Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Sáng Thế 1-16

Sáng Tạo Trời Đất

Ban đầu, Đức Chúa Trời sáng tạo trời đất. Lúc ấy, đất không có hình thể và còn trống không. Bóng tối, bao trùm vực thẳm và Thần Linh của Đức Chúa Trời vận hành trên mặt nước. Bấy giờ, Đức Chúa Trời phán: “Phải có ánh sáng!” Ánh sáng liền xuất hiện. Đức Chúa Trời thấy ánh sáng là tốt. Đức Chúa Trời phân rẽ ánh sáng khỏi bóng tối. Đức Chúa Trời gọi sáng là Ngày và tối là Đêm. Đó là buổi chiều và buổi sáng ngày thứ nhất. Đức Chúa Trời phán: “Phải có khoảng không phân cách nước với nước”.

Vậy, Đức Chúa Trời tạo khoảng không phân cách nước dưới khoảng không với nước trên khoảng không, thì có như vậy. Đức Chúa Trời gọi khoảng không là bầu trời. Đó là buổi chiều và buổi sáng ngày thứ nhì.

Đức Chúa Trời phán: “Nước dưới bầu trời hãy tụ lại một chỗ và đất khô phải xuất hiện”, thì liền có như thế. 10 Đức Chúa Trời gọi đất khô là Đất, và vùng nước tụ lại là Biển. Đức Chúa Trời thấy điều ấy là tốt. 11 Đức Chúa Trời phán: “Đất phải sinh cây cỏ; cỏ kết hạt và cây kết quả có hạt tùy theo loại” thì có như vậy. 12 Đất sinh sản cây cỏ, cỏ kết hạt tùy theo loại, cây kết quả có hạt tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều ấy là tốt. 13 Đó là buổi chiều và buổi sáng ngày thứ ba.

14 Đức Chúa Trời phán: “Phải có các vì sáng trên bầu trời để phân biệt ngày và đêm, làm dấu cho thì tiết, ngày và năm, 15 và hãy có những vì sáng trên bầu trời để soi sáng trái đất,” thì có như vậy. 16 Đức Chúa Trời tạo hai vì sáng lớn, vì sáng lớn hơn cai quản ban ngày; vì sáng nhỏ hơn cai quản ban đêm, và các tinh tú. 17 Đức Chúa Trời đặt các vì sáng trên bầu trời để soi sáng trái đất, 18 cai quản ngày và đêm và phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt. 19 Đó là buổi chiều và buổi sáng ngày thứ tư.

20 Đức Chúa Trời phán: “Nước phải đầy dẫy sinh vật và phải có chim bay trên trời!” 21 Đức Chúa Trời tạo các loài thủy quái, mọi loài sinh vật đầy dẫy dưới nước tùy theo loại, và các loài chim có cánh tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt. 22 Đức Chúa Trời ban phước cho chúng và bảo: “Hãy sinh sản, nhân lên; làm đầy dẫy biển. Các loài chim hãy gia tăng trên đất.” 23 Đó là buổi chiều và buổi sáng ngày thứ năm. 24 Đức Chúa Trời phán: “Đất phải sinh các sinh vật tùy theo loại, các súc vật, các loài bò sát và thú rừng tùy theo loại!” thì có như vậy. 25 Đức Chúa Trời tạo nên các thú rừng tùy theo loại, súc vật tùy theo loại và mọi loài bò sát trên đất tùy theo loại. Đức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp.

Sáng Tạo Loài Người

26 Đức Chúa Trời phán: “Chúng ta hãy tạo nên loài người như hình Ta và giống như Ta, để quản trị các loài cá biển, chim trời, súc vật trên cả trái đất và các loài vật bò trên đất.” 27 Đức Chúa Trời tạo loài người theo hình ảnh Ngài. Ngài sáng tạo loài người như hình ảnh Đức Chúa Trời. Ngài tạo nên người nam và người nữ. 28 Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán: “Hãy sinh sản, nhân lên nhiều, làm gia tăng đầy dẫy đất và thống trị đất. Hãy quản trị loài cá biển, chim trời và tất cả các loài vật chuyển động trên đất.” 29 Đức Chúa Trời phán: “Ta ban cho các ngươi mọi thứ rau cỏ kết hạt mọc trên đất và mọi thứ cây cối ra quả kết hạt, để dùng làm thức ăn cho các ngươi. 30 Ta cũng ban tất cả cây cỏ xanh cho các thú vật, chim trời và mọi loài vật bò trên đất, mọi loài có sinh khí làm thức ăn thì có như vậy.” 31 Đức Chúa Trời nhìn mọi vật Ngài dựng nên và thấy là rất tốt. Đó là buổi chiều và buổi sáng ngày thứ sáu.

Thánh Hóa Ngày Thứ Bảy

Thế là hoàn thành trời, đất và tất cả vạn vật. Đức Chúa Trời hoàn tất công việc Ngài đã làm vào ngày thứ bảy, Ngài nghỉ mọi công việc Ngài đã làm. Đức Chúa Trời chúc phước cho ngày thứ bảy và thánh hóa nó vì vào ngày ấy Đức Chúa Trời nghỉ ngơi mọi công việc sáng tạo.

Đó là gốc tích trời đất khi được sáng tạo, trong ngày CHÚA, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.

Bấy giờ chưa có cây cối và rau cỏ mọc lên ngoài đồng trên mặt đất, vì CHÚA, Đức Chúa Trời chưa cho mưa xuống đất, và cũng chưa có người cầy bừa đất đai. Một nguồn nước từ mặt đất dâng lên và tưới toàn thể mặt đất. CHÚA, Đức Chúa Trời nắn lên loài người từ bụi đất, hà sinh khí vào lỗ mũi và người trở nên một linh hồn sống.

Vườn Ê-đen

CHÚA, Đức Chúa Trời trồng một khu vườn tại Ê-đen ở phía đông và đặt người Ngài đã dựng nên tại đó. CHÚA, Đức Chúa Trời khiến từ đất mọc lên mọi cây cối đẹp mắt và ăn ngon. Giữa vườn có Cây Sự Sống và Cây Biết Thiện Ác.

10 Một dòng sông chảy ra từ Ê-đen để tưới vườn và từ đó chia làm bốn nhánh. 11 Nhánh thứ nhất tên Phi-song, chảy quanh đất Ha-vi-la là nơi có vàng, 12 vàng xứ này rất tốt, cũng có nhũ hương và bích ngọc. 13 Nhánh sông thứ hai tên Ghi-hôn chảy quanh xứ Cút. 14 Nhánh sông thứ ba tên Ti-gơ chảy về phía đông A-si-ri. Nhánh sông thứ tư tên Ơ-phơ-rát.

15 CHÚA, Đức Chúa Trời đem người đặt vào vườn Ê-đen để canh tác và chăm sóc vườn. 16 CHÚA, Đức Chúa Trời truyền lệnh cho người rằng: “Con có thể ăn bất cứ trái cây nào trong vườn, 17 nhưng về ‘Cây Biết Thiện Ác’ thì không được ăn, vì ngày nào con ăn trái đó chắc chắn con sẽ chết.”

Hôn Nhân Đầu Tiên

18 CHÚA, Đức Chúa Trời lại nói: “Con người ở một mình không tốt! Ta sẽ dựng nên cho người một kẻ giúp đỡ thích hợp.”

19 CHÚA, Đức Chúa Trời lấy đất nắn nên mọi thú đồng và mọi chim trời rồi đem đến cho người để xem người đặt tên chúng là gì; và bất cứ tên gì người gọi mỗi sinh vật đều thành tên riêng của nó. 20 A-đam đặt tên cho tất cả các loài gia súc, chim trời và thú rừng.

Nhưng về phần A-đam thì không tìm được một người giúp đỡ thích hợp với mình. 21 CHÚA, Đức Chúa Trời khiến A-đam ngủ mê. Khi người đang ngủ, Ngài lấy một chiếc xương sườn của người rồi lấp chỗ thịt đó lại. 22 Từ xương sườn lấy nơi A-đam, CHÚA, Đức Chúa Trời dựng nên một người nữ và đem đến cho người.

23 A-đam nói:

“Bây giờ đây là xương từ xương tôi,
    Thịt từ thịt tôi,
Người này được gọi là người nữ
    Vì từ người nam mà ra.”

24 Vì thế, người nam sẽ rời cha mẹ để kết hiệp với vợ và hai người trở thành một thân.[a]

25 A-đam và vợ, cả hai đều trần truồng nhưng không thấy xấu hổ.

Loài Người Bị Cám Dỗ Và Phạm Tội

Trong tất cả các thú rừng mà CHÚA, Đức Chúa Trời tạo nên, rắn xảo quyệt hơn cả. Rắn nói với người nữ: “Có phải Đức Chúa Trời cấm bà không được phép ăn bất cứ thứ cây nào trong vườn không?”

Người nữ đáp cùng rắn: “Chúng tôi được ăn các cây trong vườn, nhưng về trái của cây trồng ở giữa vườn, Đức Chúa Trời đã phán: Các con không được ăn trái cây đó, cũng không được động đến nữa, kẻo các con sẽ chết!”

Rắn bảo người nữ: “Chắc chắn không chết đâu![b] Vì Đức Chúa Trời biết ngày nào đó ông bà ăn trái ấy mắt ông bà sẽ mở ra, ông bà sẽ trở nên giống như Đức Chúa Trời, biết điều thiện, ác.”

Người nữ thấy trái cây vừa ăn ngon vừa đẹp mắt, lại quý[c] vì mở mang trí khôn, liền hái và ăn rồi trao cho chồng đang ở đó; chồng cũng ăn nữa. Mắt cả hai người đều mở ra và nhận biết mình đang trần truồng. Họ kết lá vả làm khố che thân.

Khi nghe tiếng CHÚA, Đức Chúa Trời đi lại trong vườn lúc chiều mát, A-đam và vợ ẩn nấp giữa lùm cây trong vườn để tránh mặt CHÚA, Đức Chúa Trời. CHÚA, Đức Chúa Trời gọi A-đam hỏi: “Con ở đâu?”

10 A-đam thưa: “Con nghe tiếng Ngài trong vườn nên sợ vì con trần truồng nên trốn!”

11 Đức Chúa Trời hỏi: “Ai nói cho con biết con trần truồng? Con đã ăn trái cây Ta dặn đừng ăn phải không?”

12 A-đam thưa: “Người nữ Ngài đặt bên con đã đưa cho con trái cây đó và con ăn rồi!”

13 CHÚA, Đức Chúa Trời hỏi người nữ: “Con đã làm gì vậy?”

Người nữ thưa: “Con rắn lừa gạt con nên con ăn!”

14 CHÚA, Đức Chúa Trời bảo con rắn:

“Vì mày đã làm điều đó nên mày bị rủa sả giữa tất cả các loài gia súc và thú rừng.
Mày sẽ bò bằng bụng
    Và ăn bụi đất trọn đời.
15 Ta sẽ làm cho mày và người nữ,
    Dòng dõi mày và dòng dõi người nữ thù nghịch nhau.
Người ấy sẽ chà đạp[d] đầu mày,
    Còn mày sẽ cắn gót chân Người.”

16 Ngài nói với người nữ:

“Ta sẽ tăng thêm nhiều đau đớn khi con thai nghén,
    Con sẽ đau đớn khi sinh nở;
Dục vọng con sẽ hướng về chồng
    Và chồng sẽ quản trị con!”

17 Ngài phán với A-đam:

“Vì con đã nghe lời vợ, ăn trái cây Ta đã truyền lệnh đừng ăn nên đất đai bị rủa sả vì con;

Cả đời con phải làm lụng khó nhọc mới có miếng ăn.
18 Đất sẽ sinh các loài gai góc
    Và con sẽ ăn cây cỏ ngoài đồng.
19 Con phải đổ mồ hôi trán mới có thức ăn,[e]
Cho đến ngày con trở về đất,
    Vì con từ đất mà ra.
Vì con là bụi đất,
    Con sẽ về với đất bụi!”

20 A-đam đặt tên vợ là Ê-va, vì nàng[f] sẽ là mẹ của cả loài người.[g]

21 CHÚA, Đức Chúa Trời lấy da thú làm áo mặc cho A-đam và vợ người. 22 CHÚA, Đức Chúa Trời phán: “Này, loài người đã trở nên một bậc giống như chúng ta, biết phân biệt thiện ác, bây giờ coi chừng nó cũng đưa tay ra hái trái cây sự sống mà ăn và sống mãi mãi!” 23 Vì thế, CHÚA, Đức Chúa Trời đuổi A-đam ra khỏi vườn Ê-đen để canh tác đất đai vì loài người từ đó mà ra. 24 Ngài đuổi loài người ra và đặt các chê-ru-bim và một thanh gươm sáng lòa đưa qua đưa lại ở phía đông vườn Ê-đen để canh giữ con đường dẫn đến cây sự sống.

A-đam ăn ở[h] với Ê-va, vợ mình. Nàng thụ thai và sinh Ca-in. Nàng nói: “Nhờ CHÚA, tôi đã sinh được một người.” Nàng lại sinh A-bên, em Ca-in.

A-bên chăn chiên còn Ca-in canh tác đất đai. Sau một thời gian, Ca-in đem hoa lợi đồng ruộng dâng lên cho CHÚA. A-bên cũng mang con vật đầu lòng luôn với mỡ[i] dâng cho CHÚA. CHÚA chiếu cố đến A-bên và lễ vật của ông, nhưng Ngài không chiếu cố đến Ca-in và lễ vật của ông. Vì thế Ca-in rất giận và sầm mặt xuống.

CHÚA hỏi Ca-in: “Tại sao con giận? Tại sao con sầm mặt xuống? Nếu con làm phải, lẽ nào không được chấp nhận? Còn nếu con làm không phải[j] thì tội ác đang rình rập trước cửa, thèm con lắm, nhưng con phải quản trị nó.”

Ca-in nói chuyện với A-bên, em mình,[k] khi hai anh em đang ở ngoài đồng, Ca-in tấn công và giết A-bên em mình.

CHÚA hỏi Ca-in: “A-bên, em ngươi ở đâu?” Ca-in thưa: “Con không biết! Con là người giữ em con sao?”

10 CHÚA tiếp: “Ngươi đã làm chi vậy? Tiếng của máu em ngươi từ dưới đất đang kêu van cùng Ta. 11 Bây giờ, ngươi bị rủa sả từ đất, đất đã hả miệng uống máu em ngươi từ tay ngươi đổ ra! 12 Khi ngươi canh tác, đất sẽ không sinh hoa lợi cho ngươi nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên đất.”

13 Ca-in thưa với CHÚA: “Hình phạt con nặng quá, mang không nổi. 14 Này, ngày nay CHÚA đuổi con đi ra khỏi đất này, con sẽ trốn tránh mặt CHÚA. Con sẽ lang thang phiêu bạt trên đất, có ai gặp con, họ sẽ giết con đi.” 15 CHÚA đáp: “Không đâu, nếu ai giết Ca-in sẽ bị báo thù gấp bảy lần.” CHÚA cũng đánh dấu trên người Ca-in để có ai gặp người, sẽ không giết. 16 Ca-in đi khỏi mặt CHÚA và sống tại xứ Nốt ở phía đông Ê-đen.

17 Ca-in ăn ở với vợ, nàng thụ thai, sinh Ê-nóc. Ông xây một thành và đặt tên là Ê-nóc, theo tên con trai mình. 18 Ê-nóc sinh I-rát, I-rát sinh Mê-hu-gia-ên; Mê-hu-gia-ên sinh Mê-lu-sa-ên; Mê-lu-sa-ên sinh Lê-méc.

19 Lê-méc cưới hai vợ, vợ cả tên A-đa, vợ thứ tên Xin-la. 20 A-đa sinh Gia-banh; Gia-banh là ông tổ[l] của dân ở lều trại, nuôi gia súc. 21 Em Gia-banh là Giu-banh, ông tổ của mọi người chơi đàn hạc và thổi sáo. 22 Xin-la cũng sinh Tu-banh Ca-in, ông tổ của những người rèn mọi thứ dụng cụ bằng đồng, bằng sắt và em gái của Tu-banh Ca-in tên là Na-a-ma.

23 Lê-méc bảo hai vợ là A-đa và Xin-la, hỡi các bà vợ của Lê-méc, hãy lắng nghe tiếng ta! Hãy nghe lời ta! Ta đã giết một người, vì làm ta bị thương tức là một thanh niên vì gây thương tích cho ta! 24 Nếu Ca-in được báo thù bảy lần thì Lê-méc phải được báo thù gấp bảy mươi bảy lần.

Sết Và Dòng Họ Sết

25 A-đam lại ăn ở với vợ, nàng sinh một trai, đặt tên là Sết vì nàng nói: “Đức Chúa Trời đã ban cho tôi một con trai[m] khác thay cho A-bên đã bị Ca-in giết!” 26 Sết cũng sinh con trai đặt tên là Ê-nót. Từ đó, người ta bắt đầu cầu khẩn danh CHÚA.[n]

Đây là sách ghi dòng dõi A-đam khi Đức Chúa Trời tạo nên loài người, Ngài làm nên loài người giống Đức Chúa Trời. Ngài tạo nên người nam và người nữ, ban phước cho họ và gọi họ là “người” khi Ngài sáng tạo nên họ.

A-đam được một trăm ba mươi tuổi sinh một con trai giống như hình dạng mình và đặt tên là Sết. Sau khi sinh Sết, A-đam còn sống được tám trăm năm, sinh con trai con gái. A-đam sống tất cả được chín trăm ba chục năm, rồi qua đời.

Sết được một trăm lẻ năm tuổi sinh Ê-nót. Sau khi sinh Ê-nót, Sết còn sống tám trăm lẻ bảy năm, sinh con trai con gái. Sết sống tất cả được chín trăm mười hai năm, rồi qua đời.

Ê-nót được chín mươi tuổi sinh Kê-nan. 10 Sau khi sinh Kê-nan, Ê-nót còn sống tám trăm mười lăm năm, sinh con trai con gái. 11 Ê-nót sống tất cả được chín trăm lẻ năm năm, rồi qua đời.

12 Kê-nan được bảy mươi tuổi sinh Ma-ha-la-ên. 13 Sau khi sinh Ma-ha-la-ên, 14 Kê-nan còn sống được tám trăm bốn mươi năm sinh con trai con gái, rồi qua đời.

15 Ma-ha-la-ên được sáu mươi lăm tuổi, sinh Giê-rệt. 16 Sau khi sinh Giê-rệt, Ma-ha-la-ên còn sống tám trăm ba mươi năm, sinh con trai con gái. 17 Ma-ha-la-ên sống tất cả được tám trăm chín mươi lăm năm, rồi qua đời.

18 Giê-rệt được một trăm sáu mươi hai tuổi sinh Hê-nóc. 19 Sau khi sinh Hê-nóc, Giê-rệt còn sống tám trăm năm, sinh con trai con gái. 20 Vậy Giê-rệt sống tất cả được chín trăm sáu mươi hai tuổi rồi qua đời.

21 Hê-nóc được sáu mươi lăm tuổi sinh Mê-tu-sê-la. 22 Sau khi sinh Mê-tu-sê-la, Hê-nóc đồng đi với Đức Chúa Trời ba trăm năm, sinh con trai con gái. 23 Hê-nóc sống tất cả được ba trăm sáu mươi lăm tuổi. 24 Hê-nóc đồng đi với Đức Chúa Trời rồi biệt tăm vì Đức Chúa Trời đã đem ông đi.

25 Mê-tu-sê-la được một trăm tám mươi bảy tuổi sinh Lê-méc. 26 Sau khi sinh Lê-méc, Mê-tu-sê-la còn sống bảy trăm tám mươi hai năm, sinh con trai con gái. 27 Mê-tu-sê-la sống tất cả được chín trăm sáu mươi chín tuổi rồi qua đời.

28 Lê-méc được một trăm tám mươi hai tuổi sinh một con trai, 29 đặt tên là Nô-ê và nói: “Đứa con này sẽ an ủi ta[o] về công việc ta và sự nhọc nhằn của bàn tay ta vì đất đã bị CHÚA rủa sả.” 30 Sau khi sinh Nô-ê; Lê-méc còn sống năm trăm chín mươi lăm năm, sinh con trai con gái. 31 Vậy, Lê-méc sống tất cả được bảy trăm bảy mươi bảy tuổi rồi qua đời.

32 Nô-ê được năm trăm tuổi sinh Sem, Cham và Gia-phết.

Tội Lỗi Gia Tăng

Khi loài người bắt đầu gia tăng trên mặt đất và sinh con gái. Các con trai Đức Chúa Trời thấy các con gái loài người xinh đẹp bèn cưới làm vợ những người họ chọn. CHÚA phán: “Thần Ta sẽ chẳng ở mãi với loài người nữa vì chúng chỉ là xác thịt; đời người sẽ chỉ còn một trăm hai mươi năm.”

Trong thời gian đó và cả về sau, có những người to lớn trên mặt đất khi con trai Đức Chúa Trời ăn ở với con gái loài người mà sinh con cái. Họ là các bậc anh hùng danh tiếng thời cổ xưa.

CHÚA thấy tội ác của loài người tràn lan trên đất, mọi khuynh hướng, tư tưởng của lòng họ lúc nào cũng xấu xa. CHÚA hối tiếc vì đã dựng nên loài người trên đất, và đau buồn trong lòng. CHÚA phán: “Ta sẽ quét sạch khỏi mặt đất mọi loài Ta đã tạo nên, cả loài người lẫn thú vật, loài bò sát và chim trời, vì Ta hối tiếc đã dựng nên chúng.” Nhưng Nô-ê được ơn trước mặt CHÚA.

Đây là dòng dõi Nô-ê.

Nô-ê là một người công chính và không có gì đáng trách giữa những người đồng thời với ông. Nô-ê đồng đi với Đức Chúa Trời. 10 Nô-ê sinh ba con trai là Sem, Cham và Gia-phết.

Chiếc Tàu

11 Thế gian bại hoại dưới mắt Đức Chúa Trời và đất đầy dẫy hung bạo. 12 Đức Chúa Trời nhìn xem thế gian, thấy nó bại hoại, vì mọi người trên mặt đất đều làm bại hoại đường lối mình. 13 Đức Chúa Trời bảo Nô-ê: “Sự cuối cùng của mọi người đã đến, vì chúng làm cho trái đất đầy dẫy sự hung bạo. Này, Ta sẽ hủy diệt chúng luôn với cả trái đất nữa. 14 Con hãy đóng một chiếc tàu bằng gỗ gô-phe, chia làm nhiều phòng, trát nhựa cả trong lẫn ngoài. 15 Con hãy đóng tàu như thế này: bề dài ba trăm am-ma[p], bề rộng năm mươi am-ma[q], bề cao một am-ma[r]. 16 Con hãy lợp mái tàu cách thành tàu một am-ma, và một cửa bên hông tàu. Con sẽ làm tầng dưới, tầng giữa và tầng trên. 17 Kìa, chính Ta sẽ đem nước lụt đến trên đất để tiêu diệt tất cả các loài sinh vật có hơi thở dưới bầu trời, mọi loài vật trên đất đều sẽ chết hết. 18 Nhưng Ta sẽ lập giao ước Ta với con; con sẽ vào tàu cùng với các con trai, vợ và các nàng dâu của con. 19 Con sẽ đem vào tàu mọi loài sinh vật, mỗi loài một cặp, có đực có cái, để giữ cho chúng sống. 20 Chim tùy theo loại, súc vật tùy theo loại, loài bò sát trên đất tùy theo loại, mỗi loài hai con sẽ đến với con để bảo toàn mạng sống. 21 Con hãy đem theo đủ mọi thứ lương thực để ăn và để tích trữ cho con và cho chúng nó.” 22 Như vậy Nô-ê làm theo mọi điều Đức Chúa Trời đã truyền bảo.

Trận Đại Hồng Thủy

CHÚA bảo Nô-ê: “Con và cả gia đình con hãy vào tàu vì Ta thấy con công chính trước mặt Ta giữa thế hệ này. Trong các thú vật tinh sạch, hãy đem theo mỗi loại bảy con,[s] đực và cái, còn các thú vật không tinh sạch mỗi loài một cặp, đực và cái. Con cũng hãy đem theo các chim trời, mỗi loài bảy con, trống và mái, để giữ cho sống trên khắp mặt đất. Vì bảy ngày nữa, Ta sẽ cho mưa xuống đất bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, và Ta sẽ quét sạch khỏi mặt đất mọi loài sinh vật Ta đã dựng nên.”

Nô-ê làm theo mọi điều CHÚA đã truyền bảo.

Nô-ê được sáu trăm tuổi khi nước lụt đến trên đất. Nô-ê vào tàu cùng vợ, các con trai, và các dâu mình để tránh nước lụt. Các loài vật tinh sạch, loài vật không tinh sạch, loài chim, và mọi loài bò sát trên mặt đất từng cặp, đực và cái, trống và mái, đều đến với Nô-ê và vào tàu, đúng như Đức Chúa Trời đã truyền bảo Nô-ê. 10 Đúng bảy ngày sau, nước lụt đến trên đất.

11 Trong năm thứ sáu trăm đời Nô-ê, đúng ngày mười bảy tháng hai, vào ngày đó tất cả các nguồn nước của vực lớn đều dâng lên và các cửa sổ trên các tầng trời đều mở tung. 12 Mưa đổ xuống đất suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm.

13 Chính ngày đó, Nô-ê cùng vợ, các con trai Sem, Cham và Gia-phết và vợ của ba con trai ông đều vào tàu. Họ và mọi loài dã thú, 14 mọi thứ súc vật tùy theo loại, mọi loài bò sát trên đất tùy theo loại, mọi thứ chim tùy theo loại và mọi loài có cánh. 15 Chúng đến với Nô-ê và vào tàu từng cặp, mọi loài có hơi thở, 16 đực và cái, đều vào tàu, theo như lời Đức Chúa Trời truyền bảo người. Rồi CHÚA đóng cửa tàu lại.

17 Nước lụt đến trên mặt đất bốn mươi ngày, nước dâng cao, nâng chiếc tàu lên khỏi mặt đất. 18 Nước dâng lên rất cao trên đất và chiếc tàu nổi trên mặt nước. 19 Nước dâng cao lên, rất cao trên đất đến nỗi ngập hết tất cả các ngọn núi cao dưới bầu trời. 20 Nước dâng lên cao phủ ngập các núi đến mười lăm am-ma.[t] 21 Tất cả các loài sinh vật trên mặt đất đều bị diệt, nào chim trời, dã thú, súc vật, loài bò sát trên đất và mọi người. 22 Tất cả các loài có hơi thở trong mũi và sống trên đất đều bị chết. 23 Mọi loài sinh vật trên mặt đất đều bị quét sạch khỏi mặt đất, từ loài người đến thú vật, từ loài bò sát đến loài chim trời. Chúng đều bị quét sạch khỏi mặt đất, chỉ có Nô-ê và những người, những sinh vật ở với ông trong tàu còn sống sót mà thôi.

24 Nước lụt bao phủ mặt đất suốt một trăm năm mươi ngày.

Trận Đại Hồng Thủy Chấm Dứt

Đức Chúa Trời nhớ đến Nô-ê và các loài sinh vật, súc vật ở trong tàu với ông. Đức Chúa Trời cho một trận gió thổi ngang qua mặt đất, nước lụt bèn rút xuống. Các nguồn nước của vực sâu, các cửa sổ trên trời đóng lại, và mưa từ trời ngưng đổ trên đất. Nước rút xuống, cứ tiếp tục rút xuống, trong một trăm năm mươi ngày, nước mới hạ xuống. Ngày mười bảy tháng bảy, chiếc tàu tấp trên dãy núi[u] A-ra-rát. Nước cứ rút[v] cho đến tháng thứ mười; ngày mồng một tháng mười các đỉnh núi mới lộ ra.

Sau bốn mươi ngày, Nô-ê mở cửa sổ mình đã làm trên tàu, ông thả một con quạ ra, nó bay đi lượn lại cho đến khi nước cạn khô trên mặt đất. Ông cũng thả một con bồ câu để xem nước rút khỏi mặt đất chưa. Nhưng bồ câu không tìm được chỗ nào đáp chân xuống, nên quay về với ông trên tàu, vì nước vẫn còn trên khắp mặt đất. Ông đưa tay đón bồ câu đem vào trong tàu với mình. 10 Ông đợi thêm bảy ngày rồi lại thả bồ câu ra khỏi tàu. 11 Đến chiều, bồ câu quay về, mỏ ngậm một chiếc lá ô-liu mới hái; Nô-ê biết rằng nước đã rút khỏi mặt đất. 12 Đợi bảy ngày nữa, ông lại thả bồ câu ra, nhưng lần này bồ câu không quay về với ông nữa.

13 Ngày mồng một tháng giêng năm thứ sáu trăm lẻ một đời Nô-ê, nước trên đất đã cạn khô, Nô-ê mở mui tàu nhìn xuống và thấy mặt đất đã khô nước. 14 Ngày hai mươi bảy tháng hai, đất đã khô hoàn toàn.

15 Đức Chúa Trời phán bảo Nô-ê: 16 “Con hãy ra khỏi tàu cùng với vợ, các con trai và các dâu con. 17 Hãy đem ra với con các con vật đã ở cùng con, các loài thú vật, chim chóc, súc vật và mọi loài bò sát trên đất để chúng sinh sôi nẩy nở và gia tăng trên đất.”

18 Vậy Nô-ê ra khỏi tàu, với vợ, con và dâu mình, 19 mọi loài dã thú, bò sát, chim chóc và mọi loài bò trên đất, đều ra khỏi tàu, loài nào đi theo loài nấy.

20 Bấy giờ, Nô-ê xây một bàn thờ để thờ phượng CHÚA và bắt đủ các con thú tinh sạch và chim tinh sạch dâng tế lễ thiêu trên bàn thờ. 21 CHÚA nhận mùi thơm của tế lễ thì tự nhủ trong lòng: “Ta sẽ chẳng bao giờ vì loài người mà rủa sả trái đất nữa; cho dù xu hướng của loài người là xấu xa từ lúc còn nhỏ.[w] Ta cũng sẽ chẳng hủy diệt các loài sinh vật như Ta đã làm;

22 Một khi trái đất còn,
Thì mùa gieo và mùa gặt,
Thời tiết lạnh và nóng,
Mùa hạ và mùa đông,
Ngày và đêm
Sẽ chẳng bao giờ chấm dứt.”

Giao Ước Của Chúa Với Nô-ê

Đức Chúa Trời ban phước cho Nô-ê và các con trai ông. Ngài nói với họ rằng: “Hãy sinh sản và gia tăng phủ đầy trái đất. Tất cả các loài thú vật trên mặt đất, các loài chim trên trời, các loài sống động trên đất và các loài cá dưới biển đều sẽ sợ hãi các con; chúng đều được giao phó vào tay các con. Mọi loài vật sống động trên đất sẽ dùng làm thực phẩm cho các con cũng như cây, rau xanh mà Ta đã ban cho các con.

Nhưng thịt còn sự sống, còn huyết thì các con đừng ăn. Chắc chắn Ta sẽ đòi lại máu của sinh mạng các con, Ta sẽ đòi lại nơi mọi loài thú, nơi tay loài người và Ta sẽ đòi lại nơi tay mỗi người mạng sống của đồng loại nó.

Kẻ nào làm đổ máu người
    Sẽ bị người khác làm đổ máu lại,
Vì Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người
    Theo hình ảnh Ngài.

Vậy các con hãy sinh sản và gia tăng nhiều gấp bội trên đất!”

Đức Chúa Trời nói với Nô-ê và các con trai đang ở với ông: “Bây giờ, Ta lập giao ước với các con và dòng dõi mai sau của các con, 10 và với mọi loài sinh vật ở với các con, với loài chim, loài súc vật, loài dã thú trên đất, với tất cả các loài vật đã ra khỏi tàu, tức là mọi loài vật trên đất. 11 Ta lập giao ước Ta với các con, mọi loài sinh vật sẽ không bị nước lụt trừ diệt nữa, sẽ chẳng bao giờ có nước lụt tiêu hủy trái đất nữa.”

12 Đức Chúa Trời phán: “Đây là dấu hiệu về giao ước Ta lập giữa Ta với các con và mọi sinh vật ở với các con, cho đến các thế hệ mãi về sau. 13 Ta đặt cầu vồng của Ta trên mây, đó sẽ là dấu hiệu về giao ước giữa Ta và trái đất. 14 Khi nào Ta gom góp mây trên đất, và cầu vồng hiện ra[x] trong mây 15 thì Ta sẽ nhớ giao ước Ta đã lập cùng các con và cùng mọi loài sinh vật, và nước sẽ chẳng trở thành nạn lụt lớn tiêu diệt mọi sự sống nữa. 16 Khi cầu vồng mọc trên mây, Ta sẽ thấy nó mà nhớ giao ước đời đời giữa Ta và mọi sinh vật sống trên mặt đất.”

17 Vậy Đức Chúa Trời nói với Nô-ê: “Đây là dấu hiệu về giao ước mà Ta đã lập giữa Ta và mọi loài sinh vật trên đất.”

Các Con Trai Của Nô-ê

18 Các con trai của Nô-ê đã ra khỏi tàu là: Sem, Cham và Gia-phết. Cham là cha của Ca-na-an. 19 Đó là ba con trai của Nô-ê, do họ mà có loài người tràn ra khắp mặt đất.

20 Nô-ê là nhà nông, nên bắt đầu trồng một vườn nho. 21 Ông uống rượu say và nằm trần truồng trong trại mình. 22 Cham, cha của Ca-na-an, thấy cha mình trần truồng thì kể lại cho anh và em mình ở bên ngoài. 23 Sem và Gia-phết lấy áo vắt lên vai mình rồi đi thụt lùi đến che đắp sự trần truồng của cha mình; mặt họ nhìn về phía trước[y] nên chẳng nhìn thấy sự trần truồng của cha mình.

24 Khi Nô-ê tỉnh rượu, hay biết được điều đứa con thứ[z] đã làm cho mình, 25 thì nói rằng:

“Nguyện Ca-na-an bị rủa sả!
    Nó sẽ làm nô lệ thấp hèn
    Cho các anh em nó.”

26 Ông tiếp:

“Chúc tụng CHÚA, Đức Chúa Trời của Sem!
Nguyện Ca-na-an phải làm nô lệ cho Sem!
27 Nguyện xin Đức Chúa Trời cho Gia-phết phát triển,
    Nó sẽ sống trong trại của Sem,
    Và Ca-na-an sẽ làm nô lệ cho nó.”

28 Sau trận lụt, Nô-ê còn sống được ba trăm năm mươi năm nữa, 29 hưởng thọ được chín trăm năm mươi tuổi rồi qua đời.

Dòng Dõi Của Gia-phết

10 Đây là dòng dõi các con trai của Nô-ê là Sem, Cham và Gia-phết; sau trận lụt, họ sinh con cái.[aa]

Con trai của Gia-phết là

Gô-me, Ma-gót, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-siếc và Ti-ra.

Con trai của Gô-me là

Ách-kê-na, Ri-phát và Tô-ga-ma.

Con trai của Gia-van là

Ê-li-sa, Ta-rê-si, Kít-tim và Đô-da-nim. Do họ mà có người khắp các bờ biển của các dân, chia ra[ab] tùy theo ngôn ngữ và họ hàng[ac] trong các nước của họ.

Dòng Dõi Của Cham

Con trai của Cham là

Cúc, Mích-ra-im, Phút và Ca-na-an.

Con trai của Cúc là

Sê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-ê-ma và Sáp-tê-ca.

Con trai của Ra-ê-ma là

Sê-ba và Đê-đan.

Cúc sinh Nim-rốt, là người đầu tiên trở thành một người dũng mãnh trên đất. Nim-rốt là một thợ săn dũng mãnh trước mặt CHÚA, vì thế có câu tục ngữ: “Giống như Nim-rốt, thợ săn dũng mãnh trước mặt CHÚA.” 10 Trước tiên, người lập vương quốc tại Ba-bên, Ê-rết, A-cát và Ca-nê trong xứ Si-nê-a. 11 Từ xứ đó, người tiến qua A-si-ri rồi xây thành Ni-ni-ve, Rê-hô-bốt, Ca-lách 12 và Rô-sen, một thành lớn ở khoảng giữa Ni-ni-ve và Ca-lách.

13 Mích-ra-im sinh

Lu-đim, A-na-mim, Lê-ha-bim, Náp-tu-him, 14 Pha-ru-sim, Cách-lu-him (tổ tiên dân Phi-li-tin và dân Cáp-tô-rim).

15 Ca-na-an sinh

Si-đôn, con đầu lòng và Hếch, 16 cùng Giê-bu-sít, A-mô-rít, Ghi-rê-ga-sít, 17 Hê-vít, A-rê-kít, Si-nít, 18 A-va-đi, Sê-ma-ri, Ha-ma-tít.

Sau đó, các gia tộc Ca-na-an tản ra. 19 Lãnh thổ của người Ca-na-an về hướng Ghê-na, chạy từ Si-đôn đến Ga-xa, về hướng Sô-đôm, Gô-mô-rơ, Át-ma và Sê-bô-im cho đến Lê-sa.

20 Đó là con cháu của Cham, chia theo gia tộc, ngôn ngữ trong các lãnh thổ và quốc gia.

Dòng Dõi Của Sem

21 Sem mà anh cả là Gia-phết, là tổ phụ của dòng dõi[ad] Hê-be.

22 Con trai của Sem là

Ê-lam, A-sua, A-bác-sát, Lút và A-ram.

23 Con trai của A-ram là

Út-xơ, Hu-lơ, Ghê-te và Mê-siếc.

24 A-bác-sát sinh

Sê-lách; Sê-lách sinh Hê-be,

25 Hê-be sinh hai con trai,

một người tên Be-léc,[ae] vì trong đời của người này, người ta chia mặt đất ra làm nhiều xứ; người em tên Giốc-tan.

26 Giốc-tan sinh

A-mô-đát, Sê-lép, Ha-sa-ma-vết, Giê-ra, 27 Ha-đô-ram, U-danh, Đích-la, 28 Ô-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba, 29 Ô-phia, Ha-vi-la và Giô-báp. Tất cả các người đó là con trai của Giốc-tan.

30 Lãnh thổ[af] của họ chạy từ Mê-sa cho đến[ag] Sê-pha, vùng đồi núi ở phương đông.

31 Đó là con cháu của Sem, sắp theo gia tộc, ngôn ngữ, lãnh thổ và dân tộc.

32 Trên đây là dòng dõi của ba con trai Nô-ê sắp theo từng thế hệ và dân tộc; do họ mà các dân tộc chia ra trên mặt đất sau trận đại hồng thủy.

Tháp Ba-bên

11 Bấy giờ cả thế giới chỉ có một ngôn ngữ, và cùng một thứ tiếng. Từ phương đông đi ra và người ta gặp một đồng bằng trong xứ Si-nê-a nên định cư ở đấy.

Họ bảo nhau: “Nào, chúng ta hãy làm gạch và nung cho chín!” Lúc đó, người ta dùng gạch thay cho đá và nhựa chai thay cho hồ. Họ lại nói: “Nào, chúng ta hãy xây một thành và một ngôi tháp ngọn cao tận trời[ah] Chúng ta hãy lưu danh mình kẻo bị tản lạc khắp mặt đất!”

CHÚA ngự xuống xem thành và ngôi tháp con cái loài người[ai] đang xây cất. CHÚA phán: “Kìa, toàn thể loài người chỉ có một dân tộc, một ngôn ngữ. Kìa chúng bắt đầu làm việc này, nay không còn gì ngăn cản chúng làm mọi điều chúng hoạch định nữa. Nào, Chúng Ta hãy xuống xáo trộn ngôn ngữ của chúng, làm chúng không thể nào hiểu tiếng nói của nhau được.”

CHÚA phân tán loài người từ nơi đó ra khắp mặt đất, và họ ngưng xây cất thành này. Vì thế, thành ấy mang tên là Ba-bên, vì tại đấy CHÚA làm xáo trộn ngôn ngữ cả thế giới và Ngài phân tán họ ra khắp mặt đất.

Gia Phả Của Áp-ra-ham

10 Đây là dòng dõi của Sem:

Hai năm sau cơn lụt, Sem được một trăm tuổi và sinh A-bác-sát. 11 Sau khi sinh A-bác-sát, Sem còn sống năm trăm năm, sinh con trai con gái.

12 A-bác-sát được ba mươi lăm tuổi sinh Sa-lách. 13 Sau khi sinh ra Sa-lách, A-bác-sát còn sống bốn trăm lẻ ba năm, sinh con trai con gái.

14 Sa-lách được ba mươi tuổi sinh Hê-be. 15 Sau khi sinh Hê-be, Sa-lách còn sống bốn trăm lẻ ba năm, sinh con trai con gái.

16 Hê-be được ba mươi bốn tuổi sinh Bê-léc. 17 Sau khi sinh Bê-léc, Hê-be còn sống bốn trăm ba mươi năm, sinh con trai con gái.

18 Bê-léc được ba mươi tuổi sinh Rê-hu. 19 Sau khi sinh Rê-hu, Bê-léc còn sống hai trăm lẻ chín năm, sinh con trai con gái.

20 Rê-hu được ba mươi hai tuổi sinh Sê-rúc. 21 Sau khi sinh Sê-rúc, Rê-hu còn sống hai trăm lẻ bảy năm, sinh con trai con gái.

22 Sê-rúc được ba mươi tuổi sinh Na-cô. 23 Sau khi sinh Na-cô, Sê-rúc còn sống hai trăm năm, sinh con trai con gái.

24 Na-cô được hai mươi chín tuổi sinh Tha-rê. 25 Sau khi sinh Tha-rê, Na-cô còn sống một trăm mười chín năm, sinh con trai con gái.

26 Tha-rê được bảy mươi tuổi sinh Áp-ram, Na-cô và Ha-ran.

27 Đây là dòng dõi của Tha-rê:

Tha-rê sinh Áp-ram, Na-cô và Ha-ran, Ha-ran sinh Lót. 28 Ha-ran qua đời tại quê hương mình ở thành U-rơ của người Canh-đê, khi cha mình là Tha-rê còn sống. 29 Áp-ram và Na-cô cưới vợ; vợ Áp-ram tên là Sa-rai; còn vợ Na-cô tên là Minh-ca, con gái của Ha-ran. Ha-ran là cha của Minh-ca và Dích-ca. 30 Sa-rai bị hiếm muộn không có con.

31 Tha-rê đem Áp-ram, con trai mình, Lót, con Ha-ran, cháu mình và Sa-rai, dâu mình, vợ của Áp-ram đồng ra khỏi U-rơ của người Canh-đê để qua xứ Ca-na-an. Nhưng khi đến Cha-ran, họ ở lại tại đó.

32 Tha-rê hưởng thọ hai trăm lẻ năm tuổi rồi qua đời tại Cha-ran.

Áp-ram Được Chúa Chọn

12 CHÚA bảo Áp-ram: “Con hãy rời bỏ quê hương, dân con và nhà cha con để đi đến xứ Ta sẽ chỉ cho.

Ta sẽ làm cho con thành một nước lớn.
    Ta sẽ ban phước lành cho con
Và làm nổi danh con
    Và con sẽ thành một nguồn phước.
Ta sẽ ban phước lành cho ai chúc phước con
    Và rủa sả kẻ nào nguyền rủa con;
Tất cả các dân tộc trên thế giới
    Sẽ nhờ con mà được phước.”

Áp-ram Di Cư Qua Ca-na-an

Áp-ram ra đi đúng theo lời CHÚA truyền bảo. Lót cùng đi với ông. Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi khi ông rời bỏ Cha-ran. Áp-ram đem Sa-rai vợ mình, Lót, cháu mình, tất cả tài sản ông tạo được và các tôi tớ ông đã có được ở Cha-ran ra đi để đến xứ Ca-na-an và vào xứ ấy.

Áp-ram đi qua trong xứ đến tận thành Si-chem, tại cây sồi của Mô-rê. Dân Ca-na-an đang ở tại đó. CHÚA hiện ra, nói với Áp-ram: “Ta sẽ ban cho dòng dõi con vùng đất này!” Tại đây Áp-ram lập một bàn thờ CHÚA, Đấng đã hiện ra với ông.

Từ đó, Áp-ram đến vùng đồi núi ở phía đông Bê-tên và hạ trại ở đó. Ông lập một bàn thờ tại đó, Bê-tên ở phía tây và A-hi ở phía đông rồi ông cầu khẩn danh CHÚA. Áp-ram di chuyển dần xuống Nê-ghép[aj].

10 Xứ này bị nạn đói, Áp-ram xuống Ai-cập kiều ngụ vì nạn đói rất trầm trọng. 11 Khi sắp vào Ai-cập, Áp-ram nói với Sa-rai, vợ mình: “Ta biết nàng là người đàn bà đẹp. 12 Khi người Ai-cập thấy nàng, họ sẽ nói đấy là vợ nó; rồi họ sẽ giết ta và để nàng sống. 13 Xin nàng hãy nói nàng là em gái ta để vì cớ nàng mà họ đối xử tốt với ta và để ta khỏi mất mạng vì nàng.”

14 Áp-ram vào Ai-cập, dân Ai-cập thấy người đàn bà này rất đẹp. 15 Các quan lớn trong triều đình của Pha-ra-ôn cũng thấy Sa-rai và ca tụng nàng trước Pha-ra-ôn, nên nàng bị đem vào cung Pha-ra-ôn. 16 Vì Sa-rai, vua biệt đãi Áp-ram, ban thưởng nhiều chiên, bò, lừa,[ak] lạc đà và cả nô lệ nam nữ nữa.

17 Nhưng vì cớ Sa-rai, vợ Áp-ram, CHÚA trừng phạt Pha-ra-ôn và hoàng tộc Ai-cập, khiến họ bị bịnh dịch trầm trọng. 18 Pha-ra-ôn cho gọi Áp-ram vào và nói: “Nhà ngươi làm gì cho ta vậy? Sao không nói cho ta biết rằng Sa-rai là vợ ngươi? 19 Sao lại bảo nàng là em gái ngươi để ta đã lấy nàng làm vợ? Vậy bây giờ vợ ngươi đây, hãy dẫn nàng đi đi!” 20 Vua sai quần thần đưa Áp-ram, vợ người và tất cả tài sản đi.

Áp-ram Và Lót Chia Tay

13 Vậy, Áp-ram từ Ai-cập đi lên cùng với vợ, Lót và tất cả tài sản mình, đến Nê-ghép. Áp-ram trở nên rất giàu có về gia súc, bạc và vàng.

Từ Nê-ghép, ông tiếp tục cuộc hành trình đến Bê-tên, nơi ông hạ trại lần trước, giữa hai thành Bê-tên và A-hi, chỗ ông đã lập bàn thờ đầu tiên. Tại đây, Áp-ram cầu khẩn danh CHÚA.

Lót cùng đi với Áp-ram, ông cũng có các bầy chiên, bầy bò và lều trại. Vì tài sản của họ trở nên quá nhiều, đất đai không còn đủ, nên họ không thể ở chung một nơi được nữa. Có sự tranh chấp nổi lên giữa những người chăn súc vật của Áp-ram và của Lót. Lúc đó dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít sống ở trong xứ.

Áp-ram nói với Lót: “Không nên có tranh chấp giữa bác và cháu, giữa những người chăn súc vật của bác và của cháu, vì chúng ta là bà con với nhau. Cả xứ ở trước mặt cháu đó; chúng ta hãy tách ra. Nếu cháu chọn bên trái, bác sẽ qua bên phải; nếu cháu chọn bên phải, bác sẽ qua bên trái.”

10 Lót ngước mắt lên và nhìn thấy toàn thể đồng bằng sông Giô-đanh, (trước khi CHÚA hủy diệt thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ), có nước xanh tươi như vườn của CHÚA, như đất Ai-cập, đến tận thành Xoa, 11 nên Lót chọn cho mình toàn thể đồng bằng sông Giô-đanh và dời về hướng đông. Hai bác cháu chia tay nhau. 12 Áp-ram cư ngụ trong đất Ca-na-an, còn Lót cư ngụ trong các thành của đồng bằng, ông đóng trại gần Sô-đôm. 13 Dân thành Sô-đôm lúc bấy giờ rất gian ác, tội lỗi, nghịch lại CHÚA.

14 Sau khi Lót rời đi, CHÚA nói với Áp-ram: “Từ chỗ con đang ở, con hãy ngước mắt lên nhìn bốn hướng đông, tây, nam, bắc. 15 Tất cả đất đai con nhìn thấy, Ta sẽ ban cho con và dòng dõi con đời đời. 16 Ta sẽ làm cho dòng dõi con đông đảo như bụi trên đất, ai đếm được bụi trên đất thì có thể đếm được dòng dõi của con. 17 Con hãy đứng lên, đi dọc ngang khắp xứ vì Ta ban nó cho con.”

18 Áp-ram dời trại đi đến sống gần những cây sồi ở Mam-rê tại Hếp-rôn và lập một bàn thờ CHÚA.

Áp-ram Cứu Lót Trong Cuộc Chiến

14 Lúc bấy giờ, Am-ra-phin vua Si-nê-a, A-ri-óc vua Ê-la-sa, Kết-rô-lao-me vua Ê-lam và Ti-đanh vua Gô-im gây chiến với Bê-ra vua Sô-đôm, Bi-rê-sa vua Gô-mô-rơ, Si-nê-áp vua Át-ma, Sê-mê-bê vua Yê-bô-in và vua của Bê-la tức là Xoa. Tất cả các vua này tập trung lực lượng tại thung lũng Si-đim, tức biển Muối. Các vua này trước kia đã thần phục vua Kết-rô-lao-me suốt mười hai năm, nhưng đến năm thứ mười ba, họ nổi loạn.

Năm thứ mười bốn, vua Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh kéo quân đánh bại quân Rê-pha-im ở Ách-ta-rốt Ca-ma-in, quân Su-sim ở Ham, quân Ê-mít ở cánh đồng Ki-ri-a-tha-im, và quân Hô-rít trên vùng đồi núi Sê-i-rơ, đến tận Ên-pha-ran, giáp sa mạc. Quân đồng minh quay về suối Xử-đoán,[al] (cũng gọi là Ca-đê), đánh bại luôn quân A-ma-léc và quân A-mô-rít đang đóng quanh vùng Ha-xa-san Ta-ma.

Các vua Sô-đôm, Gô-mô-rơ, Át-ma, Xê-bô-im, và Bê-la tức là Xoa hợp lực xuất trận dàn binh trong thung lũng Si-đim chống lại Kết-rô-lao-me vua Ê-lam, Ti-đanh vua Gô-im, Am-ra-phin vua Si-nê-a và A-ri-óc vua Ê-la-sa. Bốn vua đánh với năm vua. 10 Thung lũng Si-đim có nhiều hố nhựa chai. Khi thua chạy, vua Sô-đôm và vua Gô-mô-rơ ngã vào hố, còn tàn quân trốn lên núi. 11 Quân chiến thắng cướp đoạt tất cả tài sản và thực phẩm của hai thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ rồi bỏ đi. 12 Họ cũng bắt Lót, cháu Áp-ram đang định cư tại Sô-đôm đem đi với của cải của người.

13 Một người trốn thoát, đến báo cáo cho Áp-ram, người Hê-bơ-rơ, đang kiều ngụ gần các cây sồi của Mam-rê. Mam-rê là người A-mô-rít, anh của Ếc-côn và A-ne, ba anh em đều đã kết ước với Áp-ram. 14 Nghe tin cháu bị bắt, Áp-ram liền triệu tập đoàn gia nhân[am] đã được huấn luyện thuần thục, gồm ba trăm mười tám người, đuổi theo quân đồng minh đến tận Đan. 15 Áp-ram chia gia nhân mình ra tấn công vào ban đêm, đánh bại quân địch và truy nã chúng tận Hô-ba, phía bắc Đa-mách. 16 Áp-ram đoạt lại tất cả tài sản và đem Lót, cháu mình trở về với tài sản của ông, cùng với những người phụ nữ và dân chúng.

Mên-chi-xê-đéc

17 Sau khi chiến thắng Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh, Áp-ram quay về. Vua Sô-đôm ra đón người tại thung lũng Sa-vê, tức là thung lũng Vua.

18 Mên-chi-xê-đéc, vua Sa-lem và là thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Tối Cao, đem bánh và rượu ra đón. 19 Mên-chi-xê-đéc chúc phước cho Áp-ram rằng:

“Cầu Đức Chúa Trời Tối Cao ban phước lành cho Áp-ram,
    Ngài là Đấng sáng tạo trời đất.
20 Đức Chúa Trời Tối Cao đáng được ca ngợi.
    Vì Ngài đã giao phó quân thù vào tay ngươi!”

Áp-ram dâng cho người một phần mười tất cả chiến lợi phẩm.[an]

21 Vua Sô-đôm nói với Áp-ram: “Cho tôi xin lại người, còn tài vật xin ông cứ giữ lại!”

22 Nhưng Áp-ram đáp: “Tôi đã đưa tay lên thề với CHÚA là Đức Chúa Trời Chí Cao, Đấng đã sáng tạo trời đất, 23 rằng tôi không lấy vật gì của vua cả, dù một sợi chỉ hay dây giầy cũng không, để vua sẽ chẳng bao giờ nói được là: ‘Ta đã làm cho Áp-ram giàu.’ 24 Tôi không lấy gì cả, ngoại trừ những gì mà đám gia nhân[ao] đã ăn và phần chiến lợi phẩm chia cho những người đã đi với tôi. Hãy để cho A-ne, Ết-côn và Mam-rê lấy phần của họ đi!”

Giao Ước Với Áp-ram

15 Sau các việc đó, CHÚA phán bảo Áp-ram trong khải tượng:

“Áp-ram, con đừng sợ,
    Ta sẽ là cái khiên bảo vệ con,
    Là phần thưởng rất lớn cho con.”

Nhưng Áp-ram nói: “Lạy CHÚA, CHÚA sẽ cho con điều gì? Con vẫn không có con và Ê-li-ê-se, người Đa-mách sẽ thừa hưởng sản nghiệp của con.” Áp-ram tiếp: “Chúa chẳng cho con con cái, nên một đầy tớ sinh ra trong nhà con sẽ thừa kế con!”

CHÚA đáp: “Đó không phải là người thừa kế, một con trai ra từ con sẽ là người thừa kế của con!” CHÚA đem Áp-ram ra sân và bảo: “Con hãy nhìn lên bầu trời và thử đếm sao đi, nếu con đếm được!” Rồi Ngài nói với ông: “Dòng dõi con sẽ đông như thế.”

Áp-ram tin CHÚA, nên Ngài kể cho người là công chính.

Ngài cũng nói: “Ta là CHÚA đã đem con ra khỏi U-rơ, xứ Canh-đê, để ban cho con đất này làm sản nghiệp.”

Áp-ram nói: “Thưa CHÚA, làm sao con biết chắc rằng con sẽ được xứ này làm sản nghiệp?”

CHÚA nói: “Con hãy đem đến đây một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con chiên đực ba tuổi, một con chim cu và một con bồ câu non.”

10 Áp-ram đem dâng tất cả các con vật này lên cho Chúa, xẻ các thú vật làm đôi, sắp các phần đối nhau, nhưng không xẻ đôi các con chim. 11 Các loài chim săn mồi sà xuống các sinh tế nhưng Áp-ram đuổi chúng đi.

12 Khi mặt trời vừa lặn, Áp-ram ngủ thiếp đi. Bóng tối dày đặc khủng khiếp phủ xuống bao bọc ông. 13 CHÚA bảo Áp-ram: “Con phải biết chắc rằng dòng dõi con sẽ kiều ngụ nơi đất khách quê người, phải phục dịch dân bản xứ và bị áp bức bốn trăm năm. 14 Nhưng Ta sẽ trừng phạt quốc gia mà dòng dõi con phục dịch. Sau đó, dòng dõi con sẽ thoát ra và đem theo rất nhiều của cải. 15 Còn con sẽ sống rất thọ, được về với tổ phụ con cách bình an và được chôn cất. 16 Đến đời thứ tư, dòng dõi con sẽ quay lại đây vì hiện nay tội ác dân A-mô-rít chưa đầy trọn.”

Chúa Hứa Ban Sản Nghiệp

17 Khi mặt trời đã lặn hẳn và bóng tối phủ xuống, bỗng có một lò lửa bốc khói và một ngọn lửa cháy phừng đi qua giữa các sinh tế bị phân đôi. 18 Ngày hôm ấy, CHÚA kết ước với Áp-ram rằng: “Ta đã ban cho dòng dõi con đất này, từ khe Ai-cập đến sông cái Ơ-phơ-rát, 19 đất của các dân Kê-nít, Kê-ni-xít, Cát-mô-nít, 20 Hi-tít, Phê-rê-sít, Rê-pha-im, 21 A-mô-rít, Ca-na-an, Ghê-rê-ga-sít và Giê-bu-sít.”

Áp-ram Và A-ga

16 Lúc ấy, Sa-rai, vợ Áp-ram không sinh con được. Bà có một đầy tớ gái người Ai-cập tên là A-ga. Sa-rai nói với Áp-ram: “Vì CHÚA không cho tôi sinh con, ông hãy ăn ở với con đầy tớ của tôi đi; có lẽ nhờ nó tôi có thể có được con cái.”

Áp-ram nghe theo lời Sa-rai. Thế là sau mười năm kiều ngụ tại xứ Ca-na-an, Sa-rai đưa A-ga, người đầy tớ gái Ai-cập của mình, cho Áp-ram làm vợ. Áp-ram ăn ở với A-ga và nàng thụ thai.

Biết mình đã có thai, A-ga khinh bỉ bà chủ mình. Sa-rai nói với Áp-ram: “Lỗi này ông phải chịu! Tôi trao con đầy tớ tôi vào vòng tay ông, và bây giờ khi thấy mình có thai, nó nhìn tôi khinh bỉ; nguyện CHÚA phân xử giữa ông và tôi.”

Nhưng Áp-ram đáp: “Đầy tớ gái của bà ở trong tay bà, bà muốn làm gì thì làm!” Sa-rai hành hạ A-ga, nàng bỏ chủ trốn đi.

A-ga Và Ích-ma-ên

Thiên sứ của CHÚA gặp A-ga bên mạch nước trong đồng hoang, trên đường đi Su-rơ, và hỏi: “Này A-ga, đầy tớ của Sa-rai, ngươi từ đâu đến đây, và ngươi định đi đâu?”

Nàng đáp: “Tôi đi trốn Sa-rai, bà chủ tôi!”

Thiên sứ của CHÚA bảo: “Ngươi hãy về với bà chủ và chịu phục dưới tay bà đi.” 10 Thiên sứ của CHÚA lại nói: “Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi gia tăng đông đảo đến nỗi không ai đếm được.

11 Ngươi đang có thai
    Và sẽ sinh con trai,
Ngươi hãy đặt tên cho nó là Ích-ma-ên[ap]
    CHÚA đã đoái thương cảnh khốn khổ của ngươi.
12 Con trai ngươi sẽ như một con lừa rừng,
    Cánh tay nó sẽ chống mọi người
    Và mọi người chống lại nó,
Và nó sẽ sống đối nghịch
    Với tất cả anh em nó.”

13 A-ga gọi CHÚA, Đấng phán dạy nàng là “Đức Chúa Trời thấy rõ,” vì nàng nói: “Bây giờ, tôi đã thấy Chúa là Đấng đoái xem tôi!” 14 Vì thế, nàng đặt tên suối nước là “Bê-la-cha-roi.”[aq] Dòng suối ấy chảy giữa Ca-đê và Bê-rết.

15 A-ga sinh cho Áp-ram một con trai, ông đặt tên con trai do A-ga sinh ra là Ích-ma-ên. 16 Áp-ram đã được tám mươi sáu tuổi khi A-ga sinh Ích-ma-ên cho ông.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)