”

36 Vì thế CHÚA phán như vầy:

“Này, Ta sẽ biện hộ cho con,
    Ta sẽ báo thù cho con;
Ta sẽ làm cho biển nó khô,
    Và mạch nước nó cạn.
37 Ba-by-lôn sẽ đổ nát thành đống đá,
    Thành hang chó rừng,
Chốn hoang vu kinh rợn, không người ở;
    Ai đi ngang qua phải xuýt xoa.
38 Chúng đều rống lên như sư tử,
    Gầm gừ như sư tử con.”
39 CHÚA phán:
“Khi chúng nóng tiết,
    Ta sẽ dọn tiệc cho chúng,
    Cho chúng say sưa vui thỏa,
Để rồi chúng ngủ giấc ngủ ngàn thu,
    Không bao giờ thức dậy nữa.
40 Ta sẽ đem chúng xuống lò thịt
    Như chiên con,
    Như cừu đực và dê đực.
41 Ôi, thành Si-sách đã thất thủ!
    Kinh thành cả thế giới từng ca ngợi đã bị chiếm đóng!
Ôi, Ba-by-lôn hoang vu rùng rợn
    Giữa các nước!
42 Biển nổi dậy,
    Các lượn sóng gào thét tràn ngập Ba-by-lôn.
43 Các thành phố điêu tàn,
    Đất nước Ba-by-lôn khô hạn, hoang vu,
Không người ở,
    Cũng không người qua lại.
44 Ta sẽ trừng phạt thần Bên tại Ba-by-lôn,
    Bắt nó nhả ra những gì nó đã nuốt;
Các dân tộc không còn lũ lượt kéo về cúng bái nữa,
    Ngay cả tường thành Ba-by-lôn cũng sụp đổ.
45 Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi Ba-by-lôn,
    Ai nấy hãy chạy thoát thân,
    Tránh khỏi cơn phẫn nộ của CHÚA!
46 Đừng ngã lòng, cũng đừng hoảng sợ
    Vì tin đồn trong nước.
Năm nay, tin thế này, năm sau lại có tin thế kia.
    Cảnh bạo ngược tàn khốc xảy ra trong nước,
    Các tướng lãnh tranh giành quyền thế sát hại lẫn nhau.
47 Vì thế, sẽ có ngày
    Ta trừng phạt các tượng hình Ba-by-lôn,
Cả đất nước sẽ nhục nhã ê chề,
    Mọi người sẽ bị đâm, ngã xuống chết giữa thành.”
48 CHÚA phán:
“Trời và đất, cùng mọi vật trên trời, dưới đất,
    Đều reo mừng,
Vì quân tàn phá hủy diệt từ phương bắc
    Xông vào đánh Ba-by-lôn.
49 Hỡi dân Y-sơ-ra-ên bị đâm chết, phải, dân Ba-by-lôn sẽ ngã xuống chết,
    Cũng như những người bị Ba-by-lôn
    Đâm chết ngã xuống khắp cả đất.
50 Hỡi những kẻ thoát khỏi lưỡi gươm,
    Hãy đi, đừng dừng lại!
Từ xa, hãy tưởng nhớ CHÚA,
    Hãy gợi lại trong tâm trí hình ảnh Giê-ru-sa-lem.
51 Chúng con xấu hổ
    Vì chúng con bị chế nhạo,
    Chúng con nhục nhã trùm mặt lại,
Khi quân nước ngoài xông vào
    Đền thánh của CHÚA.”
52 CHÚA phán:
“Vì thế, sẽ có ngày
    Ta trừng phạt các tượng hình Ba-by-lôn,
Và khắp đất nước,
    Kẻ bị thương sẽ rên xiết.”
53 CHÚA phán:
“Dù Ba-by-lôn có lên cao đến tận trời,
    Dù nó xây tường thành kiên cố cao chót vót,
    Ta cũng sẽ sai quân tàn phá hủy diệt xông đánh nó.
54 Hãy lắng nghe!
    Tiếng kêu la vang lên từ Ba-by-lôn,
    Tiếng tàn phá khốc liệt từ đất nước Canh-đê.
55 CHÚA đang hủy diệt Ba-by-lôn,
    Các lượn sóng quân thù như nước lũ gào thét,
Chúng reo hò át mất
    Tiếng kêu la của Ba-by-lôn.
56 Vì kẻ hủy diệt xông đánh Ba-by-lôn;
    Các chiến sĩ nó bị bắt,
    Gẫy cung;
CHÚA là Đức Chúa Trời thưởng phạt,
    Ngài chắc chắn sẽ báo trả.”
57 Đức Vua, danh Ngài là CHÚA Vạn Quân, phán:
    “Ta sẽ khiến cho các cấp lãnh đạo và cố vấn,
Các tỉnh trưởng, quận trưởng, và các chiến sĩ đều say mèm,
    Để rồi chúng ngủ giấc ngàn thu, không hề thức dậy.”

58 CHÚA Vạn Quân phán như vầy:

“Các tường thành dày chắc của Ba-by-lôn sẽ bị san bằng,
    Các cổng thành cao vút sẽ bị đốt cháy,
Dân chúng khổ nhọc luống công,
    Các dân tộc lao lực mệt mỏi, công trình họ chỉ dành cho lửa.”

Tiên Tri Giê-rê-mi Giao Cuộn Da Ghi Chép Lời Tiên Tri Về Ba-by-lôn Cho Sê-ra-gia

59 Đây là lời tiên tri Giê-rê-mi dặn Sê-ra-gia, con Nê-ri-gia, cháu Ma-ha-sê-gia, khi ông đi qua Ba-by-lôn với vua Sê-đê-kia, nước Giu-đa, vào năm thứ tư triều vua Sê-đê-kia. Lúc ấy, Sê-ra-gia giữ chức tổng trưởng cục quân nhu.[r] 60 Giê-rê-mi chép vào một cuộn sách tất cả những tai họa sẽ xảy đến cho Ba-by-lôn, tức là tất cả những lời ghi chép ở trên về Ba-by-lôn. 61 Giê-rê-mi bảo Sê-ra-gia: “Khi ông đến Ba-by-lôn, ông nhớ đọc lớn tiếng tất cả lời này, 62 rồi cầu nguyện: ‘Lạy CHÚA, chính Ngài phán rằng Ngài sẽ hủy diệt thành này, đến nỗi không người nào ở nữa, thậm chí thú cũng không, và nơi này sẽ hoang vu mãi mãi. 63 Khi ông đọc xong, ông hãy cột một hòn đá vào sách này, rồi quăng xuống sông Ơ-phơ-rát 64 và nói: Ba-by-lôn sẽ chìm xuống như vậy, chẳng bao giờ nổi lên nữa, vì tai họa Ta sẽ giáng xuống trên nó.’ ”

Lời của Giê-rê-mi chấm dứt ở đây.

Giê-ru-sa-lem Thất Thủ

52 Sê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi khi lên ngôi, và trị vì mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Ha-mu-ta, con gái của Giê-rê-mi, người Líp-na. Vua làm điều ác trước mặt CHÚA, theo như mọi điều vua Giê-hô-gia-kim đã làm. Những việc này xảy ra tại thành Giê-ru-sa-lem và trong nước Giu-đa đã gây cho CHÚA nổi giận đến nỗi Ngài quay lưng khỏi chúng.

Vua Sê-đê-kia nổi loạn chống lại vua Ba-by-lôn.

Ngày mồng mười tháng mười, năm thứ chín đời vua Sê-đê-kia, Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, kéo toàn quân xuống đánh Giê-ru-sa-lem. Chúng xây đồn đắp lũy bao vây thành. Thành bị vây mãi đến năm thứ mười một đời vua Sê-đê-kia.

Ngày mồng chín tháng tư năm ấy, nạn đói trong thành trầm trọng đến nỗi dân chúng không còn thức ăn; tường thành bị chọc thủng. Ban đêm, trong khi quân Canh-đê vẫn còn bao vây thành, toàn quân trốn ra khỏi thành, xuyên qua cổng giữa hai bức tường, gần vườn ngự uyển, hướng về trũng A-ra-ba. Nhưng quân Canh-đê đuổi theo vua Sê-đê-kia, và đuổi kịp vua nơi vùng đồng bằng, chỗ khô cạn gần thành Giê-ri-cô, trong khi quân lính bỏ vua chạy tán loạn.

Quân Canh-đê bắt vua Sê-đê-kia, giải về Ríp-lát thuộc lãnh thổ Ha-mát, cho vua Ba-by-lôn xét xử. 10 Vua Sê-đê-kia, nhìn thấy tận mắt các con trai mình bị hành quyết cùng với tất cả các vương hầu quan chức Giu-đa tại Ríp-lát, theo lệnh vua Ba-by-lôn. 11 Kế đến, vua Ba-by-lôn sai móc cả hai mắt vua Sê-đê-kia, rồi xiềng vua lại bằng xích đồng, giải về Ba-by-lôn, giam trong ngục cho đến chết.

12 Ngày mồng mười tháng năm, nhằm năm thứ mười chín đời Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, đại diện vua Ba-by-lôn, đến Giê-ru-sa-lem. 13 Ông ra lệnh thiêu hủy đền thờ, cung điện, và mọi nhà cửa trong thành Giê-ru-sa-lem. Bất kỳ dinh thự nào cũng bị lửa thiêu rụi. 14 Hết thảy quân Canh-đê đi cùng với tướng chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ phá sập tất cả các bức tường bao bọc thành Giê-ru-sa-lem. 15 Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, ra lệnh lưu đày những người dân nào còn lại trong thành, cùng với bọn đào ngũ đầu hàng vua Ba-by-lôn, và những thợ thủ công còn sót lại. 16 Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, chừa lại thành phần nghèo nhất trong dân, những người nghèo nhất trong nước, để trồng nho và làm ruộng.

Cướp Phá Đền Thờ

17 Quân Canh-đê đập bể các trụ đồng của đền thờ, đế, và biển đồng trong đền thờ, rồi chở hết đồng về Ba-by-lôn. 18 Chúng cũng khuân đi nào là nồi, xẻng, kéo, chậu, đĩa, và tất cả những dụng cụ khác bằng đồng dùng trong việc thờ phượng. 19 Chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ cũng đem đi các dụng cụ bằng vàng và bằng bạc, tùy theo loại: chén, nồi đựng than, chậu, nồi, chân đèn, đĩa, chén dâng rượu.

20 Không thể nào cân nổi khối lượng đồng của hai cột trụ, một cái bể, mười hai con bò đực bên dưới cái bể, và các đế khác do vua Sa-lô-môn cung cấp tại đền thờ. 21 Mỗi cột trụ cao khoảng mười tám am-ma,[s] chu vi mười hai am-ma,[t] rỗng ruột, dầy độ bốn ngón tay.[u] 22 Trên đầu cột có chóp đồng, cao khoảng năm am-ma,[v] chạm trổ đường viền tinh vi hình mạng lưới và trái lựu toàn bằng đồng chung quanh chóp. Cột thứ nhì cũng y như vậy, chạm trổ hình trái lựu, mỗi một am-ma chạm tám trái lựu, cứ thế suốt mười hai am-ma.[w] 23 Thế là có chín mươi sáu trái lựu, thêm vào bốn trái lựu cho bốn hướng,[x] tất cả là một trăm trái lựu trên đường viền mạng lưới chung quanh chóp.

Đánh Giết Các Nhà Lãnh Đạo

24 Chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ bắt Sê-ra-gia, thầy trưởng tế, Sô-phô-ni, phó trưởng tế, và ba thầy tế lễ gác cổng đền thờ. 25 Trong thành Giê-ru-sa-lem, ông cũng bắt thêm một viên thái giám chỉ huy quân đội, bảy cận thần của nhà vua có mặt trong thành, viên bí thư của tổng chỉ huy quân đội lo việc động viên quân ngũ, và sáu mươi người vùng ngoại ô đang có mặt trong thành. 26 Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ, bắt những người này, giải về cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-lát. 27 Vua Ba-by-lôn ra lệnh đánh và xử tử họ tại Ríp-lát, thuộc lãnh thổ Ha-mát.

Dân Giu-đa Bị Lưu Đày

Thế là dân Giu-đa bị lưu đày xa quê hương. 28 Đây là số người bị Nê-bu-cát-nết-sa lưu đày:

Năm thứ bảy, 3,023 người Giu-đa;
29 Năm thứ mười tám đời Nê-bu-cát-nết-sa,
    832 Người từ Giê-ru-sa-lem;
30 Năm thứ hai mươi ba đời Nê-bu-cát-nết-sa,
    Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy trưởng đoàn vệ sĩ,
    Lưu đày 745 người Giu-đa.
    Tổng cộng là 4,600 người.

Vua Giê-hô-gia-kin Được Ân Xá

31 Sau khi Giê-hô-gia-kin, cựu hoàng Giu-đa, bị lưu đày ba mươi bảy năm, Ê-vin Mê-rô-đác, vua Ba-by-lôn, lên ngôi. Ngày hai mươi lăm tháng chạp, năm vua lên ngôi, vua ra lệnh ân xá và thả Giê-hô-gia-kin, cựu hoàng Giu-đa, ra khỏi ngục. 32 Vua nói năng từ tốn với Giê-hô-gia-kin, và đặt ông ngồi cao hơn ngôi các cựu hoàng khác cũng đang bị lưu đày tại Ba-by-lôn. 33 Giê-hô-gia-kin thay bỏ áo tù và thường xuyên ngồi ăn đồng bàn với vua trong suốt những ngày còn lại trong đời mình. 34 Vua Ba-by-lôn ra lệnh cung cấp lương thực đều đặn cho Giê-hô-gia-kin, theo nhu cầu từng ngày, suốt những ngày còn lại của đời ông, cho đến khi ông qua đời.

Ôi, nàng ngồi cô đơn,
    Dù xưa là thành đông đúc dân cư!
Nay là một quả phụ,
    Xưa đầy quyền thế giữa các dân!
Xưa là nữ vương thống trị các thành,
    Nay nô lệ, phải lao công cưỡng bách!
Nàng khóc thảm thiết thâu đêm,
    Lệ đầm đìa đôi má.
Những kẻ xưa kia yêu mến nàng,
    Nay không ai đến bên nàng với lời an ủi.
Bạn bè thảy đều phản bội,
    Chúng trở thành những kẻ nghịch thù.
Giu-đa đi lưu đày,
    Lắm nỗi thống khổ nhục nhằn.
Nàng ngồi than khóc giữa các dân,
    Không nơi an nghỉ.
Mọi kẻ săn đuổi nàng,
    Bắt được nàng khi nàng cùng đường túng quẫn.
Đường dẫn đến Si-ôn tang tóc,
    Vì không người đến trong ngày lễ hội.
Mọi cổng thành vắng vẻ hoang vu,
    Các thầy tế lễ thở than.
Các cô gái đồng trinh bị bắt đi nức nở,
    Thân phận nàng, cay đắng xót xa.
Kẻ thù nàng hôm nay làm chủ,
    Đối thủ nàng phè phỡn, sướng vui.
CHÚA đã đầy đọa nàng,
    Vì cớ nàng gây nhiều tội ác.
Con cái nàng đi khuất,
    Làm tù binh lê bước trước kẻ thù.
Sự vinh hiển của Thiếu Nữ Si-ôn thảy đều tan biến.
Các vua chúa nàng khác nào đàn nai
    Không tìm ra đồng cỏ.
Họ đuối sức lê chân
    Phải bước đi trước kẻ thù thúc đuổi.
Trong ngày lưu đày khốn khổ, nhục nhằn,
    Giê-ru-sa-lem nhớ lại mọi kho tàng quý báu,
    Từ thuở xa xưa.
Khi dân nàng rơi vào tay quân địch,
    Không ai giúp đỡ nàng.
Kẻ thù nhìn nàng, ngạo nghễ,
    Chúng cười nàng sụp đổ tan tành.
Giê-ru-sa-lem đã phạm tội trọng,
    Nên nàng phải trở thành một thứ trò cười.
Mọi kẻ xưa kính trọng nàng, nay khinh dể cười chê,
    Vì chúng nhìn thấy nàng mình trần thân trụi.
Chính nàng cũng rên rỉ,
    Và che mặt quay đi.
Váy nàng nhơ nhớp,
    Vì nàng chẳng hề nghĩ đến tương lai,
Cho nên nàng đã rơi xuống thấp, thấp tận cùng đất đen;
    Nay không ai an ủi nàng.
“Lạy CHÚA, xin đoái xem chúng con đau thương khốn khổ,
    Vì quân thù đắc thắng vênh vang!”
10 Kẻ thù đã giang tay cướp đoạt,
    Lấy hết mọi báu vật kho tàng.
Nàng cũng nhìn thấy quân ngoại xâm
    Lấn vào đền thánh.
Dù chính Ngài đã cấm chúng
    Không được vào nơi hội của Ngài.
11 Toàn dân nàng rên xiết
    Đi tìm bánh nuôi thân.
Họ mang cả báu vật đổi lấy thức ăn,
    Hầu mạng mình được sống.
“Lạy CHÚA, xin đoái xem,
    Chúng con bị khinh chê, tủi hổ dường nào!”
12 “Này những kẻ qua đường,
    Hãy đến đây, nhìn kỹ mà xem,
Có nỗi khổ nào bằng nỗi khổ,
    Tôi đang gánh chịu bởi CHÚA,
Trong ngày Ngài giận dữ,
    Ngài đã giáng trên tôi?
13 Từ trên cao Ngài cho lửa trời giáng xuống,
    Giáng sâu vào đến xương cốt của tôi.
Dưới chân tôi, Ngài cho bủa lưới,
    Khiến tôi quay ngược lại đằng sau.
Ngài bỏ tôi một mình, cô quạnh,
    Suốt cả ngày, đau đớn hao mòn.
14 Ngài theo dõi lỗi lầm tôi vấp phạm,[y]
    Bàn tay Ngài buộc chặt tội ác tôi;
Tội lỗi tôi thành gông cùm đeo cổ,
    Ngài khiến sức tôi ngày một mỏi mòn.
Chúa phó tôi vào tay quân cường bạo,
    Quân thù nghịch, tôi không thể đối đầu.
15 Những dũng sĩ của tôi,
    Ngài chất lại thành đống như bó lúa.
Chúa nhóm quân thù
    Đến nghiền nát các chàng trai.
Nàng trinh nữ Giu-đa đã bị Chúa chà đạp
    Như thể ép nho trong bồn rượu.
16 Vì cớ mọi sự đó mà tôi khóc lóc,
    Nước mắt đầm đìa.
Nhưng không ai gần tôi để mà an ủi,
    Không ai đem lại sức sống cho tôi.
Con cái tôi đơn côi, sửng sốt,
    Vì kẻ thù đắc thắng tràn lan.”
17 Si-ôn đã giơ tay lên cầu cứu,
    Nhưng không ai đến an ủi nàng.
CHÚA ra lệnh cho các nước láng giềng
    Trở nên thù địch của nhà Gia-cốp.
Giê-ru-sa-lem đã thành
    Một thứ trò cười giữa vòng chúng.
18 CHÚA là Đấng công bình,
    Chính tôi là người phản nghịch.
Hỡi các dân tộc, hãy lắng tai nghe,
    Hãy nhìn xem nỗi khổ đau tôi đang chịu đựng.
Các con trai và con gái tôi
    Đã bị lưu đày.
19 Tôi kêu cầu những người đồng bạn,
    Chúng lừa gạt tôi, chúng phản bội tôi rồi.
Các thầy tế lễ và các trưởng lão của tôi
    Ngã gục trong thành phố,
Khi cố sức tìm thức ăn
    Hầu kéo dài mạng sống.
20 “Lạy CHÚA, xin đoái xem con khốn khổ chừng nào,
    Lòng dạ con bối rối bất an,
Tâm hồn con điêu đứng, loạn cuồng,
    Vì con phản nghịch, cứng đầu, cứng cổ.
Bên ngoài, gươm giáo giết hại,
    Bên trong, chết chóc tràn lan.
21 Xin Chúa nghe con rên xiết,
    Không ai an ủi cho con.
Kẻ thù nghe tin con khốn khổ,
    Chúng reo mừng vì Ngài đã trừng phạt con,
Xin giáng xuống chúng ngày tai họa mà Ngài từng rao báo,
    Hầu cho chúng cũng đồng khốn khổ như con.
22 Nguyện trước mặt Ngài, chúng lộ ra gian ác.
    Xin Ngài trừng phạt chúng nặng nề.
Như con đã bị Ngài mạnh tay đối xử,
    Vì sự cứng đầu phản nghịch của con.
Con đã than thở nhiều,
    Và tim con trở nên héo hắt.”

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)