Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
2 Sa-mu-ên 22:19 - 1 Các Vua 7:37

19 Chúng tấn công con ngày con lâm nạn,
    Nhưng CHÚA phù hộ con.
20 Ngài đưa con ra khỏi cảnh nguy nan,
    Ngài giải cứu con vì Ngài thương con.
21 CHÚA ban thưởng con vì con vâng lời Ngài,
    Ngài ban phước cho con vì tay con trong sạch.
22 Con giữ theo các đường lối CHÚA dạy,
    Không làm ác xây bỏ Đức Chúa Trời con tôn thờ.
23 Con vâng theo mọi mạng lệnh Ngài truyền,
    Không lìa bỏ một điều răn nào.
24 Chúa biết con hoàn toàn vâng theo Ngài,
    Và giữ mình, không làm điều ác.
25 Vậy, CHÚA ban phước cho con vì con vâng lời Ngài,
    Vì Chúa biết con trong sạch.
26 Chúa bền lòng thương xót người nào trung thành vâng lời Ngài,
    Chúa đối xử trọn vẹn với người hoàn toàn vâng theo Ngài.
27 Chúa đối xử ngay thẳng với người chân thật thanh liêm,
    Nhưng Ngài trừng phạt kẻ gian xảo xứng đáng với việc làm của chúng.
28 Chúa giải cứu người khiêm nhu hạ mình,
    Nhưng mắt Ngài thấy kẻ kiêu ngạo, Ngài hạ họ xuống.
29 Lạy CHÚA, Ngài là ngọn đèn của con,
    CHÚA soi chiếu vào đời con, xua tan bóng tối tử vong và tội lỗi.
30 Nhờ sức Ngài, con tấn công quân thù,
    Cậy ơn Đức Chúa Trời, con phóng qua tường thành.
31 Lạy Đức Chúa Trời, đường lối Ngài trọn vẹn;
    Lời CHÚA hứa đáng tin cậy hoàn toàn.
Ngài là thuẫn khiên che chở
    Mọi người ẩn náu bên Ngài.
32 Ngoài CHÚA ra, ai là Đức Chúa Trời?
    Ai là núi đá an toàn, ngoài Đức Chúa Trời chúng con tôn thờ?
33 Lạy Đức Chúa Trời, Ngài là nơi trú ẩn vững chắc của con,
    Ngài giữ cho con đi lại an toàn.
34 Ngài cho chân con nhanh nhẹn như chân nai,
    Ngài đặt con đứng vững vàng trên đỉnh núi.
35 Chúa luyện tay con thạo việc chinh chiến,
    Cánh tay con giương nổi cung đồng.
36 Chúa che chở và giải cứu con,
    Chúa hạ mình xuống để nâng con lên.
37 Chúa mở rộng đường cho con bước đi,
    Nên con không vấp ngã.
38 Con đuổi theo, hủy diệt quân thù,
    Chỉ trở về sau khi tận diệt chúng.
39 Con tận diệt chúng, con đập tan chúng,
    Chúng không đứng dậy nổi, chúng ngã gục dưới chân con.
40 Chúa ban cho con sức mạnh để chiến đấu,
    Chúa khiến đối phương quỳ mọp dưới chân con.
41 Chúa bắt kẻ thù quay lưng chạy trốn,
    Con tiêu diệt những kẻ oán thù con.
42 Chúng kêu cứu nhưng không ai cứu giúp,
    Chúng kêu cầu CHÚA, nhưng Ngài không đáp lời.
43 Con nghiền tan chúng như bụi đất,
    Con giẫm nát chúng, chà đạp chúng như bùn ngoài đường.
44 Dân con phản loạn, Chúa cứu con thoát khỏi;
    Ngài giữ con làm đầu các nước,
Dân xa lạ phải thần phục con.
45     Người nước ngoài cúi mọp trước mặt con,
    Nghe đến con, tức khắc tuân theo.
46 Người nước ngoài tiêu tan khí phách,
    Từ trong đồn lũy, run rẩy bước ra.
47 Lạy CHÚA Hằng Sống! Con ca ngợi Ngài là núi đá cho con nương náu!
    Con tôn vinh Đức Chúa Trời, Ngài là núi đá che chở con, Ngài cứu con thoát khỏi hiểm nguy!
48 Lạy Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng báo thù cho con,
    Ngài bắt các dân thần phục con,
49     Ngài giải cứu con khỏi kẻ thù,
Cho con chiến thắng đối phương,
    Cứu con thoát khỏi kẻ bạo tàn.
50 Vì thế, lạy CHÚA, con xin tôn vinh Ngài giữa muôn dân,
    Và ca hát ngợi khen danh Ngài.
51 Chúa ban chiến thắng vẻ vang cho vua Ngài chọn,
    Chúa yêu thương người được Chúa xức dầu với tình yêu bền bỉ, không dời đổi.
    Chúa yêu thương Đa-vít và dòng dõi người đến muôn đời.”

Những Lời Cuối Cùng Của Vua Đa-vít

23 Đây là những lời cuối cùng của vua Đa-vít:

Lời của Đa-vít, con ông Y-sai,
    Lời của người được nhấc lên cao,[a]
Người được Đức Chúa Trời của nhà Gia-cốp xức dầu tấn phong;
    Người sáng tác những bài ca được dân Y-sơ-ra-ên ưa chuộng:
Thần Linh CHÚA dùng ta phán dạy,
    Sứ điệp Ngài ở nơi lưỡi ta.
Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên truyền dạy,
    Núi Đá của dân Y-sơ-ra-ên phán với ta:
“Người nào cai trị nhân loại cách công minh,
    Người nào cai trị với lòng kính sợ Đức Chúa Trời,
Sẽ như ánh sáng ban mai, lúc mặt trời mọc
    Vào một buổi sáng trời quang mây tạnh,
Ánh hào quang rực rỡ sau cơn mưa,
    Làm cây cỏ xanh tươi mọc lên từ lòng đất.”
Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ ban phước cho dòng dõi ta như vậy!
    Vì Ngài đã lập với ta một giao ước đời đời,
    Có quy định đầy đủ, không đổi dời.
Mọi thành công, mọi điều ta ao ước,
    Ngài sẽ cho nẩy mầm.
Nhưng phường gian ác, hết thảy chúng đều bị nhổ bỏ như gai gốc.
    Không ai dám nắm chúng trong tay.
Người nào đụng đến chúng,
    Phải có dụng cụ bằng sắt, hoặc gỗ, cây giáo.
    Chúng bị đốt cháy rụi trong lửa, ngay tại chỗ.

Ba Dũng Sĩ Của Vua Đa-vít

Đây là tên các dũng sĩ của vua Đa-vít: ông Giô-sép Ba-sê-bết,[b] người Tách-kê-môn, đứng đầu các dũng sĩ.[c] Người ta cũng gọi ông là A-đi-nô, người Ê-xen. Ông giết chết tám trăm người cùng một lúc.

Kế đến trong số ba dũng sĩ là ông Ê-lê-a-sa, con ông Đô-đô, người A-hô-hi. Ông theo vua Đa-vít khi họ thách quân Phi-li-tin đã tụ tập về đó để giao chiến. Quân Y-sơ-ra-ên rút lui. 10 Nhưng ông giữ vững vị trí và chém giết quân Phi-li-tin cho đến khi bàn tay ông mệt mỏi dính chặt vào thanh gươm. Quân Y-sơ-ra-ên trở về ủng hộ ông, nhưng chỉ để lột xác chết. Ngày hôm ấy, CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang.

11 Kế đến là ông Sam-ma, con ông A-ghê, người Ha-ra. Quân Phi-li-tin tụ về Lê-hi. Tại đó có một thửa đất trồng đậu lăng. Quân Y-sơ-ra-ên chạy trốn quân Phi-li-tin. 12 Nhưng ông đứng giữa thửa đất, đánh giết quân Phi-li-tin và bảo vệ vườn đậu. CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang.

Thành Tích Của Ba Dũng Sĩ Trong Nhóm Ba Mươi

13 Ba người trong Nhóm Ba Mươi dũng sĩ hàng đầu đi xuống hang đá A-đu-lam vào mùa gặt để gặp vua Đa-vít. Một đạo binh Phi-li-tin đang đóng quân trong thung lũng Rê-pha-im. 14 Chúng đã chiếm đóng thành Bết-lê-hem. Lúc ấy, vua Đa-vít đang ở trong đồn ẩn náu. 15 Vua nhớ nhà và nói: “Ước chi có ai cho ta uống nước lấy ở giếng từ cổng thành Bết-lê-hem!” 16 Vậy ba dũng sĩ đột nhập trại quân Phi-li-tin, lấy nước từ giếng bên cổng thành Bết-lê-hem, đem về cho vua Đa-vít. Nhưng vua từ chối, không uống. Vua đổ nước ra, dâng lên CHÚA. 17 Vua thưa: “Lạy CHÚA, xin đừng cho con uống nước ấy, vì đây là máu của những người đã liều mạng mình đi lấy về cho con.” Vậy vua từ chối, không uống nước. Đó là những thành tích của ba dũng sĩ.

A-bi-sai Và Bê-na-gia

18 Ông A-bi-sai, anh ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, đứng đầu các dũng sĩ.[d] Ông vung gươm, chém giết 300 người, nên có tên trong nhóm ba dũng sĩ. 19 Ông được tôn trọng hơn Nhóm Ba Mươi[e] và chỉ huy họ, nhưng không được vào Bộ Ba.

20 Ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, ở Cáp-xê-ên, là con một dũng sĩ, đạt được nhiều thành tích. Chính ông đã giết hai con trai của ông A-ri-ên, người Mô-áp. Chính ông cũng đã xuống hầm giết một con sư tử vào một ngày tuyết giá. 21 Chính ông cũng đã giết một tên Ai-cập khổng lồ. Tên Ai-cập cầm giáo, trong khi ông Bê-na-gia chỉ có cây gậy. Ông giật cây giáo khỏi tay tên Ai-cập, và lấy giáo của nó mà giết nó. 22 Ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, đã lập được những thành tích đó nên ông có tên trong nhóm ba dũng sĩ. 23 Ông được tôn trọng hơn Nhóm Ba Mươi, nhưng không được vào Bộ Ba. Vua Đa-vít cử ông chỉ huy đoàn vệ binh.

Nhóm Ba Mươi

24 Trong Nhóm Ba Mươi có ông A-sa-ên, em ông Giô-áp; Ên-ha-nan, con ông Đô-đô, ở Bết-lê-hem; 25 ông Sam-ma ở Ha-rốt; ông Ê-li-ca cũng ở Ha-rốt; 26 ông Hê-lết, người Phan-ti, ông Y-ra, con ông Y-kết ở Thê-cô-a; 27 ông A-bi-ê-se ở A-na-tốt; ông Mê-bu-nai ở Hu-sa; 28 ông Sanh-môn, thuộc dòng dõi ông A-hô-a; ông Ma-ha-rai ở Nê-tô-pha; 29 ông Hê-lép, con ông Ba-a-na, ở Nê-tô-pha; ông Y-tai, con ông Ri-bai, ở Ghi-bê-a thuộc lãnh thổ Bên-gia-min; 30 ông Bê-na-gia ở Phi-ra-thôn; ông Hi-đai ở vùng khe suối núi Ga-ách; 31 ông A-bi-anh-bôn ở A-ra-ba; ông Át-ma-vết ở Ba-hu-rim; 32 ông Ên-gia-ba ở Sa-an-bim; ông Gia-sen ở Gu-ni; 33 ông Giô-na-than, con ông Sam-ma ở Ha-ra; ông A-hi-am, con ông Sa-ra, ở A-ra; 34 ông Ê-li-phê-lết, con ông A-hát-bai ở Ma-a-ca; ông Ê-li-am, con ông A-hi-tô-phen ở Ghi-lô; 35 ông Hết-rai ở Cạt-mên; ông Pha-rai ở A-ráp; 36 ông Gích-an, con ông Na-than ở Xô-ba; ông Ba-ni, người Gát; 37 ông Xê-léc người Am-môn; ông Na-ha-rai ở Bê-ê-rốt, người mang khí giới của ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia; 38 ông Y-ra người Gít-rơ; ông Ga-rép, người Gít-rơ; 39 ông U-ri người Hết.

Tổng cộng là 37 dũng sĩ.

Điều Tra Dân Số

24 CHÚA lại nổi giận với dân Y-sơ-ra-ên. Ngài giục vua Đa-vít gây hại cho họ. Ngài phán với vua: “Hãy đi đếm dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa.” Vua bảo ông Giô-áp, tướng chỉ huy quân lực, đang ở với vua: “Hãy đi điều tra dân số khắp các bộ tộc Y-sơ-ra-ên, từ thành Đan phía bắc đến Bê-e-sê-ba ở phía nam, cho ta biết tổng số dân trong tuổi lính tráng là bao nhiêu.” Ông Giô-áp tâu với vua: “Cầu xin CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ ban cho bệ hạ một đội quân đông gấp trăm lần đội quân hiện tại. Cầu xin Ngài cho chính mắt vua chúa tôi thấy được điều đó. Nhưng tại sao vua chúa tôi lại muốn làm việc này?” Tuy nhiên lệnh vua truyền không thay đổi, nên ông Giô-áp và các sĩ quan trong quân lực buộc lòng phải cáo lui và ra đi điều tra dân số khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên.

Họ đi qua sông Giô-đanh và khởi sự đếm dân số từ thành A-rô-e, và một thành ở giữa thung lũng[f] rồi đi lên hướng địa phận Gát[g] đến thành Gia-xe. Họ đến địa phận Ga-la-át, đi xuyên qua lãnh thổ người Hết, đến thành Ca-đết,[h] đến Đan Gia-an rồi vòng về thành Si-đôn. Họ đến Ty-rơ, một thành lũy kiên cố, và đi khắp các thành của người Hê-vít và người Ca-na-an. Cuối cùng, họ đến Bê-e-sê-ba, thuộc vùng sa mạc miền nam địa phận Giu-đa. Họ trở về thành Giê-ru-sa-lem sau khi đi khắp lãnh thổ, mất chín tháng hai mươi ngày. Ông Giô-áp trình lên vua kết quả cuộc điều tra dân số: Y-sơ-ra-ên có 800,000 binh sĩ biết tuốt gươm, và Giu-đa có 500,000 ngàn.

Bệnh Dịch

10 Sau khi điều tra dân số xong, vua Đa-vít bị lương tâm cắn rứt và thưa với CHÚA: “Lạy Chúa, con đã làm một việc rất ngu dại và phạm tội nặng. Giờ đây, con xin CHÚA tha tội cho đầy tớ của Ngài.” 11 Sáng hôm sau, trước khi vua Đa-vít dậy, CHÚA bảo tiên tri Gát, là tiên tri phục vụ tại triều vua Đa-vít: 12 “Con hãy đi nói với Đa-vít: ‘CHÚA phán như vầy: Ta có ba cách để sửa trị ngươi. Ta cho phép ngươi chọn một trong ba, rồi Ta sẽ theo đó mà sửa trị ngươi.’ ”

13 Tiên tri Gát đến thuật lại cho vua Đa-vít nghe. Tiên tri hỏi vua: “Bệ hạ chọn điều nào: bảy năm đói kém trên khắp lãnh thổ của bệ hạ, hoặc ba tháng bệ hạ phải chạy trốn trong khi quân thù đuổi theo bệ hạ, hoặc ba ngày bệnh dịch lan tràn khắp đất nước? Bây giờ, xin bệ hạ cân nhắc thận trọng, xem tôi phải thưa lại Đấng sai bảo tôi như thế nào.” 14 Vua Đa-vít nói với tiên tri Gát: “Ta bối rối vô cùng, ta khó chọn quá. Thà chúng ta rơi vào tay CHÚA còn hơn, vì Ngài rộng lòng thương xót! Xin đừng cho ta rơi vào tay loài người!”

15 Vậy CHÚA giáng bệnh dịch xuống dân Y-sơ-ra-ên từ sáng hôm đó cho đến giờ ấn định. Từ Đan đến Bê-e-sê-ba, có 70,000 người chết. 16 Thiên sứ đưa tay ra hướng về thành Giê-ru-sa-lem để hủy diệt thành, nhưng CHÚA không muốn gây thêm khổ đau nên bảo thiên sứ đang hủy diệt dân chúng: “Đủ rồi! Rút tay về đi!” Bấy giờ thiên sứ của CHÚA ở bên sân đạp lúa của ông A-rau-na, người Giê-bu. 17 Khi vua Đa-vít thấy thiên sứ giết hại dân chúng, vua thưa với CHÚA: “Chính con là người phạm tội, chính con là người lỗi lầm! Còn những con chiên này, chúng có làm gì đâu? Xin cho tay CHÚA giáng xuống con và dòng họ nhà cha con!”

Vua Đa-vít Dựng Bàn Thờ

18 Ngay hôm ấy, tiên tri Gát đến nói với vua Đa-vít: “Xin bệ hạ đi đến sân đạp lúa của ông A-rau-na người Giê-bu và dựng tại đó một bàn thờ để thờ CHÚA.” 19 Vua Đa-vít đi ngay theo lời chỉ dẫn của tiên tri Gát, y như CHÚA đã truyền dạy ông. 20 Ông A-rau-na nhìn ra, thấy vua và triều thần tiến về phía mình, ông liền đi ra, cúi sấp mặt xuống đất, vái lạy vua.

21 Ông A-rau-na thưa: “Tâu vua chúa tôi đến gặp hạ thần có điều chi dạy bảo?” Vua Đa-vít bảo: “Ta đến mua sân đạp lúa của ngươi. Ta phải dựng bàn thờ lên tại đây để thờ CHÚA và để cho bệnh dịch này ngưng, không hủy diệt dân chúng nữa.” 22 Ông A-rau-na thưa với vua Đa-vít: “Xin vua chúa tôi tùy nghi sử dụng sân đạp lúa này và dâng tế lễ theo ý bệ hạ. Thưa đây có sẵn bò để dâng tế lễ toàn thiêu, cũng có bàn đạp lúa và ách bò để làm củi. 23 Tâu bệ hạ, A-rau-na xin dâng bệ hạ tất cả những thứ đó.” Ông A-rau-na thưa tiếp: “Cầu xin CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ nhậm lời bệ hạ!” 24 Nhưng vua đáp: “Không được. Ta muốn mua và trả tiền sòng phẳng cho ngươi. Ta không muốn dâng lên CHÚA là Đức Chúa Trời của ta những tế lễ toàn thiêu mà ta không mất tiền mua.” Vậy vua Đa-vít mua sân đạp lúa và bò với giá khoảng năm chục sê-ken bạc.[i] 25 Vua Đa-vít dựng lên tại đó một bàn thờ để thờ CHÚA. Vua dâng lên CHÚA tế lễ toàn thiêu và tế lễ cầu an. CHÚA nhậm lời vua cầu xin cho đất nước, và bệnh dịch ngưng hủy hoại dân Y-sơ-ra-ên.

Tranh Giành Kế Vị

Vua Đa-vít đã già và tuổi cao, mặc dù người ta mặc cho vua mấy lớp áo, vua vẫn không cảm thấy đủ ấm. Các bề tôi của vua bèn tâu với vua: “Xin hãy để người ta tìm cho hoàng thượng, chúa của hạ thần, một trinh nữ trẻ, để nàng sẽ hầu hạ và chăm sóc hoàng thượng. Hãy để nàng nằm trong lòng hoàng thượng, như thế hoàng thượng, chúa của hạ thần, mới có thể ấm được.”

Vậy họ phái người đi tìm một thiếu nữ xinh đẹp trong khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, và tìm được A-bi-sắc, người Su-nem, rồi họ đem nàng đến cho vua. Người thiếu nữ này rất đẹp. Nàng trở thành người hầu hạ và săn sóc cho vua, nhưng vua không có ăn nằm với nàng.

Bấy giờ hoàng tử A-đô-ni-gia, con trai hoàng phi Ha-ghít, tự tôn mình lên rằng: “Ta sẽ làm vua.” A-đô-ni-gia sắm cho chàng các xe chiến mã, những người đánh xe, và năm mươi người chạy trước chàng. Cha chàng chẳng bao giờ trách cứ chàng một lời, mà hỏi rằng: “Tại sao con làm như thế?” Chàng lại là một thanh niên tuấn tú đẹp trai, sanh kế sau hoàng tử Áp-sa-lôm.

Chàng bàn luận với Giô-áp con trai Xê-ru-gia và thầy tế lễ A-bia-tha. Họ đồng lòng ủng hộ A-đô-ni-gia. Nhưng thầy tế lễ Xa-đốc, Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa, tiên tri Na-than, Si-mê-i, Rê-i, và các dũng sĩ của Đa-vít không theo phe A-đô-ni-gia.

A-đô-ni-gia tổ chức một buổi lễ dâng các chiên, bò, và thú mập làm sinh tế trên một tảng đá ở Xô-hê-lết, gần Ên Rô-ghên. Chàng mời tất cả các hoàng tử, tức là các con trai của vua, và tất cả các vị quan trong triều đang ở Giu-đa; 10 nhưng chàng không mời tiên tri Na-than, và Bê-na-gia, và các dũng sĩ, và hoàng tử Sa-lô-môn, em chàng.

11 Bấy giờ Na-than nói với Bát-sê-ba, mẹ Sa-lô-môn rằng: “Lẽ nào Bà không nghe hoàng tử A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít, đã tự xưng làm vua mà chúa Đa-vít chúng ta không hay biết gì sao? 12 Vậy bây giờ hãy lại đây để tôi bày kế cho, hầu có thể cứu mạng bà và mạng Sa-lô-môn, con trai bà. 13 Hãy lập tức đi đến gặp vua Đa-vít và tâu với vua rằng: Tâu hoàng thượng: ‘Chẳng phải Ngài đã thề với tiện thiếp: Con trai ngươi là Sa-lô-môn chắc chắn sẽ kế vị ta để làm vua, nó sẽ ngồi trên ngai ta sao? Thế mà sao bây giờ A-đô-ni-gia lại làm vua?’ 14 Rồi đang khi bà còn ở đó tâu với vua thì tôi sẽ theo sau bà và xác nhận lời bà.”

15 Thế là Bát-sê-ba đến gặp vua trong ngự phòng. Vua đã già yếu lắm. Có A-bi-sắc, người Su-nem đang hầu hạ vua. 16 Bát-sê-ba sấp mình phủ phục trước mặt vua. Vua hỏi: “Ngươi muốn gì?”

17 Bà tâu: “Tâu hoàng thượng, hoàng thượng đã có thề với tiện thiếp trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời của hoàng thượng rằng: Con trai ngươi là Sa-lô-môn sẽ kế vị ta để làm vua, nó sẽ ngồi trên ngai ta. 18 Nhưng bây giờ thình lình A-đô-ni-gia đã trở thành vua, mà hoàng thượng, chúa của tiện thiếp chưa hay biết gì cả. 19 A-đô-ni-gia đã dâng sinh tế bằng bò, thú mập, và thật nhiều chiên. Hoàng tử đã mời tất cả các hoàng tử khác, luôn cả thầy tế lễ A-bia-tha, quan Tổng Binh Giô-áp, nhưng tôi tớ của hoàng thượng là Sa-lô-môn thì không được mời. 20 Tâu hoàng thượng, mọi mắt của cả nước Y-sơ-ra-ên đang nhìn vào hoàng thượng chờ xem hoàng thượng bảo cho họ biết ai sẽ ngồi trên ngai để kế vị hoàng thượng. 21 Nếu không, ngay khi hoàng thượng đã trở về an giấc cùng các tổ phụ mình, thì Sa-lô-môn con trai tiện thiếp và chính tiện thiếp sẽ bị xem như những kẻ có tội.”

22 Đang khi bà còn tâu với vua thì tiên tri Na-than bước vào. 23 Người ta tâu với vua: “Có tiên tri Na-than đến đây.” Khi tiên tri đến trước mặt vua, ông quỳ sấp mặt xuống đất bái kiến vua.

24 Tiên tri Na-than tâu: “Bẩm hoàng thượng, chúa của hạ thần, có phải hoàng thượng đã nói rằng: ‘A-đô-ni-gia sẽ thay hoàng thượng để làm vua, và nó sẽ ngồi trên ngai ta chăng?’ 25 Vì hôm nay hoàng tử đã đi xuống dâng sinh tế bằng bò, thú mập, và rất nhiều chiên. Hoàng tử cũng đã mời tất cả các con của hoàng thượng, quan Tổng Binh Giô-áp, và thầy tế lễ A-bia-tha. Bây giờ họ đang ăn uống trước mặt hoàng tử và tung hô: ‘Vua A-đô-ni-gia vạn tuế!’ 26 Nhưng hoàng tử không có mời hạ thần, là tôi tớ của hoàng thượng, hay thầy tế lễ Xa-đốc, hay Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa, hay tôi tớ của hoàng thượng là Sa-lô-môn. 27 Phải chăng việc này là do hoàng thượng, chúa của hạ thần, đã sắp đặt như vậy, mà hoàng thượng không muốn cho bầy tôi của hoàng thượng biết trước ai sẽ ngồi trên ngôi của hoàng thượng, chúa của hạ thần, để kế vị hoàng thượng chăng?”

Sa-lô-môn Lên Ngôi Làm Vua

28 Vua Đa-vít phán: “Hãy truyền Bát-sê-ba gặp ta.” Người ta đưa bà vào triều kiến vua, và bà đứng trước mặt vua.

29 Vua thề rằng: “Nguyện CHÚA là Đấng hằng sống, Đấng đã giải cứu sinh mạng ta ra khỏi mọi nghịch cảnh, 30 như ta đã thề với ngươi trước mặt CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Con trai ngươi là Sa-lô-môn sẽ kế vị ta làm vua, và nó sẽ ngồi trên ngai ta thay thế cho ta.’ Ta sẽ thực hiện điều đó hôm nay.”

31 Bát-sê-ba liền quỳ sấp mặt xuống đất, bái lạy vua và tâu: “Nguyện chúa của tiện thiếp là vua Đa-vít sống đời đời!”

32 Vua Đa-vít phán: “Hãy triệu cho ta thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, và Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa.” Khi họ đến trước mặt vua, 33 vua bảo họ: “Các ngươi hãy đem các tôi tớ của chúa các ngươi đi theo, đỡ Sa-lô-môn, con trai ta, cưỡi trên con la của ta, rồi đem nó xuống Ghi-hôn. 34 Tại đó thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than hãy xức dầu nó làm vua trên Y-sơ-ra-ên. Rồi các ngươi hãy thổi kèn và tung hô rằng: ‘Vua Sa-lô-môn vạn tuế!’ 35 Sau đó các ngươi hãy theo nó đi lên. Hãy đưa nó vào triều và ngồi trên ngai ta. Nó sẽ làm vua thế cho ta. Vì ta có lập nó trị vì trên toàn cõi Y-sơ-ra-ên và Giu-đa.”

36 Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa tâu với vua: “A-men! Nguyện CHÚA là Đức Chúa Trời của hoàng thượng, chúa của hạ thần, chuẩn y như vậy. 37 Nguyện CHÚA là Đấng đã ở với hoàng thượng, chúa của hạ thần, cũng sẽ ở với Sa-lô-môn, và khiến cho ngôi nước người lớn hơn ngôi nước của vua Đa-vít, là chúa của hạ thần.”

38 Vậy thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa, những người Kê-rê-thít và người Phê-lê-thít đi xuống, đỡ Sa-lô-môn cỡi lên con la của vua Đa-vít và dẫn Sa-lô-môn đi xuống Ghi-hôn. 39 Tại đó thầy tế lễ Xa-đốc lấy cái sừng đựng dầu trong lều và xức dầu cho Sa-lô-môn. Rồi họ thổi kèn và mọi người reo lên: “Vua Sa-lô-môn vạn tuế!” 40 Tất cả dân chúng đều theo Sa-lô-môn đi lên, họ thổi sáo và reo mừng rất lớn đến nỗi đất rúng động vì tiếng reo hò của họ.

41 A-đô-ni-gia và tất cả quan khách của chàng đều nghe tiếng reo hò đó nhằm lúc vừa mãn tiệc. Khi Giô-áp nghe tiếng kèn thì hỏi: “Tại sao trong thành náo nhiệt như vậy?”

42 Khi ông còn đang nói thì Giô-na-than con trai thầy tế lễ A-bia-tha vừa đến. A-đô-ni-gia nói: “Hãy vào đây, ông là một người được kính trọng, thế nào ông cũng đem tin mừng.”

43 Giô-na-than đáp lời A-đô-ni-gia: “Không đâu! Vì chúa của chúng ta là vua Đa-vít đã lập Sa-lô-môn làm vua rồi. 44 Hoàng thượng đã sai thầy tế lễ Xa-đốc, tiên tri Na-than, Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa, người Kê-rê-thít và người Phê-lê-thít, và họ đã đỡ Sa-lô-môn cỡi trên con la của vua. 45 Thầy tế lễ Xa-đốc và tiên tri Na-than đã xức dầu cho Sa-lô-môn làm vua tại Ghi-hôn, và họ đã reo mừng mà đi lên; ấy chính là tiếng huyên náo trong thành. Đó là tiếng reo hò mà quý vị đã nghe. 46 Sa-lô-môn bây giờ đang ngồi trên ngai vua. 47 Hơn nữa các tôi tớ của hoàng thượng đã đến chúc mừng chúa của chúng ta là vua Đa-vít rằng: ‘Nguyện Đức Chúa Trời khiến cho danh của Sa-lô-môn nổi hơn danh hoàng thượng và ngôi nước của người trổi hơn ngôi nước của hoàng thượng.’ Nhà vua đã sấp mình xuống nơi long sàng để thờ lạy, 48 và đã cầu nguyện như vầy: ‘Chúc tụng CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng hôm nay đã cho con có một người ngồi trên ngôi của con và cho phép mắt con được chứng kiến điều này.’ ”

49 Bấy giờ tất cả các quan khách của A-đô-ni-gia đều đứng dậy, run sợ và ai đi đường nấy. 50 A-đô-ni-gia sợ hãi Sa-lô-môn, bèn đi lên nắm lấy sừng ở góc bàn thờ. 51 Người ta báo cáo cho Sa-lô-môn điều đó: “A-đô-ni-gia đang sợ vua Sa-lô-môn. Kìa, ông ấy đang nắm lấy sừng ở góc bàn thờ và nói rằng: ‘Xin vua Sa-lô-môn thề với tôi hôm nay rằng vua sẽ không giết tôi tớ của vua bằng gươm.’ ”

52 Vậy Sa-lô-môn đáp: “Nếu hắn chứng tỏ hắn là một con người xứng đáng, thì không một sợi tóc nào của hắn sẽ bị rơi xuống đất; nhưng kể từ nay nếu hắn có điều chi gian ác, thì hắn ắt phải chết.” 53 Rồi vua Sa-lô-môn sai người đem A-đô-ni-gia xuống khỏi bàn thờ. A-đô-ni-gia bèn đến bái phục vua Sa-lô-môn. Vua Sa-lô-môn phán bảo: “Ngươi hãy về nhà của ngươi đi.”

Đa-vít Khuyên Dặn Sa-lô-môn

Khi ngày Đa-vít qua đời đến gần, Đa-vít khuyên dặn Sa-lô-môn, con trai của mình rằng: “Cha sắp đi vào con đường mọi người trên đất phải đi qua. Vậy con hãy mạnh mẽ, hãy chứng tỏ con là một bậc trượng phu, và hãy để ý kỹ những gì CHÚA là Đức Chúa Trời của con đòi hỏi nơi con. Con hãy đi trong đường lối Ngài, vâng giữ những mạng lịnh, điều răn, luật pháp và quy tắc của Ngài như đã chép trong Kinh Luật Môi-se, để con được thịnh vượng trong mọi việc con làm và nơi nào con đi đến, hầu cho CHÚA sẽ giữ lời hứa của Ngài đã hứa với cha rằng: ‘Nếu hậu tự của ngươi biết cẩn trọng sống trước mặt Ta; nếu chúng hết lòng và hết tâm hồn mà bước đi cách trung thành trước mặt Ta, thì ngươi sẽ không lo có một người kế vị ngồi trên ngôi của Y-sơ-ra-ên.’

Ngoài ra, con cũng biết những việc Giô-áp con trai Giê-ru-a đã làm cho cha, thế nào hắn đã đối với hai vị chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, tức là Áp-ne con trai Nê-rơ và A-ma-sa, con trai Giê-the. Hắn đã giết hai người ấy, làm đổ máu họ ra trong thời bình như thể ngoài trận mạc. Hắn đã làm vấy máu chiến trường nơi đai lưng của hắn và trên giày của hắn mang nơi chân. Con hãy dựa vào sự khôn ngoan của con mà xử sự trong việc này, và đừng để đầu bạc của hắn bình an đi xuống âm phủ.

Con hãy đối xử tử tế với các con trai Bát-xi-lai, người Ga-la-át; hãy để họ ăn đồng bàn với con. Vì họ đã đứng bên cha, khi cha chạy trốn khỏi Áp-sa-lôm, anh con.

Con cũng có Si-mê-i, con trai Ghê-ra, người Bên-gia-min, ở Ba-hu-rim. Hắn đã lấy những lời độc hại rủa sả cha trong ngày cha đi đến Ma-ha-na-im, nhưng khi hắn xuống đón cha ở bờ sông Giô-đanh, cha có nhân danh CHÚA mà thề với hắn rằng: ‘Ta sẽ không giết ngươi bằng gươm.’ Nhưng con chớ coi hắn là vô tội, vì con khôn ngoan và biết phải đối xử với hắn thể nào. Con hãy làm cho hắn phải mang đầu bạc dính máu mà xuống âm phủ.”

Đa-vít Qua Đời

10 Rồi Đa-vít an giấc cùng các tổ phụ mình, và được chôn trong thành Đa-vít. 11 Những ngày Đa-vít trị vì trên Y-sơ-ra-ên là bốn mươi năm. Vua trị vì bảy năm tại Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. 12 Vậy Sa-lô-môn ngồi trên ngai Đa-vít, cha mình, và vương quốc của Sa-lô-môn được thiếp lập vững vàng.

Sa-lô-môn Củng Cố Vương Quyền

13 A-đô-ni-gia, con trai Ha-ghít đến gặp Bát-sê-ba, mẹ của Sa-lô-môn. Bà hỏi: “Ngươi đến có ý bình an chăng?”

A-đô-ni-gia đáp: “Vâng, bình an.” 14 Rồi nói tiếp: “Xin cho tôi có một lời thưa cùng bà.”

Bà đáp: “Hãy nói đi.”

15 A-đô-ni-gia nói: “Chắc bà cũng biết là vương quốc này đáng lý thuộc về tôi, và cả Y-sơ-ra-ên đều mong đợi tôi trị vì, nhưng vương quốc đã quay trở thành của em tôi, ấy là do nơi CHÚA mà thôi. 16 Nhưng bây giờ tôi có một điều muốn xin bà, mong bà đừng từ chối.”

Bà đáp: “Hãy nói đi.”

17 A-đô-ni-gia nói, “Xin bà hãy nói với vua Sa-lô-môn, vì vua chẳng từ chối với bà điều gì, xin vua ban cho tôi A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ.”

18 Bát-sê-ba đáp: “Được, ta sẽ nói với vua cho ngươi.”

19 Bát-sê-ba đến gặp vua Sa-lô-môn để xin vua giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đón bà và cúi đầu trước mặt bà; đoạn vua ngồi xuống trên ngai, rồi truyền đem một ngai nữa cho thái hậu, và bà ngồi bên phải vua.

20 Bấy giờ bà nói: “Mẹ có một việc nhỏ xin con, mong con đừng từ chối.”

Vua đáp: “Thưa mẹ, xin mẹ hãy nói, con sẽ không từ chối đâu.”

21 Bà nói: “Hãy ban A-bi-sắc, người Su-nem, làm vợ A-đô-ni-gia, anh con.”

22 Nhưng vua Sa-lô-môn đáp với thái hậu rằng: “Tại sao mẹ lại xin A-bi-sắc, người Su-nem, cho A-đô-ni-gia? Sao mẹ không xin cả vương quốc này cho anh ấy luôn. Vì anh ấy là anh của con mà. Sao mẹ không xin cho anh ấy thầy tế lễ A-bia-tha và Giô-áp, con trai Giê-ru-a luôn một thể đi.”

23 Bấy giờ vua Sa-lô-môn nhân danh CHÚA mà thề rằng: “Nguyện Chúa đối xử với tôi, nguyện Ngài phạt tôi cách nặng nề, nếu A-đô-ni-gia không bị thiệt mạng vì lời yêu cầu này. 24 Vậy bây giờ, tôi nhân danh CHÚA hằng sống, là Đấng đã làm cho tôi được vững vàng, đã đặt tôi trên ngai của Đa-vít, cha tôi, và xây dựng một nhà cho tôi, mà nói rằng, A-đô-ni-gia phải bị xử tử hôm nay.” 25 Vua Sa-lô-môn truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Bê-na-gia đến giết A-đô-ni-gia và A-đô-ni-gia chết.

26 Vua truyền cho thầy tế lễ A-bia-tha: “Hãy về A-na-tốt, nơi sản nghiệp ngươi, vì ngươi đáng chết. Nhưng hôm nay ta không giết ngươi, vì ngươi có khiêng rương của CHÚA Hằng Hữu trước mặt Đa-vít, cha ta, và vì ngươi có chia sẻ những khổ cực mà cha ta đã gánh chịu.” 27 Vậy, Sa-lô-môn đuổi A-bia-tha đi, không cho làm thầy tế lễ truớc mặt CHÚA nữa, hầu cho lời của CHÚA đã phán tại Si-lô về gia tộc của thầy tế lễ Hê-li được ứng nghiệm.

28 Khi tin này đến tai Giô-áp, vì Giô-áp đã ủng hộ A-đô-ni-gia, dù ông không ủng hộ Áp-sa-lôm, thì ông liền trốn đến Đền Tạm của CHÚA và nắm lấy sừng ở góc bàn thờ. 29 Người ta tâu với vua Sa-lô-môn rằng: “Giô-áp đã trốn đến Đền Tạm của Chúa, và kìa ông ấy đang nắm lấy sừng ở góc bàn thờ.”

Sa-lô-môn truyền cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa rằng: “Hãy đi, giết hắn đi.”

30 Vậy Bê-na-gia đến Đền Tạm của CHÚA và nói với ông: “Vua truyền rằng: Ông hãy ra khỏi nơi đó.”

Nhưng Giô-áp đáp: “Không. Ta sẽ chết ở đây.”

Bê-na-gia về tâu lại cho vua: “Tôi có nói với Giô-áp thế này, và ông ấy đã đáp lại thế kia.”

31 Vua phán: “Hãy làm y như ông ấy đã nói. Hãy giết ông ấy và đem chôn ông ấy đi. Như thế ta và nhà cha ta sẽ được cất khỏi máu vô tội mà Giô-áp đã làm chảy ra vô cớ. 32 CHÚA sẽ báo trả những hành động đẫm máu lại trên đầu ông ấy. Bởi vì, trong khi cha ta là Đa-vít không biết, thì ông ấy đã tấn công và giết chết hai người ngay lành và tốt hơn ông ấy. Đó là Áp-ne, con trai Nê-rơ, chỉ huy quân đội Y-sơ-ra-ên, và A-ma-sa, con trai Giê-the, chỉ huy quân đội Giu-đa. 33 Vậy máu của họ sẽ đổ lại trên đầu của Giô-áp và trên đầu của dòng dõi ông ấy đời đời; nhưng Đa-vít và dòng dõi người, cùng nhà người, và ngôi nước người sẽ được bình an từ nơi CHÚA mãi mãi.”

34 Vậy Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, đi lên, đánh hạ Giô-áp và giết chết ông ta. Người ta chôn ông ta tại nhà ông, gần sa mạc. 35 Vua đặt Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội thay cho Giô-áp, và vua cũng đặt thầy tế lễ Xa-đốc thay thế chức vụ của A-bia-tha.

36 Sau đó vua truyền cho Si-mê-i vào chầu và phán: “Hãy cất cho ngươi một cái nhà trong Giê-ru-sa-lem và ở đó. Chớ đi ra khỏi đó để đi đây đi đó. 37 Vì ngươi khá biết rằng hễ ngày nào ngươi ra khỏi đó mà vượt qua khỏi khe Kít-rôn thì ngươi chắc sẽ chết. Máu của ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi.”

38 Si-mê-i tâu với vua: “Lời của hoàng thượng thật chí lý. Hoàng thượng là chúa của hạ thần đã truyền dạy thế nào, hạ thần sẽ làm y như vậy.” Vậy Si-mê-i sống ở Giê-ru-sa-lem lâu ngày.

39 Nhưng sau ba năm, có hai đầy tớ của Si-mê-i bỏ trốn đến A-kích, con trai Ma-a-ca, vua của Gát. Người ta báo cho Si-mê-i rằng: “Kìa, các đầy tớ của ông đang ở tại Gát.” 40 Si-mê-i liền chỗi dậy, thắng lừa, và đi đến Gát, gặp A-kích để tìm các đầy tớ của ông. Vậy Si-mê-i đi đến Gát và bắt các đầy tớ của ông về.

41 Khi vua Sa-lô-môn được tâu rằng Si-mê-i đã rời Giê-ru-sa-lem đi đến Gát và đã trở về, 42 vua cho gọi Si-mê-i vào và nói với ông: “Có phải ta đã bắt ngươi thề trước mặt CHÚA và cảnh cáo ngươi rằng: ‘Ngày nào ngươi rời khỏi Giê-ru-sa-lem mà đi đây đi đó thì ngươi chắc sẽ chết sao?’ Ngươi đã nói với ta rằng: ‘Lời vua nói rất đúng. Tôi sẽ tuân theo.’ 43 Thế tại sao ngươi không vâng giữ lời ngươi đã thề trước mặt CHÚA và tuân theo lệnh ta đã truyền cho ngươi?”

44 Vua lại nói tiếp với Si-mê-i: “Ngươi đã biết và lòng ngươi cũng đã quá rõ những việc ác mà ngươi đã làm cho Đa-vít, cha ta. Bây giờ CHÚA sẽ báo trả cho ngươi những việc ác ngươi đã làm. 45 Nhưng vua Sa-lô-môn sẽ được ban phước, và ngôi của Đa-vít sẽ tồn tại cách vững bền trước mặt CHÚA đến đời đời.”

46 Đoạn, vua truyền lịnh cho Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Ông ấy đi đánh hạ Si-mê-i và Si-mê-i chết.

Bấy giờ vương quốc được thiết lập vững vàng trong tay Sa-lô-môn.

Sa-lô-môn Xin Chúa Sự Khôn Ngoan

Sa-lô-môn kết đồng minh với Pha-ra-ôn, vua Ai-cập. Vua cưới công chúa của Pha-ra-ôn rồi đưa nàng về thành Đa-vít, cho đến khi vua hoàn thành công trình xây cất cung điện cho mình, đền thờ cho CHÚA, và tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên dân chúng vẫn còn dâng tế lễ trong các đền miếu trên những nơi cao, vì đến bấy giờ vua vẫn chưa xây được đền thờ cho danh CHÚA. Sa-lô-môn kính mến CHÚA, bước đi theo những huấn lệnh của Đa-vít, thân phụ vua, ngoại trừ vua vẫn còn dâng tế lễ và đốt hương trong các đền miếu trên những nơi cao.

Vua đi đến Ga-ba-ôn để dâng tế lễ, vì đó là ngôi đền trên nơi cao quan trọng nhất. Tại đó Sa-lô-môn dâng trên bàn thờ một ngàn sinh tế làm tế lễ thiêu. Tại Ga-ba-ôn, ban đêm CHÚA hiện ra cùng Sa-lô-môn trong một giấc chiêm bao, Đức Chúa Trời phán rằng: “Hãy cầu xin Ta bất cứ điều gì ngươi muốn, Ta sẽ ban cho.”

Sa-lô-môn thưa: “Ngài đã lấy lòng nhân từ đối cùng tôi tớ Ngài là Đa-vít, cha con, vì cha con đã hết lòng bước đi cách trung tín, công chính, và ngay thẳng trước mặt Ngài. Ngài lại tiếp tục bày tỏ lòng nhân từ lớn lao ấy đối với cha con mà ban cho cha con một con trai để ngồi trên ngai của cha con cho đến ngày nay.

Bây giờ, ôi lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của con, Ngài đã cho kẻ tôi tớ Ngài được làm vua thay thế cho Đa-vít, cha con, nhưng con chỉ là một đứa trẻ, không biết phải điều khiển việc nước như thể nào. Tôi tớ Ngài lại ở giữa tuyển dân của Ngài, là một dân lớn và thật đông đúc, không thể đếm hết được. Vậy xin Ngài ban cho kẻ tôi tớ Ngài một tâm trí khôn sáng, một khả năng phân biệt chính tà để trị vì dân Ngài, vì ai là người có thể trị vì một dân lớn của Ngài như thế này được?”

10 CHÚA rất hài lòng vì Sa-lô-môn đã xin điều ấy. 11 Vậy Đức Chúa Trời phán với vua: “Bởi vì ngươi có xin điều này mà không xin cho ngươi được sống lâu hay giàu có, ngươi cũng không xin cho những kẻ thù của ngươi bị tiêu diệt, nhưng lại xin sự khôn sáng để thi hành công lý. 12 Này, Ta sẽ ban cho ngươi điều ngươi cầu xin. Này, Ta sẽ ban cho ngươi tâm trí khôn ngoan thông sáng, đến nỗi trước ngươi chưa có ai bằng và sau ngươi sẽ không ai sánh kịp. 13 Hơn nữa, Ta sẽ ban cho ngươi những điều ngươi không cầu xin. Ngươi sẽ được cả giàu có lẫn tôn trọng, đến nỗi trọn đời ngươi, không một vua nào có thể sánh bằng ngươi. 14 Nếu ngươi cứ bước đi trong đường lối Ta, vâng theo các luật lệ và điều răn Ta, như Đa-vít cha ngươi đã làm, thì Ta sẽ cho ngươi được trường thọ.”

15 Rồi Sa-lô-môn thức giấc, và nhận biết rằng ấy là một giấc chiêm bao. Vua trở về Giê-ru-sa-lem, đứng trước Rương Giao Ước của CHÚA và dâng cho Ngài những tế lễ thiêu và tế lễ tạ ơn. Rồi vua mở một yến tiệc thiết đãi tất cả quần thần của mình.

Vua Sa-lô-môn Xử Kiện

16 Bấy giờ có hai người gái điếm đến đứng trước mặt vua. 17 Một người nói: “Tâu chúa thượng, người đàn bà này và tôi sống chung với nhau một nhà. Tôi sinh được một con trai, trong lúc chị ấy đang ở nhà với tôi. 18 Ngày thứ ba, sau khi tôi sinh con, chị ấy cũng sinh một con trai. Chỉ có hai chúng tôi ở trong nhà, không có một người xa lạ nào khác.

19 Ban đêm, con trai của chị ấy chết, bởi vì chị ngủ đè trên nó. 20 Cho nên nửa đêm chị ấy thức dậy, đang lúc tôi ngủ mê, chị đến bế con trai tôi đang ở bên cạnh tôi đi. Chị đem cháu đặt vào lòng chị, rồi chị đem đứa con đã chết của chị để vào lòng tôi. 21 Sáng hôm sau, tôi dậy cho con bú, thì kìa, nó đã chết rồi. Nhưng đến khi trời sáng, tôi nhìn kỹ, thì biết rằng đó không phải là đứa con tôi đã sinh ra.”

22 Người đàn bà kia nói: “Không! Đứa sống là con tôi, đứa chết là con chị.”

Nhưng người nọ nhất định: “Không! Đứa chết là con chị, đứa sống là con tôi.” Vậy họ cãi nhau trước mặt vua.

23 Vua phán: “Người này nói: ‘Con tôi là đứa sống còn con chị là đứa chết,’ trong khi người kia nói: ‘Không! Con chị là đứa chết còn con tôi là đứa sống.’ ”

24 Rồi vua truyền: “Hãy đem cho ta một thanh gươm.” Vậy họ mang đến cho vua một thanh gươm. 25 Đoạn vua truyền lịnh: “Hãy chặt đứa bé còn sống đó ra làm hai, rồi cho người này một nửa và cho người kia một nửa.”

26 Người đàn bà có đứa con còn sống rất xúc động vì thương con, liền tâu với vua: “Xin đừng, tâu chúa thượng. Hãy cho chị ấy đứa bé đi. Xin đừng giết nó!”

Nhưng người kia nói: “Nó sẽ không là con của chị và cũng không là con của tôi. Cứ chặt nó ra làm hai đi.”

27 Bấy giờ vua phán quyết: “Hãy trao đứa bé còn sống cho người thứ nhất. Đừng giết nó. Người ấy chính là mẹ nó.”

28 Khi cả Y-sơ-ra-ên đã nghe phán quyết của vua, họ lấy làm kính phục vua, vì họ thấy rằng vua có sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời để thi hành công lý.

Quần Thần Của Vua Sa-lô-môn

Vua Sa-lô-môn trị vì trên toàn cõi Y-sơ-ra-ên. Sau đây là quần thần của vua:

A-xa-ria, con trai của Xa-đốc, làm thầy tế lễ;

Ê-li-ô-rếp và A-hi-gia, hai con trai của Si-sa, là hai thư ký;

Giê-hô-sa-phát, con trai A-hi-lút, làm ngự sử;

Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội;

Xa-đốc và A-bia-tha, làm thầy tế lễ;

A-xa-ria, con trai Na-than, chỉ huy các quan lại;

Xa-bút, con trai Na-than, làm thầy tế lễ và cố vấn của vua;

A-hi-sa, làm tổng quản hoàng cung;

A-đô-ni-ram, con trai Áp-đa, đặc trách việc lao dịch.

Sa-lô-môn có mười hai quan trưởng trên toàn cõi Y-sơ-ra-ên, họ phụ trách cung cấp lương thực cho vua và mọi người trong triều đình. Mỗi người chịu trách nhiệm cung cấp một tháng trong một năm. Đây là tên của họ:

Con trai Hu-rơ, đặc trách vùng đồi núi Ép-ra-im.

Con trai Đê-ke, đặc trách vùng Ma-cát, Sa-an-bim, Bết Sê-mết, và Ê-lơn thuộc Bết Ha-nan.

10 Con trai Hê-sết, đặc trách vùng A-ru-bốt, ông ấy cũng quản nhiệm vùng Sô-cô và toàn xứ Hê-phê;

11 Con trai A-bi-na-đáp, đặc trách toàn vùng cao nguyên Đô-rơ. Vợ ông là công chúa Ta-phát, ái nữ của Sa-lô-môn.

12 Ba-a-na, con trai A-hi-lút, đặc trách vùng Ta-a-nác, Mê-ghi-đô, cả xứ Bết Sê-an, là xứ gần Xạt-han, phía dưới Ghít-rê-ên, và từ Bết Sê-an cho đến A-bên Mê-hô-la, chạy dài đến tận phía bên kia Giốc-mê-am.

13 Con trai Ghê-be, ở Ra-mốt Ga-la-át, đặc trách các làng của Giai-rơ con trai Ma-na-se, trong miền Ga-la-át; ông cũng cai trị vùng Ạt-gốp trong xứ Ba-san, gồm sáu mươi thành có tường bao quanh và cổng thành có những thanh cài làm bằng đồng.

14 A-hi-na-đáp, con trai I-đô, đặc trách vùng Ma-ha-na-im.

15 A-hi-mát, đặc trách vùng Nép-ta-li. Ông cưới công chúa Bạch-mát, ái nữ của Sa-lô-môn, làm vợ.

16 Ba-a-na, con trai Hu-sai, đặc trách vùng A-se và Bê-a-lốt.

17 Giê-hô-sa-phát, con trai Pha-ru-ác, đặc trách vùng Y-sa-ca.

18 Si-mê-i, con trai Ê-la, đặc trách vùng Bên-gia-min.

19 Ghê-be, con trai U-ri, đặc trách vùng Ga-la-át, ngày trước là lãnh thổ của vua Si-hôn, người A-mô-rít, và vua Óc của Ba-san. Chỉ một mình ông làm quan cai trị trên cả xứ này.

Sự Huy Hoàng Của Triều Đại Sa-lô-môn

20 Dân Giu-đa và Y-sơ-ra-ên đông như cát trên bờ biển. Họ ăn, uống, và vui sướng. 21 Sa-lô-môn trị vì trên các vương quốc từ sông Ơ-phơ-rát đến xứ Phi-li-tin, tận đến biên giới Ai-cập. Người ta phải triều cống và phục vụ vua Sa-lô-môn trọn đời của vua.

22 Mỗi ngày trong hoàng cung của Sa-lô-môn người ta tiêu thụ ba mươi cô-ra bột mịn,[j] sáu mươi cô-ra bột thô,[k] 23 mười con bò mập béo nuôi trong chuồng, hai mươi con bò nuôi ngoài đồng, một trăm con chiên, không kể nai, hoàng dương, mang rừng, và gà vịt nuôi mập. 24 Sa-lô-môn trị vì trên các nước phía tây sông Ơ-phơ-rát, từ Típ-sắc đến Ga-xa; tất cả các nước phía tây sông Ơ-phơ-rát đều ở dưới quyền của vua, vua giao hảo thân thiện với tất cả các nước xung quanh. 25 Trọn đời Sa-lô-môn trị vì, Giu-đa và Y-sơ-ra-ên, từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba, sống an cư lạc nghiệp, ai nấy đều sống an lành dưới bóng cây nho và cây vả của mình.

26 Vua Sa-lô-môn cũng có 40,000 chuồng ngựa để nuôi ngựa kéo các xe chiến mã, do 12,000 kỵ binh điều khiển.

27 Các quan trưởng từng vùng, cứ theo tháng đã định cho họ, cung cấp mọi thức ăn cho vua Sa-lô-môn và tất cả những ai đến nơi bàn của vua Sa-lô-môn. Họ không để cho thiếu vật chi. 28 Họ còn đem đến nơi đã chỉ định lúa mạch và rơm cho ngựa và ngựa kéo các xe chiến mã theo số đã quy định cho họ.

Sự Khôn Ngoan Của Sa-lô-môn

29 Đức Chúa Trời ban cho vua Sa-lô-môn sự khôn ngoan, thông sáng, và một khả năng hiểu biết uyên bác vô kể như cát trên bờ biển vậy. 30 Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn trổi hơn sự khôn ngoan của mọi người ở phương Đông, trổi hơn sự khôn ngoan của mọi người ở Ai-cập. 31 Sa-lô-môn khôn ngoan hơn mọi người khác, kể cả Ê-than, người Ết-ra-hít; nhà vua khôn ngoan hơn Hê-man, Canh-côn, và Đạt-đa, là các con trai của Ma-hôn. Danh tiếng của vua thật lẫy lừng trong các nước xung quanh. 32 Vua nói ra ba ngàn câu châm ngôn và sáng tác một ngàn lẻ năm bài hát. 33 Vua luận giải về các thảo mộc, từ cây bá hương ở Li-ban cho đến cây bài hương mọc ở bờ tường. Vua luận giải về các thú vật và chim chóc, loài bò sát và loài cá. 34 Thiên hạ từ mọi nước kéo đến lắng nghe sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn. Các vua trên đất khi nghe nói về sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn đều phái người đến triều kiến.

Sa-lô-môn Chuẩn Bị Xây Cất Đền Thờ

Khi Hi-ram vua Ty-rơ nghe rằng Sa-lô-môn đã được xức dầu làm vua kế vị vua cha là Đa-vít, vua bèn sai các sứ giả đến triều kiến Sa-lô-môn, vì vua là bạn của vua Đa-vít lúc sinh thời. Sa-lô-môn gởi sứ điệp đến vua Hi-ram tâu rằng:

“Vua chắc đã biết rằng vì chiến tranh giặc giã bao quanh tứ phía, nên thân phụ tôi không thể xây cất một đền thờ cho danh CHÚA, là Đức Chúa Trời của người được cho đến khi CHÚA đã cho người đè bẹp các kẻ thù của người dưới chân. Nhưng bây giờ CHÚA, là Đức Chúa Trời của tôi, đã ban cho tôi được bình an tứ phía, không còn quân nghịch và cũng chẳng có họa tai. Vậy nên tôi muốn xây cất một đền thờ cho danh CHÚA, là Đức Chúa Trời của tôi, như CHÚA đã phán với Đa-vít, thân phụ tôi rằng: ‘Con trai ngươi, là kẻ Ta sẽ đặt trên ngôi kế vị ngươi, sẽ xây một đền thờ cho danh Ta.’

Vậy xin vua hãy ban lịnh cho đốn những cây bá hương ở Li-ban cho tôi. Người của tôi sẽ làm việc với người của vua. Tôi sẽ trả lương cho người của vua theo mức do vua ấn định. Vì vua cũng biết rằng chúng tôi không có ai thạo nghề đốn gỗ bằng người Si-đôn.”

Khi Hi-ram nghe xong những lời ấy, vua rất đỗi vui mừng và nói: “Chúc tụng CHÚA, vì ngày nay Ngài đã ban cho Đa-vít một đứa con khôn ngoan để trị vì trên một nước lớn như thế này.”

Vậy Hi-ram sai người đến nói với Sa-lô-môn: “Tôi đã nhận được sứ điệp vua đã sai người đến báo với tôi. Tôi sẽ làm cho vua mọi điều vua muốn về việc gỗ bá hương và gỗ tùng. Người của tôi sẽ di chuyển các gỗ đó từ Li-ban xuống biển, rồi tôi sẽ đóng bè và đưa đến nơi vua chỉ định. Tại đó tôi sẽ rã bè và vua sẽ lấy đi. Còn vua, xin vua hãy làm cho tôi điều tôi muốn, ấy là cung cấp lương thực cho cả triều đình của tôi.”

10 Như thế Hi-ram cung cấp cho Sa-lô-môn tất cả gỗ bá hương và gỗ tùng vua muốn. 11 Còn Sa-lô-môn cung cấp cho Hi-ram hai mươi ngàn cô-ra[l] lúa mì làm lương thực cho triều đình của người. Ngoài ra, vua còn cấp thêm cho Hi-ram hai mươi ngàn bát[m] dầu ô-liu nguyên chất nữa. Sa-lô-môn cung cấp như thế cho Hi-ram hằng năm. 12 CHÚA ban cho Sa-lô-môn sự khôn ngoan như Ngài đã phán với vua. Giữa Hi-ram và Sa-lô-môn có mối giao hảo thân thiện với nhau, và hai vua kết ước với nhau.

13 Vua Sa-lô-môn truyền cho cả dân Y-sơ-ra-ên đi dân công. Có 30,000 người đáp ứng. 14 Vua phái họ thay phiên nhau đến Li-ban, mỗi tháng 10,000 người. Vậy họ ở Li-ban một tháng và ở nhà hai tháng. A-đô-ni-gia chỉ huy lực lượng dân công này. 15 Sa-lô-môn có 70,000 người khuân vác và 80,000 người đục đá trên núi. 16 Ngoài ra còn có 3,300 người do vua bổ nhiệm để quản lý công trình xây cất và điều động nhân công. 17 Theo lịnh vua, họ cho đục những tảng đá quý thành những phiến đá vuông vức và to lớn để làm nền đền thờ. 18 Những thợ khéo của Sa-lô-môn và Hi-ram, cùng với người Ghi-bê đốn gỗ và đục đá chuẩn bị cho việc xây cất đền thờ.

Xây Cất Đền Thờ

Vào năm bốn trăm tám mươi, sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập, tức là năm thứ tư của triều đại Sa-lô-môn trị vì trên dân Y-sơ-ra-ên, vào tháng Di, tức là tháng thứ hai, vua bắt đầu xây cất đền thờ cho CHÚA.

Ngôi đền mà vua Sa-lô-môn xây cất cho CHÚA có chiều dài sáu mươi am-ma, chiều rộng hai mươi am-ma, và chiều cao ba mươi am-ma.[n] Tiền đình ở phía trước chính điện của đền thờ có chiều dài hai mươi am-ma, theo chiều rộng của đền thờ, và rộng mười am-ma,[o] nối theo chiều dài của đền thờ. Vua cũng làm những cửa sổ có chấn song cho đền thờ. Dọc theo tường quanh chính điện và Nơi Chí Thánh vua xây các tầng lầu với nhiều dãy phòng. Tầng dưới rộng năm am-ma, tầng giữa rộng sáu am-ma, và tầng thứ ba rộng bảy am-ma.[p] Vua cho xây các vách tường thụt vào để các cây đà của các tầng lầu có thể gác đầu trên các vách nhưng không đâm vào vách của đền thờ.

Khi xây cất đền, người ta chỉ dùng những khối đá đã được đục sẵn nơi các hầm đá, nên đang khi xây cất không ai nghe tiếng búa, đục, hay một dụng cụ bằng sắt nào cả.

Lối vào tầng dưới nằm về hông phía nam của đền thờ. Người ta dùng một thang hình xoắn ốc đi lên tầng giữa, rồi từ tầng giữa đi lên tầng thứ ba. Vậy vua xây cất đền thờ và hoàn tất công trình xây cất ấy. Vua đóng trần đền thờ bằng những cây đà ngang và những phiến gỗ bá hương. 10 Vua cũng xây các phòng dọc theo tường đền thờ. Mỗi phòng cao năm am-ma.[q] Những phòng ấy dính liền với đền thờ bằng những cây đà gỗ bá hương.

11 Có lời của CHÚA phán với Sa-lô-môn rằng: 12 “Về ngôi đền mà ngươi đang xây cất đây, nếu ngươi đi theo các mạng lịnh Ta, thi hành các luật lệ Ta, giữ gìn mọi điều răn Ta và vâng theo chúng, thì Ta sẽ làm trọn những lời Ta đã hứa với Đa-vít, cha ngươi, trên đời sống ngươi. 13 Ta sẽ ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên và Ta sẽ không bỏ Y-sơ-ra-ên, dân Ta.”

14 Vậy Sa-lô-môn xây cất đền thờ và hoàn tất công trình xây cất ấy.

Bài Trí Bên Trong Đền Thờ

15 Vua dùng ván bá hương lát tường trong đền thờ, từ nền cho đến trần. Còn mặt nền của đền thờ thì vua lát bằng ván gỗ tùng. 16 Vua dùng ván bá hương ngăn hai mươi am-ma[r] phía trong của đền thờ, từ nền cho đến trần, thành một Nơi Cực Thánh, và gọi là Nơi Chí Thánh. 17 Phần chính điện ở phía trước của Nơi Chí Thánh dài bốn mươi am-ma.[s] 18 Tường bên trong của đền thờ được lát toàn bằng ván bá hương chạm trổ những hình trái bầu và hoa nở. Chỗ nào cũng là gỗ bá hương chứ không thấy đá.

19 Vua cũng chuẩn bị một Nơi Chí Thánh trong đền thờ để đặt Rương Giao Ước của CHÚA tại đó. 20 Nơi Chí Thánh đó dài hai mươi am-ma, rộng hai mươi am-ma, và cao hai mươi am-ma.[t] Vua dát toàn Nơi Chí Thánh này bằng vàng ròng. Vua cũng dát vàng ròng cho bàn thờ làm bằng gỗ bá hương. 21 Sa-lô-môn dát vàng ròng bên trong của đền thờ. Vua cho giăng một dây xích làm bằng vàng ở phía trước Nơi Chí Thánh, là nơi cũng được dát bằng vàng. 22 Vậy vua dát vàng toàn cả phía trong của đền thờ cho đến nỗi không còn một chỗ nào là không được dát vàng. Vua cũng dát vàng bàn thờ để trong Nơi Chí Thánh.

23 Trong Nơi Chí Thánh, vua làm hai chê-ru-bim bằng gỗ ô-liu, mỗi chê-rúp cao mười am-ma. 24 Một cánh của chê-rúp dài năm am-ma, cánh kia cũng dài năm am-ma; vậy từ đầu cánh này đến đầu cánh kia là mười am-ma.[u] 25 Chê-rúp thứ hai cũng đo được mười am-ma. Vì hai chê-ru-bim đều giống nhau về cả kích thước lẫn hình dạng. 26 Chiều cao của một chê-rúp là mười am-ma; chê-rúp thứ hai cũng vậy. 27 Vua đặt hai chê-ru-bim với đôi cánh giang ra này vào Nơi Chí Thánh của đền thờ. Một cánh của một chê-rúp đụng ở tường này, một cánh của chê-rúp kia đụng ở tường kia, hai cánh còn lại thì chạm vào nhau ở chính giữa Nơi Chí Thánh. 28 Vua dát cả hai chê-ru-bim bằng vàng.

29 Trên tường chung quanh đền thờ, vua chạm hình các chê-ru-bim, các cây kè, và những cành hoa nở, cả trong Nơi Chí Thánh lẫn Nơi Thánh. 30 Vua cũng dát vàng mặt nền của đền thờ, cả Nơi Chí Thánh lẫn Nơi Thánh.

31 Lối vào Nơi Chí Thánh, vua làm hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, gắn vào hai trụ cửa có năm cạnh. 32 Trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, vua chạm hình các chê-ru-bim, các cây kè, và những cành hoa nở. Vua dát vàng hình các chê-ru-bim và các cây kè bằng vàng cán mỏng. 33 Lối vào Nơi Thánh cũng vậy, vua làm các trụ cửa có bốn cạnh bằng gỗ ô-liu. 34 Vua cũng làm hai cửa bằng gỗ tùng; cửa này có hai cánh xoay trên bản lề và cửa kia cũng có hai cánh xoay trên bản lề. 35 Vua chạm hình các chê-ru-bim, các cây kè, và những cành hoa nở trên các cánh cửa, rồi lấy vàng khảm đều vào những đường nét đã chạm.

36 Vua cũng xây cất sân trong của đền thờ với ba hàng đá quý được đục đẽo mỹ thuật và một hàng xà ngang bằng gỗ bá hương.

37 Năm thứ tư, vào tháng Di, nền đền thờ của CHÚA được khai móng. 38 Năm thứ mười một, tháng Bun, tức là tháng tám, công trình xây cất đền thờ được hoàn tất đúng theo các chi tiết về kiểu mẫu và kích thước đã định. Vua mất bảy năm mới xây cất xong đền thờ.

Sa-lô-môn Xây Cung Điện

Sa-lô-môn cũng xây cất cung điện cho mình. Vua hoàn tất công trình xây cất đó trong mười ba năm. Vua xây cung điện Rừng Li-ban. Cung điện ấy dài một trăm am-ma, rộng năm mươi am-ma, và cao ba mươi am-ma.[v] Cung điện được xây trên bốn hàng cột gỗ bá hương; gỗ bá hương cũng được dùng làm đà đặt trên các hàng cột gỗ bá hương. Trần cung điện được lát bằng gỗ bá hương, do bốn mươi lăm cây đà nâng đỡ, mười lăm cây mỗi dãy, các đà ấy đều gác đầu trên cột. Có ba dãy cửa sổ, các cửa sổ đối diện nhau, và cứ mỗi ba cửa sổ thì thành một bộ. Gỗ của tất cả các cửa và khung cửa đều có bốn cạnh, đối diện nhau, và cứ ba cửa thì thành một bộ.

Vua cũng xây một hành lang bằng cột, hành lang ấy dài năm mươi am-ma, rộng ba mươi am-ma.[w] Phía trước hành lang là một vòm mặt tiền với một hàng cột và một mái hiên.

Vua cũng xây một triều cung để đặt ngai vàng, là nơi vua xét đoán; đó là Cung Công Lý. Cung ấy được lát bằng gỗ bá hương từ sàn cho đến trần. Còn cung thất là nơi vua ở thì nằm phía sau triều cung, cũng có lối kiến trúc như thế. Sa-lô-môn cũng xây một cung tương tự cho công chúa Pha-ra-ôn, mà vua đã cưới làm vợ.

Tất cả các cung điện này đều được xây bằng đá quý; các đá ấy được đục đẽo cắt xén theo kích thước đã định sẵn, cả phía trước lẫn phía sau, từ nền cho đến trần, từ bên ngoài cho đến đại sảnh. 10 Nền các cung điện làm bằng những phiến đá quý và lớn, mỗi phiến rộng tám am-ma và dài mười am-ma.[x] 11 Xây trên nền là các phiến đá thượng hạng đã cắt sẵn theo kích thước và gỗ bá hương. 12 Chung quanh đại sảnh là ba hàng đá và một hàng đà bằng gỗ bá hương, giống như nội sảnh của đền thờ CHÚA và tiền đình của đền thờ.

Hu-ram, Người Thợ Đồng Tài Giỏi

13 Vua Sa-lô-môn sai người mời Hu-ram ở Ty-rơ về. 14 Ông là con một góa phụ thuộc bộ tộc Nép-ta-li, cha ông là một người Ty-rơ, một chuyên viên làm đồ đồng. Hu-ram là một người có tài khéo, kinh nghiệm và có kiến thức về nghệ thuật và kỹ thuật làm đồ đồng. Ông đến với vua Sa-lô-môn và làm mọi việc vua giao cho ông.

Các Trụ Đồng Của Đền Thờ

15 Hu-ram đúc hai trụ đồng, mỗi trụ mười tám am-ma; chu vi mỗi trụ là mười hai am-ma,[y] nếu lấy dây mà đo. 16 Ông cũng đúc hai đầu trụ bằng đồng, để đặt trên đầu hai trụ. Chiều cao của đầu trụ này là năm am-ma, chiều cao của đầu trụ kia cũng năm am-ma. 17 Ông cũng làm một lưới bằng đồng gắn trên đầu mỗi trụ, lưới ấy do những dây chuyền đồng kết lại, các dây chuyền này được đúc theo hình các đóa hoa. Có bảy dây chuyền cho đầu trụ này và bảy dây chuyền cho đầu trụ kia. 18 Hu-ram cũng đúc hai hàng trái thạch lựu bằng đồng, gắn bên ngoài lưới bằng đồng, ở trên đầu trụ, để tô điểm cho đầu trụ đẹp đẽ. Ông làm như vậy cho mỗi đầu trụ. 19 Các đầu trụ đặt trên các trụ dựng nơi tiền đình đều được đúc theo hình hoa huệ, lớn bốn am-ma. 20 Ở ngoài mặt, trên chóp mỗi đầu trụ, gần lưới bằng đồng, ông cho đúc một hàng hai trăm trái thạch lựu, gắn quanh đầu trụ. 21 Rồi ông dựng hai trụ ấy nơi tiền đình của đền thờ. Ông dựng một trụ bên phải và đặt tên là Gia-kin, ông dựng một trụ bên trái và đặt tên là Bô-ách. 22 Mỗi đầu trụ đặt trên chóp trụ đều có hình hoa huệ. Vậy công việc làm hai trụ đồng được hoàn tất.

Bể Nước Bằng Đồng

23 Hu-ram cũng đúc một bể nước tròn, bằng đồng, đường kính của miệng bể là mười am-ma; bể nước này cao năm am-ma, với chu vi là ba mươi am-ma[z] nếu lấy dây mà đo. 24 Ông cũng cho đúc hai hàng hình các trái bầu quanh mép bể, cứ một am-ma là mười trái. Ông cho đúc như thế cùng một lượt với khi đúc bể.

25 Bể nước bằng đồng này được đặt trên lưng mười hai con bò đứng quay đuôi vào nhau. Ba con nhìn về hướng bắc, ba con nhìn về hướng tây, ba con nhìn về hướng nam, và ba con nhìn về hướng đông. 26 Thành bể dày bằng bề ngang của mặt bàn tay, và mép bể giống như mép chén có hình hoa huệ. Bể này chứa được hai ngàn bát nước.[aa]

Các Xe Bằng Đồng

27 Hu-ram cũng làm mười chiếc xe bằng đồng, mỗi xe dài bốn am-ma, rộng bốn am-ma, và cao ba am-ma.[ab] 28 Kiểu của mỗi xe như sau: mỗi xe đều có những tấm đồng gắn vào khung. 29 Trên mỗi tấm đồng gắn vào khung đó có chạm hình các sư tử, các bò đực, và chê-ru-bim. Phía trên và phía dưới các hình của các sư tử và các bò đực lại chạm khắc những tràng hoa. 30 Mỗi xe có bốn bánh bằng đồng và các trục bằng đồng. Ở bốn góc xe lại có bốn cái chân trụ để chịu đựng sức nặng đặt trên xe. Bốn chân trụ này được đúc liền với khung xe và ngoài mặt các chân ấy có chạm khắc hình các tràng hoa. 31 Trên mặt xe là một khung tròn làm đế, khung này lồi lên một am-ma, và lõm xuống một am-ma rưỡi.[ac] Mặt của thành khung được chạm khắc mỹ thuật. Mặt của thành khung được làm bằng những tấm đồng vuông, chứ không tròn. 32 Dưới các tấm đồng trên thân xe là bốn bánh và các trục bánh xe. Mỗi bánh xe cao một am-ma rưỡi. 33 Các bánh xe này cũng được làm giống như bánh xe của xe chiến mã. Cây trục, vành, căm, và bộ trục đều được đúc cả.

34 Ở bốn góc xe, dưới bốn chân trụ là bốn cái đế được đúc liền với xe. 35 Trên mặt xe cũng có một niền tròn, cao một nửa am-ma. Thành của niền và chân của nó được đúc liền với mặt xe. 36 Trên các mặt vuông của khung tròn và trên mặt các tấm đồng ở thân xe ông chạm khắc các hình chê-ru-bim, sư tử và cây chà là. Còn nơi nào có chỗ trống thì ông chạm khắc các tràng hoa chung quanh. 37 Ông làm mười chiếc xe như thế. Tất cả đều được đúc cùng một khuôn, một kích thước, và một kiểu.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)