Bible in 90 Days
13 Họ đáp: “Chúng tôi đồng ý. Chúng tôi chỉ muốn trói anh và nộp anh cho người Phi-li-tin thôi, chứ chúng tôi không muốn giết anh đâu.” Vậy họ lấy hai sợi dây thừng mới trói Sam-sôn lại và dẫn ông lên khỏi hang đá. 14 Khi ông đến gần Lê-chi, dân Phi-li-tin đổ xô ra reo hò. Thần của CHÚA ngự xuống trên ông mạnh mẽ. Những sợi dây thừng trói tay ông trở nên như những sợi chỉ gai bị lửa đốt; chúng tàn rụi khỏi tay ông. 15 Thấy một cái xương hàm lừa còn mới, ông lượm lên và dùng nó đánh giết một ngàn người Phi-li-tin.
16 Đoạn ông nói:
“Với một chiếc hàm lừa,
Ta đã chất thây thành đống;
Với một chiếc hàm lừa,
Ta đã giết một ngàn người.”
17 Nói xong, ông vứt chiếc hàm lừa đi; và người ta đã gọi nơi đó là “Đồi Hàm Lừa.”
18 Rồi Sam-sôn cảm thấy khát nước quá đỗi. Ông kêu cầu với CHÚA rằng, “CHÚA đã cho tôi tớ CHÚA được chiến thắng lớn như thế này, lẽ nào giờ đây con phải chết khát và sa vào tay những kẻ không cắt bì sao?” 19 Đức Chúa Trời bèn khiến một bộng đá ở Lê-chi nứt ra, nước từ đó tuôn ra. Sam-sôn đến uống, sức lực được phục hồi và tinh thần được phấn khởi trở lại. Bởi thế người ta đặt tên suối nước đó là “Suối Nước Cầu Xin” và con suối ấy vẫn còn tại Lê-chi cho đến ngày nay.
20 Sam-sôn xử đoán trong Y-sơ-ra-ên hai mươi năm, trong thời dân Phi-li-tin cường thịnh.
Sam-sôn Và Đa-li-la
16 Một ngày nọ, Sam-sôn đến Ga-xa và thấy một gái điếm tại đó. Ông vào nhà nàng và ngủ đêm với nàng. 2 Người trong thành Ga-xa báo cho nhau rằng: “Sam-sôn đã đến đây!” Thế là họ vây phục chỗ ông ở và nằm đợi thâu đêm ở cổng thành. Suốt đêm họ không động tĩnh, vì nói rằng: “Hãy đợi đến sáng, chúng ta sẽ giết nó.” 3 Nhưng Sam-sôn nằm đó cho đến nửa đêm. Ông thức dậy, nắm hai cánh cổng thành, cùng với hai trụ cổng, mà giựt tung nó ra, luôn cả then cài; rồi ông vác chúng trên vai, đem lên đỉnh đồi, đối diện Hếp-rôn.
4 Sau đó ít lâu, ông yêu mến một cô gái trong Thung Lũng Sô-réc, tên là Đa-li-la. 5 Các thủ lãnh của Phi-li-tin đến gặp nàng và bảo: “Cô hãy cố dụ hắn nói cho cô bí mật của sức mạnh phi thường hắn có và cách nào để thắng hơn hắn, hầu chúng tôi có thể bắt trói hắn lại và chế ngự hắn. Rồi mỗi người chúng tôi sẽ thưởng cho cô một ngàn một trăm sê-ken[a] bạc.”
6 Vậy Đa-li-la nói với Sam-sôn: “Anh hãy nói cho em biết do đâu mà anh có sức mạnh phi thường như thế và làm cách nào để trói anh lại và chế ngự được anh đi.”
7 Sam-sôn trả lời nàng: “Nếu có ai trói anh bằng bảy sợi dây cung tươi, chưa khô, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.”
8 Các lãnh tụ Phi-li-tin liền mang cho nàng bảy sợi dây cung tươi, chưa khô, rồi nàng dùng chúng trói ông lại. 9 Sau khi cho người mai phục trong phòng, nàng gọi ông, “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Nhưng ông bứt đứt các dây cung dễ dàng như người ta đưa những sợi chỉ vào ngọn lửa. Vậy người ta không biết bí mật của sức mạnh ông đến từ đâu. 10 Đa-li-la bèn nói với ông: “Anh đánh lừa em. Anh dối gạt em. Bây giờ anh hãy nói cho em biết làm sao trói được anh đi.” 11 Ông nói: “Nếu có ai trói anh thật chặt bằng những dây thừng còn mới, chưa dùng lần nào, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” 12 Vậy Đa-li-la lấy những dây thừng mới và trói ông lại. Sau khi cho người mai phục sẵn trong phòng, nàng gọi: “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Nhưng ông bứt đứt các dây thừng khỏi tay ông như bứt chỉ. 13 Đa-li-la bèn nói với ông: “Cho đến giờ phút này anh vẫn còn gạt em, anh nói dối với em. Nói cho em biết làm sao trói anh lại được đi.”
Ông đáp: “Nếu em dệt bảy lọn tóc của anh vào khung cửi, rồi lấy ghim gài chặt chúng vào, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” Vậy Đa-li-la đợi cho Sam-sôn ngủ rồi lấy bảy lọn tóc của Sam-sôn dệt vào khung cửi, 14 và lấy ghim gài chặt lại. Xong nàng gọi: “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Ông thức giấc, bứt đứt cả ghim cài và khung cửi.
15 Bấy giờ Đa-li-la nói với ông: “Làm sao anh có thể nói được rằng: ‘Anh yêu em,’ trong khi anh không thật lòng với em. Đây là lần thứ ba anh đã gạt em và không nói cho em biết do đâu mà anh có sức mạnh phi thường như vậy.” 16 Cứ như thế mà ngày nào nàng cũng trách móc giận hờn, khiến cho ông bực bội thiếu điều muốn chết. 17 Ông bèn khai thật với nàng tất cả. Ông nói: “Dao cạo chưa hề đưa qua đầu anh bao giờ, bởi vì anh là người Na-xi-rê của Đức Chúa Trời từ khi còn trong lòng mẹ. Nếu tóc anh bị cạo đi, thì sức mạnh trong anh cũng sẽ biến mất, và anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” 18 Khi Đa-li-la thấy rằng ông đã khai thật với nàng mọi sự, nàng liền cho người đến báo với các lãnh tụ của dân Phi-li-tin rằng: “Hãy trở lại một lần nữa. Hắn đã khai thật với tôi tất cả rồi.” Vậy các lãnh tụ của dân Phi-li-tin trở lại, đem bạc theo trong tay. 19 Nàng dỗ Sam-sôn ngủ trên đùi nàng, rồi nàng sai người cạo sạch bảy lọn tóc trên đầu ông, và như thế nàng chế ngự được ông; sức lực ông đã lìa khỏi ông. 20 Xong nàng nói: “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Ông thức dậy và thầm nghĩ: “Ta sẽ thoát khỏi như những lần trước và ta sẽ gỡ mình ra.” Nhưng ông không biết rằng CHÚA đã lìa khỏi ông.
21 Dân Phi-li-tin bắt ông, móc hai mắt ông, và đem ông xuống Ga-xa. Chúng xiềng ông bằng những sợi xích đồng, và bắt ông xay cối trong ngục. 22 Nhưng tóc của ông sau khi bị cạo đã bắt đầu mọc lại.
Sam-sôn Qua Đời
23 Các lãnh tụ của dân Phi-li-tin họp lại để dâng một tế lễ trọng thể cho Đa-gôn, thần của họ, và để liên hoan, vì họ nói rằng: “Thần của chúng ta đã phó kẻ thù của chúng ta là Sam-sôn vào tay chúng ta.”
24 Khi dân Phi-li-tin thấy Sam-sôn, họ ca tụng thần của họ rằng:
“Thần của chúng ta đã phó kẻ thù của chúng ta
Vào tay chúng ta;
Ấy là kẻ đã phá hoại xứ sở chúng ta
Và đã giết hại nhiều người.”
25 Rồi khi hứng chí, họ gào vang: “Hãy đem Sam-sôn ra đây, để hắn giúp vui cho chúng ta.” Vậy họ dẫn Sam-sôn ra khỏi ngục để ông làm trò cho họ. Họ để ông đứng giữa các trụ cột. 26 Sam-sôn nói với người hầu trẻ đang dắt tay ông rằng: “Hãy dẫn ta lại hàng trụ cột chống đỡ ngôi đền để ta có thể dựa vào đó.” 27 Khi ấy trong đền có rất đông người, cả nam lẫn nữ; tất cả lãnh tụ của dân Phi-li-tin đều ở đó, và trên sân thượng của đền có khoảng ba ngàn người, cả nam lẫn nữ, chờ xem Sam-sôn làm trò.
28 Sam-sôn cầu nguyện với CHÚA rằng: “Lạy CHÚA, xin Ngài nhớ đến con. Đức Chúa Trời ôi, xin cho con có sức mạnh chỉ một lần nữa thôi, để con báo thù dân Phi-li-tin vì đôi mắt của con.” 29 Rồi Sam-sôn với tay vịn vào hai cây trụ chính chống đỡ cả ngôi đền. Ông lấy thế bằng cách vịn một tay vào cây bên phải và một tay vào cây bên trái. 30 Đoạn Sam-sôn nói: “Nguyện tôi bị chết chung với dân Phi-li-tin.” Rồi ông lấy hết sức đẩy hai cây trụ ra, và ngôi đền sụp đổ trên các lãnh tụ và dân chúng đang ở trong đó. Ấy vậy, lúc chết Sam-sôn giết nhiều người hơn khi còn sống.
31 Kế đó, các em trai ông và toàn gia đình của cha ông xuống lấy xác của ông về. Họ đem thi thể ông về chôn trong mộ của Ma-nô-a, cha ông, khoảng giữa Xô-ra và Ê-ta-ôn. Sam-sôn xử đoán trong Y-sơ-ra-ên được hai mươi năm.
Hình Tượng Của Mi-ca
17 Bấy giờ có một người trong vùng cao nguyên của Ép-ra-im tên là Mi-ca. 2 Người ấy nói với mẹ ông rằng: “Một ngàn một trăm sê-ken bạc[b] của mẹ đã bị mất và mẹ nguyền rủa kẻ nào đã lấy bạc đó như thế nào con đều nghe cả. Số bạc ấy hiện đang ở trong tay con. Chính con đã lấy nó.” Người mẹ đáp: “Nguyện CHÚA ban phước cho con, con trai của mẹ.”
3 Khi Mi-ca trả một ngàn một trăm sê-ken bạc lại cho mẹ của ông, bà nói: “Mẹ quyết định biệt riêng số bạc này ra thánh cho CHÚA, trên danh nghĩa của con, để khắc một hình tượng và đúc một pho tượng. Coi như mẹ trao nó lại cho con.”
4 Vậy Mi-ca trả bạc lại cho mẹ của ông. Bà bèn lấy hai trăm sê-ken bạc[c] giao cho người thợ bạc; người ấy đem chế thành một hình tượng và đúc ra một pho tượng, rồi người ta đem để chúng trong nhà của Mi-ca. 5 Ông Mi-ca này cũng dựng một cái miếu thờ, làm một cái ê-phót và một số tượng thần, rồi lập một con trai của ông lên làm thầy tế lễ. 6 Vả lúc ấy trong Y-sơ-ra-ên không có vua, ai nấy đều làm theo ý mình cho là phải. 7 Có một thanh niên Lê-vi, quê ở Bết-lê-hem trong miền Giu-đa. Thanh niên này sinh trưởng và lớn lên ở Giu-đa. 8 Nhưng chàng rời bỏ Bết-lê-hem trong miền Giu-đa để đi tìm một nơi lập nghiệp. Trên đường đi chàng ghé đến nhà của Mi-ca ở cao nguyên Ép-ra-im. 9 Mi-ca hỏi chàng: “Anh từ đâu đến?” Người ấy đáp: “Tôi là người Lê-vi quê ở Bết-lê-hem trong miền Giu-đa, và tôi đang đi kiếm một nơi để lập nghiệp.”
10 Mi-ca nói: “Nếu vậy mời anh ở lại đây với tôi, làm cha tôi và làm thầy tế lễ của tôi. Tôi sẽ trả cho anh mười sê-ken bạc[d] một năm, còn y phục và thực phẩm, tôi sẽ cung cấp cho anh đầy đủ.” 11 Vậy người Lê-vi bằng lòng ở lại với Mi-ca, và Mi-ca xem chàng như một con trai của ông. 12 Rồi Mi-ca lập chàng thanh niên Lê-vi ấy làm thầy tế lễ cho mình, và người ấy sống trong nhà của Mi-ca. 13 Xong rồi Mi-ca nói: “Bây giờ ta biết CHÚA sẽ ban phước cho ta, vì người Lê-vi này đã thành thầy tế lễ của ta.”
Người Đan Cướp Hình Tượng Và Định Cư Ở La-ít
18 Trong lúc đó Y-sơ-ra-ên không có vua. Và trong lúc đó bộ tộc Đan đang tìm kiếm một nơi để định cư, bởi vì đối với các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên thì họ chưa nhận được sản nghiệp. 2 Vậy người Đan ở Xô-ra và Ê-ta-ôn sai năm dũng sĩ đi do thám và thăm dò xứ. Những người này đại diện cho các tộc họ trong cả bộ tộc. Người Đan bảo họ: “Hãy đi thăm dò xứ.” Những người này đến vùng cao nguyên Ép-ra-im và vào nhà của Mi-ca, để nghỉ đêm tại đó. 3 Đang khi họ ở gần nhà Mi-ca thì nghe giọng nói của chàng thanh niên Lê-vi. Họ bèn đến đó và hỏi chàng: “Ai dẫn anh đến đây? Anh làm gì ở đây? Tại sao anh ở đây?”
4 Chàng nói cho họ biết Mi-ca đã đối với chàng như thế nọ thế kia, và nói tiếp: “Mi-ca đã mướn tôi làm thầy tế lễ cho ông ấy.” 5 Họ liền hỏi anh: “Xin anh hãy cầu vấn Đức Chúa Trời xem chúng tôi đi chuyến này có thành công chăng?” 6 Thầy tế lễ đáp: “Hãy đi bình an. Mắt CHÚA đoái xem chuyến đi này của quý ông.” 7 Vậy năm người ấy lên đường đến La-ít; tại đó họ thấy dân tình sống an lành, như dân Si-đôn, bình lặng, không phòng bị gì cả; xứ ấy không thiếu món gì và rất trù phú. Hơn nữa, họ sống xa cách với dân Si-đôn và cũng không có liên hệ gì với ai. 8 Khi họ trở về lại Xô-ra và Ê-ta-ôn, thì anh em của họ hỏi: “Các ngươi thăm dò thấy thế nào?” 9 Họ đáp: “Chúng ta hãy đến tấn công họ. Chúng tôi đã thấy xứ ấy rồi, quả là một xứ thật tốt. Bộ anh em không tính làm gì sao? Đừng ngần ngại đến đó và chiếm lấy xứ. 10 Khi anh em đến đó, anh em sẽ thấy một dân không phòng bị gì cả, và xứ thì rộng rãi, Đức Chúa Trời quả sẽ ban nó vào tay chúng ta. Thật là một xứ chẳng thiếu món gì trên đất.” 11 Bấy giờ sáu trăm người Đan, trang bị đầy đủ vũ khí ra trận, từ Xô-ra và Ê-ta-ôn ra đi. 12 Dọc đường họ đóng trại tại Ki-ri-át Giê-a-rim trong miền Giu-đa. Đó là lý do tại sao người ta gọi phía tây của Ki-ri-át Giê-a-rim là “Trại của Đan” cho đến ngày nay. 13 Từ đó họ tiến đến cao nguyên Ép-ra-im, rồi đến nhà của Mi-ca. 14 Năm người đã đi do thám xứ nói với các anh em của họ: “Anh em có biết rằng trong mấy căn nhà này có một cái ê-phót, một số tượng gia thần, một hình tượng và một pho tượng không? Bây giờ anh em biết làm gì rồi phải không?” 15 Vậy họ đến đó và vào nhà của chàng thanh niên Lê-vi, tức là nhà của Mi-ca và chào chàng. 16 Sáu trăm người Đan, trang bị đầy đủ vũ khí ra trận, đứng ở ngoài cổng. 17 Năm người đã đi do thám xứ vào trong lấy hình tượng, cái ê-phót, những tượng gia thần, và một pho tượng, trong khi thầy tế lễ và sáu trăm người trang bị đầy đủ vũ khí ra trận, đứng ở ngoài cổng. 18 Khi những người ấy vào trong nhà Mi-ca lấy hình tượng, cái ê-phót, những tượng gia thần, và một pho tượng, thì thầy tế lễ hỏi họ: “Các ông tính làm gì vậy?” 19 Họ bảo chàng: “Hãy im lặng! Xin lấy tay bịt miệng lại. Hãy theo chúng tôi, làm cha và làm thầy tế lễ của chúng tôi. Làm thầy tế lễ cho một bộ tộc và một tộc họ trong Y-sơ-ra-ên không tốt hơn là chỉ phục vụ cho một gia đình sao?” 20 Thầy tế lễ liền hoan hỉ chấp nhận. Người ấy lấy cái ê-phót, các tượng gia thần, và tấm hình tượng, rồi đi theo đoàn người ấy. 21 Người Đan sắp xếp cho các trẻ em, súc vật, và tài sản đi trước, rồi họ quay trở ra tiếp tục lên đường. 22 Khi họ đã đi được một khoảng xa, những người trong nhà Mi-ca và xóm giềng của Mi-ca hiệp nhau lại và đuổi theo người Đan. 23 Khi họ đến gần và kêu la đằng sau, người Đan liền quay lại và hỏi Mi-ca: “Ngươi có chuyện gì vậy? Ngươi nhóm hiệp những kẻ này đuổi theo là có ý gì?”
24 Mi-ca đáp: “Các ngươi cướp lấy những tượng thần của ta làm nên và bắt luôn thầy tế lễ của ta nữa. Vậy mà bây giờ các người còn hỏi: ‘Ngươi có chuyện gì vậy’ sao?”
25 Người Đan đáp với Mi-ca: “Ngươi đừng để chúng ta nghe tiếng của ngươi nữa, kẻo những kẻ nóng tính trong chúng ta tấn công ngươi, rồi ngươi và cả nhà ngươi sẽ mất mạng chăng.” 26 Vậy người Đan tiếp tục lên đường; còn Mi-ca, khi thấy họ mạnh hơn ông, ông quay lại và trở về nhà.
27 Rồi người Đan lấy những gì Mi-ca đã có, luôn cả thầy tế lễ của ông, và tiến đến La-ít, hãm đánh một dân sống an lành và không phòng bị. Họ dùng gươm đánh giết dân ấy và phóng hỏa đốt thành. 28 Chẳng có ai đến tiếp cứu dân ấy, vì họ sống cách xa Si-đôn và vì họ cũng không giao thiệp với ai. Thành ấy nằm trong thung lũng gần Bết Rê-hóp. Người Đan xây lại thành và định cư ở đó. 29 Họ đặt tên thành ấy là Đan, theo tên của con trai Y-sơ-ra-ên, tộc trưởng của họ, mặc dù thành ấy vốn được gọi là La-ít. 30 Tại đây người Đan lập cho họ những hình tượng, rồi lập Giô-na-than, con trai của Ghẹt-sôn, cháu của Môi-se, và hậu tự ông làm thầy tế lễ cho bộ tộc Đan cho đến khi xứ bị chiếm. 31 Họ tiếp tục thờ lạy những thần tượng do Mi-ca làm ra, trọn thời gian đền tạm của Đức Chúa Trời ở tại Si-lô.
Người Lê-vi Và Cô Vợ Bé
19 Trong lúc ấy, dân Y-sơ-ra-ên không có vua. Có một người Lê-vi sống ở một miền hẻo lánh trên cao nguyên Ép-ra-im. Người ấy có một cô vợ bé quê ở Bết-lê-hem, miền Giu-đa. 2 Nhưng nàng lỗi đạo với chồng, rồi bỏ chồng mà trở về nhà cha nàng ở Bết-lê-hem, miền Giu-đa. Sau khi nàng về đó được bốn tháng, 3 chồng nàng chỗi dậy, đến đó lấy lời ngọt ngào thuyết phục nàng trở về. Chồng nàng dẫn theo một đầy tớ và hai con lừa. Người phụ nữ mời chồng nàng vào nhà của cha nàng; khi cha nàng thấy con rể, ông vui mừng tiếp đón ân cần. 4 Nhạc phụ người ấy, tức là cha người phụ nữ, nài mời con rể ở lại, nên người con rể ở lại với ông ba ngày. Họ ăn uống với nhau và nghỉ đêm tại đó.
5 Đến ngày thứ tư, họ chỗi dậy sớm để từ giã ra đi, nhưng cha người phụ nữ nói với con rể rằng: “Hãy ăn miếng bánh cho vững bụng rồi các con hãy lên đường.” 6 Vậy, họ ngồi lại và hai người ăn uống với nhau. Ăn xong, cha người phụ nữ nói: “Con hãy ở lại một đêm nữa đi cho lòng con được vui vẻ.” 7 Người con rể đứng dậy toan từ giã ra về thì người cha vợ cứ nài nỉ mãi, nên ông ta đành ở lại đêm đó.
8 Qua ngày thứ năm, ông thức dậy sớm để ra đi, nhưng cha người phụ nữ nói: “Con hãy ngồi xuống đây ăn uống cho vui vẻ đã, cứ thong thả đến chiều rồi đi cũng được.” Vậy họ ăn uống với nhau và lần lửa đến chiều. 9 Khi ông, vợ bé ông và đầy tớ ông đứng lên để từ giã thì nhạc phụ ông nói: “Các con thấy đó, trời cũng đã về chiều rồi. Hay là các con ở lại thêm một đêm nữa đi. Thấy không, ngày đã gần tàn rồi. Thôi, hãy ở lại đây cho lòng các con được vui vẻ, rồi ngày mai hãy dậy sớm mà đi về.” 10 Tuy nhiên, người con rể không chịu ở lại nữa, nên chỗi dậy và lên đường. Người ấy với hai con lừa mang yên và người vợ bé đi ngang qua Giê-bu[e] 11 Khi họ đến gần Giê-bu thì ngày đã gần tàn; người đầy tớ bèn nói với chủ: “Thưa ông, chúng ta hãy rẽ vào thành của dân Giê-bu-sít này và qua đêm ở đó đi.” 12 Nhưng người chủ nói: “Chúng ta sẽ không vào thành của dân ngoại, là những người không phải là con cái của Y-sơ-ra-ên đâu. Chúng ta sẽ ráng đến Ghi-bê-a.” 13 Người chủ lại nói với người đầy tớ: “Cố gắng lên. Chúng ta hãy đến một trong các thành đằng trước, hoặc Ghi-bê-a hoặc Ra-ma, và qua đêm tại đó.” 14 Rồi họ vượt qua nơi ấy và tiếp tục cuộc hành trình. Khi họ đến Ghi-bê-a, thuộc địa phận của bộ tộc Bên-gia-min thì mặt trời đã lặn. 15 Họ bèn vào thành Ghi-bê-a và định qua đêm ở đó. Vào thành rồi, họ đến ngồi ở một nơi công cộng của thành, nhưng không ai mời họ vào nhà để qua đêm. 16 Bấy giờ, lúc trời đã chạng vạng, có một cụ già đi làm ở ngoài đồng về. Cụ là người quê quán ở cao nguyên Ép-ra-im, nhưng bây giờ cụ sống ở Ghi-bê-a, là thành của người Bên-gia-min. 17 Khi cụ ngước mắt lên và thấy khách lữ hành ở nơi công cộng của thành, cụ liền đến hỏi: “Ông đang trên đường về đâu? Ông từ đâu đến đây?” 18 Lữ khách đáp: “Chúng tôi từ Bết-lê-hem miền Giu-đa đi ngang qua đây để về một miền hẻo lánh trên cao nguyên Ép-ra-im. Tôi vốn là người ở đó. Tôi đã đi Bết-lê-hem miền Giu-đa. Nay chúng tôi vào nhà của CHÚA. Nhưng không ai muốn tiếp chúng tôi vào nhà. 19 Mặc dù chúng tôi có rơm và cỏ cho lừa, bánh và rượu cho tôi là tôi tớ cụ, cho người tớ gái này của cụ, và cho người bạn trẻ đi với chúng tôi. Chúng tôi không thiếu món gì.” 20 Cụ già nói: “Xin các vị cứ an tâm. Những nhu cầu của các vị hãy để lão lo. Chỉ mong là các vị đừng ngủ qua đêm ngoài đường.” 21 Vậy cụ mời họ vào nhà, và cho các lừa của khách ăn. Rồi họ rửa chân và ăn uống với nhau. 22 Đang khi họ ăn uống vui vẻ với nhau, thình lình một đám người trong thành, là những kẻ trái thói tình dục, đến vây quanh nhà và đập cửa. Chúng nói với chủ nhà: “Hãy đem người đàn ông đã vào nhà ông ra đây, để chúng tôi ăn nằm với hắn.” 23 Nhưng ông cụ, là chủ nhà, ra nói với chúng rằng: “Hỡi anh em! Xin đừng. Tôi năn nỉ anh em, đừng làm chuyện ác đức đó. Vì người ấy đang làm khách trong nhà tôi. Xin anh em đừng làm chuyện đồi bại ấy. 24 Kìa, con gái của tôi vẫn còn trinh và cô vợ bé của người ấy đây. Để tôi dẫn họ ra cho anh em. Anh em muốn hãm hiếp họ hay làm gì với họ tuỳ ý, nhưng đối với người đó, xin anh em đừng làm chuyện đồi bại ấy.” 25 Nhưng đám người đó không chịu nghe lời cụ. Vậy người khách đành phải trao cô vợ bé mình ra. Chúng hãm hiếp nàng và lăng nhục nàng thâu đêm; đến khi gần sáng chúng thả nàng ra. 26 Khoảng rạng đông, nàng ráng sức trở về nơi chồng nàng tạm trú; về đến nơi, nàng ngã dài trước cửa và nằm đó cho đến khi trời sáng hẳn. 27 Đến sáng, chồng nàng thức dậy, mở cửa, để chuẩn bị lên đường, thì thấy người vợ bé của mình đang nằm dài trước cửa, hai tay bíu vào ngạch cửa. 28 Người chồng nói: “Em ráng đứng dậy, chúng ta hãy đi về.” Nhưng không có tiếng trả lời. Vậy ông bồng nàng lên, để trên lưng lừa, rồi từ giã và trở về nhà mình. 29 Khi về đến nhà, ông lấy một con dao, cắt đứt tay chân và thi thể của vợ bé ông ra thành mười hai mảnh, rồi gởi chúng đi khắp cõi Y-sơ-ra-ên. 30 Hết thảy những ai thấy vậy đều nói: “Từ lúc con cái Y-sơ-ra-ên lên khỏi Ai-cập cho đến nay, chưa hề có ai làm hay thấy một việc như thế bao giờ. Hãy nghĩ xem. Hãy bàn luận coi, và hãy nói ra cho biết là việc gì.”
Trừng Phạt Chi Tộc Bên-gia-min
20 Bấy giờ toàn dân Y-sơ-ra-ên từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba, và luôn cả miền Ga-la-át tụ họp lại như một người trước mặt CHÚA tại Mích-ba. 2 Những lãnh tụ của dân, tức của mười hai bộ tộc Y-sơ-ra-ên, đều hiện diện đông đủ trong đại hội của con dân Đức Chúa Trời. Có bốn trăm ngàn người mang gươm về tụ họp. 3 Người Bên-gia-min cũng biết dân Y-sơ-ra-ên đã tụ họp tại Mích-ba. Đoạn dân Y-sơ-ra-ên nói: “Hãy nói cho chúng tôi biết việc ác này đã xảy ra làm sao.”
4 Vậy người Lê-vi, là chồng của người phụ nữ bị giết, đáp: “Tôi và vợ bé của tôi có đến Ghi-bê-a thuộc bộ tộc Bên-gia-min để qua đêm. 5 Ban đêm, một đám đàn ông ở Ghi-bê-a tìm đến, bao quanh nhà, tính giết tôi. Họ đã hãm hiếp vợ bé tôi, và vì thế nàng đã chết. 6 Tôi có cắt người vợ bé tôi ra từng mảnh và gởi mỗi mảnh cho mỗi miền của cơ nghiệp Y-sơ-ra-ên. Bởi vì họ có làm điều đê tiện và ô nhục này trong Y-sơ-ra-ên. 7 Bây giờ, hỡi tất cả Y-sơ-ra-ên, anh em hãy nói đi, chúng ta phải giải quyết việc này ra sao.”
8 Toàn dân đều đứng dậy như một người và nói: “Không ai trong chúng ta về nhà. Không một ai trong chúng ta được đi về nhà mình cả. 9 Nhưng đây là việc chúng ta phải làm cho Ghi-bê-a. Chúng ta sẽ bắt thăm và cứ theo đó mà lên đánh thành ấy. 10 Trong mỗi bộ tộc của Y-sơ-ra-ên, chúng ta sẽ lấy mười người trong một trăm, trăm người trong một ngàn, ngàn người trong một vạn, để họ đi lo lương thực cho chúng ta. Khi họ trở lại, chúng ta sẽ xử Ghi-bê-a của Bên-gia-min tùy theo sự ô nhục mà thành ấy đã gây ra trong Y-sơ-ra-ên.”
11 Vậy toàn dân Y-sơ-ra-ên hiệp nhau như một người để tiến đánh thành ấy. 12 Các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên sai sứ giả đến khắp miền của bộ tộc Bên-gia-min nói rằng: “Tội ác kinh khủng đã phạm giữa anh em là chi? 13 Hãy nộp cho chúng tôi những tên tội phạm ở Ghi-bê-a để chúng tôi xử tử chúng, và tẩy trừ việc ác này khỏi Y-sơ-ra-ên.” Nhưng người Bên-gia-min không chịu nghe lời yêu cầu của anh em mình, là người Y-sơ-ra-ên. 14 Họ ra khỏi thành họ và hiệp nhau tại Ghi-bê-a để đánh lại người Y-sơ-ra-ên. 15 Khi ấy, người Bên-gia-min động viên được hai mươi sáu ngàn người, thảy đều là những tay kiếm tài ba, từ các thành của họ kéo về. Thêm vào đó, tại Ghi-bê-a, họ cũng chọn được bảy trăm tay kiếm nữa. 16 Trong số những người Bên-gia-min này, có bảy trăm người thuận tay trái. Mỗi người đều có tài sử dụng trành ném đá. Họ có thể ném trúng một sợi tóc mà không trật.
17 Dân Y-sơ-ra-ên, không kể người Bên-gia-min, cũng triệu tập được bốn trăm ngàn tay kiếm. Tất cả đều là những chiến sĩ.
18 Người Y-sơ-ra-ên lên Bê-tên và cầu hỏi Đức Chúa Trời. Họ nói: “Ai trong chúng con sẽ lên đánh Bên-gia-min trước?”
CHÚA đáp: “Giu-đa sẽ đi trước.”
19 Sáng hôm sau, dân Y-sơ-ra-ên dậy sớm và hạ trại gần Ghi-bê-a. 20 Dân Y-sơ-ra-ên ra đánh người Bên-gia-min. Họ dàn trận để giao chiến tại Ghi-bê-a. 21 Người Bên-gia-min ra khỏi Ghi-bê-a và chém gục hai mươi hai ngàn người Y-sơ-ra-ên trong trận chiến ngày hôm ấy. 22 Nhưng người Y-sơ-ra-ên khích lệ nhau và ra dàn trận nơi họ đã dàn trận ngày hôm trước. 23 Người Y-sơ-ra-ên đi lên và khóc trước mặt CHÚA cho đến chiều tối. Họ cầu hỏi CHÚA rằng: “Chúng con có nên đi lên dàn trận giao chiến với người Bên-gia-min, là anh em của chúng con chăng?”
CHÚA đáp: “Hãy lên đánh chúng.”
24 Vậy, ngày thứ nhì, người Y-sơ-ra-ên kéo đến đánh người Bên-gia-min. 25 Trong ngày thứ nhì đó, người Bên-gia-min từ trong Ghi-bê-a kéo ra nghinh chiến, và họ đã hạ sát thêm mười tám ngàn người Y-sơ-ra-ên; tất cả đều là những tay kiếm bản lĩnh.
26 Bấy giờ tất cả người Y-sơ-ra-ên đi lên Bê-tên; họ ngồi đó và khóc trước mặt CHÚA. Họ kiêng ăn cho đến chiều tối ngày hôm đó. Họ dâng những tế lễ thiêu và tế lễ cầu an lên CHÚA. 27 Rồi họ cầu hỏi CHÚA, trong lúc ấy, Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời để tại đó. 28 Có Phi-nê-a, con của Ê-lê-a-sa, cháu của A-rôn đang phục vụ trước mặt CHÚA. Họ hỏi: “Chúng con có nên đi lên dàn trận giao chiến với người Bên-gia-min, là anh em của chúng con, hay là chúng con nên ngưng lại?”
CHÚA phán: “Hãy đi. Ngày mai Ta sẽ phó chúng nó vào tay các ngươi.”
29 Người Y-sơ-ra-ên bèn đặt binh phục chung quanh Ghi-bê-a. 30 Ngày thứ ba, họ kéo lên dàn trận trước Ghi-bê-a để giao chiến với người Bên-gia-min như đã làm hai ngày trước. 31 Người Bên-gia-min đi ra đánh họ và bị dụ ra xa thành. Chúng bắt đầu đánh giết người Y-sơ-ra-ên như đã làm trong hai ngày trước. Vậy chúng đánh giết được khoảng ba mươi người Y-sơ-ra-ên ngoài đồng và trên những con đường nối liền giữa Bê-tên và Ghi-bê-a. 32 Người Bên-gia-min nói với nhau: “Chúng ta đánh bại chúng như lần trước.” Còn người Y-sơ-ra-ên thì nói: “Chúng ta hãy theo các đường cái mà rút lui và dụ chúng đi xa khỏi thành.” 33 Bấy giờ toàn quân Y-sơ-ra-ên chỗi dậy khỏi chỗ mình và kéo đến dàn trận tại Ba-anh Tha-ma, còn đội quân phục kích cũng chỗi dậy và tấn công vào phía tây của Ghi-bê-a. 34 Rồi mười ngàn quân tinh nhuệ của Y-sơ-ra-ên tấn công vào mặt chính của Ghi-bê-a. Trận chiến thật dữ dội, trong khi người Bên-gia-min không biết thảm họa đã gần kề. 35 CHÚA đã đánh bại người Bên-gia-min trước mặt người Y-sơ-ra-ên. Trong ngày ấy, người Y-sơ-ra-ên đánh hạ hai mươi lăm ngàn một trăm người Bên-gia-min. Tất cả đều là những tay kiếm giỏi. 36 Khi ấy người Bên-gia-min biết rằng chúng đã bại trận.
Lúc bấy giờ người Y-sơ-ra-ên nhượng bộ trước sự tấn công của người Bên-gia-min, bởi vì họ tin tưởng vào đội quân phục kích họ đã đặt gần Ghi-bê-a. 37 Đội quân phục kích đã đột ngột tấn công vào thành Ghi-bê-a. Họ tràn ra khắp thành và dùng gươm giết tất cả mọi người trong thành. 38 Người Y-sơ-ra-ên có giao hẹn với đội quân phục kích rằng khi chiếm được thành họ phải đốt lên trong thành một luồng khói lớn để làm hiệu, 39 thì bấy giờ người Y-sơ-ra-ên sẽ quay lại chiến đấu.
Lúc người Bên-gia-min bắt đầu tiến đánh và giết hại khoảng ba mươi người Y-sơ-ra-ên, chúng nói: “Chúng ta đánh bại chúng như trận trước.” 40 Nhưng khi cột khói bắt đầu bốc lên trong thành, người Bên-gia-min quay lại và thấy cả thành đều bốc khói lên trời. 41 Bấy giờ người Y-sơ-ra-ên quay lại tấn công, còn người Bên-gia-min thì hoảng sợ, bởi vì chúng nhận biết rằng tai họa sắp giáng xuống trên chúng. 42 Vậy chúng quay lưng chạy trốn trước mặt người Y-sơ-ra-ên vào hướng sa mạc, nhưng chúng chẳng thể tránh chiến đấu được; dân quân từ các thành bủa ra chém giết chúng. 43 Người ta bao vây người Bên-gia-min, liên tục truy kích chúng, và triệt hạ chúng trong vùng gần Ghi-bê-a, về hướng đông. 44 Mười tám ngàn người Bên-gia-min đã ngã chết; tất cả đều là những chiến sĩ dũng cảm. 45 Khi chúng quay lưng chạy trốn vào sa mạc, về hướng vầng đá Rim-môn, thì dọc các đường chính đã có thêm năm ngàn người bị giết. Chúng cũng bị truy đuổi tận đến Ghi-đôm và có hai ngàn người nữa bị giết. 46 Vậy tổng số người Bên-gia-min bị giết trong ngày ấy là hai mươi lăm ngàn; hết thảy đều là những tay kiếm can trường. 47 Nhưng có sáu trăm người quay lưng chạy trốn vào sa mạc và đến ẩn núp tại vầng đá Rim-nôm được bốn tháng. 48 Rồi người Y-sơ-ra-ên quay về thanh toán dân Bên-gia-min. Họ dùng gươm diệt tất cả dân chúng, súc vật, và bất cứ những gì còn lại trong các thành của người Bên-gia-min. Đến thành nào họ cũng đều phóng hỏa thiêu rụi thành ấy.
Cứu Người Bên-gia-min Khỏi Bị Tuyệt Chủng
21 Khi ấy, người Y-sơ-ra-ên có thề với nhau tại Mích-ba rằng: “Không ai trong chúng ta sẽ gả con gái mình làm vợ người Bên-gia-min.” 2 Rồi dân chúng kéo đến Bê-tên và ngồi tại đó trước mặt Đức Chúa Trời cho đến chiều tối. Họ cất tiếng lớn khóc cách đắng cay rằng: 3 “Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; tại sao điều này lại xảy đến cho Y-sơ-ra-ên? Tại sao ngày nay chúng con bị thiếu mất đi một bộ tộc?”
4 Hôm sau, dân chúng dậy sớm, dựng một bàn thờ tại đó, rồi dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an. 5 Bấy giờ họ nói: “Có gia tộc nào trong tất cả các gia tộc của Y-sơ-ra-ên không đến dự đại hội trước mặt CHÚA không?” Vì họ có lập một lời thề long trọng về việc không đến trước mặt CHÚA tại Mích-ba rằng: “Ai không đến sẽ bị xử tử.” 6 Người Y-sơ-ra-ên ân hận về việc người Bên-gia-min, anh em của họ, và nói: “Ngày nay, một bộ tộc đã bị dứt khỏi Y-sơ-ra-ên. 7 Chúng ta phải làm sao để kiếm vợ cho những người còn sót lại, vì chúng ta có thề trước mặt CHÚA rằng chúng ta sẽ không gả con gái chúng ta làm vợ cho chúng?”
8 Rồi họ nói: “Có ai trong các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên không đến trước mặt CHÚA tại Mích-ba chăng?” Họ khám phá ra rằng chẳng có ai từ gia tộc Gia-bê ở Ga-la-át có mặt ở trại quân trong ngày đại hội. 9 Vì khi điểm danh dân chúng không có người nào trong gia tộc của Gia-bê ở Ga-la-át có mặt tại đó. 10 Vậy hội chúng liền phái mười hai ngàn quân đến đó với lệnh rằng: “Hãy đi, dùng gươm diệt tất cả dân Gia-bê ở Ga-la-át, kể cả phụ nữ và trẻ em. 11 Đây là điều các ngươi phải làm: các ngươi phải diệt tất cả những người nam và những người nữ nào đã ăn nằm với một người nam.” 12 Chúng tìm thấy trong dân Gia-bê ở Ga-la-át có bốn trăm trinh nữ, là những người chưa hề ăn nằm với một người nam nào, rồi chúng đưa các trinh nữ ấy về trại quân tại Si-lô, trong xứ Ca-na-an. 13 Đoạn cả hội chúng phái người đến gặp người Bên-gia-min đang ẩn núp tại vầng đá Rim-môn để làm hòa với họ. 14 Người Bên-gia-min bèn trở về. Họ ban cho những người Bên-gia-min này những thiếu nữ mà họ đã giữ mạng lại trong vòng những phụ nữ của Gia-bê ở Ga-la-át; nhưng số thiếu nữ đó không đủ cho chúng. 15 Dân chúng ân hận về việc họ đã làm đối với bộ tộc Bên-gia-min, bởi vì CHÚA đã cho có một chỗ bị khuyết trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên. 16 Vậy các trưởng lão của hội chúng nói: “Chúng ta phải làm gì cho những người còn lại mà không có vợ, vì không còn phụ nữ nào sót lại trong gia tộc Bên-gia-min nữa?” 17 Vì họ nói: “Phải có người thừa hưởng phần sản nghiệp dành cho bộ tộc Bên-gia-min còn sót lại, hầu cho một bộ tộc không bị xóa khỏi Y-sơ-ra-ên. 18 Trong khi đó chúng ta lại không thể gả con gái chúng ta cho chúng làm vợ.” Vì người Y-sơ-ra-ên đã có thề: “Đáng rủa sả thay cho kẻ gả con gái làm vợ người Bên-gia-min.” 19 Vậy họ nói: “Hãy xem, hằng năm đều có kỳ lễ cho CHÚA tại Si-lô, trong khu vực về phía bắc của Bê-tên, bên phía đông con đường đi từ Bê-tên lên Si-chem, và phía nam Lê-bô-na.” 20 Họ bảo người Bên-gia-min: “Hãy đi, nằm phục trong các vườn nho; 21 và để ý, khi nào thấy các thiếu nữ ở Si-lô ra múa hát, thì các ngươi hãy ra khỏi các vườn nho và mỗi người bắt cóc lấy một thiếu nữ để làm vợ cho mình, rồi trở về trong đất Bên-gia-min. 22 Nếu cha và anh của chúng có đến kiện cáo với chúng ta, thì chúng ta sẽ bảo họ: ‘Thôi hãy rộng lượng và thông cảm cho chúng tôi mà gả các cháu cho họ đi. Vì trong trận chiến vừa qua, chúng ta không kiếm đủ cho họ mỗi người được một người vợ. Hơn nữa anh em cũng đâu có mắc phải lời thề.’ ” 23 Người Bên-gia-min bèn làm như vậy. Mỗi người ra bắt cóc cho mình một cô thiếu nữ làm vợ. Rồi họ trở về lãnh thổ của Bên-gia-min. Họ xây dựng lại thành trì và sống ở đó. 24 Còn người Y-sơ-ra-ên thì rời khỏi nơi đó và trở về bộ tộc và gia tộc của mình. Ai nấy đều rời khỏi nơi đó mà trở về lãnh thổ của mình. 25 Trong lúc ấy, dân Y-sơ-ra-ên không có vua; ai nấy đều làm theo ý mình cho là phải.
Gia Đình Ê-li-mê-léc Qua Mô-áp
1 Trong thời các thẩm phán trị vì, có một cơn đói kém trong xứ; có một người ở Bết-lê-hem, xứ Giu-đa, đưa vợ và hai con trai mình qua nước Mô-áp sinh sống. 2 Người chồng tên là Ê-li-mê-léc, vợ tên Na-ô-mi, hai con trai tên là Mạc-lôn và Ki-li-ôn. Họ vốn là người Ê-phơ-rát, ở Bết-lê-hem, xứ Giu-đa. Họ đến nước Mô-áp và định cư tại đó. 3 Nhưng Ê-li-mê-léc, chồng của Na-ô-mi, qua đời, để bà và hai con lại. 4 Hai người con này lấy phụ nữ Mô-áp làm vợ. Một cô tên là Ọt-ba và một cô tên là Ru-tơ. Họ sống tại đó khoảng mười năm. 5 Kế đó, cả Mạc-lôn và Ki-li-ôn đều qua đời, để Na-ô-mi lại không chồng không con.
Na-ô-mi Và Các Nàng Dâu Mô-áp
6 Bấy giờ Na-ô-mi và hai con dâu mình chỗi dậy, rời nước Mô-áp để hồi hương, vì lúc ở Mô-áp bà có nghe rằng CHÚA đã đoái thăm dân Ngài và ban cho họ thực phẩm. 7 Vậy bà cùng hai nàng dâu rời bỏ nơi mình đang sống, lên đường trở về xứ Giu-đa. 8 Nhưng Na-ô-mi nói cùng hai con dâu mình rằng: “Các con hãy trở về nhà của mẹ các con đi. Cầu xin CHÚA đối xử tốt với các con, như các con đã đối xử tốt với những người đã qua đời và với mẹ. 9 Nguyện xin CHÚA ban phước cho các con, người nào cũng được an vui trong nhà chồng mới của mình.” Rồi bà hôn họ và họ khóc nức nở.
10 Họ nói với bà: “Không, chúng con sẽ đi với mẹ, cùng về quê hương của mẹ.”
11 Nhưng Na-ô-mi đáp: “Hãy trở về đi, các con gái của mẹ, tại sao các con muốn đi với mẹ? Trong lòng mẹ đâu còn con trai nữa để có thể làm chồng các con? 12 Hãy về đi, các con gái của mẹ. Hãy đi đi. Vì mẹ đã quá già để lấy chồng nữa. Ví dù mẹ nghĩ rằng mẹ vẫn còn hy vọng tái giá. Dù mẹ lấy chồng tối nay và có con trai; 13 liệu các con có thể đợi cho đến khi chúng khôn lớn sao? Các con há có thể không lấy chồng khác sao? Không đâu, các con gái của mẹ ơi, nỗi sầu khổ của mẹ còn đắng cay hơn của các con nhiều. Bởi vì CHÚA đã đưa tay ra nghịch lại mẹ.”
14 Bấy giờ họ lại khóc lớn tiếng nữa. Rồi Ọt-ba ôm hôn và từ giã mẹ chồng mình, nhưng Ru-tơ cứ bám lấy bà. 15 Na-ô-mi bèn nói: “Con xem đó, chị dâu con đã trở về cùng dân tộc nó và cùng các thần của nó; con cũng hãy đi theo chị dâu con đi.”
16 Nhưng Ru-tơ đáp: “Xin mẹ đừng ép con rời xa mẹ, hay bắt con phải trở về mà không theo mẹ. Vì mẹ đi đâu, con sẽ theo đó. Mẹ ở nơi nào, con cũng sẽ ở nơi đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, Đức Chúa Trời của mẹ là Đức Chúa Trời của con. 17 Mẹ chết nơi nào, con cũng muốn chết và được chôn nơi đó. Ngoài sự chết, ví bằng có điều chi phân cách con với mẹ, nguyện xin CHÚA giáng họa trên con.”
18 Khi Na-ô-mi thấy Ru-tơ đã quyết chí theo mình, bà không nói thêm với nàng một điều gì nữa.
19 Vậy hai người lên đường đi về Bết-lê-hem. Khi họ vừa đến Bết-lê-hem, cả thành đều xôn xao về hai người. Các bà hỏi nhau: “Có phải đây là Na-ô-mi chăng?”
20 Na-ô-mi đáp: “Xin đừng gọi tôi là Na-ô-mi[f] nữa, nhưng hãy gọi tôi là Ma-ra,[g] vì Đấng Toàn Năng đã đãi tôi cách đắng cay. 21 Tôi ra đi đầy dẫy, nhưng CHÚA đã đem tôi về tay không. Tại sao còn gọi tôi là Na-ô-mi làm chi, trong khi CHÚA đã đãi tôi cách khắc nghiệt, và Đấng Toàn Năng đã giáng họa trên tôi?”
22 Vậy, Na-ô-mi cùng với Ru-tơ, con dâu mình là người Mô-áp, từ nước Mô-áp trở về. Họ đến Bết-lê-hem nhằm đầu mùa gặt.
Ru-tơ Gặp Bô-ô
2 Bấy giờ Na-ô-mi có một người bà con bên chồng, một người khá giàu có, thuộc giòng họ Ê-li-mê-léc, tên là Bô-ô.
2 Ru-tơ, người Mô-áp, thưa cùng Na-ô-mi: “Xin mẹ cho con ra đồng mót lúa. Con sẽ đi sau người nào mà con được ơn trước mặt họ.”
Na-ô-mi nói cùng nàng: “Con hãy đi, con gái ta.”
3 Vậy Ru-tơ đi. Nàng theo sau những thợ gặt và mót lúa. Không ngờ nàng đến nhằm cánh đồng của Bô-ô, là người giòng họ Ê-li-mê-léc. 4 Bấy giờ, Bô-ô từ Bết-lê-hem ra, nói với các thợ gặt: “Nguyện xin CHÚA ở cùng các người.”
Họ đáp: “Nguyện xin CHÚA ban phước cho ông.”
5 Rồi Bô-ô hỏi người đầy tớ trông coi các thợ gặt: “Người thiếu nữ kia là con ai vậy?”
6 Người đầy tớ trông coi các thợ gặt trả lời: “Cô ấy là người Mô-áp, đã theo Na-ô-mi từ nước Mô-áp trở về. 7 Cô ấy có xin rằng: ‘Làm ơn cho tôi theo sau các thợ gặt để mót các gié lúa.’ Cô ấy đến đây mót lúa từ sáng đến giờ, ngoại trừ chỉ nghỉ dưới chòi một chút.”
8 Bấy giờ Bô-ô nói cùng Ru-tơ: “Hãy nghe đây, con gái ta, đừng đi đến ruộng khác mót lúa, hay rời khỏi đám ruộng này, nhưng hãy theo sát các cô thợ gặt của ta. 9 Hãy để ý xem các thợ gặt của ta gặt ở đám ruộng nào, con hãy theo họ đến đám ruộng đó. Ta đã dặn các tá điền không được khuấy phá con. Nếu con có khát, hãy lại uống nước trong các vò do các tá điền ta mang đến kia.”
10 Ru-tơ bèn sấp mặt xuống đất và nói rằng: “Bởi đâu mà con được ơn trước mặt ông như thế này, làm sao ông lại để ý đến con, trong khi con là một người ngoại quốc?”
11 Bô-ô đáp: “Tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng con, từ lúc chồng con qua đời, người ta đều thuật lại cho ta nghe cả rồi. Thể nào con đã lìa cha mẹ con và xứ sở con mà đến sống cùng một dân tộc mà con chưa biết trước. 12 Nguyện CHÚA ban thưởng cho con vì những việc con làm. Nguyện CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng con đã chọn đến núp dưới bóng cánh Ngài, ban thưởng cho con thật đầy đủ.”
13 Ru-tơ đáp: “Thưa ông, nguyện con tiếp tục được ơn trước mặt ông, vì ông đã yên ủi con và dùng những lời tử tế nói cùng kẻ tôi tớ ông, mặc dù con biết mình không bằng một tớ gái của ông.”
14 Đến bữa ăn, Bô-ô nói cùng nàng: “Con hãy lại đây, mời con ăn bánh và chấm bánh vào nước giấm chua này.” Vậy nàng ngồi bên cạnh các thợ gặt, và Bô-ô cũng đem bắp rang mời nàng ăn. Nàng ăn no nê và để dành phần còn dư lại. 15 Xong, nàng đứng dậy mót lúa tiếp.
Bô-ô dặn các đầy tớ: “Hãy để cho nàng mót lúa, dẫu nàng có mót giữa những bó lúa, cũng đừng trách nàng. 16 Các ngươi cũng hãy rút những gié lúa trong bó ra, bỏ rơi, để cho nàng mót, và đừng quở trách nàng điều gì.”
17 Vậy nàng mót đến chiều tối. Rồi nàng đập lúa mình đã mót và gom được chừng một ê-pha[h] lúa mạch. 18 Nàng mang số lúa mình đã mót được vào trong thành. Mẹ chồng nàng thấy số lúa nàng đã mót được. Bấy giờ nàng lấy thức ăn dư nàng đã đem về ra, mời mẹ chồng ăn.
19 Mẹ chồng nàng hỏi: “Hôm nay con mót lúa ở đâu? Con đã làm việc ở ruộng của ai? Phước cho người đã lưu ý đến con.”
Vậy nàng nói cho mẹ chồng nghe mình đã làm việc ở ruộng của ai. Nàng đáp: “Tên của người chủ ruộng mà con đã làm việc hôm nay là Bô-ô.”
20 Na-ô-mi bèn nói cùng dâu mình: “Nguyện CHÚA là Đấng không ngừng ban phước cho người sống và người chết, ban phước cho người ấy.” Na-ô-mi lại nói tiếp: “Người ấy là bà con của chúng ta, cũng là người có quyền chuộc lại sản nghiệp cho chúng ta.”
21 Ru-tơ, người Mô-áp, nói cùng bà: “Người ấy cũng bảo con: ‘Hãy theo thợ gặt của ta, cho đến khi xong mùa gặt.’ ”
22 Na-ô-mi nói cùng nàng: “Hỡi con gái của mẹ, mẹ thấy tốt hơn là con cứ theo các cô thợ gặt của người ấy, vì con có thể gặp rắc rối nếu con đi mót lúa ở ruộng khác.”
23 Vậy nàng cứ đi theo sát các cô thợ gặt của Bô-ô, mà mót lúa cho đến cuối mùa gặt lúa mạch và lúa mì. Và như thế nàng sống với mẹ chồng mình.
Ru-tơ Và Bô-ô Ở Sân Đạp Lúa
3 Na-ô-mi, mẹ chồng nàng, nói với nàng: “Hỡi con gái của mẹ, mẹ cần phải lo cho con một chỗ an thân, để con sẽ được hạnh phúc. 2 Này, con đã theo các tớ gái của Bô-ô, bà con của chúng ta để làm việc. Tối nay, người ấy sẽ đập lúa mạch ở sân đập lúa. 3 Bây giờ con hãy tắm rửa, xức dầu thơm, mặc bộ đồ đẹp nhất, rồi xuống sân đập lúa; nhưng đừng để ai biết, đợi cho đến khi người ấy ăn uống xong. 4 Khi người ấy nằm xuống, hãy để ý xem người nằm chỗ nào; bấy giờ con hãy đến, giở mền dưới chân người và nằm xuống, rồi người sẽ bảo con điều phải làm.”
5 Nàng đáp cùng bà: “Mọi điều mẹ bảo, con sẽ làm theo.”
6 Vậy nàng đến sân đập lúa và làm y theo điều mẹ chồng nàng đã dạy bảo. 7 Khi Bô-ô đã ăn uống xong, lòng đầy sảng khoái, người đến nằm ngủ nơi chân đống lúa mạch. Nàng bèn sẽ lén đến giở mền dưới chân người và nằm xuống. 8 Đến nửa đêm, Bô-ô giật mình, trở giấc, và thấy, kìa nằm dưới chân mình là một phụ nữ. 9 Người hỏi: “Người là ai?”
Nàng đáp: “Con là Ru-tơ, đứa tớ gái của ông, xin ông hãy giăng mền ra đắp trên tớ gái ông; vì ông là người có quyền chuộc lại sản nghiệp cho con.”
10 Người đáp: “Hỡi con gái ta, nguyện CHÚA ban phước cho con. Việc trung thành con làm lần cuối này còn trọng hơn việc con đã làm trước kia. Con chẳng theo những thanh niên trẻ, bất kể nghèo hay giàu. 11 Vậy bây giờ, hỡi con gái ta, đừng sợ, ta sẽ làm cho con mọi điều con yêu cầu, vì tất cả mọi người trong dân ta đều biết rằng con là một thiếu phụ hiền đức. 12 Nhưng bây giờ, dầu ta đúng là người bà con gần, vẫn còn có một người bà con khác gần hơn ta. 13 Con hãy cứ ở đây đêm nay; đến sáng mai, nếu người ấy muốn chuộc lại sản nghiệp con thì tốt; nhưng nếu người ấy không muốn chuộc sản nghiệp con lại, thì ta chỉ CHÚA Hằng Sống mà thề rằng: Ta sẽ chuộc sản nghiệp của con lại cho con. Hãy nằm xuống và ngủ cho đến sáng.”
14 Vậy nàng nằm ngủ nơi chân người cho đến sáng, nhưng nàng dậy sớm trước khi mọi người có thể nhận ra nhau, vì Bô-ô có nói rằng: “Không nên để cho người ta biết là đã có một phụ nữ đến sân đạp lúa.” 15 Bấy giờ Bô-ô nói: “Hãy giơ vạt áo con đang mặc ra và giữ chặt.” Vậy nàng giơ vạt áo ra, người bèn trút vào đó sáu đấu lúa mạch, và bảo nàng đem về; rồi người trở vào thành.
16 Nàng về nhà gặp mẹ chồng mình, bà hỏi: “Sự việc ra sao con?”[i] Nàng kể lại cho bà mọi điều Bô-ô đã làm cho nàng 17 và tiếp rằng: “Người ấy có cho con sáu đấu lúa mạch này, vì nói rằng: ‘Đừng đi tay không về gặp mẹ chồng.’ ”
18 Bà nói: “Hỡi con gái ta, hãy chờ xem, để mọi sự diễn tiến ra sao. Vì hôm nay, nếu chưa giải quyết xong việc này, người ấy sẽ không nghỉ đâu.”
Hôn Nhân Của Bô-ô Và Ru-tơ
4 Bô-ô đi đến cửa thành và ngồi xuống, chẳng bao lâu thì người bà con có quyền chuộc tài sản mà Bô-ô đã nói, đi qua. Bô-ô bèn nói: “Mời anh đến đây và ngồi xuống.” Người ấy lại gần và ngồi xuống. 2 Bô-ô mời mười vị trưởng lão trong thành lại và nói: “Kính mời quý vị ngồi đây.” Các trưởng lão bèn ngồi xuống. 3 Bấy giờ Bô-ô nói với người có quyền chuộc sản nghiệp rằng: “Na-ô-mi đã từ nước Mô-áp trở về, muốn bán miếng đất thuộc về Ê-li-mê-léc, là bà con chúng ta. 4 Nên tôi nghĩ tôi phải cho anh biết và xin anh rằng: trước mặt những người ngồi đây và trước mặt quý vị trưởng lão trong dân, xin anh hãy mua miếng đất ấy đi. Nếu anh muốn chuộc sản nghiệp đó, xin anh hãy chuộc nó đi. Còn không, xin anh hãy nói ra cho tôi biết. Vì trước anh, không ai có quyền đó; còn sau anh, quyền đó thuộc về tôi.”
Người ấy đáp: “Tôi sẽ chuộc miếng đất ấy.”
5 Bô-ô lại nói: “Ngày anh làm sở hữu chủ cánh đồng lúa của Na-ô-mi cũng là ngày anh phải tiếp nhận Ru-tơ, người Mô-áp, góa phụ của người đã chết, để nối danh người chết trên sản nghiệp người.”
6 Nghe thế, người có quyền chuộc sản nghiệp nói: “Nếu vậy, tôi không thể chuộc sản nghiệp ấy được, vì nó có thể tổn hại đến sản nghiệp của tôi. Xin anh hãy nhận lấy quyền chuộc sản nghiệp ấy đi. Vì tôi không thể chuộc nó được.”
7 Khi ấy, trong dân Y-sơ-ra-ên có tục lệ về việc chuộc mua hay đổi chác rằng: Để xác quyết sự giao dịch, người này phải cởi một chiếc giầy của mình mà trao cho người kia. Đây là cách mà người Y-sơ-ra-ên thỏa thuận với nhau trong việc khế ước ngày xưa. 8 Vậy, người có quyền chuộc sản nghiệp nói cùng Bô-ô: “Xin anh hãy chuộc mua sản nghiệp đó đi.” Rồi người cởi chiếc giầy của mình ra.
9 Bấy giờ Bô-ô nói cùng các vị trưởng lão và cả dân chúng rằng: “Hôm nay quý vị là những người làm chứng rằng tôi chuộc miếng đất nơi tay của Na-ô-mi, cùng tất cả những gì thuộc về Ê-li-mê-léc, và tất cả những gì thuộc về Ki-li-ôn và Mạc-lôn. 10 Tôi cũng xin nhận Ru-tơ, người Mô-áp, vợ của Mạc-lôn, để làm vợ tôi, và để nối danh người chết trên sản nghiệp người, hầu cho danh của người chết sẽ không bị mất giữa vòng bà con mình và giữa dân cư của thành mình. Hôm nay xin quý vị làm chứng cho.”
11 Bấy giờ cả dân chúng đang ở tại cổng thành và các trưởng lão đều nói rằng: “Chúng tôi xin làm chứng. Cầu xin CHÚA ban phước cho người nữ vào nhà ngươi sẽ như Ra-chên và Lê-a, là hai người cùng nhau xây dựng nhà Y-sơ-ra-ên. Nguyện ngươi được cường thịnh ở Ép-ra-ta và nổi danh ở Bết-lê-hem. 12 Nguyện các con cái CHÚA cho ngươi do người nữ này sinh ra sẽ làm cho nhà ngươi giống như nhà của Pha-rết, mà Ta-ma đã sinh cho Giu-đa.”
Gia Phổ Của Đa-vít
13 Vậy Bô-ô lấy Ru-tơ làm vợ. Khi họ sống với nhau, CHÚA cho nàng có thai, và nàng sinh được một con trai. 14 Bấy giờ các bà nói với Na-ô-mi rằng: “Thật đáng chúc tụng CHÚA, là Đấng không để cho bà chẳng có người chuộc lại sản nghiệp của bà. Nguyện danh của người ấy được tôn trọng trong Y-sơ-ra-ên. 15 Người ấy sẽ khôi phục lại cuộc đời bà và là người giúp đỡ bà dưỡng già. Vì con dâu bà thương yêu bà, con dâu ấy quý cho bà hơn bảy con trai. Con dâu bà đã sinh con cho người ấy.”
16 Na-ô-mi bồng đứa trẻ đặt vào lòng mình và làm người vú nuôi nó. 17 Các bà trong xóm đặt tên cho nó và nói rằng: “Một đứa con trai đã sinh ra cho Na-ô-mi.” Họ đặt tên nó là Ô-bết. Ô-bết là cha của Y-sai, Y-sai là cha của Đa-vít.
18 Đây là dòng dõi của Pha-rết:
Pha-rết sinh Ếch-rôn,
19 Ếch-rôn sinh Ram,
Ram sinh A-mi-na-đáp,
20 A-mi-na-đáp sinh Na-ách-son,
Na-ách-son sinh Sanh-môn,
21 Sanh-môn sinh Bô-ô,
Bô-ô sinh Ô-bết,
22 Ô-bết sinh Y-sai,
và Y-sai sinh Đa-vít.
Sa-mu-ên Làm Thẩm Phán Xét Xử Dân Y-sơ-ra-ên
1 Tại Ra-ma-tha-im của dòng họ Xu-phơ[j] thuộc vùng Ép-ra-im, có một người tên là Ên-ca-na. Ông này là con của ông Giê-rô-ham, cháu ông Ê-li-hu, chắt ông Tô-hu, và chít ông Xu-phơ, thuộc bộ tộc Ép-ra-im. 2 Ông Ên-ca-na có hai vợ; người vợ đầu tiên là An-ne, người vợ kế tên là Phê-ni-na. Bà Phê-ni-na có con, nhưng bà An-ne thì không.
3 Hằng năm, ông thường từ thành mình lên đền thờ tại Si-lô thờ phượng CHÚA Toàn Năng và dâng sinh tế cho Ngài. Thầy tế lễ của CHÚA tại đó là Hóp-ni và Phi-nê-a, hai con trai của ông Hê-li. 4 Một ngày kia ông Ên-ca-na dâng sinh tế. Theo lệ thường, sau khi dâng xong, ông chia thịt sinh tế ra cho vợ là bà Phê-ni-na, và cho hết thảy các con trai con gái bà, mỗi người một phần. 5 Dù ông yêu quí bà An-ne nhiều hơn, ông cũng chia cho bà An-ne chỉ một phần thôi[k] vì CHÚA không cho bà sanh con. 6 Bà Phê-ni-na, đối thủ của bà, tìm đủ cách chọc tức bà, để hạ nhục bà, vì CHÚA đã làm cho bà son sẻ. 7 Sự việc cứ tái diễn[l] năm này sang năm khác. Mỗi khi bà An-ne lên đền thờ CHÚA, bà Phê-ni-na cứ chọc tức bà đến nỗi bà khóc và chẳng thiết ăn. 8 Ông Ên-ca-na, chồng bà, hỏi bà: “An-ne, sao em lại khóc? Sao em không chịu ăn? Sao em buồn rầu như vậy? Đối với em, anh không quí hơn mười đứa con trai sao?”
Bà An-ne Và Thầy Tế Lễ Hê-li
9 Sau khi ăn uống xong tại Si-lô, bà An-ne đứng dậy[m] Thầy tế lễ Hê-li đang ngồi trên ghế, cạnh bên cửa đền thờ CHÚA. 10 Bà An-ne sầu khổ lắm. Bà vừa khóc vừa cầu nguyện tha thiết với CHÚA. 11 Bà hứa nguyện: “Lạy CHÚA Toàn Năng, xin Ngài đoái thương con đòi của Ngài! Xin Ngài nhìn thấy cảnh đau khổ của con và nhớ tới con. Xin Ngài đừng quên con đòi Ngài. Xin Ngài ban cho con đòi Ngài một đứa con trai, con nguyện dâng nó cho CHÚA trọn đời. Tóc nó sẽ không bao giờ bị cắt.”
12 Bà tiếp tục cầu khẩn thật lâu trước mặt CHÚA, nên ông Hê-li theo dõi miệng bà. 13 Ông chỉ thấy môi bà mấp máy, chớ chẳng nghe tiếng nào, vì bà An-ne cầu nguyện thầm trong lòng, nên ông tưởng bà say rượu. 14 Ông Hê-li bảo bà: “Chị còn say cho đến chừng nào? Chị về dã rượu đi.”
15 Bà An-ne thưa: “Thưa ông, tôi không say đâu. Tôi là một người đàn bà khốn khổ. Tôi không có uống rượu hoặc bia gì cả. Tôi chỉ dốc đổ lòng tôi ra trước mặt CHÚA. 16 Xin ông đừng coi tôi là hạng đàn bà hư hỏng. Tôi cầu nguyện lâu chừng ấy là vì tôi sầu khổ và buồn bực quá đỗi.”
17 Ông Hê-li đáp: “Chị an tâm về nhà. Cầu xin Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ban cho chị điều chị cầu xin Ngài.” 18 Bà An-ne thưa: “Xin ông luôn nhớ đến tôi là phận hèn mọn.” Bà trở về, dùng bữa. Nét mặt bà không còn ưu sầu nữa.
Sa-mu-ên Ra Đời
19 Sáng hôm sau, ông Ên-ca-na và gia đình dậy sớm, sấp mình thờ phượng CHÚA, rồi trở về nhà mình tại Ra-ma.
Ông Ên-ca-na ăn ở với bà An-ne, vợ mình. CHÚA nhớ đến bà. 20 Bà An-ne thụ thai. Mãn kỳ thai nghén, bà sanh một con trai, đặt tên là Sa-mu-ên[n] và giải thích: “Tôi đã cầu xin CHÚA ban cho tôi một đứa con.”
21 Đến ngày ông Ên-ca-na và cả gia đình lên đền thờ dâng lên CHÚA sinh tế hằng năm cùng với lễ vật ông khấn nguyện. 22 Nhưng lần này, bà An-ne không đi. Bà nói với chồng: “Đợi khi nào con dứt sữa, em sẽ dẫn con lên trình diện CHÚA, rồi con sẽ ở lại đó suốt đời.” 23 Ông Ên-ca-na, chồng bà, đáp: “Em thấy điều gì phải thì làm. Em cứ ở nhà cho đến khi con thôi bú. Cầu xin CHÚA cho việc xảy ra y theo lời em hứa.”[o] Vậy, bà vợ ở lại nhà cho con bú cho đến khi nó dứt sữa.
24 Ngay sau khi con thôi bú, dù nó hãy còn nhỏ lắm, bà dẫn con lên đền thờ CHÚA tại Si-lô. Bà cùng với chồng đem theo một con bò đực ba tuổi[p] một bao bột khoảng chừng một ê-pha,[q] và một bầu rượu. 25 Họ làm thịt con bò dâng lên CHÚA[r] rồi dẫn con đến gặp ông Hê-li. 26 Bà nói: “Thưa ông, ông còn nhớ tôi không? Tôi chính là người đàn bà trước đây cầu khẩn CHÚA tại nơi này, cạnh bên ông. 27 Tôi cầu xin Ngài cho tôi đứa con này. CHÚA đã ban cho tôi điều tôi cầu xin Ngài. 28 Nay tôi xin dâng con tôi lại cho CHÚA. Nó thuộc về CHÚA trọn đời nó.”
Rồi cả gia đình[s] thờ phượng CHÚA.
Bà An-ne Cảm Tạ Chúa
2 Bà An-ne cầu nguyện:
“CHÚA cho lòng con ngập tràn vui mừng,
CHÚA cho con đắc thắng[t]
Con cười[u] kẻ thù con,
Con vui mừng vì Ngài cứu giúp con.
2 Không ai thánh như CHÚA,
Thật vậy, không có ai ngoài Ngài.
Không ai là vầng đá che chở chúng con như Đức Chúa Trời.
3 Đừng lải nhải khoe khoang,
Đừng nói lời ngạo mạn,
Vì CHÚA là Đức Chúa Trời thông biết mọi điều,
Ngài cân nhắc mọi hành động.
4 Cây cung của dũng sĩ bị bẻ gãy,
Nhưng người yếu đuối được thêm sức.
5 Người vốn no đủ phải làm mướn kiếm ăn,
Còn kẻ đói khát được no nê.
Người hiếm hoi sanh năm bảy đứa,
Kẻ đông con nay lại úa tàn.
6 CHÚA cầm quyền sống chết,
Ngài cho người xuống mồ mã, cũng có quyền đem lên.
7 CHÚA khiến cho nghèo hèn hoặc giàu có,
Ngài hạ xuống thấp, cũng nâng lên cao.
8 Ngài đỡ kẻ nghèo lên khỏi bụi đất,
Nâng kẻ khốn cùng lên khỏi đống phân tro,
Đặt họ ngồi chung với kẻ quyền cao chức trọng,
Ban ngai danh dự cho họ thừa kế.
Vì các cột trụ của trái đất thuộc về CHÚA,
Ngài đặt thế giới trên các trụ đó.
9 Ngài gìn giữ bước chân của người trung tín với Ngài,
Nhưng kẻ ác chết mất trong tối tăm.
Vì không ai thắng được nhờ sức riêng mình.
10 Lạy CHÚA, những kẻ chống đối Ngài sẽ bị tan xác,
Từ trời, Ngài khiến sấm sét nổ vang đánh chúng tan nát.
CHÚA xét xử cả thế gian,
Ngài ban sức mạnh cho vua Ngài chọn,
Ngài ban chiến thắng cho đấng được Ngài xức dầu.”[v]
11 Sau đó, ông Ên-ca-na trở về nhà mình tại Ra-ma; còn cậu bé ở lại phục vụ CHÚA dưới sự hướng dẫn của thầy tế lễ Hê-li.
Hai Người Con Của Ông Hê-li
12 Các con trai ông Hê-li là những thanh niên hư hỏng, không biết kính sợ CHÚA, 13 cũng không tôn trọng các luật lệ thầy tế lễ phải tuân theo đối với dân chúng. Nhưng mỗi khi có người dâng sinh tế, đầy tớ của thầy tế lễ đến lấy thịt đang sôi, tay cầm chỉa ba, 14 đâm vào trong nồi, hoặc chảo, vạc hay niêu; bất cứ chỉa ba kéo lên được miếng thịt nào, miếng đó dành cho thầy tế lễ. Họ cư xử như vậy đối với mọi người Y-sơ-ra-ên đến dâng sinh tế cho CHÚA[w] tại Si-lô. 15 Hơn nữa, ngay trước khi người ta dâng mỡ, đốt cho khói xông lên ngào ngạt, đầy tớ thầy tế lễ đến nói với người dâng sinh tế: “Anh hãy đưa cho tôi thịt về quay cho thầy tế lễ, vì ông không nhận thịt luộc của anh đâu, chỉ nhận thịt sống thôi.”
16 Nếu người kia đáp: “Chúng ta hãy đốt mỡ dâng lên trước, theo như qui định, rồi anh muốn lấy bao nhiêu tùy ý,” đầy tớ sẽ dọa: “Không được, anh phải đưa ngay bây giờ, bằng không, tôi đành phải dùng vũ lực để lấy thịt.” 17 Như vậy, các con trai ông Hê-li[x] phạm tội nặng lắm đối với CHÚA vì họ khinh dể lễ vật người ta dâng lên CHÚA.
Gia Đình Sa-mu-ên
18 Trong khi ấy, cậu bé Sa-mu-ên tiếp tục phục vụ CHÚA. Cậu bé mặc chiếc khố bằng vải lanh.[y] 19 Mỗi năm, mẹ cậu may một chiếc áo dài nhỏ, đem lên cho cậu khi bà đi với chồng lên dâng tế lễ hằng năm. 20 Thầy tế lễ Hê-li thường chúc phước cho vợ chồng ông Ên-ca-na: “Cầu xin CHÚA ban cho chị sanh thêm cho anh những đứa con khác thay cho đứa con chị đã cầu xin và dâng lại cho CHÚA.” Rồi họ trở về nhà. 21 CHÚA ban phước[z] cho bà An-ne; bà thụ thai và sanh thêm ba trai và hai gái nữa.
Còn cậu bé Sa-mu-ên tiếp tục lớn lên và phục vụ CHÚA.
Ông Hê-li Răn Dạy Con
22 Thầy tế lễ Hê-li bấy giờ già lắm rồi. Ông thường nghe nói về mọi điều các con ông làm đối với toàn dân Y-sơ-ra-ên. Ông cũng nghe nói chúng ăn nằm với các phụ nữ giúp việc tại cửa Trại Hội Kiến. 23 Ông thường bảo chúng: “Sao các con làm những chuyện như vậy? Ba nghe mọi người đàm tiếu về những việc ác của các con. 24 Đừng làm nữa các con! Tiếng đồn ba nghe con dân CHÚA rêu rao không tốt đâu. 25 Nếu người này phạm tội với người kia, Đức Chúa Trời có thể làm trung gian hòa giải giữa hai bên,[aa] nhưng nếu một người phạm tội với CHÚA, ai dám cầu thay cho người đó?”
Nhưng chúng vẫn không chịu nghe lời cha khuyên dạy, vì CHÚA đã quyết định chúng phải chết. 26 Trong khi đó, cậu Sa-mu-ên ngày càng khôn lớn, làm vui lòng CHÚA và người.
Tiên Tri Báo Trước Chúa Sẽ Phạt Ông Hê-li Và Gia Đình Ông
27 Có một người của Đức Chúa Trời đến báo cho ông Hê-li: “Đây là lời CHÚA phán: ‘Chính Ta đã tự tỏ mình ra cho tổ phụ ngươi khi họ phục dịch Pha-ra-ôn bên Ai-cập. 28 Trong tất cả các bộ tộc Y-sơ-ra-ên, Ta đã chọn dòng họ tổ phụ ngươi để giữ chức tế lễ cho Ta, để dâng sinh tế trên bàn thờ của Ta, để đốt hương, để đeo ê-phót cầu hỏi ý Ta. Ta cũng ban cho dòng họ tổ phụ ngươi tất cả các lễ vật dân Y-sơ-ra-ên dâng lên và đốt cháy trên bàn thờ. 29 Vậy sao các ngươi chà đạp lên[ab] các sinh tế và lễ vật ngũ cốc Ta truyền dâng trong đền thờ Ta? Sao các ngươi nuôi mình cho mập, ăn phần ngon nhất trong mọi lễ vật dân Y-sơ-ra-ên Ta dâng lên cho Ta? Sao ngươi tôn trọng các con trai ngươi hơn Ta?’ ”
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)