Bible in 90 Days
Tế Lễ Thiêu
1 Từ Trại Hội Kiến, CHÚA gọi Môi-se và phán dạy: 2 Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Khi có ai trong các ngươi dâng tế lễ cho CHÚA phải dâng bò hay chiên, dê bắt trong bầy gia súc.
3 Nếu lễ vật là tế lễ thiêu bằng bò, phải dùng con đực không tì vết, dâng lên tại cửa Trại Hội Kiến để tế lễ được CHÚA vui nhậm. 4 Người dâng phải đặt tay mình trên đầu sinh tế, nó sẽ được nhậm thay thế để chuộc tội cho người. 5 Người ấy phải giết con bò tơ trước mặt CHÚA, rồi các thầy tế lễ con trai A-rôn sẽ dâng huyết lên, rảy khắp xung quanh bàn thờ tại cửa Trại Hội Kiến. 6 Sau đó, họ phải lột da sinh tế và sả thịt ra từng miếng. 7 Các thầy tế lễ con trai A-rôn sẽ nhóm lửa trên bàn thờ và sắp củi lên. 8 Các thầy tế lễ con trai A-rôn sẽ sắp xếp các miếng thịt, kể cả cái đầu và mỡ lên củi đang cháy trên bàn thờ. 9 Thầy tế lễ sẽ lấy nước rửa bộ đồ lòng và giò rồi đem thiêu tất cả trên bàn thờ. Đó là tế lễ thiêu, tức một lễ vật dùng lửa dâng lên, có mùi thơm cho CHÚA.
10 Nếu người dâng tế lễ thiêu dùng gia súc nhỏ như chiên hoặc dê, phải dâng con đực không tì vết, 11 giết nó tại phía bắc bàn thờ trước mặt CHÚA, rồi các thầy tế lễ con trai A-rôn sẽ rảy huyết khắp xung quanh bàn thờ, 12 sả thịt ra từng miếng, cả đầu và mỡ, thầy tế lễ phải sắp tất cả lên củi đang cháy trên bàn thờ. 13 Thầy tế lễ sẽ lấy nước rửa bộ lòng và giò, rồi dâng lên và thiêu tất cả trên bàn thờ. Đó là tế lễ thiêu, tức một lễ vật dùng lửa dâng lên, có mùi thơm cho CHÚA.
14 Nếu người dâng tế lễ thiêu bằng loài chim, phải dâng chim gáy hoặc bồ câu non. 15 Thầy tế lễ đem sinh tế đến bàn thờ, vặn đứt đầu nó rồi thiêu trên bàn thờ, vắt huyết chảy ra trên thành bàn thờ. 16 Thầy tế lễ sẽ gỡ cái diều, nhổ lông[a] vứt gần bàn thờ, về phía đông, là nơi đổ tro; 17 rồi xé thân chim tại nơi cánh, nhưng không cho cánh rời ra, và đem thiêu tất cả trên bàn thờ, nơi củi đang cháy. Đó là tế lễ thiêu, tức là một lễ vật dùng lửa dâng lên, có mùi thơm cho CHÚA.
Tế Lễ Chay
2 Khi có người dâng cho CHÚA một tế lễ chay, lễ vật phải bằng bột lọc mịn. Người phải chế dầu và đặt nhũ hương lên trên, 2 rồi đem đến cho các thầy tế lễ con trai A-rôn. Thầy tế lễ sẽ lấy một nắm bột lọc chế dầu và tất cả nhũ hương, đem thiêu trên bàn thờ làm kỷ niệm. Đó là một tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi thơm cho CHÚA. 3 Phần còn lại trong lễ vật chay thuộc về A-rôn và con trai người. Đó là một vật chí thánh trong những vật dùng lửa dâng lên CHÚA.
4 Khi người dùng vật nướng trong lò làm lễ vật chay, phải lấy bột lọc mịn làm bánh nhỏ không men nhồi dầu và bánh không men thoa dầu. 5 Nếu dùng vật chiên trong chảo làm lễ vật chay, phải dùng bột lọc mịn không men nhồi dầu, 6 bẻ từng miếng và chế dầu lên. Đó là tế lễ chay. 7 Nếu dùng vật chiên trong chảo làm lễ vật chay, cũng phải bằng bột lọc mịn chế dầu.
8 Các ngươi sẽ đem lễ vật chay sửa soạn như trên đến cho CHÚA, và giao cho thầy tế lễ; người sẽ mang lên bàn thờ. 9 Thầy tế lễ sẽ lấy một phần để dâng làm kỷ niệm, thiêu trên bàn thờ. Đó là một tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi thơm cho CHÚA 10 Phần lễ vật chay còn lại sẽ thuộc về A-rôn và con trai người. Đó là một vật chí thánh trong các tế lễ dùng lửa dâng lên CHÚA.
11 Tế lễ chay dâng cho CHÚA không được pha men. Vì các ngươi không được thiêu men và mật ong trong tế lễ dùng lửa dâng lên CHÚA. 12 Các ngươi được dâng những vật đó cho CHÚA như lễ vật đầu mùa, nhưng không được thiêu trên bàn thờ như tế lễ có mùi thơm. 13 Phải nêm muối vào tất cả các tế lễ chay. Tế lễ chay dâng lên không bao giờ được thiếu muối giao ước của Đức Chúa Trời. Các ngươi phải dâng muối chung với tất cả các lễ vật.
14 Nếu ngươi dâng tế lễ chay cho CHÚA bằng hoa quả đầu mùa, ngươi phải đem hạt lúa mới gặt, rang trên lửa, và tán nhỏ mà dâng lễ vật đầu mùa, 15 rưới dầu vào và sắp nhũ hương lên. Đó là tế lễ chay. 16 Thầy tế lễ sẽ lấy một phần hạt tán pha dầu với tất cả nhũ hương, thiêu đi làm kỷ niệm. Đó là một tế lễ dùng lửa dâng lên cho CHÚA.
Tế Lễ Cầu An
3 Nếu một người muốn dâng lễ vật bằng thú vật trong bầy gia súc, đực hay cái, phải dâng con vật không tì vết lên trước mặt CHÚA. 2 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con sinh tế rồi giết nó tại cửa Trại Hội Kiến. Các thầy tế lễ con trai A-rôn sẽ rảy huyết nó xung quanh bàn thờ. 3 Do tế lễ cầu an này, người ấy sẽ dâng một lễ vật dùng lửa dâng lên CHÚA: mỡ bọc bộ lòng và tất cả mỡ trên bộ lòng, 4 hai quả thận với mỡ bọc quanh cạnh hông, và tấm mỡ bọc gan (người ấy phải gỡ mỡ chung với hai quả thận). 5 Rồi con trai A-rôn sẽ thiêu các vật ấy nơi bàn thờ trên tế lễ thiêu, trên củi đang cháy, như một lễ vật dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho CHÚA.
6 Nếu một người muốn dâng tế lễ cầu an bằng súc vật nhỏ hoặc đực hoặc cái, phải dâng con không tì vết lên trước mặt CHÚA. 7 Nếu vật tế lễ là một con chiên con thì ngươi phải dâng nó lên trước mặt CHÚA. 8 Người dâng phải đặt tay trên đầu con sinh tế và giết nó tại cửa Trại Hội Kiến. Các con trai A-rôn sẽ rảy huyết nó xung quanh bàn thờ. 9 Do tế lễ cầu an này, người ấy dâng lễ vật dùng lửa dâng lên CHÚA: mỡ, cả cái đuôi chặt gần cuối cột sống, lớp mỡ bọc bộ lòng và tất cả mỡ trên bộ lòng, 10 hai quả thận với mỡ bọc quanh cạnh hông và tấm mỡ bọc gan (người ấy phải gỡ tấm mỡ chung với hai quả thận). 11 Thầy tế lễ sẽ thiêu các vật ấy trên bàn thờ như thức ăn. Đó là tế lễ dùng lửa dâng lên CHÚA.
12 Nếu lễ vật là dê, phải dâng nó lên trước mặt CHÚA. 13 Người dâng phải đặt tay trên sinh tế và giết nó tại trước cửa Trại Hội Kiến. Rồi con trai A-rôn sẽ rảy huyết nó xung quanh bàn thờ. 14 Do lễ vật này, người ấy dâng tế lễ dùng lửa dâng lên CHÚA: mỡ bọc bộ lòng và tất cả mỡ trên bộ lòng, 15 hai quả thận với mỡ bọc quanh cạnh hông, và tấm mỡ bọc gan (người ấy phải gỡ tấm mỡ chung với hai quả thận). 16 Thầy tế lễ sẽ thiêu các vật ấy trên bàn thờ như thức ăn. Đó là một tế lễ thiêu, có mùi thơm. Tất cả mỡ đều thuộc về CHÚA.
17 Đây là luật lệ đời đời cho dòng dõi các ngươi, dù bất cứ nơi nào: Các ngươi đừng nên ăn mỡ hoặc huyết.
Tế Lễ Chuộc Tội
4 CHÚA lại phán dạy Môi-se 2 Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng: Khi có ai lầm lỡ phạm một điều răn nào của CHÚA là điều không nên làm và phạm một trong những điều ấy.
3 Trường hợp thầy tế lễ được xức dầu phạm tội, gây cho dân chúng mắc tội, thầy tế lễ đó phải dâng lên CHÚA một con bò tơ không tì vết để làm lễ chuộc tội mình đã phạm. 4 Thầy sẽ dẫn con bò tơ đến cửa Trại Hội Kiến trước mặt CHÚA, đặt tay trên đầu nó, rồi giết nó trước mặt CHÚA. 5 Một thầy tế lễ đã được xức dầu sẽ lấy huyết bò tơ đem vào trong Trại Hội Kiến, 6 nhúng ngón tay mình trong huyết và rảy bảy lần trước mặt CHÚA, ngay trước bức màn che Nơi Thánh. 7 Thầy tế lễ sẽ bôi huyết trên các sừng bàn thờ xông hương trong Trại Hội Kiến, trước mặt CHÚA rồi đổ tất cả huyết bò tơ nơi chân bàn thờ dâng tế lễ thiêu trước cửa Trại Hội Kiến. 8 Thầy phải gỡ hết mỡ của bò tơ sinh tế chuộc tội: mỡ bọc bộ lòng và tất cả mỡ trên bộ lòng, 9 hai quả thận, mỡ bọc quanh hai quả thận cạnh hông, tấm mỡ bọc gan, người phải gỡ tấm mỡ chung với hai quả thận, 10 như cách gỡ các vật này của con bò tơ dâng trong lễ cầu an. Rồi thầy tế lễ sẽ thiêu các vật đó trên bàn thờ dâng tế lễ thiêu. 11 Còn da, tất cả thịt, đầu, giò, bộ lòng và phân, 12 tức là tất cả các phần khác của con bò tơ, thầy tế lễ đem hết ra ngoài trại quân, đến một nơi tinh sạch, là chỗ đổ tro, rồi chất trên củi đã nhóm lửa để thiêu đi tất cả tại nơi đổ tro.
13 Trường hợp toàn dân Y-sơ-ra-ên lầm lỡ phạm tội dù dân chúng không biết mà làm điều CHÚA ngăn cấm, và vì đó phải mắc tội: 14 nếu lỗi ấy mới được phát giác thì dân chúng phải dâng một con bò tơ làm tế lễ chuộc tội, dẫn nó đến tại cửa Trại Hội Kiến. 15 Các trưởng lão của dân chúng phải đặt tay trên đầu nó trước mặt CHÚA và giết nó tại trước mặt Ngài. 16 Rồi thầy tế lễ đã được xức dầu sẽ đem huyết bò tơ vào Trại Hội Kiến, 17 nhúng ngón tay vào huyết và rảy bảy lần trước mặt CHÚA, ngay trước bức màn. 18 Thầy sẽ lấy huyết xức các sừng bàn thờ đặt trong Trại Hội Kiến trước mặt CHÚA rồi đổ huyết còn lại nơi chân bàn thờ tế lễ thiêu đặt tại cửa Trại Hội Kiến. 19 Thầy cũng sẽ gỡ tất cả mỡ của sinh tế và thiêu trên bàn thờ. 20 Thầy tế lễ sẽ làm con bò đực như đã làm cho con bò đực sinh tế chuộc tội để chuộc tội cho dân chúng và tội lỗi họ sẽ được tha thứ. 21 Thầy sẽ đem con bò đực ra ngoài trại quân rồi thiêu đi như đã thiêu con bò đực thứ nhất. Đó là tế lễ chuộc tội cho hội chúng.
22 Khi một người lãnh đạo phạm tội, dù lầm lỡ phạm một điều răn nào của CHÚA, Đức Chúa Trời của ngươi, là điều chẳng nên làm, nên phải mắc tội. 23 Khi người ấy ý thức được tội lỗi mình, người phải đem một con dê đực không tì vết làm tế lễ, 24 đặt tay mình trên đầu nó và giết nó tại nơi người ta giết sinh tế thiêu trước mặt CHÚA. Đó là một tế lễ chuộc tội. 25 Thầy tế lễ sẽ lấy một ít huyết con sinh tế chuộc tội, nhúng ngón tay vào và xức lên các sừng bàn thờ tế lễ thiêu; rồi đổ huyết còn lại nơi chân bàn thờ tế lễ thiêu. 26 Thầy tế lễ phải thiêu tất cả mỡ trên bàn thờ như mỡ tế lễ cầu an. Thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho mình và người sẽ được tha thứ.
27 Nếu một người thường dân vô tình phạm điều răn của CHÚA, làm điều chẳng nên làm, thì phải mắc tội; 28 một khi người ấy ý thức được tội lỗi mình, người ấy đem một con dê cái con không tì vết, dâng lên làm lễ chuộc tội cho mình. 29 Người sẽ đặt tay lên đầu sinh tế và giết nó nơi giết sinh tế thiêu. 30 Thầy tế lễ sẽ lấy huyết sinh tế, nhúng ngón tay vào và xức lên các sừng bàn thờ tế lễ thiêu; và đổ tất cả huyết còn lại nơi chân bàn thờ. 31 Thầy cũng sẽ gỡ tất cả mỡ sinh tế như đã gỡ mỡ của tế lễ cầu an, và thiêu tất cả trên bàn thờ, có mùi thơm lên CHÚA. Như thế, thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho người và người sẽ được tha thứ.
32 Nếu người ta dâng chiên con làm tế lễ chuộc tội, phải dâng chiên cái không tì vết. 33 Người dâng sẽ đặt tay trên đầu sinh tế và giết nó làm tế lễ chuộc tội tại nơi giết sinh tế thiêu. 34 Thầy tế lễ sẽ lấy một ít huyết sinh tế, nhúng ngón tay vào, và xức lên các sừng bàn thờ tế lễ thiêu rồi đổ tất cả huyết còn lại nơi chân bàn thờ. 35 Thầy cũng sẽ gỡ tất cả mỡ sinh tế như đã gỡ mở chiên con làm sinh tế cầu an, rồi thiêu tất cả trên bàn thờ, cùng với tế lễ dùng lửa dâng lên CHÚA. Thầy tế lễ sẽ vì tội người ấy phạm, làm lễ chuộc tội cho người, và người sẽ được tha thứ.
Các Tế Lễ Chuộc Tội Khác
5 Nếu một người phạm tội vì sau khi nghe tuyên thệ để làm chứng nhưng không nói lên điều mình thấy hay biết, thì người đó sẽ mắc tội.
2 Khi có ai chạm đến vật gì ô uế như xác một con dã thú ô uế, hoặc một gia súc ô uế, hoặc một côn trùng ô uế nhưng không hay biết thì người ấy bị ô uế và mắc tội.
3 Khi có ai vô ý chạm phải vật gì ô uế nơi con người, bất cứ vật gì làm ô uế và người ấy không hay biết, người ấy sẽ mắc tội khi ý thức được.
4 Khi có ai vô tình thề sẽ làm một điều—tốt hay xấu—khi ý thức được mình đã thề cách vô ý thì người ấy sẽ mắc tội.
5 Nếu có ai mắc phải một trong các điều vừa kể, phải thú nhận tội mình đã phạm; 6 và dâng tế lễ chuộc lỗi cho CHÚA bằng một con chiên cái hoặc dê cái bắt trong bầy để chuộc tội mình đã phạm; thầy tế lễ sẽ làm lễ chuộc tội cho người ấy.
7 Nếu không đủ sức dâng chiên cái, phải dâng hai con chim gáy hay hai bồ câu con lên CHÚA để chuộc tội, một con làm tế lễ chuộc tội, con kia làm tế lễ thiêu. 8 Người ấy phải đem chim đến thầy tế lễ; thầy sẽ dâng lễ chuộc tội trước: vặn đầu con chim nơi cổ nhưng không cho rời ra, 9 thầy sẽ rảy huyết con chim làm lễ chuộc tội. 10 Rồi thầy tế lễ sẽ dâng con chim kia làm tế lễ thiêu theo nghi thức đã ấn định để chuộc tội cho người ấy thì người sẽ được tha thứ.
11 Nếu người phạm tội không đủ sức dâng hai con chim gáy hoặc hai con bồ câu con, thì phải dâng một phần mười ê-pha[b] bột lọc mịn làm tế lễ chuộc tội, nhưng không được rưới dầu hoặc để nhũ hương lên trên vì đây là tế lễ chuộc tội.
12 Người ấy phải đem bột đến thầy tế lễ; thầy sẽ lấy một nắm bột làm kỷ niệm và thiêu trên bàn thờ ngay trên các lễ vật dùng lửa dâng lên CHÚA. Đó là một tế lễ chuộc tội. 13 Như thế thầy tế lễ sẽ làm lễ chuộc tội cho người này về bất cứ lỗi nào người đã phạm thì người sẽ được tha thứ. Phần còn lại của vật tế lễ sẽ thuộc về thầy tế lễ như các vật chay khác.
Tế Lễ Chuộc Lỗi
14 CHÚA lại bảo Môi-se: 15 Khi có ai vi phạm: vô ý phạm về bất kỳ vật thánh nào của CHÚA, phải đem đến dâng cho CHÚA một con chiên đực không tì vết, bắt từ trong bầy trị giá bằng sê-ken bạc đúng theo sê-ken Nơi Thánh. Đó là một tế lễ chuộc lỗi. 16 Người phải bồi thường y giá và cộng thêm một phần năm giá của vật mình đã phạm đến nơi đền thánh, rồi giao nộp tất cả cho thầy tế lễ. Thầy sẽ dùng con chiên con đực làm tế lễ chuộc lỗi cho người ấy và người sẽ được tha thứ.
17 Nếu có ai phạm tội, làm điều CHÚA ngăn cấm, mặc dù không biết, nhưng vẫn mắc tội, và người ấy phải chịu trách nhiệm. 18 Người phải đem đến cho thầy tế lễ một con chiên đực không tì vết bắt từ trong bầy, trị giá người định theo như tế lễ chuộc lỗi. Như thế, thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho người về tội người vô ý mắc phải thì người sẽ được tha thứ. 19 Đó là tế lễ chuộc lỗi vì người này đã mắc tội phạm đến CHÚA.
6 CHÚA bảo Môi-se: 2 Khi có ai phạm tội, không thành tín với CHÚA bằng cách lừa dối người lân cận về một vật nào được giao thác cho mình, hoặc nhờ mình chăm sóc, hoặc trộm cướp hay lừa gạt người lân cận mình, 3 hoặc lượm được vật đã mất mà chối đi, hoặc thề dối, hoặc phạm một lỗi nào mà người ta thường phạm 4 khi đã phạm và mắc tội như thế, phải hoàn lại vật đã trộm cướp hoặc lừa gạt, hoặc vật được giao thác cho mình, hoặc vật người ta đánh mất mà mình lượm được, 5 hoặc bất cứ vật gì mình đã thề dối để chiếm hữu: kẻ ấy phải bồi hoàn nguyên vật ấy, cộng thêm một phần năm giá trị, và giao nộp cho sở hữu chủ trong ngày mình dâng tế lễ chuộc lỗi. 6 Để chuộc lỗi, người ấy phải đem đến cho thầy tế lễ trước mặt CHÚA một tế lễ chuộc lỗi, tức là một con dê đực bắt trong bầy không tì vết và đúng giá đã ấn định, 7 như thế thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho người ấy trước mặt CHÚA và người sẽ được tha thứ lỗi lầm mình đã phạm và mắc tội.
Tế Lễ Thiêu
8 CHÚA bảo Môi-se: 9 Con hãy truyền lệnh này cho A-rôn và các con trai người: Đây là các quy luật về tế lễ thiêu: Sinh tế thiêu phải để trên mặt bàn thờ suốt đêm cho đến sáng và phải giữ cho lửa cháy luôn trên bàn thờ. 10 Đoạn thầy tế lễ sẽ mặc y phục bằng vải gai với đồ lót cũng bằng vải gai vào mình, và hốt tro từ đám lửa của tế lễ thiêu trên bàn thờ đổ gần bên bàn thờ; 11 rồi cởi áo này mặc áo khác, đem tro ấy ra ngoài trại quân để vào một nơi tinh sạch. 12 Ngọn lửa trên bàn thờ phải giữ cho cháy luôn không tàn. Mỗi buổi sáng thầy tế lễ phải chất thêm củi và sắp sinh tế thiêu lên và đốt mỡ sinh tế cầu an. 13 Phải giữ cho ngọn lửa trên bàn thờ cháy liên tục, không tắt.
Tế Lễ Chay
14 Đây là quy luật về tế lễ chay: Con trai A-rôn phải dâng tế lễ này phía trước bàn thờ trước mặt CHÚA. 15 Họ sẽ bốc một nắm bột lọc trong lễ vật chay và dầu, với tất cả nhũ hương bên trên, đem thiêu trên bàn thờ làm kỷ niệm là tế lễ có mùi thơm cho CHÚA. 16 A-rôn và con trai người sẽ ăn phần còn lại không pha men trong một Nơi Thánh: họ phải ăn lễ vật chay trong sân Trại Hội Kiến. 17 Không được hấp bánh với men: đó là phần Ta ban cho họ trong các lễ vật của Ta, mà người ta dùng lửa dâng lên. Đó là một vật chí thánh như tế lễ chuộc tội và tế lễ chuộc lỗi. 18 Tất cả các người nam trong con trai A-rôn sẽ được ăn phần ấy. Đó là một quy luật đời đời cho dòng dõi các ngươi về các tế lễ dùng lửa dâng lên cho CHÚA: người hay vật nào chạm đến các tế lễ đó sẽ được thánh hóa.
19 CHÚA lại bảo Môi-se: 20 Đây là tế lễ A-rôn và con trai người phải dâng lên CHÚA trong ngày họ được xức dầu: một phần mười ê-pha bột lọc làm tế lễ chay thường xuyên (thông thường); sáng một nửa, chiều một nửa. 21 Lễ vật đó sẽ được trộn với dầu và chiên sẵn trên chảo; khi chín rồi, người phải đem cắt ra từng miếng sẵn sàng dâng lên làm tế lễ có mùi thơm cho CHÚA. 22 Người con trai nào của A-rôn được xức dầu thay thế ông cũng phải dâng tế lễ ấy. Đó là một quy luật đời đời trước mặt CHÚA; họ phải thiêu trọn lễ vật này. 23 Lễ vật chay của các thầy tế lễ đều phải thiêu hết, không nên ăn.
Tế Lễ Chuộc Tội
24 CHÚA lại bảo Môi-se: 25 Con hãy truyền cho A-rôn và con trai người: Đây là quy luật về tế lễ chuộc tội: sinh tế chuộc tội phải giết trước mặt CHÚA tại nơi sinh tế thiêu bị giết; đó là một vật chí thánh. 26 Thầy tế lễ dâng sinh tế chuộc tội sẽ ăn nó trong một Nơi Thánh tại sân Trại Hội Kiến. 27 Bất luận người hay vật nào chạm vào sinh tế ấy sẽ được thánh hóa; nếu huyết sinh tế văng trên một chiếc áo, ngươi phải giặt áo ấy trong một Nơi Thánh. 28 Nồi đất dùng nấu thịt sinh tế ấy phải đập bể đi; nếu dùng nồi đồng thì phải cạo và rửa trong nước cho sạch. 29 Tất cả người nam trong gia đình thầy tế lễ đều được ăn thịt sinh tế ấy; đó là một vật chí thánh. 30 Nhưng sinh tế chuộc tội nào mà huyết nó được đem vào Trại Hội Kiến để chuộc tội trong Nơi Thánh thì không được ăn; phải thiêu nó đi.
Luật Về Tế Lễ Chuộc Lỗi
7 Đây là quy luật về tế lễ chuộc lỗi: đó là một vật chí thánh. 2 Tại nơi giết sinh tế để dâng tế lễ thiêu, phải giết sinh tế chuộc lỗi rồi rưới huyết nó xung quanh mặt bàn thờ. 3 Hãy dâng tất cả mỡ: mỡ đuôi và mỡ chài, 4 hai quả thận và mỡ hai quả thận cạnh hông, tấm mỡ bọc gan, gỡ gần hai quả thận. 5 Thầy tế lễ sẽ thiêu tất cả các vật ấy trên bàn thờ như tế lễ thiêu, dùng lửa dâng lên CHÚA: đó là tế lễ chuộc lỗi. 6 Tất cả người nam trong dòng họ thầy tế lễ sẽ ăn thịt sinh tế tại một Nơi Thánh: đó là một vật chí thánh.
7 Tế lễ chuộc lỗi cũng như tế lễ chuộc tội, phải theo cùng một quy luật; sinh tế sẽ thuộc về thầy tế lễ đứng dâng nó để chuộc tội. 8 Thầy tế lễ đứng dâng tế lễ cho ai, sẽ được tấm da của sinh tế. 9 Tất cả các lễ vật chay, hoặc nướng trong lò, hoặc chiên trên chảo, hoặc nướng trên vỉ, đều thuộc về thầy tế lễ đứng dâng. 10 Tất cả lễ vật chay, dù chế dầu hay còn khô, đều được chia đều cho tất cả các con trai A-rôn.
Tế Lễ Cầu An
11 Đây là quy luật về tế lễ cầu an một người có thể dâng lên CHÚA:
12 Nếu dâng để tạ ơn, phải kèm theo các bánh tráng làm bằng bột nhồi dầu, không pha men; bánh tráng bằng bột nhồi phết dầu, không pha men; bánh bột lọc nhồi dầu, không pha men. 13 Cũng dâng thêm với lễ vật cầu an các ổ bánh có men. 14 Người ấy phải đem dâng lên CHÚA mỗi loại một cái; lễ vật sẽ thuộc về thầy tế lễ đã rảy huyết của sinh tế cầu an. 15 Thịt sinh tế cầu an để tạ ơn phải ăn ngay trong ngày dâng hiến, không được để gì lại đến sáng hôm sau.
16 Nếu dâng tế lễ này vì có lời khấn nguyện hay tự nguyện, tuy sinh tế phải ăn trong ngày dâng hiến, nhưng thịt còn lại có thể ăn hôm sau. 17 Thịt còn lại đến ngày thứ ba phải đốt đi. 18 Đến ngày thứ ba mà còn ăn thịt sinh tế, thì tế lễ cầu an ấy không được nhậm nữa; người dâng không được kể là đã dâng; vì đó là một điều bất khiết; và kẻ nào ăn thịt đó sẽ chịu trách nhiệm về tội mình.
19 Đừng ăn thịt đã chạm phải vật gì ô uế, phải đem đốt đi. Còn thịt khác, ai tinh sạch thì được phép ăn. 20 Nếu kẻ nào đang bị ô uế lại ăn thịt sinh tế cầu an thuộc về CHÚA, thì phải bị khai trừ ra khỏi dân Y-sơ-ra-ên. 21 Nếu chạm đến vật gì ô uế, đáng ghê tởm, rồi lại ăn thịt sinh tế cầu an thuộc về CHÚA, kẻ ấy phải bị khai trừ ra khỏi dân Y-sơ-ra-ên.
Cấm Ăn Mỡ Và Huyết
22 CHÚA phán dạy Môi-se: 23 Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Đừng ăn bất cứ mỡ gì của bò, chiên hay dê. 24 Mỡ của một con thú đã chết hoặc bị xé có thể dùng vào bất cứ việc gì nhưng không được ăn. 25 Kẻ nào ăn mỡ sinh tế thiêu dâng lên CHÚA phải bị khai trừ ra khỏi dân Y-sơ-ra-ên. 26 Bất luận nơi nào các ngươi cư trú, cũng không được ăn huyết của loài chim hay loài thú. 27 Kẻ nào ăn huyết phải bị khai trừ ra khỏi dân Y-sơ-ra-ên.
Phần Lễ Vật Của Các Thầy Tế Lễ
28 CHÚA phán dạy Môi-se: 29 Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên: Nếu có ai dâng tế lễ cầu an cho CHÚA, chính người đó phải đem lễ vật đến cho Ngài từ trong sinh tế cầu an, 30 tự tay mình mang đến các lễ vật dâng lên bằng lửa cho CHÚA; phải đem mỡ và cái ngực để dâng ngực ấy đưa qua đưa lại làm tế lễ đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA. 31 Thầy tế lễ sẽ thiêu mỡ trên bàn thờ, còn cái ngực thuộc về A-rôn và con cháu người. 32 Cái đùi bên phải sẽ là quà cho thầy tế lễ đứng dâng sinh tế cầu an; 33 trong các con trai A-rôn, người nào đứng dâng huyết và mỡ của sinh tế cầu an sẽ được cái đùi bên phải. 34 Cái ngực đã dâng đưa qua đưa lại và cái đùi đã được dâng lên mà Ta thu nhận của dân Y-sơ-ra-ên, từ trong sinh tế cầu an, Ta đã ban cho thầy tế lễ A-rôn và các con trai người theo quy luật đời đời mà dân Y-sơ-ra-ên phải tuân giữ.
35 Đây là phần của A-rôn và các con trai người, lấy từ trong các lễ vật dâng lên cho CHÚA bằng lửa, biệt riêng cho họ từ ngày họ được lập làm thầy tế lễ cho CHÚA. 36 Đó là điều CHÚA truyền lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên phải giao cho các thầy tế lễ trong ngày họ được xức dầu; đó là một quy luật đời đời trải qua các thế hệ.
37 Đó là quy luật về tế lễ thiêu, tế lễ chay, tế lễ chuộc lỗi, tế lễ chuộc tội, tế lễ tấn phong và tế lễ cầu an. 38 Quy luật ấy CHÚA đã truyền cho Môi-se trên núi Si-nai trong ngày Chúa truyền cho con dân Y-sơ-ra-ên đem các lễ vật đến dâng cho Ngài, trong sa mạc Si-nai.
Lễ Xức Dầu Tấn Phong Chức Tế Lễ
8 CHÚA bảo Môi-se: 2 Con hãy đưa A-rôn và các con trai người, cùng đem theo các áo lễ, dầu xức, con bò đực làm tế lễ chuộc tội, hai con chiên đực và một giỏ đựng bánh chay không men, 3 rồi triệu tập tất cả dân chúng tại cửa Trại Hội Kiến.
4 Môi-se làm đúng những điều CHÚA đã truyền bảo mình; dân chúng họp lại tại cửa Trại Hội Kiến.
5 Môi-se bảo dân chúng: Đây là điều CHÚA đã truyền dạy phải thi hành. 6 Môi-se đem A-rôn và các con trai người tắm trong nước. 7 Ông mặc áo ngắn cho A-rôn, nịt đai lưng, khoác áo lễ, mặc ê-phót và thắt chặt đai ê-phót để đeo ê-phót. 8 Rồi đeo bảng đeo ngực, và gắn vào bảng ấy các U-rim và Thu-mim, 9 đội cái mũ lên đầu, buộc tấm thẻ vàng phía trước, tức là mão thánh, như CHÚA đã truyền bảo Môi-se.
10 Môi-se lấy dầu xức, bôi lên đền tạm và tất cả các vật trong đó để thánh hóa chúng. 11 Ông cũng rảy dầu bảy lần trên bàn thờ, xức dầu trên bàn thờ và tất cả các dụng cụ, thùng đựng nước tắm rửa và chân thùng để thánh hóa chúng. 12 Môi-se đổ dầu xức trên đầu A-rôn để xức dầu tấn phong và thánh hóa người. 13 Môi-se cũng đem các con trai A-rôn đến gần và mặc cho họ áo ngắn, cột đai và đội mũ lên đầu như CHÚA đã truyền bảo Môi-se.
14 Người cũng đem đến con bò đực làm lễ chuộc tội; A-rôn và con trai người đặt tay trên đầu nó. 15 Người giết nó đi và Môi-se nhúng huyết trên ngón tay xức trên các sừng bàn thờ và xung quanh bàn thờ để tẩy thanh bàn thờ; ông đổ huyết còn lại nơi chân bàn thờ và thánh hóa nó để làm lễ chuộc tội tại đó. 16 Ông lấy tất cả mỡ chài, tấm mỡ bọc gan, hai quả thận và mỡ bọc hai quả thận, rồi Môi-se thiêu tất cả trên bàn thờ, 17 còn con bò đực với bộ da, thịt và phân nó được đem ra ngoài trại quân; Môi-se thiêu tất cả trong lửa như CHÚA đã truyền bảo mình.
18 Môi-se cũng đem con chiên đực dùng làm tế lễ thiêu đến gần; A-rôn và các con trai người đặt tay trên đầu nó. 19 Môi-se giết con chiên đực, rưới huyết xung quanh thành bàn thờ; 20 rồi sả thịt ra từng miếng, thiêu cái đầu, các miếng thịt và mỡ. 21 Môi-se cũng rửa bộ lòng và các giò trong nước rồi thiêu đi với cả con chiên đực trên bàn thờ. Đó là tế lễ thiêu có mùi thơm dùng lửa dâng lên cho CHÚA, như Ngài đã truyền dạy Môi-se.
22 Môi-se cũng đem con chiên đực thứ nhì đến để làm lễ tấn phong. A-rôn và các con trai người đặt tay trên đầu nó. 23 Người giết nó đi. Môi-se nhúng ngón tay trong huyết nó xức trên tai phải của A-rôn, trên ngón cái bàn tay phải và trên ngón cái bàn chân phải. 24 Môi-se cũng đem các con trai A-rôn đến gần, xức huyết nơi trái tai phải, trên ngón cái của bàn tay phải, và trên ngón cái của bàn chân phải của họ: rồi rảy huyết còn lại xung quanh thành bàn thờ. 25 Ông lấy mỡ, mỡ của đuôi và tất cả mỡ của bộ lòng, tấm mỡ bọc gan, hai quả thận và mỡ bọc hai quả thận, và cái đùi bên phải. 26 Cũng lấy trong giỏ bánh không men đặt trước mặt CHÚA một cái bánh nhỏ không men, một cái bánh nhỏ có dầu và một cái bánh tráng, rồi để các bánh đó trên lớp mỡ và trên cái đùi bên phải. 27 Ông giao tất cả các vật đó trong tay A-rôn và các con trai người để họ dâng đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA. 28 Môi-se lấy lại các vật đó khỏi tay họ, đem thiêu nơi bàn thờ cùng với tế lễ thiêu. Đó là tế lễ tấn phong có mùi thơm, tức là tế lễ dùng lửa dâng lên CHÚA. 29 Môi-se cũng lấy cái ngực của con chiên đực dâng trong lễ tấn phong, đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA. Cái ngực ấy là phần của Môi-se, như CHÚA đã truyền dạy ông.
30 Sau đó, Môi-se lấy dầu xức và huyết trên bàn thờ rảy trên A-rôn và trên lễ phục của ông, trên các con trai A-rôn và lễ phục của họ, để thánh hóa A-rôn và các con trai người cùng lễ phục của họ.
31 Môi-se bảo A-rôn và các con trai người: Hãy nấu thịt tại cửa Trại Hội Kiến và ăn tại đó với bánh trong giỏ dùng trong dịp lễ tấn phong, như Chúa đã dặn: A-rôn và các con trai người phải ăn thịt đó; 32 hãy thiêu đi tất cả thịt và bánh còn lại; 33 đừng rời khỏi Trại Hội Kiến, cứ ở đó suốt bảy ngày cho đến mãn thời gian lễ tấn phong vì lễ tấn phong kéo dài bảy ngày. 34 Những việc đã làm ngày nay đều được CHÚA truyền bảo để chuộc tội cho các người. 35 Các người phải ở luôn tại cửa Trại Hội Kiến suốt bảy ngày đêm và phải làm mọi điều CHÚA đòi hỏi hầu cho các người khỏi chết; vì đó chính là điều ta được Chúa truyền bảo. 36 Vậy, A-rôn và các con trai người thực thi mọi điều CHÚA đã dùng Môi-se truyền bảo họ.
Các Thầy Tế Lễ Bắt Đầu Chức Vụ
9 Tám ngày sau, Môi-se triệu tập A-rôn, các con trai A-rôn và các trưởng lão dân Y-sơ-ra-ên. 2 Ông nói với A-rôn: Anh đem dâng cho CHÚA một con bò đực làm tế lễ chuộc tội và một con dê đực làm tế lễ thiêu, cả hai đều không tì vết. 3 Sau đó anh truyền cho dân Y-sơ-ra-ên đem dâng cho CHÚA một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, một con bò và một con chiên con, cả hai đều một tuổi và không tì vết, làm tế lễ thiêu, 4 một con bò và một con chiên đực làm tế lễ cầu an, cùng với tế lễ chay có pha dầu, vì hôm nay CHÚA sẽ hiện ra với các ngươi.
5 Những người này đem tất cả các tế lễ Môi-se dặn bảo trước Trại Hội Kiến và toàn dân đều đến đứng trước mặt CHÚA. 6 Môi-se nói: Đây là điều CHÚA truyền cho các ngươi thi hành để vinh quang của CHÚA có thể hiện ra cho các ngươi.
7 Sau đó Môi-se nói với A-rôn: Anh đến bàn thờ và dâng tế lễ chuộc tội và tế lễ thiêu để chuộc tội cho chính anh và cho dân chúng; sau đó anh dâng tế lễ cho dân để chuộc tội cho họ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy.
8 Vậy, A-rôn đến gần bàn thờ và giết con bò làm tế lễ chuộc tội cho mình. 9 Các con trai của A-rôn đem huyết bò đến cho ông, ông nhúng ngón tay vào huyết đem bôi lên các sừng bàn thờ và đem phần huyết còn lại đổ dưới chân bàn thờ. 10 A-rôn đốt mỡ, thận và túi mật của con sinh tế chuộc tội lên bàn thờ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy Môi-se; 11 còn thịt và da ông đem đốt bên ngoài trại quân.
12 A-rôn giết con sinh tế làm tế lễ thiêu. Các con ông đem huyết đến và ông rảy huyết đó chung quanh bàn thờ. 13 Họ đem con sinh tế đến cho ông từng miếng một, kể cả cái đầu và ông đem các miếng đó thiêu trên bàn thờ. 14 Ông rửa bộ lòng và các chân con sinh tế rồi đem đốt trên bàn thờ chung với tế lễ thiêu.
15 Sau đó A-rôn dâng các lễ vật của dân chúng. Ông giết con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho dân chúng và dâng tế lễ theo cách ông đã làm lần đầu.
16 Ông cũng đem sinh tế làm tế lễ thiêu cho dân chúng đến và dâng lên theo cách đã ấn định. 17 Ông cũng đem tế lễ chay đến, bốc đầy một nắm tay, đem đốt trên bàn thờ, tế lễ này thêm vào tế lễ thiêu dâng vào buổi sáng.
18 A-rôn giết con bò và con chiên đực làm tế lễ cầu an cho dân chúng. Các con ông đem huyết sinh tế đến và ông rảy huyết đó chung quanh bàn thờ. 19 Họ cũng lấy mỡ của con bò và con chiên, gồm mỡ đuôi, lớp mỡ bọc bộ lòng cùng với hai quả thận và túi mật, 20 đem để lên ngực hai con sinh tế, rồi A-rôn đốt mỡ trên bàn thờ. 21 Ông đưa qua đưa lại, như Môi-se đã dặn bảo.
22 Sau khi dâng tế lễ chuộc tội, tế lễ thiêu và tế lễ cầu an, A-rôn đưa tay lên hướng về phía dân chúng và chúc phước cho họ, rồi bước xuống.
23 Môi-se và A-rôn vào Trại Hội Kiến. Khi từ trại ra, hai ông chúc phước cho dân chúng và vinh quang của CHÚA hiện ra cho toàn thể dân chúng. 24 Lửa từ sự hiện diện của CHÚA phát ra thiêu đốt tế lễ thiêu và mỡ trên bàn thờ. Khi thấy vậy, toàn dân reo mừng và cúi đầu sát đất.
Cái Chết Của Na-đáp Và A-bi-hu
10 Hai con trai của A-rôn là Na-đáp và A-bi-hu lấy lư hương của họ, bỏ lửa vào rồi bỏ thêm hương và dâng một thứ lửa lạ trước mặt CHÚA, trái với mạng lệnh của Ngài. 2 Lửa từ sự hiện diện của CHÚA phát ra thiêu đốt họ và họ chết trước mặt CHÚA. 3 Môi-se nói với A-rôn: Việc này cho thấy ý nghĩa của lời CHÚA khi Ngài phán dạy rằng:
Ta sẽ tỏ mình thánh khiết
Giữa vòng những người đến gần Ta:
Ta sẽ được tôn vinh
Trước mặt mọi người.
A-rôn nín lặng.
4 Môi-se gọi Mi-sa-ên và Ên-sa-phan, hai con trai của U-xi-ên, chú của A-rôn, và bảo họ: Đến đem xác hai anh các cháu ra khỏi Nơi Thánh và đem ra ngoài trại quân. 5 Họ mang xác hai người còn mặc áo lễ ra ngoài trại quân, theo lệnh Môi-se.
6 Sau đó, Môi-se nói với A-rôn và hai con trai người là Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma rằng: Đừng xõa tóc cũng đừng xé áo; nếu không vâng lời, anh và hai cháu sẽ chết và CHÚA sẽ nổi giận với toàn thể hội chúng. Nhưng anh em các người và toàn dân Y-sơ-ra-ên có thể khóc than cho những người dã bị CHÚA dùng lửa thiêu đốt. 7 Còn anh và hai cháu không được rời cửa trại: ai không vâng lời sẽ chết vì dầu thánh của CHÚA đã xức trên anh và hai cháu. Vậy, họ làm theo lời Môi-se nói.
Luật Lệ Cho Các Thầy Tế Lễ
8 CHÚA phán với A-rôn: 9 Ngươi và các con trai ngươi không được uống rượu nho hay rượu mạnh khác khi các ngươi vào Trại Hội Kiến, nếu không vâng lời các ngươi sẽ chết. Đây là một mạng lệnh vĩnh viễn cho các thế hệ mai sau. 10 Các ngươi phải phân biệt giữa thánh và phàm, giữa ô uế và tinh sạch, 11 và các ngươi phải dạy cho dân Y-sơ-ra-ên tất cả các mạng lệnh CHÚA đã truyền qua Môi-se.
12 Môi-se nói với A-rôn và hai con trai còn lại là Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma: Lấy phần ngũ cốc còn lại sau khi đã dùng lửa dâng các tế lễ cho CHÚA và ăn bên cạnh bàn thờ; nhưng không được pha men, vì là món ăn rất thánh. 13 Phải ăn trong một Nơi Thánh, vì đó là phần chia cho anh và con anh trong số tế lễ dùng lửa dâng cho CHÚA. Đó là mạng lệnh Chúa đã truyền cho tôi. 14 Nhưng anh, các con trai và con gái anh có thể ăn cái ngực đã được dâng đưa qua đưa lại và cái đùi đã dâng lên. Ăn các món này tại một nơi tinh sạch, vì là món chia cho anh và con cái anh, trích trong tế lễ cầu an của dân Y-sơ-ra-ên. 15 Cái đùi để dâng lên và cái ngực để dâng đưa qua đưa lại cùng với các phần mỡ để thiêu bằng lửa, phải được đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA làm tế lễ đưa qua đưa lại. Đây là phần chia thường lệ cho anh và con cái anh, theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy.
16 Sau khi cố gắng dò hỏi về con dê dùng làm sinh tế chuộc tội và được biết dê đã cháy thiêu, Môi-se giận Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma, hai con trai còn lại của A-rôn, và hỏi họ: 17 Sao hai cháu không ăn sinh tế chuộc tội trong Nơi Thánh? Đó là vật rất thánh được ban cho hai cháu để cất bỏ tội lỗi của dân chúng, để chuộc tội cho họ trước mặt CHÚA. 18 Này, huyết con sinh tế đã không được đem vào Nơi Thánh, hai cháu đáng lý phải ăn con dê trong Nơi Thánh, như điều ta đã căn dặn.
19 A-rôn đáp lời Môi-se: Hôm nay chúng nó đã dâng tế lễ chuộc tội và tế lễ thiêu của chúng trước mặt CHÚA, nhưng những việc này đã xảy đến cho tôi, CHÚA sẽ vui lòng không nếu tôi ăn tế lễ chuộc tội hôm nay? 20 Khi nghe vậy, Môi-se đồng ý.
Thức Ăn Sạch Và Không Sạch
11 CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn rằng: 2 Các con bảo dân Y-sơ-ra-ên: Trong số các loài vật sống trên đất, đây là các loài các ngươi được phép ăn: 3 Các ngươi được phép ăn các loài vật có móng rẽ ra, bàn chân chia hai và nhai lại.
4 Nhưng có một số chỉ nhai lại hay chỉ có móng rẽ ra; những loài đó các ngươi không được phép ăn. Lạc đà, mặc dù nhai lại nhưng không có móng rẽ ra, và là một loài vật không tinh sạch cho các ngươi. 5 Loài chồn sống trên đá, mặc dù nhai lại nhưng không có móng rẽ ra; nó là vật không tinh sạch cho các ngươi. 6 Con thỏ rừng mặc dù nhai lại nhưng không có móng rẽ ra, là một loài vật không tinh sạch cho các ngươi. 7 Con heo, dù có móng rẽ, bàn chân chia hai nhưng không nhai lại, đó là vật không tinh sạch cho các ngươi. 8 Các ngươi không được ăn thịt và không được đụng đến xác các thú đó, chúng không tinh sạch cho các ngươi.
9 Đây là các loài vật ngươi được ăn, tất cả loài vật ở dưới nước, tất cả các loài có vây và vẩy dưới nước, hoặc dưới sông hay biển, những thú đó ngươi được ăn. 10 Nhưng tất cả các loài tạo vật không vây không vẩy sống dưới biển hay dưới sông, hoặc sống từng đàn hay sống giữa các sinh vật khác dưới nước, đều đáng gớm ghiếc. 11 Vì các ngươi phải gớm ghiếc các loài này, nên các ngươi không được phép ăn thịt chúng và phải gớm ghiếc xác chết của chúng. 12 Bất cứ loài nào không vây không vẩy sống dưới nước đều đáng gớm ghiếc cho các ngươi.
13 Sau đây là những loài chim các ngươi phải gớm ghiếc và không được phép ăn, vì là những loài đáng gớm ghiếc; chim ưng, kên kên, chim ngạc, 14 diều hâu đỏ, tất cả các loài chim diều đen, 15 tất cả các loài quạ, 16 cú mèo, chim ó ăn đêm, hải âu và tất cả các loài diều hâu, 17 chim cú nhỏ, còng cọc, cú lớn, 18 cú trắng, cú sa mạc, ó biển, 19 con cò, tất cả các loại chim diệc, chim rẽ quạt và dơi.
20 Tất cả các loài côn trùng có cánh và đi bốn chân đều đáng gớm ghiếc cho các ngươi. 21 Tuy nhiên có một số vật có cánh và đi bốn chân các ngươi có phép ăn: đó là những vật chân có khớp để nhảy trên đất. 22 Trong số những loài các ngươi được phép ăn này có các loài châu chấu, châu chấu sói đầu, dế, cào cào. 23 Các loài côn trùng có cánh và bốn chân khác đều là vật các ngươi phải gớm ghiếc.
24 Sau đây là những trường hợp các ngươi làm cho mình không tinh sạch: ai đụng đến xác các loài đó sẽ bị ô uế đến tối; 25 ai lượm xác chết các loài này phải giặt quần áo mình và sẽ bị ô uế đến tối.
26 Mọi loài vật có móng rẽ nhưng chân không chẻ hai hay không nhai lại đều là vật không tinh sạch cho các ngươi; ai đụng đến các loài vật này sẽ bị ô uế. 27 Trong tất cả các loài vật đi bốn chân có vuốt là loài không tinh sạch cho các ngươi; ai đụng đến xác chết các loài này sẽ bị ô uế đến tối. 28 Ai lượm xác các loài này phải giặt quần áo mình và sẽ bị ô uế đến tối. Đó là những loài vật không tinh sạch cho các ngươi.
29 Trong các loài vật di chuyển sát trên mặt đất, đây là những loài không tinh sạch cho các ngươi: chuột nhũi, chuột nhắt, tất cả các loại rắn mối, 30 cắc ké, kỳ đà, thằn lằn, kỳ nhông, cắc kè, 31 Trong tất cả các loài di chuyển sát trên mặt đất, đó là những loài không sạch cho các ngươi. Ai đụng đến xác chết các loài đó sẽ bị ô uế đến tối. 32 Khi một con trong các loài vật đó chết và rơi nhằm một đồ dùng, bất cứ dùng vào việc gì cũng trở thành ô uế, kể cả đồ dùng làm bằng gỗ, vải, da hay bao bố. Phải ngâm đồ dùng này trong nước. Nó bị ô uế cho đến tối và sau đó sẽ được tinh sạch. 33 Nếu xác chết đó rơi nhằm một bình đất, những gì chứa trong bình đều bị ô uế và phải đập bể bình đi. 34 Thức ăn bị nước trong bình này đổ nhằm sẽ bị ô uế: bất cứ thức uống gì chứa trong bình cũng bị ô uế. 35 Bất cứ vật gì bị xác các con vật này rơi nhằm sẽ bị ô uế; dù vật này là bếp hay nồi cũng phải đập bể, vì chúng không tinh sạch nên các ngươi phải coi là những vật ô uế. 36 Tuy nhiên, dòng suối hay hồ chứa nước vẫn được kể là tinh sạch, nhưng ai đụng đến xác chết đó phải bị ô uế. 37 Nếu xác chết rơi trên hạt giống sẽ được gieo trồng, hạt giống vẫn được tinh sạch. 38 Nhưng nếu hạt giống đã được tưới nước và xác chết rơi nhằm, hạt giống đó bị ô uế cho các ngươi.
39 Nếu một con vật thuộc loại có phép ăn bị chết, ai đụng đến xác nó sẽ bị ô uế đến tối. 40 Ai ăn xác chết đó phải giặt quần áo mình và sẽ bị ô uế cho đến tối, còn ai nhặt xác chết đó cũng phải giặt áo sống và bị ô uế đến tối.
41 Tất cả các loài sâu bọ bò trên đất đều đáng gớm ghiếc và không được phép ăn. 42 Các ngươi không được ăn bất cứ loài sâu bọ nào bò trên mặt đất, dù bò bằng bụng, bằng bốn chân hay nhiều chân; các loài vật này đều đáng gớm ghiếc. 43 Các ngươi đừng làm mình ô uế vì các loại sâu bọ này. Đừng tự làm ô uế vì chúng hay để chúng làm ô uế. 44 Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi; phải biệt mình riêng ra thánh và nên thánh, vì Ta là thánh. Đừng để mình bị ô uế vì bất cứ loài sâu bọ nào bò trên đất. 45 Ta là CHÚA, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi Ai-cập để làm Đức Chúa Trời các ngươi; vì vậy các ngươi phải nên thánh, vì Ta là thánh.
46 Đấy là luật lệ liên hệ đến các loài súc vật, loài chim, các loài sinh vật sống dưới nước và các loài sâu bọ bò trên đất. 47 Các ngươi phải phân biệt giữa tinh sạch và ô uế, giữa các loài sinh vật ăn được và các loài không được ăn.
Thanh Tẩy Sau Khi Sanh Con
12 CHÚA phán dạy Môi-se: 2 Con bảo dân Y-sơ-ra-ên: khi một phụ nữ có thai và sinh con trai, người này sẽ bị ô uế bảy ngày cũng như lúc kinh nguyệt. 3 Vào ngày thứ tám đứa con trai sẽ chịu cắt bì nơi da qui đầu. 4 Thời gian tẩy uế huyết là ba mươi ba ngày. Bà không được đụng đến một vật thánh hay vào đền thánh cho đến khi thời kỳ tẩy uế huyết đã qua. 5 Trường hợp sinh con gái, sản phụ sẽ bị ô uế trong hai tuần lễ, như trong lúc kinh nguyệt, thời gian tẩy uế huyết là sáu mươi sáu ngày.
6 Đến khi thời gian tẩy uế huyết chấm dứt, dù sinh con trai hay con gái, sản phụ phải đem đến cho thầy tế lễ tại cửa Trại Hội Kiến một con chiên một tuổi làm tế lễ thiêu và một con bồ câu con hoặc chim gáy con để làm tế lễ chuộc tội. 7 Thầy tế lễ sẽ dâng cả hai con sinh tế trước mặt CHÚA để chuộc tội cho sản phụ và bà sẽ được tinh sạch về xuất huyết.
Đây là luật áp dụng cho phụ nữ khi sinh con trai hay con gái. 8 Nếu không đủ sức dâng một con chiên con, sản phụ phải dâng hai con chim bồ câu hay hai con chim gáy, một con làm tế lễ thiêu và con kia dùng làm tế lễ chuộc tội. Như vậy thầy tế lễ sẽ chuộc tội cho bà và bà sẽ được tinh sạch.
Luật Về Bệnh Phung
13 CHÚA phán dạy Môi-se và A-rôn: 2 Khi một người thấy trên da mình có chỗ sưng, hay nổi mụn nhọt hay đốm trắng có thể thành bệnh phung, người này phải được dẫn đến với A-rôn, hay đến với một con trai của A-rôn cũng làm thầy tế lễ. 3 Thầy tế lễ phải khám chỗ đau trên da của người đó. Nếu thấy lông trên chỗ ấy hóa trắng và chỗ đau lõm xuống sâu hơn mặt da, đó là bệnh phung. Khi khám xong, thầy tế lễ phải tuyên bố người ấy không tinh sạch.
4 Nhưng nếu chỗ màu trắng đó không lõm sâu hơn mặt da và lông chỗ đó không hóa trắng, thầy tế lễ sẽ giữ riêng người đó trong bảy ngày. 5 Sau bảy ngày, thầy tế lễ phải khám lại. Nếu thấy chỗ đau không thay đổi và không lan ra, thầy tế lễ phải giữ riêng người ấy bảy ngày nữa. 6 Bảy ngày sau thầy tế lễ khám lại một lần nữa. Nếu thấy chỗ đau tái đi, không lan trên da, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch. Chỗ đau chỉ là một mụn nhọt thường. Người ấy phải giặt quần áo và sẽ được tinh sạch. 7 Nhưng nếu mụt nhọt lan ra trên da sau khi người ấy đến với thầy tế lễ để được xác nhận là tinh sạch, người ấy phải đến trình diện với thầy tế lễ một lần nữa. 8 Thầy tế lễ phải khám lại và nếu thấy mụt nhọt đã lan ra trên da, sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch vì mắc bệnh phung.
9 Khi có người mắc chứng phung người ấy phải được dẫn đến thầy tế lễ. 10 Thầy tế lễ phải khám người ấy. Nếu thấy trên da có chỗ sưng lên, có màu trắng, lông trên chỗ đó đã hóa trắng và có thịt đỏ tươi trong chỗ sưng, 11 đó là bệnh phung kinh niên trên thân thể người ấy. Thầy tế lễ sẽ tuyên bố người đó không tinh sạch và không cần phải giữ riêng nữa, vì rõ ràng người ấy đã không tinh sạch.
12 Nhưng nếu thấy chứng phung đã lan khắp cơ thể, từ đầu đến chân khắp nơi nào thầy tế lễ thấy được. 13 Thầy tế lễ phải khám người ấy và nếu thấy chứng bệnh đã lan trên toàn thân, vì tất cả đã trở thành trắng, người đó tinh sạch, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch. 14 Nhưng nếu có thịt đỏ xuất hiện trên thân thể, người ấy không tinh sạch. 15 Khi thấy vết thịt đỏ tươi, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch. Thịt đỏ tươi là không tinh sạch và người ấy đã mắc chứng phung. 16 Nhưng nếu chỗ thịt đỏ tươi tái đi và trở thành trắng, người ấy phải đến gặp thầy tế lễ. 17 Sau khi khám, nếu thầy tế lễ thấy chỗ đau đã trở thành màu trắng, sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch và người ấy sẽ tinh sạch.
18 Nếu một người có mụt nhọt và đã lành rồi, 19 nhưng chỗ vừa có mụt nhọt lại sưng lên, có màu trắng hay đỏ tái, người ấy phải trình diện với thầy tế lễ. 20 Thầy tế lễ sẽ khám, và nếu thấy chỗ đó lõm xuống sâu hơn mặt da và lông đã hóa trắng, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch, vì chứng phung đã phát ra tại chỗ trước có mụt nhọt. 21 Nhưng nếu khi khám, thầy tế lễ thấy không có lông trắng và chỗ đó không lõm xuống sâu hơn mặt da, nhưng đã tái đi, thầy tế lễ sẽ giữ riêng người ấy trong bảy ngày. 22 Nếu vết đó lan ra trên da, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch, vì là bệnh. 23 Nhưng nếu chỗ đó không thay đổi và không lan ra, đó là một vết sẹo của mụn nhọt và thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch.
24 Nếu một người bị bỏng và chỗ da thịt bị bỏng trở nên vết trắng hồng hay đỏ tái hay trắng, 25 thầy tế lễ phải khám vết đó, và nếu lông chỗ bị bỏng đã hóa trắng, và chỗ đó lõm sâu hơn mặt da, đó là chứng phung đã phát ra chỗ bị bỏng. Thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch, vì đó là chứng phung. 26 Nhưng nếu khi khám, thầy tế lễ thấy không có lông trắng ở chỗ bỏng, chỗ đó không lõm sâu hơn mặt da nhưng đã tái đi, thầy tế lễ sẽ giữ riêng người ấy trong bảy ngày. 27 Sau bảy ngày, thầy tế lễ sẽ khám người đó, và nếu thấy vết đỏ lan ra trên da, sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch, vì đó là chứng phung. 28 Nhưng nếu vết không thay đổi, không lan ra trên da và đã tái đi, ấy là vết sưng phỏng, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch, vì đó là sẹo của chỗ bỏng.
29 Nếu một người đàn ông hay đàn bà có vết lở lói trên đầu hay trên râu, 30 thầy tế lễ sẽ khám vết lở. Nếu thấy vết ấy lõm sâu hơn mặt da, lông ở chỗ đó thưa và có màu vàng, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch vì là vết phung trên đầu hay trên râu. 31 Nhưng nếu khi khám thầy tế lễ thấy vết đó không lõm sâu hơn mặt da và không có lông đen, thầy tế lễ sẽ giữ riêng người ấy trong bảy ngày. 32 Bảy ngày sau, thầy tế lễ sẽ khám vết lở và nếu thấy vết không lan ra, không có lông vàng và không lõm sâu hơn mặt da, 33 người ấy sẽ cạo râu tóc, nhưng phải chừa vết lở ra, và thầy tế lễ sẽ giữ riêng người ấy bảy ngày nữa. 34 Bảy ngày sau, thầy tế lễ khám vết lở, và nếu vết lở không lan ra trên da, không lõm sâu hơn mặt da, thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch. Người ấy sẽ giặt quần áo mình và sẽ được tinh sạch. 35 Nhưng nếu sau khi người ấy được tuyên bố tinh sạch, vết lở lan ra trên da, 36 thầy tế lễ sẽ khám lại. Nếu thấy vết lở lan ra trên da, người ấy không tinh sạch và thầy tế lễ không cần tìm xem có lông vàng hay không. 37 Tuy nhiên, nếu thầy tế lễ thấy vết lở không thay đổi và lông đen mọc lên ở chỗ đó, thì vết đã lành và người ấy tinh sạch. Thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy tinh sạch.
38 Khi một người đàn ông hay đàn bà có một đốm trắng trên da, 39 thầy tế lễ phải khám họ: nếu thấy đốm đó trắng mờ thì đó chỉ là một chỗ lở phát trên da và người ấy vẫn tinh sạch.
40 Khi một người rụng tóc và bị hói, người ấy tinh sạch. 41 Khi một người rụng tóc phía trước đầu và trở thành hói trán, người ấy tinh sạch. 42 Nhưng nếu ở chỗ hói trên đầu hay trên trán phát ra một đốm trắng hồng, đó là chứng phung phát ra chỗ đầu hói hay trán hói. 43 Thầy tế lễ phải khám người ấy, nếu chỗ sưng trên đầu hay trên trán có màu trắng hồng giống như chứng phung, 44 thì người ấy là người phung không tinh sạch. Thầy tế lễ sẽ tuyên bố người ấy không tinh sạch vì mắc chứng phung trên đầu.
45 Người mắc chứng phung phải mặc quần áo xé rách, đầu tóc xõa, che bên dưới mặt mình lại và kêu lên: không tinh sạch! không tinh sạch! 46 Hễ chừng nào còn chứng phung, người ấy là người không tinh sạch, phải sống một mình bên ngoài trại quân.
Luật Về Mốc Meo
47 Khi quần áo bị mốc meo,[c] dù bằng len hay bằng vải gai, 48 dù trên canh hay chỉ,[d] dù trên da hay trên vật bằng da, 49 nếu vết mốc trên quần áo, trên da, trên canh hay chỉ có màu xanh xanh hay đo đỏ, đó là loại mốc meo và phải đem trình cho thầy tế lễ. 50 Thầy tế lễ phải khám chỗ mốc meo và giữ riêng vật ấy trong bảy ngày. 51 Sau bảy ngày thầy tế lễ khám lại, nếu vết mốc meo đã lan ra trên quần áo, trên canh hay chỉ, hay trên vật bằng da, thì đó là chứng phung ăn lan, quần áo đó không tinh sạch. 52 Thầy tế lễ phải đốt món quần áo, dù trên canh hay chỉ bằng len hay bằng vải gai, hay đồ vật bằng da đã bị mốc meo, vì loại phung đó ăn lan; vật đó phải bị thiêu bằng lửa.
53 Nhưng nếu thầy tế lễ khám và thấy vết mốc không lan trên quần áo, trên canh hay chỉ, hoặc trên vật bằng da, 54 thầy tế lễ bảo đem giặt món đồ đó, rồi giữ riêng nó trong bảy ngày nữa. 55 Thầy tế lễ khám lại sau khi đem giặt, và nếu thấy vết mốc dù không lan ra nhưng không đổi màu, món đồ đó không tinh sạch. Phải đem thiêu bằng lửa, dù vết mốc meo ở bề phải hay bề trái. 56 Nếu thầy tế lễ khám thấy sau khi giặt vết mốc phai đi, thầy tế lễ sẽ xé bỏ phần bị mốc, hoặc trên quần áo, trên da, trên canh hay chỉ. 57 Nhưng nếu mốc lại xuất hiện trên quần áo, trên da, trên canh hay chỉ và vết mốc đó lan rộng, món đồ bị mốc meo đó phải bị thiêu bằng lửa. 58 Nhưng nếu sau khi đem giặt quần áo, canh hay chỉ hay món đồ bằng da và vết mốc biến mất, món đồ đó phải được giặt một lần nữa và sẽ tinh sạch.
59 Đấy là luật lệ về mốc meo trên quần áo bằng len hay bằng vải gai, trên canh hay chỉ, hay trên món đồ bằng da, để tuyên bố món nào tinh sạch, món nào không tinh sạch.
Lễ Tẩy Sạch Người Mắc Bệnh Phung
14 CHÚA phán dạy Môi-se: 2 Đây là luật lệ áp dụng cho người phung khi được tinh sạch và được dẫn đến với thầy tế lễ: 3 thầy tế lễ phải ra ngoài trại quân và khám người ấy. Nếu thấy người ấy đã khỏi bệnh phung, 4 thầy tế lễ sẽ bảo đem đến cho người được khỏi bệnh hai con chim sống, thuộc loại tinh sạch, gỗ bá hương, chỉ sợi màu đỏ, cây bài hương. 5 Thầy tế lễ ra lệnh giết một con chim trong chậu bằng đất trên dòng nước. 6 Sau đó thầy tế lễ đem con chim còn sống, cùng với gỗ bá hương, chỉ sợi màu đỏ và cây bài hương, nhúng vào huyết con chim đã bị giết trên dòng nước, 7 và rảy huyết bảy lần trên người khỏi bệnh phung rồi tuyên bố người ấy tinh sạch. Sau đó thầy tế lễ thả con chim còn sống ra đồng trống.
8 Người được tẩy sạch phải giặt quần áo, cạo sạch râu tóc và tắm trong nước, rồi sẽ được sạch. Sau đó người ấy có thể trở vào trại quân, nhưng phải ở bên ngoài lều của mình trong bảy ngày. 9 Bảy ngày sau, người ấy lại phải cạo sạch hết tóc, râu, lông mày và lông trong người, phải giặt quần áo, tắm trong nước và được tinh sạch.
10 Đến ngày thứ tám, người ấy phải đem đến hai con chiên đực không tì vết và một con chiên con cái một tuổi và không tì vết, cùng với ba phần mười ê-pha[e] bột mịn pha dầu để làm tế lễ chay và một lót dầu[f] 11 Thầy tế lễ làm lễ tẩy sạch sẽ đem người được tẩy sạch và tế lễ của người ấy đến trình diện trước mặt CHÚA, tại cửa Trại Hội Kiến.
12 Thầy tế lễ bắt một con chiên đực dâng làm tế lễ chuộc tội, cùng với một lót dầu, và dâng các món này lên làm tế lễ đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA. 13 Thầy tế lễ phải giết con chiên này trong Nơi Thánh, tại nơi giết sinh tế làm tế lễ chuộc tội và tế lễ thiêu. Cũng như sinh tế chuộc tội, sinh tế chuộc lỗi thuộc về thầy tế lễ và là một món rất thánh. 14 Thầy tế lễ sẽ lấy một ít huyết của sinh tế chuộc lỗi, đem xức lên trái tai bên phải, lên ngón cái tay phải và ngón cái chân phải của người được tẩy sạch. 15 Rồi thầy tế lễ sẽ đổ một ít dầu vào lòng bàn tay trái mình, 16 nhúng ngón trỏ của bàn tay phải mình vào dầu trong lòng bàn tay trái, rồi dùng ngón tay rảy dầu bảy lần trước mặt CHÚA. 17 Thầy tế lễ lấy một ít dầu trong lòng bàn tay, xức lên trái tai bên phải, lên ngón cái tay phải và ngón cái chân phải của người được tẩy sạch; phần còn lại để lên trên huyết của con sinh tế chuộc lỗi. 18 Phần dầu còn lại trong lòng bàn tay được thầy tế lễ đem xức lên đầu của người được tẩy sạch để chuộc tội cho người ấy trước mặt CHÚA.
19 Thầy tế lễ dâng sinh tế chuộc tội để chuộc tội cho người được tẩy sạch ô uế. Sau đó thầy tế lễ giết sinh tế làm tế lễ thiêu, 20 đem nó dâng trên bàn thờ cùng với tế lễ chay để chuộc tội cho người ấy và người ấy sẽ được tinh sạch.
21 Tuy nhiên, nếu người ấy nghèo, không đủ sức dâng các tế lễ trên, người ấy sẽ dâng một chiên con đực để làm tế lễ chuộc lỗi theo cách dâng đưa qua đưa lại, cùng với một phần mười ê-pha bột mịn pha dầu làm tế lễ chay và một lót dầu, 22 hai con chim gáy hay hai con chim bồ cầu con, theo khả năng mình, một con dùng làm tế lễ chuộc tội và một con làm tế lễ thiêu.
23 Đến ngày thứ tám người ấy mang các con sinh tế làm lễ tẩy sạch cho mình đến cửa Trại Hội Kiến, trước mặt CHÚA. 24 Thầy tế lễ đem con chiên con dành làm tế lễ chuộc lỗi, cùng với lót dầu và đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA làm tế lễ đưa qua đưa lại. 25 Rồi thầy tế lễ giết con chiên con làm lễ chuộc lỗi, lấy một ít huyết con chiên xức lên trái tai bên phải, trên ngón cái tay phải và ngón cái chân phải của người được tẩy sạch. 26 Thầy tế lễ đổ một ít dầu vào lòng bàn tay trái mình, 27 rồi dùng ngón trỏ của bàn tay phải rảy dầu lấy từ lòng bàn tay mình bảy lần trước mặt CHÚA. 28 Thầy tế lễ lấy một ít dầu từ lòng bàn tay mình, đem xức lên những chỗ đã xức huyết con sinh tế chuộc lỗi, tức là lên trái tai phải, ngón cái tay phải và ngón cái chân phải của người được tẩy sạch. 29 Phần dầu còn lại trong lòng bàn tay được thầy tế lễ đem xức lên đầu của người được tẩy sạch, để chuộc tội cho người ấy trước mặt CHÚA. 30 Sau đó thầy tế lễ dâng hai con chim gáy hay hai con chim bồ câu con, tùy theo khả năng của người ấy, 31 một con làm tế lễ chuộc tội và con kia làm tế lễ thiêu, cùng với tế lễ chay. Như vậy thầy tế lễ chuộc tội cho người ấy trước mặt CHÚA.
32 Đó là những luật lệ áp dụng cho người đã mắc bệnh phung, nhưng không đủ khả năng dâng các tế lễ để làm lễ tẩy sạch cho mình.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)