Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
1 Sa-mu-ên 28:20 - 2 Sa-mu-ên 12:10

20 Nghe ông Sa-mu-ên nói, vua Sau-lơ hoảng sợ ngã nằm dài xuống đất. Hơn nữa, vua cũng đã kiệt sức, vì không ăn gì hết suốt ngày và suốt đêm hôm ấy.

21 Người đàn bà đến bên vua Sau-lơ; thấy vua quá sợ hãi, bà nói: “Tôi là đầy tớ của bệ hạ, tôi đã vâng lời bệ hạ, liều mạng làm theo lời bệ hạ truyền. 22 Bây giờ, xin bệ hạ vui lòng nghe đầy tớ bệ hạ nói, để tôi dọn chút thức ăn bệ hạ dùng cho lại sức trước khi lên đường.” 23 Vua từ chối: “Ta không ăn.” Nhưng các triều thần và ngay cả người đàn bà cứ năn nỉ mãi nên vua nghe theo họ. Vua nhổm dậy khỏi đất và ngồi lên giường.

24 Người đàn bà có vỗ béo một con bê trong nhà. Bà vội vàng làm thịt con bê, rồi bà lấy bột nhồi và nướng bánh không men. 25 Bà dọn lên cho vua Sau-lơ và triều thần. Ăn xong, họ đứng dậy và ra đi ngay đêm ấy.

Người Phi-li-tin Không Cho Đa-vít Theo Họ Ra Trận

29 Quân Phi-li-tin tập họp toàn bộ lực lượng tại A-phéc,[a] trong khi quân Y-sơ-ra-ên đóng trại bên suối nước trong thung lũng Gít-rê-ên. Các nhà lãnh đạo Phi-li-tin đi trước, dẫn đầu những đoàn quân hàng trăm hoặc hàng ngàn người; Đa-vít và những người theo chàng đi sau cùng với vua A-kích. Các quan tướng Phi-li-tin hỏi: “Bọn Hy-bá này làm gì ở đây?” Vua A-kích đáp: “Đây là Đa-vít, tôi tớ vua Sau-lơ, vua Y-sơ-ra-ên. Nó ở với tôi cả năm nay. Từ ngày nó bỏ chủ theo tôi cho đến nay, tôi không thấy nó có lỗi gì cả.”

Nhưng các quan tướng Phi-li-tin nổi giận với vua A-kích mà rằng: “Vua hãy cho người ấy về nơi vua đã chỉ định cho nó ở. Nó không được ra trận với chúng ta, kẻo nó trở thành địch thủ của chúng ta trong chiến trận. Thật vậy, nó có cách nào lấy lòng chủ nó tốt hơn là nộp đầu của binh sĩ ta? Vua nên nhớ tên Đa-vít này là tên mà bọn chúng hát hò khi nhảy múa:

‘Sau-lơ giết hàng ngàn,
    Đa-vít giết hàng vạn.’ ”

Vua A-kích đành phải gọi Đa-vít đến và bảo: “Có CHÚA Hằng Sống, ngươi là người ngay thẳng. Ta muốn ngươi phục vụ[b] trong quân ngũ của ta, vì ta không thấy ngươi có điều gì sai quấy kể từ ngày ngươi đến ở với ta cho đến nay. Nhưng những người lãnh đạo không bằng lòng. Vậy ngươi hãy trở về bình an, và đừng làm gì phật lòng các nhà lãnh đạo Phi-li-tin.”

Đa-vít phản đối: “Nhưng tôi đã làm gì? Từ ngày tôi phục vụ vua cho đến nay, vua có thấy đầy tớ vua phạm lỗi nào mà tôi không được ra trận đánh kẻ thù của vua là chủ tôi?”

Vua A-kích đáp: “Ta biết. Đối với ta, ngươi tốt như một sứ giả của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên các quan tướng Phi-li-tin đã quyết định không cho ngươi ra trận chiến đấu bên cạnh họ. 10 Vậy, sáng mai hãy dậy sớm, ngươi và các tôi tớ đang ở với ngươi,[c] các ngươi hãy dậy sớm và ra đi khi trời vừa sáng.”

11 Sáng hôm sau, Đa-vít và những người theo chàng dậy sớm và ra đi, trở về xứ người Phi-li-tin. Trong khi đó, quân Phi-li-tin tiến lên trũng Gít-rê-ên.

Thành Xiếc-lác Bị Quân A-ma-léc Cướp Phá

30 Khi Đa-vít và những người theo chàng về đến thành Xiếc-lác vào ngày thứ ba, thì người A-ma-léc đã cướp phá vùng Nê-ghép và thành Xiếc-lác. Chúng hủy phá thành Xiếc-lác và phóng hỏa đốt thành. Chúng bắt đàn bà và mọi người[d] trong thành, từ nhỏ đến lớn, làm tù binh, không giết một ai. Chúng dẫn họ đi theo và lên đường.

Đa-vít và những người theo chàng về đến nơi, thấy thành cháy rụi, còn vợ và con trai, con gái họ thì bị bắt đi. Đa-vít và binh sĩ theo mình òa lên khóc cho đến khi họ không còn sức khóc nữa. Ngay cả hai bà vợ của Đa-vít, A-hi-nô-am người Gít-rê-ên, và A-bi-ga-in, vợ góa của Na-banh, người Cạt-mên, cũng bị bắt đi. Đa-vít lâm vào tình cảnh rất nguy kịch vì tất cả các binh sĩ đều cay đắng khi nghĩ đến con trai con gái mình nên bàn chuyện ném đá chàng.

Nhưng Đa-vít lấy lại can đảm nhờ CHÚA là Đức Chúa Trời mình. Đa-vít nói với thầy tế lễ A-bia-tha, con ông A-hi-mê-léc: “Xin thầy đem ê-phót lại đây cho tôi.” Khi thầy tế lễ A-bia-tha đem ê-phót đến, Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA: “Con có nên đuổi theo bọn cướp này không? Con có rượt kịp chúng không?” Ngài đáp: “Hãy đuổi theo chúng. Thế nào con cũng rượt kịp chúng và giải thoát các tù binh.”

Đa-vít ra đi cùng với 600 người theo chàng. Đến khe Bê-sô,[e] hậu quân dự bị dừng lại. 10 Đa-vít cùng với 400 người tiếp tục đuổi theo bọn cướp, còn 200 người kia dừng lại vì họ đuối sức, không thể băng qua khe Bê-sô được.

11 Binh sĩ bắt gặp một tên Ai-cập ngoài đồng, dẫn đến cho Đa-vít. Họ cho nó ăn bánh và nước uống. 12 Họ cũng cho nó một miếng bánh trái vả khô và hai chùm nho khô. Ăn xong, nó lại sức, vì đã ba ngày ba đêm nó không ăn uống gì. 13 Đa-vít hỏi nó: “Anh là người của ai? Quê anh ở đâu?” Nó đáp: “Tôi là người Ai-cập, làm nô lệ cho một người A-ma-léc. Chủ bỏ tôi lại đây ba ngày vì tôi ngã bệnh. 14 Trước đó, chúng tôi cướp phá vùng Nê-ghép của người Kê-rê-thít, vùng Nê-ghép của người Giu-đa, và vùng Nê-ghép của người Ca-lép. Chúng tôi cũng phóng hỏa đốt thành Xiếc-lác.” 15 Đa-vít hỏi: “Anh có muốn dẫn tôi xuống chỗ bọn cướp đó không?” Nó đáp: “Xin ông nhân danh Đức Chúa Trời thề với tôi rằng ông sẽ không giết tôi, cũng không nộp tôi vào tay chủ tôi, thì tôi sẽ dẫn ông xuống chỗ bọn cướp đó.”

Đa-vít Đánh Bại Quân A-ma-léc

16 Người Ai-cập dẫn Đa-vít xuống. Kìa, quân A-ma-léc tràn lan khắp miền, chè chén, ăn mừng vì số chiến lợi phẩm lớn thu được từ xứ Phi-li-tin và Giu-đa. 17 Đa-vít đánh giết chúng từ rạng đông đến chiều ngày hôm sau. Không một tên nào thoát, ngoại trừ 400 thanh niên cưỡi lạc đà chạy trốn. 18 Đa-vít giải cứu tất cả những người bị quân A-ma-léc bắt đi, kể cả hai bà vợ của mình. 19 Họ không mất một ai, từ người nhỏ đến người lớn, từ con trai đến con gái. Đa-vít cũng thu hồi được chiến lợi phẩm và tất cả những gì bị cướp. 20 Đa-vít bắt tất cả chiên dê và bò. Những người theo chàng lùa đàn súc vật đi trước và nói: “Đây là chiến lợi phẩm của Đa-vít.”

21 Đa-vít về đến nơi 200 người ở lại khe Bê-sô vì họ quá mệt mỏi không theo chàng được. Họ ra đón Đa-vít và đoàn quân đi theo chàng. Đa-vít và đoàn quân đến gần chào hỏi họ. 22 Bấy giờ, tất cả những tên côn đồ vô lại trong đám người theo Đa-vít lên tiếng: “Vì chúng nó không có đi với chúng ta nên chúng ta không chia chiến lợi phẩm thu được cho chúng nó. Chúng chỉ được phép dẫn vợ con đi thôi.” 23 Nhưng Đa-vít cản họ: “Anh em không nên làm như vậy. Hãy xem những gì CHÚA ban cho chúng ta, thể nào Ngài gìn giữ chúng ta bình an vô sự, lại còn nộp bọn cướp vào tay chúng ta. 24 Không ai có thể nghe lời anh em đề nghị! Phần của người đi đánh giặc cũng như phần của người ở lại giữ đồ đạc đều bằng nhau. Họ sẽ chia đồng đều.” 25 Kể từ hôm ấy, Đa-vít lập quyết định này thành luật trong dân Y-sơ-ra-ên, vẫn còn áp dụng đến ngày nay.

26 Về đến Xiếc-lác, Đa-vít gởi một phần chiến lợi phẩm cho bạn bè mình là các trưởng lão Giu-đa, kèm theo sứ điệp: “Xin gởi đến anh em món quà này trong số chiến lợi phẩm lấy được từ tay kẻ thù của CHÚA.” 27 Đa-vít cũng gởi quà cho các trưởng lão ở Bê-tên, Ra-mốt Nê-ghép, và Giạt-thia, 28 các trưởng lão ở A-rô-e, Síp-mốt, và Et-tơ-mô-a, 29 các trưởng lão ở Ra-canh, ở trong các thành của người Giê-ra-mên, và các thành của người Kê-nít, 30 các trưởng lão ở Họt-ma, Bọt-a-san, A-thạch, 31 các trưởng lão ở Hếp-rôn, và ở tất cả mọi nơi Đa-vít và những người theo chàng thường qua lại.

Sự Chết Của Vua Sau-lơ Và Các Con Trai Vua

31 Quân Phi-li-tin giao chiến với quân Y-sơ-ra-ên. Quân Y-sơ-ra-ên thua chạy, bỏ lại những người chết trên núi Ghinh-bô-a. Quân Phi-li-tin bám sát vua Sau-lơ và các con vua. Chúng giết được Giô-na-than, A-bi-na-đáp, và Manh-ki-sua là các con vua Sau-lơ. Thế trận áp đảo vua Sau-lơ dữ dội. Mấy tên bắn cung bắn trúng vua, vua bị trọng thương.

Vua Sau-lơ bảo người vác binh khí cho mình: “Hãy rút gươm ngươi ra đâm cho ta chết đi, kẻo bọn không cắt bì kia đến đâm ta chết và sỉ nhục ta.” Nhưng người vác binh khí từ chối vì quá sợ. Vua Sau-lơ liền rút gươm ra, lao mình vào mũi gươm. Người vác binh khí thấy vua Sau-lơ chết rồi, cũng lao mình vào mũi gươm của mình, cùng chết với vua. Thế là vua Sau-lơ, ba người con của vua, người vác binh khí của vua, và tất cả những người của vua đều chết ngày hôm ấy. Khi dân Y-sơ-ra-ên bên kia thung lũng và bên kia sông Giô-đanh thấy quân Y-sơ-ra-ên trốn chạy và vua Sau-lơ và các con vua đều chết, họ cũng bỏ các thành mình trốn đi. Quân Phi-li-tin đến chiếm cứ các thành đó.

Ngày hôm sau, quân Phi-li-tin đến lục soát các tử thi, thấy vua Sau-lơ và ba con vua đều ngã chết trên đỉnh núi Ghinh-bô-a. Chúng cắt đầu vua và tước lột khí giới vua, gởi đi khắp xứ Phi-li-tin, loan báo tin mừng trong các miếu thờ thần tượng của họ và trong dân chúng. 10 Chúng đặt khí giới vua trong miếu thờ Ách-ta-rốt, còn xác vua chúng treo trên tường thành Bết-san.

11 Khi dân thành Gia-bết ở Ga-la-át hay được cách quân Phi-li-tin đối xử với vua Sau-lơ, 12 tất cả các dũng sĩ trong thành ra đi suốt đêm, gỡ xác vua Sau-lơ và các con vua khỏi tường thành Bết-san, đem về Gia-bết hỏa táng. 13 Họ lấy cốt chôn dưới gốc cây thánh liễu tại Gia-bết và kiêng ăn bảy ngày.

Đa-vít Nghe Tin Vua Sau-lơ Chết

Sau khi vua Sau-lơ chết, Đa-vít cũng vừa đánh thắng quân A-ma-léc xong, trở về Xiếc-lác, ở lại đó hai ngày. Ngày thứ ba, có một người từ trại quân vua Sau-lơ đến, áo quần xé rách, đầu rắc bụi đất, khi đến gần Đa-vít, người ấy sấp mình xuống đất, vái lạy. Đa-vít hỏi: “Anh từ đâu đến?” Anh ta đáp: “Tôi vừa chạy thoát từ trại quân Y-sơ-ra-ên.” Đa-vít hỏi tiếp: “Tình hình thế nào? Anh thuật cho tôi biết.” Anh ta đáp: “Quân Y-sơ-ra-ên thua chạy khỏi chiến trường, nhiều chiến sĩ đã ngã xuống, ngay cả vua Sau-lơ và Giô-na-than, con vua, cũng đã chết.”

Đa-vít gạn hỏi thanh niên đưa tin: “Sao anh biết vua Sau-lơ và Giô-na-than, con vua, đã chết?”

Thanh niên đưa tin đáp: “Tình cờ tôi ở trên núi Ghinh-bô-a, thấy vua Sau-lơ tựa mình trên cây giáo, còn chiến xa và kỵ binh địch thì bám sát theo vua. Vua quay lại, thấy tôi, và gọi tôi. Tôi thưa: ‘Tâu bệ hạ, có tôi đây.’

Vua hỏi tôi: ‘Ngươi là ai?’

Tôi thưa: ‘Tâu bệ hạ, tôi là người A-ma-léc.’

Vua bảo tôi: ‘Hãy đến gần bên ta và kết liễu đời ta, vì ta bị xây xẩm, dù ta hãy còn tỉnh.’

10 Tôi biết vua không thể nào sống nổi sau khi ngã vì trọng thương nên tôi đến gần bên vua và kết liễu đời vua. Kế đến, tôi gỡ vương miện khỏi đầu vua và vòng đeo tay ra khỏi tay vua, mang đến đây cho chúa tôi.”

11 Đa-vít liền nắm áo mình xé rách ra. Tất cả những người ở với chàng cũng làm y như vậy. 12 Họ đấm ngực than khóc và kiêng ăn cho đến chiều để tỏ lòng thương tiếc vua Sau-lơ, và Giô-na-than, con vua, và đội quân của CHÚA và nhà Y-sơ-ra-ên, vì những người này đã ngã xuống ngoài trận địa.

13 Sau đó, Đa-vít hỏi thanh niên đưa tin: “Anh gốc gác ở đâu?”

Anh ta đáp: “Tôi là con một người A-ma-léc định cư trong xứ này.”

14 Đa-vít quát lên: “Sao ngươi không sợ mà dám tra tay giết vị vua được CHÚA xức dầu?”

15 Đa-vít gọi một trong các thuộc hạ và bảo: “Hãy đến, giết nó đi!” Trong khi người này đánh anh ta chết, 16 Đa-vít nói: “Máu ngươi đổ lại trên đầu ngươi, vì chính miệng ngươi làm chứng chống lại ngươi khi ngươi nói: ‘Chính tôi đã kết liễu đời vị vua được CHÚA xức dầu.’ ”

Đa-vít Ngâm Điếu Ca Khóc Vua Sau-lơ Và Giô-na-than

17 Bấy giờ Đa-vít ngâm bài điếu ca này khóc vua Sau-lơ và hoàng tử Giô-na-than. 18 Đa-vít truyền dạy cho dân Giu-đa bài điếu ca Cây Cung được ghi chép trong sách Người Công Chính:

19 Ôi, Y-sơ-ra-ên, vinh quang ngươi, ngã chết trên đồi!
    Than ôi, dũng sĩ nay ngã gục!
20 Đừng rao tin này trong thành Gát,
    Đừng loan tin ra trong các đường phố Ách-ca-lôn,
Kẻo các cô gái dân Phi-li-tin vui mừng,
    Kẻo các cô gái dân không cắt bì hớn hở!
21 Ôi, đồi núi Ghinh-bô-a,
    Ước gì sương móc không còn sa, mưa cũng chẳng rơi trên các ngươi nữa!
    Ước gì các ngươi không còn đồng ruộng phì nhiêu nữa!
Vì nơi đó, thuẫn khiên các dũng sĩ bị vứt bỏ,
    Thuẫn khiên vua Sau-lơ không còn ai chùi dầu cho bóng nữa!
22 Cây cung của Giô-na-than không hề rút về,
    Mà không vấy máu kẻ thương vong;
Cây gươm của vua Sau-lơ không hề trở về vô hiệu,
    Nhưng lúc nào cũng dính mỡ các chiến sĩ.
23 Ôi, vua Sau-lơ và Giô-na-than, thật đáng yêu, đáng quý!
    Khi sống cũng như lúc chết,
    Cha con chẳng hề lìa nhau!
Họ nhanh hơn chim đại bàng,
    Dũng mãnh hơn sư tử!
24 Hỡi các cô gái Y-sơ-ra-ên,
    Hãy thương khóc vua Sau-lơ!
Vua đã cho các cô mặc vải điều sang trọng,
    Cài trang sức vàng trên áo các cô!
25 Than ôi, dũng sĩ nay ngã gục giữa chiến trận!
    Giô-na-than ngã chết trên đồi!
26 Anh Giô-na-than ơi! Vì anh, lòng tôi đau như cắt!
    Tôi quý mến anh vô cùng!
Tình bạn của anh đối với tôi thật tuyệt vời,
    Hơn hẳn tình yêu của phụ nữ.
27 Than ôi, dũng sĩ nay ngã gục!
    Vũ khí chiến tranh nay tan tành!

Dân Giu-đa Tấn Phong Đa-vít Làm Vua

Sau đó Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA: “Con có nên đi lên một thành nào trong xứ Giu-đa không?” CHÚA bảo: “Con hãy đi.” Đa-vít hỏi tiếp: “Con nên đi lên thành nào?” Ngài bảo: “Con hãy đi lên Hếp-rôn.”

Đa-vít đi lên đó cùng với hai bà vợ, bà A-hi-nô-am người Gít-rê-ên và bà A-bi-ga-in, vợ góa của Na-banh người Cạt-mên. Đa-vít cũng đưa những người theo chàng cùng với gia đình họ lên định cư trong các thành vùng phụ cận Hếp-rôn. Những người thuộc bộ tộc Giu-đa đến Hếp-rôn và tại đó, họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua xứ Giu-đa.

Vua Đa-vít Sai Sứ Giả Đi Gia-bết

Người ta báo tin cho vua Đa-vít: “Chính dân thành Gia-bết ở Ga-la-át đã chôn cất vua Sau-lơ.” Vua Đa-vít sai sứ giả đến chào thăm hữu nghị dân thành Gia-bết ở Ga-la-át: “Cầu xin CHÚA ban phước cho anh em vì anh em đã trung thành với chúa mình là vua Sau-lơ và chôn cất vua. Giờ đây, cầu xin CHÚA đối xử với anh em theo đức thành tín và chân thật của Ngài. Chính ta đây cũng sẽ trọng thưởng anh em vì anh em đã làm việc ấy. Vậy bây giờ, anh em hãy can đảm lên, hãy tỏ ra là người có khí phách, vì chúa của anh em là vua Sau-lơ đã mất, còn ta thì dân Giu-đa đã xức dầu tấn phong ta làm vua.”

Ích-bô-sết Được Tôn Làm Vua Y-sơ-ra-ên

Trong khi đó, ông Áp-ne, con ông Ne và là tướng chỉ huy quân đội của vua Sau-lơ, đưa ông Ích-bô-sết[f] con vua Sau-lơ, trốn sang Ma-ha-na-im. Tại đó, ông Áp-ne tôn ông Ích-bô-sết làm vua địa phận Ga-la-át, dân A-se, địa phận Gít-rê-ên, Ép-ra-im, Bên-gia-min, và toàn xứ Y-sơ-ra-ên.

10 Ông Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, được bốn mươi tuổi khi lên ngôi, và trị vì Y-sơ-ra-ên trong hai năm. Chỉ có dân Giu-đa theo vua Đa-vít. 11 Thời gian vua Đa-vít đóng đô ở Hếp-rôn và cai trị dân Giu-đa là bảy năm sáu tháng.

Giu-đa Và Y-sơ-ra-ên Giao Chiến Tại Ghíp-ôn

12 Một lần kia, tướng Áp-ne, con ông Ne, cùng với một đơn vị cận vệ của vua Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, ra đi từ Ma-ha-na-im, tiến về hướng Ghíp-ôn. 13 Ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, cũng ra đi với một đơn vị cận vệ của vua Đa-vít. Hai phe gặp nhau tại hồ Ghíp-ôn, mỗi phe đóng một bên hồ.

14 Ông Áp-ne đề nghị với ông Giô-áp: “Ta cho các thanh niên ra đấu sức đọ tài đi!”

Ông Giô-áp đồng ý: “Được, hãy để họ đấu sức.”

15 Các thanh niên lần lượt tiến ra, 12 người Bên-gia-min, thuộc phe vua Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, và 12 người thuộc phe vua Đa-vít. 16 Mỗi người túm lấy đầu đối thủ và đâm gươm mình vào hông đối thủ, cho nên cả hai phe đều cùng nhau ngã gục. Người ta gọi nơi đó là Cánh đồng Đá Tảng[g] Cánh đồng này ở Ghíp-ôn.

17 Tiếp theo đó, một cuộc giao tranh khốc liệt diễn ra ngay hôm ấy. Ông Áp-ne và quân Y-sơ-ra-ên bị quân của vua Đa-vít đánh bại.

18 Ba người con của bà Xê-ru-gia cũng có mặt hôm ấy: ông Giô-áp, ông A-bi-sai, và ông A-xa-ên. Ông A-xa-ên chạy nhanh như dê rừng, 19 nên ông chạy thẳng đuổi theo ông Áp-ne, không quay qua bên phải hoặc bên trái. 20 Ông Áp-ne ngoái cổ lại hỏi: “Có phải A-xa-ên đó không?”

Ông này đáp: “Phải.”

21 Ông Áp-ne bảo: “Cậu hãy đuổi theo ai khác bên phải hoặc bên trái. Hãy bắt một tên lính, lột áo nó đi!” Nhưng ông A-xa-ên không chịu ngưng đuổi theo ông Áp-ne.

22 Ông Áp-ne lại khuyên nài: “Đừng đuổi theo tôi nữa! Sao cậu lại bắt tôi phải giết cậu? Làm thể nào tôi còn nhìn mặt anh cậu là Giô-áp được?”

23 Nhưng ông A-xa-ên không chịu quay sang phía khác nên ông Áp-ne đành phải quay mũi giáo ngược về phía sau, đâm ngay vào bụng ông A-xa-ên, xuyên thấu lưng. Ông A-xa-ên ngã xuống, chết ngay tại chỗ. Mọi người chạy đến nơi ông A-xa-ên ngã xuống chết đều dừng lại.

24 Nhưng ông Giô-áp và ông A-bi-sai tiếp tục đuổi theo ông Áp-ne. Mặt trời vừa lặn khi họ đến đồi Am-ma, phía đông Ghi-ách trên đường vào sa mạc Ghíp-ôn.

25 Binh sĩ thuộc bộ tộc Bên-gia-min tập hợp thành một đội ngũ chặt chẽ chung quanh ông Áp-ne và dừng lại trên đỉnh một ngọn đồi.

26 Ông Áp-ne gọi vọng sang ông Giô-áp: “Lẽ nào chúng ta để cho gươm đao chém giết mãi sao? Ông biết rõ việc này sẽ kết thúc bi thảm dường nào! Đến bao giờ ông mới ra lệnh cho binh sĩ ngưng đuổi theo anh em mình nữa?”

27 Ông Giô-áp đáp: “Có Đức Chúa Trời Hằng sống chứng cho tôi, nếu ông không lên tiếng, tôi quyết chắc phải đến sáng mai binh sĩ mới ngưng đuổi theo quân của ông!”

28 Đoạn ông cho thổi tù và. Toàn quân dừng lại. Họ không đuổi theo quân Y-sơ-ra-ên nữa, và cuộc giao tranh chấm dứt.

29 Suốt đêm ấy, ông Áp-ne và binh sĩ của ông đi xuyên qua vùng A-ra-ba,[h] vượt qua sông Giô-đanh, tiếp tục đi suốt buổi sáng hôm sau mới về tới Ma-ha-na-im.

30 Sau khi ngưng đuổi theo ông Áp-ne, ông Giô-áp tập hợp toàn quân lại kiểm điểm, thì thấy bên phe vua Đa-vít thiếu 19 người cộng với ông A-xa-ên. 31 Ngược lại, binh sĩ của vua Đa-vít giết được 360 người Bên-gia-min là binh sĩ của ông Áp-ne. 32 Họ đem xác ông A-xa-ên về Bết-lê-hem, chôn cất trong mộ của cha ông. Đoạn ông Giô-áp và binh sĩ của ông đi suốt đêm, và về đến Hếp-rôn khi trời hừng sáng.

Các Con Vua Đa-vít Sanh Tại Hếp-rôn

Giao tranh kéo dài giữa phe vua Sau-lơ và phe vua Đa-vít. Trong khi vua Đa-vít ngày càng vững mạnh, thì dòng dõi vua Sau-lơ ngày càng suy yếu.

Tại Hếp-rôn, các bà vợ vua Đa-vít sanh được con trai cho vua.

Con trưởng là Am-nôn, do bà A-hi-nô-am, người Gít-rê-ên, sanh ra.

Con thứ hai là Ki-lê-áp, do bà A-bi-ga-in, vợ góa ông Na-banh, người Cạt-mên, sanh ra.

Con thứ ba là Áp-sa-lôm, do bà Ma-a-ca, ái nữ vua Tan-mai, xứ Gơ-sua, sanh ra.

Con thứ tư là A-đô-ni-gia, do bà Ha-ghít sanh ra;

con thứ năm là Sơ-phát-gia, do bà A-bi-tanh sanh ra.

Con thứ sáu là Gít-rơ-am, do bà vợ vua Đa-vít tên là Éc-la.

Đó là những người con trai do các bà vợ vua Đa-vít sanh cho vua tại Hếp-rôn.

Ông Áp-ne Nổi Giận Vì Bị Vua Ích-bô-sết Bắt Lỗi

Trong khi chiến tranh tiếp diễn giữa triều vua Sau-lơ và triều vua Đa-vít, ông Áp-ne củng cố địa vị của mình giữa những người ủng hộ nhà Sau-lơ. Vua Sau-lơ trước kia có một nàng hầu tên là Rít-ba, con ông A-gia. Vua Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, trách ông Áp-ne: “Tại sao ông đi lại với nàng hầu của cha tôi?”

Ông Áp-ne nghe vua Ích-bô-sết trách, giận lắm, nói: “Tôi là đầu chó của Giu-đa sao? Tôi vẫn trung thành với triều vua Sau-lơ, cha của vua, với anh em và bạn bè của vua Sau-lơ cho đến ngày nay. Tôi đã không nộp vua vào tay vua Đa-vít, thế mà bây giờ vua trách tôi về tội dính dáng đến một người đàn bà! Nguyện Đức Chúa Trời phạt Áp-ne cách nặng nề nếu tôi không làm cho vua Đa-vít theo như điều CHÚA hứa với người! 10 Ngài đã hứa chuyển vương quyền từ nhà Sau-lơ sang nhà Đa-vít, và lập Đa-vít làm vua cai trị cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, từ Đan đến Bê-e-sê-ba!” 11 Vua Ích-bô-sết không dám đáp lại ông Áp-ne một lời nào vì vua sợ ông.

Ông Áp-ne Điều Đình Với Vua Đa-vít

12 Ông Áp-ne tức khắc sai sứ đến yết kiến vua Đa-vít, tâu: “Đất nước này thuộc về ai? Xin vua lập giao ước với tôi, tôi sẽ giúp đem toàn dân Y-sơ-ra-ên quay về với vua.”

13 Vua Đa-vít đáp: “Được, ta sẽ lập giao ước với ông. Ta chỉ xin ông một điều: ông sẽ không được vào chầu ta nếu ông không dẫn theo bà Mi-canh, ái nữ vua Sau-lơ, khi ông đến xin yết kiến ta.” 14 Vua Đa-vít cũng sai sứ đến yết kiến vua Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, tâu: “Xin vua trả Mi-canh, vợ tôi, lại cho tôi. Tôi đã cưới nàng với sính lễ một trăm bao quy đầu của người Phi-li-tin.”

15 Vua Ích-bô-sết sai người đến nhà chồng bà là Phan-ti-ên, con ông La-ít, đem bà về. 16 Chồng bà tiễn bà đi; ông vừa đi vừa khóc theo sau bà đến tận Ba-hu-rim. Bấy giờ ông Áp-ne bảo: “Ông trở về đi.” Ông đành quay về.

17 Ông Áp-ne đã bàn trước với các trưởng lão Y-sơ-ra-ên: “Lâu nay, anh em vẫn ao ước được ông Đa-vít làm vua. 18 Bây giờ là lúc anh em phải hành động. Vì CHÚA có phán về ông Đa-vít như thế này: ‘Ta sẽ dùng đầy tớ Ta là Đa-vít giải cứu dân Y-sơ-ra-ên Ta ra khỏi tay quân Phi-li-tin và khỏi tay mọi kẻ thù khác.’ ”

19 Ông Áp-ne cũng bàn như vậy với người Bên-gia-min. Đoạn ông đi Hếp-rôn trình lên vua Đa-vít tất cả những nguyện vọng của dân Y-sơ-ra-ên và toàn thể bộ tộc Bên-gia-min. 20 Khi ông Áp-ne đến Hếp-rôn yết kiến vua Đa-vít, ông dẫn theo hai mươi người. Vua Đa-vít mở tiệc khoản đãi ông Áp-ne và những người đi theo ông. 21 Mãn tiệc, ông Áp-ne tâu với vua Đa-vít: “Tôi sẽ đi tập hợp toàn dân Y-sơ-ra-ên về với bệ hạ. Họ sẽ lập giao ước với bệ hạ, rồi bệ hạ sẽ cai trị toàn quốc, như bệ hạ hằng mong ước.” Vua Đa-vít cho ông Áp-ne về, và ông ra đi bình an.

Ông Áp-ne Bị Ám Sát

22 Ngay khi ấy, ông Giô-áp và binh sĩ của vua Đa-vít trở về sau một trận đột kích, mang theo nhiều chiến lợi phẩm. Lúc bấy giờ ông Áp-ne không có mặt tại Hếp-rôn với vua Đa-vít, vì vua đã cho ông về, và ông đã ra đi bình an. 23 Khi ông Giô-áp và toàn quân về đến nơi, ông Giô-áp hay tin ông Áp-ne, con ông Ne, có đến yết kiến vua, và vua đã cho ông về, và ông đã ra đi bình an.

24 Ông Giô-áp liền vào chầu vua, tâu: “Bệ hạ làm gì vậy? Áp-ne đến gặp bệ hạ, sao bệ hạ lại để cho nó ra về? Và nó đã đi rồi! 25 Hẳn bệ hạ thừa biết Áp-ne, con ông Ne? Nó đến chỉ để gạt bệ hạ, để dò biết đường đi nước bước của bệ hạ, để tìm hiểu mọi việc bệ hạ làm.”

26 Chầu vua Đa-vít xong, ông Giô-áp lui ra, và tức khắc sai sứ đuổi theo cho kịp ông Áp-ne. Tới bể nước Xi-ra, họ mời ông quay về. Vua Đa-vít chẳng hay biết gì cả. 27 Khi ông Áp-ne về đến Hếp-rôn, ông Giô-áp dẫn ông đi tách ra một bên cổng thành như để nói chuyện riêng. Tại đó, ông Giô-áp đâm kiếm ngay vào bụng ông Áp-ne, giết ông chết để đền nợ máu cho ông A-xa-ên, em mình.

28 Sau khi nghe biết sự việc, vua Đa-vít tuyên bố: “CHÚA biết ta và ngôi nước ta hoàn toàn vô tội trong vụ đổ máu của ông Áp-ne, con ông Ne. 29 Ước gì máu đó đổ lại trên đầu ông Giô-áp và trên cả nhà cha ông! Ước gì dòng họ Giô-áp không hề thiếu người bị bệnh hoa liễu, hoặc bệnh phong hủi, hoặc đàn ông mà chỉ biết làm công việc của đàn bà,[i] hoặc người chết vì gươm đao, hoặc người đói khổ thiếu ăn.”

30 Như vậy, ông Giô-áp và anh là ông A-bi-sai đã giết chết ông Áp-ne, vì ông này đã giết chết em của họ là ông A-xa-ên trong trận Ghíp-ôn.

Tang Lễ Ông Áp-ne

31 Vua Đa-vít truyền cho ông Giô-áp và toàn quân có mặt ở đó: “Anh em hãy xé rách áo mình, quấn bao vải thô, đấm ngực than khóc đi trước cỗ đòn ông Áp-ne.” Chính vua Đa-vít cũng đi theo sau cỗ đòn đám ma.

32 Khi chôn cất ông Áp-ne tại Hếp-rôn, vua òa lên khóc bên mộ ông Áp-ne; toàn quân đều khóc theo. 33 Vua ngâm điếu văn khóc ông Áp-ne:

“Sao Áp-ne phải chết như một kẻ điên rồ?
    Tay không bị trói,
    Chân không bị xiềng,
34 Nhưng ông đã ngã xuống,
    Như người ta ngã vì bị kẻ gian ám hại!”

Toàn quân tiếp tục khóc.

35 Sau đó, toàn quân đến nài xin vua Đa-vít ăn chút gì khi còn ban ngày, nhưng vua thề: “Nguyện Đức Chúa Trời phạt ta nặng nề nếu ta nếm chút bánh hay bất cứ món gì trước khi mặt trời lặn!”

36 Toàn quân ghi nhận điều ấy và tán thành, như toàn quân vẫn tán thành mọi điều vua làm. 37 Ngày hôm ấy, toàn quân và toàn dân Y-sơ-ra-ên biết rằng vua không có ra lệnh ám sát tướng Áp-ne, con ông Ne.

38 Vua nói với triều thần: “Hẳn anh em biết rằng hôm nay, một vị tướng, một vĩ nhân trong Y-sơ-ra-ên đã ngã xuống. 39 Dù ta đây được xức dầu làm vua, ta cảm thấy yếu mềm so với những người này là con bà Xê-ru-gia; họ quá bạo tàn! Nguyện CHÚA báo trả kẻ ác xứng hiệp với lòng dạ gian ác của nó!”

Vua Ích-bô-sết Bị Ám Sát

Nghe tin ông Áp-ne chết tại Hếp-rôn, vua Ích-bô-sết, con trai vua Sau-lơ, rủn chí sờn lòng, và toàn dân Y-sơ-ra-ên đều kinh hãi. Vua Ích-bô-sết, con trai vua Sau-lơ, có hai sĩ quan cầm đầu đội quân du kích. Một người tên là Ba-a-na, và người kia là Rê-cáp. Cả hai đều là con ông Rim-môn, người Bê-ê-rốt, thuộc bộ tộc Bên-gia-min, vì thành Bê-ê-rốt được kể là một thành trong địa phận Bên-gia-min.[j] Dân thành Bê-ê-rốt đã trốn đến thành Ghít-ta-dim[k] và định cư ở đó cho đến ngày nay.

Ông Giô-na-than, con vua Sau-lơ, có để lại một người con trai bại hai chân, tên là Mê-phi-bô-sết.[l] Cậu bé được năm tuổi khi có người từ thành Gít-rê-ên về báo tin vua Sau-lơ và ông Giô-na-than tử trận. Chị vú nuôi ẵm cậu chạy trốn. Trong khi hấp tấp chạy trốn, chị đánh rơi cậu, cho nên cậu bị què.

Rê-cáp và Ba-a-na, hai người con của ông Rim-môn người Bê-ê-rốt, lên đường và đến nhà vua Ích-bô-sết vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Vua đang nằm ngủ trưa. Bà gác cổng đang nhặt sạn cho sạch lúa. Bà ngủ gà ngủ gật rồi ngủ luôn. Rê-cáp và anh là Ba-a-na lẻn vào bên trong nhà.

Vua đang nằm ngủ trên giường, trong phòng ngủ. Chúng đâm vua chết, rồi chặt đầu vua. Chúng mang đầu vua đi suốt đêm xuyên qua vùng đồng bằng A-ra-ba. Chúng mang đầu vua Ích-bô-sết đến chầu vua Đa-vít tại Hếp-rôn và tâu: “Đây là đầu của Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, là kẻ thù của bệ hạ, là người tìm hại mạng sống bệ hạ. Ngày hôm nay, CHÚA đã báo thù vua Sau-lơ và dòng dõi vua cho bệ hạ.”

Nhưng vua Đa-vít đáp lại Rê-cáp và anh là Ba-a-na, hai con trai của ông Rim-môn, người Bê-ê-rốt: “Có CHÚA hằng sống, là Đấng giải cứu ta khỏi mọi cảnh nguy khốn, làm chứng cho ta. 10 Người báo cho ta biết tin vua Sau-lơ chết, tưởng rằng mình báo tin mừng, nhưng ta đã truyền bắt và xử tử nó tại Xiếc-lác! Đó là cách ta thưởng nó về tin mừng của nó. 11 Huống chi bọn gian ác giết một người vô tội đang ngủ trên giường, ngay trong nhà mình! Ta sẽ đòi máu người đó nơi tay các ngươi, và ta sẽ diệt các ngươi khỏi mặt đất!”

12 Vua Đa-vít truyền lệnh, quân lính liền giết chúng, chặt cả tay chân và treo chúng lên cạnh hồ nước tại Hếp-rôn. Nhưng đầu vua Ích-bô-sết thì quân lính đem chôn trong mộ của ông Áp-ne tại Hếp-rôn.

Vua Đa-vít Cai Trị Toàn Nước Y-sơ-ra-ên

Tất cả các bộ tộc Y-sơ-ra-ên đến Hếp-rôn chầu vua Đa-vít và tâu: “Chúng tôi đây là cốt nhục của bệ hạ. Trước kia, ngay dưới triều vua Sau-lơ, chính bệ hạ đã cầm đầu quân Y-sơ-ra-ên đi chinh chiến. CHÚA cũng đã phán với bệ hạ: ‘Chính con sẽ chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên Ta, chính con sẽ lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên.’ ”

Tất cả các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến Hếp-rôn chầu vua. Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Hếp-rôn, trước mặt CHÚA. Rồi họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Y-sơ-ra-ên.

Vua Đa-vít được ba mươi tuổi khi lên ngôi, và vua trị vì bốn mươi năm. Tại Hếp-rôn, vua cai trị dân Giu-đa bảy năm sáu tháng, và tại Giê-ru-sa-lem, vua cai trị toàn thể dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa ba mươi ba năm.

Vua Đa-vít Chiếm Thành Giê-ru-sa-lem

Vua tiến quân lên tấn công thành Giê-ru-sa-lem. Người Giê-bút là dân địa phương nói với vua Đa-vít: “Ông không vào đây được. Ngay cả người mù và người què cũng đủ sức đẩy lui ông.” Ý họ muốn nói là: “Đa-vít không bao giờ vào đây được.” Tuy nhiên, vua Đa-vít chiếm đóng đồn Si-ôn, nay gọi là Thành Đa-vít.

Lúc ấy, vua Đa-vít nói: “Người nào đánh dân Giê-bút phải chui qua cống dẫn nước ngầm, đánh người què và người mù, là những người thù ghét Đa-vít. Vì thế có câu: ‘Người mù và người què không được vào đền thờ.’ ”

Vua Đa-vít ngự trong đồn và đặt tên đồn là Thành Đa-vít. Vua Đa-vít xây dựng vùng chung quanh đó, từ gò Mi-lô trở vào trong. 10 Vua Đa-vít ngày càng vững mạnh vì CHÚA là Đức Chúa Trời Vạn Quân ở với vua.

11 Vua Hi-ram thành Ty-rơ sai sứ giả đến thăm hữu nghị vua Đa-vít, mang theo gỗ bá hương, thợ mộc, thợ đẽo đá; và họ xây dinh thự cho vua Đa-vít. 12 Bấy giờ vua Đa-vít nhận thức rõ rằng CHÚA đã lập vua lên cai trị dân Y-sơ-ra-ên và khiến cho ngôi nước vua được tôn trọng là vì lợi ích của dân Ngài là dân Y-sơ-ra-ên.

Các Con Vua Đa-vít Sanh Tại Giê-ru-sa-lem

13 Sau khi dời từ Hếp-rôn về Giê-ru-sa-lem, vua Đa-vít cưới thêm vợ và nàng hầu; những bà này sanh thêm con trai con gái cho vua Đa-vít. 14 Đây là tên những người con sanh tại Giê-ru-sa-lem: Sa-mua, Sô-báp, Na-than, Sa-lô-môn, 15 Díp-ha, Ê-li-sua, Nê-phết, Gia-phia, 16 Ê-li-sa-ma, Ên-gia-đa, và Ê-li-phê-lết.

Vua Đa-vít Chiến Thắng Quân Phi-li-tin

17 Khi người Phi-li-tin nghe tin vua Đa-vít được xức dầu làm vua dân Y-sơ-ra-ên, toàn quân Phi-li-tin kéo lên tìm bắt vua Đa-vít. Vua Đa-vít nghe tin liền đi xuống ẩn trong đồn. 18 Quân Phi-li-tin kéo đến và bủa ra trong thung lũng Rê-pha-im. 19 Vua Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA: “Con có nên đi lên đánh quân Phi-li-tin không? CHÚA có giao chúng vào tay con không?”

CHÚA đáp: “Con hãy đi. Chắc chắn Ta sẽ giao quân Phi-li-tin vào tay con.”

20 Vua Đa-vít đến Ba-anh Phê-ra-xim, đánh bại chúng tại đó. Vua Đa-vít nói: “CHÚA phá vỡ hàng ngũ quân thù trước mặt tôi như nước lũ vỡ bờ.” Vì thế vua đặt tên nơi đó là Ba-anh Phê-ra-xim. 21 Vua Đa-vít và binh sĩ đem về các thần tượng quân Phi-li-tin bỏ lại đó trong khi chạy trốn.

22 Quân Phi-li-tin lại kéo đến và bủa ra trong thung lũng Rê-pha-im một lần nữa. 23 Vua Đa-vít lại cầu hỏi ý CHÚA. Ngài bảo: “Con không nên đi thẳng lên, nhưng hãy đi vòng phía sau chúng và đánh bọc hậu đối ngang lùm cây dương. 24 Ngay khi con nghe tiếng chân bước trên ngọn cây dương, con hãy tấn công ngay, vì lúc bấy giờ CHÚA ra trận đánh quân Phi-li-tin trước con.” 25 Vua Đa-vít làm theo y như lệnh CHÚA truyền. Nhờ vậy, vua đánh đuổi được quân Phi-li-tin từ Ghê-ba đến tận Ghê-xe.

Vua Đa-vít Quyết Định Dời Rương Giao Ước Về Thành Giê-ru-sa-lem

Vua Đa-vít lại tập hợp toàn quân tinh nhuệ trong Y-sơ-ra-ên, số là 30,000 người. Vua dẫn toàn quân đến thành Ba-a-la trong xứ Giu-đa[m] để thỉnh Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời về. Rương Giao Ước mang danh của CHÚA Vạn Quân. Ngài đặt ngôi của Ngài trên các thần hộ giá, trên nắp rương. Họ đặt Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời lên một cỗ xe mới, đem ra khỏi nhà ông A-bi-na-đáp ở trên đồi. Ông U-xa và ông A-hi-giô, hai người con của ông A-bi-na-đáp, dẫn chiếc xe mới đi. Họ dẫn xe ra khỏi nhà ông A-bi-na-đáp ở trên đồi, trên xe có Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời, ông U-xa đi bên cạnh rương[n] và ông A-hi-giô đi trước rương. Vua Đa-vít và toàn dân Y-sơ-ra-ên vui mừng nhảy múa trước mặt CHÚA, theo tiếng đàn của đủ loại nhạc cụ bằng gỗ tùng như đàn hạc và đàn lia, có đệm theo tiếng trống con, chũm chọe, thanh la.

Khi đến sân đạp lúa của Na-côn, bò vấp chân, nên ông U-xa giơ tay ra đỡ Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời. CHÚA nổi giận với ông U-xa. Đức Chúa Trời đánh phạt ông ngay tại chỗ vì cử chỉ sơ ý đó.[o] Ông chết ngay đó, cạnh bên Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời.

Vua Đa-vít buồn bực vì CHÚA đã đánh chết ông U-xa, khiến cho dòng dõi ông bị đứt đoạn; vua gọi nơi đó là Pê-rết U-xa[p] tên này vẫn còn cho đến nay.

Ngày hôm ấy, vua Đa-vít sợ CHÚA và tự nhủ: “Làm sao tôi dám đem Rương Giao Ước của CHÚA về với tôi được?” 10 Vua Đa-vít không muốn đem Rương Giao Ước của CHÚA về thành Đa-vít với mình nên chuyển hướng, đưa rương về nhà ông Ô-bết-Ê-đôm, quê ở thành Gát. 11 Rương Giao Ước của CHÚA ở ba tháng trong nhà của ông Ô-bết-Ê-đôm, người thành Gát. CHÚA ban phước cho ông Ô-bết-Ê-đôm và cả gia đình ông.

Rương Giao Ước Về Thành Giê-ru-sa-lem

12 Có người báo tin cho vua Đa-vít: “Vì Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời, CHÚA có ban phước cho gia đình ông Ô-bết-Ê-đôm và mọi tài sản của ông.” Vua liền đi thỉnh Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời từ nhà ông Ô-bết-Ê-đôm lên thành Đa-vít với lễ tiệc liên hoan. 13 Khi những người khiêng Rương Giao Ước của CHÚA đi được sáu bước, vua dâng một con bò đực béo tốt làm sinh tế.

14 Để tôn vinh CHÚA, vua Đa-vít quấn chiếc ê-phót bằng vải lanh ngang hông, ra sức nhảy múa quay cuồng, 15 trong khi vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên thỉnh Rương Giao Ước của CHÚA về giữa tiếng reo mừng với tiếng tù và.

16 Khi Rương Giao Ước của CHÚA vào thành Đa-vít, bà Mi-canh, ái nữ vua Sau-lơ, nhìn qua cửa sổ, thấy vua Đa-vít nhảy múa quay cuồng trước mặt CHÚA. Bà đem lòng khinh dể vua.

17 Người ta đem Rương Giao Ước của CHÚA đặt vào chỗ dành riêng cho rương trong lều vua Đa-vít dựng sẵn, rồi vua Đa-vít dâng lên CHÚA sinh tế toàn thiêu và sinh tế liên hoan. 18 Khi vua Đa-vít dâng các sinh tế toàn thiêu và sinh tế liên hoan xong, vua nhân danh CHÚA Vạn Quân chúc phước cho dân. 19 Rồi vua phân phát cho toàn dân, cho toàn thể đám đông người Y-sơ-ra-ên, cả nam lẫn nữ, mỗi người một ổ bánh mì, một miếng thịt nướng và một cái bánh nho khô. Sau đó, mọi người ai nấy về nhà mình.

20 Vua Đa-vít cũng về nhà chúc phước cho gia đình mình. Bà Mi-canh, ái nữ vua Sau-lơ, ra đón vua Đa-vít. Bà nói: “Hôm nay vua Y-sơ-ra-ên thật đã tự làm cho mình nên tôn trọng khi vua nhảy múa để lộ thân hình mình ra trước mặt bọn nữ tỳ của triều thần y như một người chẳng ra gì!”

21 Vua Đa-vít đáp: “Ta nhảy múa để tôn vinh CHÚA, là Đấng đã chọn ta thay vì thân phụ nàng và cả gia đình thân phụ nàng. Ngài lập ta lên chỉ huy dân Y-sơ-ra-ên của CHÚA. Vì thế ta vui mừng nhảy múa để tôn vinh CHÚA. 22 Và ta sẽ làm cho mình nên khinh hèn hơn nữa, ta sẽ tự hạ mình xuống thấp hơn nữa. Còn bọn nữ tỳ nàng vừa nhắc đến, chính họ sẽ tôn trọng ta.”

23 Vì vậy, bà Mi-canh, ái nữ vua Sau-lơ, không có con cho đến ngày qua đời.

Lời Đức Chúa Trời Hứa Ban Cho Vua Đa-vít Và Dòng Dõi Vua

Sau khi vua ngự về cung, và CHÚA cho vua được an ninh mọi bề, không còn quân thù quấy nhiễu, vua nói với tiên tri Na-than: “Này, ta sống trong cung xây bằng gỗ bá hương, còn Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời lại ngự giữa các bức màn!” Ông Na-than tâu với vua: “Xin bệ hạ cứ thực hiện mọi điều bệ hạ suy tính trong lòng, vì CHÚA ở với bệ hạ.”

Nhưng ngay đêm ấy, CHÚA bảo ông Na-than: “Con hãy đi nói với tôi tớ Ta là Đa-vít: ‘CHÚA phán như vầy: Con định xây đền thờ cho Ta ngự sao? Từ ngày Ta đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập cho đến nay, Ta chưa hề ngự trong một đền thờ nào cả, nhưng Ta chỉ ngự trong lều hoặc đền tạm khi Ta đi đây đó. Bất cứ nơi nào Ta đi với toàn dân Y-sơ-ra-ên, có bao giờ Ta trách các vị lãnh đạo mà Ta đã lập lên chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên Ta: Sao các ngươi không xây cho Ta một đền thờ bằng gỗ bá hương?’

Vậy bây giờ, con hãy bảo tôi tớ Ta là Đa-vít: ‘CHÚA Vạn Quân phán như vầy: Chính Ta đã đem con ra từ đồng cỏ, nơi con chăn chiên, và lập con lên cai trị dân Y-sơ-ra-ên Ta. Ta đã từng ở với con mọi nơi con đi, và Ta đã diệt trừ mọi kẻ thù con cho khuất mắt con. Hơn nữa, Ta sẽ ban cho con danh tiếng lẫy lừng như danh các bậc vĩ nhân trên đất. 10 Ta sẽ ban cho dân Y-sơ-ra-ên Ta một chỗ ở, Ta sẽ cho chúng đâm rễ tại đó, để chúng sống vững vàng, không còn run sợ nữa, và bọn gian ác không còn áp bức chúng nữa như trước kia, 11 khi Ta lập các thẩm phán cai trị dân Y-sơ-ra-ên Ta. Và Ta sẽ cho con được an ninh, không còn quân thù quấy nhiễu nữa.

CHÚA báo cho con biết rằng chính CHÚA sẽ dựng nhà cho con. 12 Khi ngày đời con đã mãn, và con nằm xuống với tổ tiên, Ta sẽ lập một người từ dòng dõi con, do chính con sanh ra, lên nối ngôi con, và Ta sẽ làm cho ngôi nước nó vững bền. 13 Chính nó sẽ xây đền thờ cho danh Ta ngự, và Ta sẽ lập ngôi nước nó vững bền mãi mãi. 14 Ta sẽ làm cha nó, và nó sẽ làm con Ta. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó như cha mẹ dùng roi đòn răn dạy con. 15 Nhưng tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó như đã rời khỏi Sau-lơ mà Ta đã dẹp bỏ để con được lên ngôi. 16 Nhà con sẽ không thiếu người nối dõi, Ta sẽ cho vương quốc con tồn tại mãi mãi, và Ta sẽ lập ngôi nước con vững bền đời đời.’ ”

17 Tiên tri Na-than lặp lại cho vua Đa-vít nghe mọi điều đúng như lời Chúa phán trong khải tượng.

Bài Cầu Nguyện Của Vua Đa-vít

18 Bấy giờ vua Đa-vít đi vào lều, chầu trước mặt CHÚA, và thưa: “Kính lạy CHÚA là Chúa của con, con là ai, và gia đình con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? 19 Ôi, lạy CHÚA là Chúa của con, dù vậy, Ngài vẫn cho đó là chuyện nhỏ mọn, và Ngài còn phán dạy con là tôi tớ Ngài về triều đại của con trong tương lai, và ôi, lạy CHÚA là Chúa của con, Ngài còn cho con nhìn thấy trước các thế hệ sắp đến.

20 Đa-vít còn biết thưa gì với Ngài nữa? Ôi, lạy CHÚA là Chúa của con, Ngài biết tôi tớ của Ngài. 21 Vì lời hứa của Ngài, và tùy theo ý muốn Ngài, Ngài đã thực hiện tất cả những việc lớn lao này và bày tỏ cho tôi tớ Ngài.

22 Lạy CHÚA là Chúa của con, Ngài thật cao cả vĩ đại, vì không ai có thể sánh với Ngài, và ngoài Ngài ra, không có Đức Chúa Trời nào khác, theo như mọi điều chính tai chúng con đã nghe! 23 Có ai giống như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, một dân tộc duy nhất trên đất được Đức Chúa Trời giải cứu để làm thành dân riêng của Ngài? Danh Ngài được tôn trọng khi Ngài thực hiện những việc lớn lao đáng sợ cho dân Ngài và đất của Ngài, khi Ngài đuổi những dân tộc khác và thần của họ ra khỏi đất trước mặt dân của Ngài mà Ngài đã vì chính mình Ngài giải cứu ra khỏi Ai-cập. 24 Ngài đã lập vững dân Y-sơ-ra-ên của Ngài thành dân riêng của Ngài cho đến đời đời, và lạy CHÚA, Ngài đã trở thành Đức Chúa Trời của họ.

25 Kính lạy CHÚA là Đức Chúa Trời, giờ đây con kính xin Ngài mãi mãi thực hiện lời Ngài đã hứa về tôi tớ Ngài và triều đại của tôi tớ Ngài. Xin Ngài làm theo như lời Ngài đã hứa. 26 Nguyền xin danh Ngài được muôn đời ca ngợi: ‘CHÚA Vạn Quân là Đức Chúa Trời cai trị dân Y-sơ-ra-ên!’ Cầu xin Ngài lập cho vững triều đại của tôi tớ Ngài là Đa-vít!

27 Kính lạy CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên, vì chính Ngài đã tỏ cho tôi tớ Ngài biết rằng Ngài sẽ dựng cho con một triều đại, nên tôi tớ Ngài mới thu hết can đảm dâng lên Ngài lời cầu xin này. 28 Kính lạy CHÚA là Chúa của con, chính Ngài là Đức Chúa Trời. Lời Ngài phán chắc chắn sẽ thành tựu, và Ngài đã hứa ban cho tôi tớ Ngài phước lành này. 29 Giờ đây, con kính xin Ngài vui lòng ban phước cho dòng dõi của tôi tớ Ngài, để chúng còn mãi trước mặt Ngài, vì chính Ngài, ôi CHÚA là Chúa của con, đã hứa như vậy. Cầu xin Ngài mãi mãi ban phước cho triều đại của tôi tớ Ngài!”

Vua Đa-vít Chiến Thắng Các Nước Lân Bang

Sau đó, vua Đa-vít đánh bại người Phi-li-tin, bắt chúng phải phục tùng, và đoạt quyền bá chủ các đô thị bị lệ thuộc khỏi tay chúng.

Vua cũng đánh bại người Mô-áp, và dùng dây đo chúng. Vua bắt chúng nằm rạp xuống đất, rồi cứ đo hai dây thì giết, và đủ trọn một dây thì tha cho sống. Vậy dân Mô-áp trở thành chư hầu và triều cống vua Đa-vít.

Vua Đa-vít đánh bại vua Ha-đa-rê-xe, con vua Rê-hốp, nước Xô-ba;[q] khi vua này đang trên đường đến vùng sông Ơ-phơ-rát để trùng tu đài kỷ niệm[r] của mình. Vua Đa-vít bắt làm tù binh 1,700 kỵ binh và 20,000 bộ binh của vua Xô-ba. Vua Đa-vít cũng cho cắt gân đầu gối của tất cả những con ngựa kéo xe, chỉ để lại đủ số ngựa kéo một trăm cỗ xe thôi.

Khi quân Sy-ri ở Đa-mách kéo đến tiếp viện vua Ha-đa-rê-xe nước Xô-ba, vua Đa-vít đánh bại chúng, giết được 22,000 ngàn quân. Vua Đa-vít đặt quan trấn thủ cai trị dân Sy-ri ở Đa-mách. Vậy dân Sy-ri trở thành chư hầu và triều cống vua Đa-vít. CHÚA cho vua Đa-vít đánh đâu thắng đó.

Vua Đa-vít tịch thu những cái khiên[s] bằng vàng của các sĩ quan hầu cận vua Ha-đa-rê-xe và đem về thành Giê-ru-sa-lem.

Vua Đa-vít cũng thu được rất nhiều đồng từ thành Bê-tác và thành Bê-rô-thai của vua Ha-đa-rê-xe.

Vua Tô-i thành Ha-mát nghe tin vua Đa-vít đánh bại toàn quân của vua Ha-đa-rê-xe. 10 Vua Tô-i liền sai hoàng tử Giô-ram đến thăm hữu nghị và chúc mừng vua Đa-vít đã chiến thắng vua Ha-đa-rê-xe. Thật ra, chính vua Tô-i cũng đã từng giao chiến với vua Ha-đa-rê-xe. Hoàng tử Giô-ram đem biếu vua Đa-vít những tặng phẩm bằng bạc, vàng, và đồng.

11 Vua Đa-vít biệt riêng những tặng phẩm ấy dâng lên CHÚA, cũng như vua đã biệt riêng và dâng lên CHÚA bạc, vàng thu được từ tất cả những dân tộc bị vua chinh phục: 12 Ê-đôm[t] Mô-áp, Am-môn, Phi-li-tin, A-ma-léc, và từ chiến lợi phẩm vua đoạt được của vua Ha-đa-rê-xe, con vua Rê-hốp, nước Xô-ba.

13 Danh tiếng vua Đa-vít vang lừng. Sau khi chiến thắng quân Sy-ri trở về, vua đánh bại 18,000 quân Ê-đôm tại Thung lũng Muối.

14 Vua đặt quan trấn thủ cai trị toàn xứ Ê-đôm. Toàn dân Ê-đôm trở thành chư hầu của vua Đa-vít. CHÚA cho vua Đa-vít đánh đâu thắng đó.

Nội Các Của Vua Đa-vít

15 Vua Đa-vít cai trị toàn nước Y-sơ-ra-ên, thi hành luật lệ cách công minh cho toàn dân. 16 Ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, chỉ huy quân đội. Ông Giô-sa-phát, con ông A-hi-lút, làm quan thái sư.[u] 17 Ông Xa-đốc, con ông A-hi-túp, và ông A-bia-tha, con ông A-hi-mê-léc làm thầy tế lễ; ông Sê-ra-gia làm tổng thư ký. 18 Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, chỉ huy đoàn vệ binh hoàng gia người Kê-rết và Phê-lết; và các con trai vua Đa-vít làm thầy tế lễ.

Vua Đa-vít Giữ Lòng Thành Với Mê-phi-bô-sết, Con Trai Ông Giô-na-than

Một hôm, vua Đa-vít hỏi: “Trong gia đình vua Sau-lơ có người nào còn sống sót không? Ta muốn giữ lòng thành với người đó vì ông Giô-na-than.”

Gia-đình vua Sau-lơ trước kia có một người đầy tớ tên là Xi-ba. Người ta mời ông vào chầu vua Đa-vít. Vua hỏi ông: “Ngươi là Xi-ba phải không?”

Ông thưa: “Tâu bệ hạ, tôi đây là tôi tớ bệ hạ.”

Vua hỏi tiếp: “Trong gia đình vua Sau-lơ không còn người nào sao? Ta muốn giữ lòng thành với người đó theo như đã hứa trước mặt Đức Chúa Trời.”

Ông Xi-ba thưa: “Tâu bệ hạ, còn một người con trai của ông Giô-na-than, què hai chân.”

Vua tiếp: “Ông ấy ở đâu?”

Ông Xi-ba thưa: “Ông ấy hiện đang ở nhà ông Ma-ki, con ông A-mi-ên, tại Lô-đê-ba.”

Vua Đa-vít sai người đến nhà ông Ma-ki, con ông A-mi-ên, ở Lô-đê-ba, đón ông ấy về.

Khi Mê-phi-bô-sết, con ông Giô-na-than, cháu vua Sau-lơ, vào chầu vua Đa-vít, ông sấp mình xuống đất lạy vua.

Vua hỏi: “Cháu là Mê-phi-bô-sết phải không?”

Ông thưa: “Tâu bệ hạ, cháu đây là tôi tớ bệ hạ.”

Vua Đa-vít bảo: “Cháu đừng sợ. Vì ông Giô-na-than, cha cháu, ta sẽ giữ lòng thành với cháu. Ta sẽ trả lại cho cháu tất cả ruộng đất của vua Sau-lơ, ông nội cháu; hơn nữa, cháu sẽ dùng bửa cùng bàn với ta mãi mãi.”

Ông Mê-phi-bô-sết cúi sấp xuống đất, vái lạy: “Tôi tớ bệ hạ là gì mà bệ hạ lại quan tâm đến một con chó chết như cháu?”

Vua truyền đòi ông Xi-ba, đầy tớ vua Sau-lơ, đến và căn dặn: “Tất cả những gì thuộc về vua Sau-lơ và toàn thể gia đình vua, ta đều ban cho cháu nội của chủ ngươi. 10 Vậy ngươi, con cái ngươi, và tôi tớ của ngươi hãy cày cấy ruộng đất cho ông ấy, và thu hoạch hoa màu để cung cấp lương thực cho gia đình[v] của chủ ngươi. Nhưng ông Mê-phi-bô-sết, cháu nội của chủ ngươi, sẽ dùng bữa cùng bàn với ta luôn.” Ông Xi-ba có mười lăm con trai và hai mươi tôi tớ.

11 Ông Xi-ba thưa: “Tôi tớ của bệ hạ xin tuân theo mọi điều bệ hạ là chúa tôi truyền dạy.” Vậy ông Mê-phi-bô-sết dùng bữa cùng bàn với vua Đa-vít như một hoàng tử.

12 Ông Mê-phi-bô-sết có một con trai nhỏ tên là Mi-ca. Mọi người trong gia đình ông Xi-ba đều là tôi tớ của ông Mê-phi-bô-sết. 13 Vậy ông Mê-phi-bô-sết sống tại thành Giê-ru-sa-lem vì ông được dùng bữa cùng bàn với vua luôn, dù ông bị què cả hai chân.

Sứ Giả Của Vua Đa-vít Bị Người Am-môn Làm Nhục

10 Chẳng bao lâu sau đó, vua dân Am-môn qua đời. Con vua là thái tử Ha-nun lên ngôi kế vị. Vua Đa-vít tự nhủ: “Ta muốn đối xử trung hậu với vua Ha-nun, con vua Na-hát, y như vua Na-hát đã đối xử trung hậu với ta.” Vua Đa-vít liền sai một số triều thần đi sứ đến chia buồn với vua Ha-nun về sự qua đời của vua cha là Na-hát.

Vậy triều thần vua Đa-vít đi sứ đến nước dân Am-môn. Nhưng các tướng lãnh dân Am-môn tâu với chúa mình là vua Ha-nun: “Bệ hạ tưởng Đa-vít thật sự kính trọng vua cha khi sai sứ đến chia buồn với bệ hạ sao? Không đâu! Đa-vít sai sứ thần đến với bệ hạ chỉ để dò xét và do thám thành đô với mục đích đánh chiếm thành sau này!” Vua Ha-nun truyền lệnh bắt các sứ thần của vua Đa-vít, đem cạo sạch râu một bên mặt, cắt bỏ một bên nửa áo quần của họ ngay phía mông, rồi thả họ về.

Vua Đa-vít nghe tin, sai người đi đón các sứ thần vì họ cảm thấy nhục nhã lắm. Vua bảo họ: “Các ngươi cứ ở lại thành Giê-ri-cô, chờ cho râu mọc lại, rồi hãy về.”

Đánh Thắng Quân Am-môn Và Quân Sy-ri

Dân Am-môn biết họ đã chọc cho vua Đa-vít căm thù, nên sai người đi thuê 20,000 bộ binh Sy-ri ở thành Bết-rê-hốp và Xô-ba, 1,000 quân của vua thành Ma-a-ca, và 12,000 quân của thành Tốp.

Vua Đa-vít nghe tin liền sai tướng Giô-áp ra trận với toàn quân chuyên nghiệp. Quân Am-môn kéo ra dàn trận tại lối vào cổng thành, trong khi quân Sy-ri ở Xô-ba và Rê-hốp, và quân thành Tốp và Ma-a-ca dàn quân riêng ngoài đồng.

Khi tướng Giô-áp thấy quân địch hãm đánh cả hai mặt, phía trước và phía sau, ông chọn đạo quân ưu tú nhất trong toàn quân tinh nhuệ của Y-sơ-ra-ên và dàn trận đánh quân Sy-ri. 10 Ông giao số quân còn lại cho anh là ông A-bi-sai, và họ dàn trận đánh quân Am-môn. 11 Ông căn dặn: “Nếu quân Sy-ri mạnh hơn em, anh đến cứu giúp em, còn nếu quân Am-môn mạnh hơn anh, em sẽ đến cứu giúp anh. 12 Anh hãy can đảm lên, chúng ta hãy chiến đấu hết sức để bảo vệ dân tộc và các thành trì của Đức Chúa Trời. Xin CHÚA thực hiện ý tốt của Ngài!”

13 Ông Giô-áp và đạo quân của ông tiến công đánh quân Sy-ri; chúng thua trận, bỏ chạy. 14 Khi quân Am-môn thấy quân Sy-ri bỏ chạy, chúng cũng bỏ chạy trước mặt ông A-bi-sai và trốn vô thành. Ông Giô-áp liền ngưng đánh quân Am-môn và trở về thành Giê-ru-sa-lem.

15 Quân Sy-ri thấy mình bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại nên tập hợp lực lượng. 16 Vua Ha-đa-rê-xe sai người triệu tập quân Sy-ri từ phía bên kia sông Ơ-phơ-rát. Tướng Sô-bác, chỉ huy quân đội của vua Ha-đa-rê-xe, hướng dẫn chúng đến thành Hê-lam.

17 Vua Đa-vít nghe tin liền tập hợp toàn quân Y-sơ-ra-ên, vượt sông Giô-đanh, và kéo đến Hê-lam, nơi quân Sy-ri dàn trận sẵn sàng để nghênh chiến vua Đa-vít. Quân Sy-ri tấn công, 18 nhưng chúng thua bỏ chạy trước mặt quân Y-sơ-ra-ên. Vua Đa-vít tiêu diệt 700 cỗ xe ngựa và 40,000 kỵ binh Sy-ri. Tướng Sô-bác chỉ huy quân đội Sy-ri bị trọng thương và tử trận. 19 Khi tất cả các vua chư hầu của vua Ha-đa-rê-xe thấy quân Sy-ri bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại, họ cầu hòa với dân Y-sơ-ra-ên và trở thành chư hầu của Y-sơ-ra-ên.

Người Sy-ri sợ không dám tiếp viện dân Am-môn nữa.

Vua Đa-vít Phạm Tội Tà Dâm

11 Một năm sau khi các vua[w] ra quân[x] vua Đa-vít sai tướng Giô-áp và triều thần lãnh đạo toàn quân Y-sơ-ra-ên đi chinh chiến. Họ đánh bại quân Am-môn và vây hãm kinh đô Ráp-ba. Còn vua Đa-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem.

Một buổi chiều kia, vua Đa-vít nghỉ trưa xong, thức dậy, đi dạo trên sân thượng cung điện; từ sân thượng vua nhìn thấy một phụ nữ đang tắm. Nàng rất đẹp. Vua Đa-vít sai người dò hỏi về nàng. Người ta tâu: “Đó chính là bà Bát-sê-ba, con gái ông Ê-li-am, vợ ông U-ri-gia, người Hê-tít.” Vua Đa-vít sai người đón nàng vào cung. Lúc ấy, nàng vừa thanh tẩy mình sau kỳ kinh nguyệt. Khi nàng đến, vua nằm với nàng. Rồi nàng trở về nhà. Sau đó, nàng thụ thai và sai người báo tin cho vua Đa-vít: “Tôi có thai.”

Vua Đa-vít liền sai người mang lệnh vua cho tướng Giô-áp: “Hãy bảo U-ri-gia, người Hê-tít, về gặp ta.” Ông Giô-áp sai ông U-ri-gia về chầu vua Đa-vít. Khi ông U-ri-gia đến chầu vua, vua Đa-vít hỏi thăm tin tức về tướng Giô-áp, về binh sĩ, và tình hình chiến sự. Rồi vua Đa-vít bảo ông U-ri-gia: “Ngươi hãy về nhà nghỉ ngơi đôi chút”[y] Ông U-ri-gia rời khỏi cung điện. Vua sai người mang quà[z] đến nhà cho ông. Nhưng ông U-ri-gia không về nhà. Ông nằm ngủ tại cổng hoàng cung chung với tất cả các cận vệ của chủ ông.

10 Khi vua Đa-vít hay tin ông U-ri-gia không có về nhà, vua hỏi ông: “Ngươi đi đường xa mới về, sao ngươi không về nhà?”

11 Ông U-ri-gia tâu với vua Đa-vít: “Rương Giao Ước và các chiến sĩ Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đều ở trong lều;[aa] trong khi tướng Giô-áp chủ tôi, và các đầy tớ của ông đều cắm trại ngoài đồng, lẽ nào tôi lại về nhà tôi, ăn uống và ngủ với vợ tôi sao? Tôi xin thề với bệ hạ tôi không bao giờ làm một chuyện như vậy!”

12 Vua Đa-vít bảo: “Hãy ở lại đây hôm nay nữa, rồi ngày mai ta sẽ cho ngươi đi.” Vậy ông U-ri-gia ở lại thành Giê-ru-sa-lem ngày hôm ấy. Ngày hôm sau, 13 vua Đa-vít mời ông U-ri-gia đến. Ông dùng bữa với vua, vua ép ông uống cho thật say, nhưng đến chiều, ông vẫn không về nhà. Ông ra ngoài nằm ngủ trên chiếu của mình, bên cạnh mấy người cận vệ của vua.

Vua Đa-vít Phạm Tội Giết Người

14 Sáng hôm sau, vua Đa-vít viết thơ gởi ông U-ri-gia cầm về cho tướng Giô-áp. 15 Trong thơ, vua viết như thế này: “Hãy đặt U-ri-gia ở ngay hàng đầu, chỗ trận chiến ác liệt nhất, rồi các ngươi hãy lui xa ra, để cho U-ri-gia bị trúng thương mà tử trận.”

16 Vậy, trong lúc vây thành, ông Giô-áp đặt ông U-ri-gia ở ngay chỗ ông biết quân địch có chiến sĩ hùng mạnh. 17 Khi quân trong thành xông ra giao chiến với quân của ông Giô-áp, một vài người trong số các cận thần của vua Đa-vít, bị tử trận. Ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận.

18 Ông Giô-áp sai người báo cáo cho vua Đa-vít biết mọi sự về tình hình chiến trận. 19 Ông dặn người đem tin: “Khi anh báo cáo cho vua nghe xong mọi việc về tình hình chiến trận, 20 có thể vua nổi giận hỏi: ‘Tại sao các ngươi đến gần tường thành như vậy mà giao chiến? Các ngươi không biết rằng quân địch bắn từ trên tường thành xuống sao? 21 Ai giết A-bi-mê-léc, con ông Giê-ru-bê-sết.[ab] Phải chăng một người đàn bà từ trên tường thành đã liệng thớt đá xuống trên đầu ông và ông chết tại Thê-bết? Tại sao các ngươi lại đến gần tường thành như vậy?’ Bấy giờ anh hãy tâu: ‘Tôi tớ vua là ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận.’ ”

22 Người lính đem tin lên đường; anh đến nơi, báo tin lại cho vua Đa-vít mọi điều ông Giô-áp căn dặn. 23 Anh thưa với vua: “Lúc đầu quân địch mạnh hơn chúng tôi, chúng nó xông vào đánh chúng tôi ngoài đồng, nhưng sau đó chúng tôi đẩy lui chúng về đến cổng thành. 24 Nhưng lính bắn cung từ trên tường thành bắn vào các đầy tớ của vua, và một vài người tử trận; đầy tớ vua là ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận.”

25 Vua Đa-vít bảo người đem tin: “Ngươi hãy khuyến khích tướng Giô-áp, khuyên ông đừng buồn phiền về chuyện này, vì lưỡi gươm chém giết khi nhằm người này, lúc người kia. Ngươi hãy khuyên ông ra sức chiến đấu, tấn công và phá hủy thành.”

26 Bà vợ ông U-ri-gia nghe tin chồng tử trận, liền than khóc chồng. 27 Sau khi mãn tang, vua Đa-vít sai người đón bà về cung. Bà trở thành vợ vua, và sanh cho vua một con trai. Nhưng điều Đa-vít đã làm không đẹp lòng CHÚA.

Sứ Điệp Của Tiên Tri Na-than

12 CHÚA sai tiên tri Na-than đi gặp vua Đa-vít. Ông đến gặp vua và nói: “Có hai người ở trong cùng một thành, một người giàu, và một người nghèo. Người giàu có rất nhiều đàn chiên dê, và bò. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài một con chiên cái nhỏ mà ông đã mua. Ông nuôi nó, và nó lớn lên trong nhà ông, cùng với con cái ông. Nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, và ngủ trong lòng ông. Ông coi nó như một đứa con gái.

Một ngày kia, có khách đi đường xa đến thăm người giàu. Ông này tiếc, không muốn bắt chiên dê, hoặc bò của mình làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái của người nghèo làm thịt đãi khách.”

Vua Đa-vít bất bình giận dữ về việc làm của người giàu, nói với ông Na-than: “Có CHÚA hằng sống, kẻ nào làm chuyện đó thật đáng chết! Nó phải bồi thường gấp bốn lần[ac] giá con chiên cái, vì nó đã làm chuyện đó, và không có lòng thương xót.”

Ông Na-than nói với vua Đa-vít: “Kẻ đó chính là bệ hạ! CHÚA, là Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Chính Ta đã xức dầu cho con làm vua dân Y-sơ-ra-ên, chính Ta đã giải cứu con khỏi tay vua Sau-lơ. Ta ban cho con quyền trên gia đình của chủ con, Ta giao những người vợ của chủ con vào lòng con, Ta ban cho con quyền cai trị dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu chưa đủ, Ta có thể ban cho con nhiều hơn gấp mấy lần nữa. Tại sao con lại khinh dể mạng lịnh của CHÚA, làm điều ác trước mắt Ngài? Con đã dùng gươm giết U-ri-gia, người Hê-tít! Con lấy vợ nó làm vợ con, rồi con dùng gươm của quân Am-môn giết nó! 10 Vậy, lưỡi gươm sẽ không bao giờ lìa khỏi nhà con, vì con đã khinh dể Ta, lấy vợ của U-ri-gia người Hê-tít làm vợ con.’

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)