Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
1 Sử Ký 1-9

Danh Sách Các Tổ Phụ

A-đam, Sết, Ê-nót, Kê-nan, Ma-ha-la-ên, Giê-rệt, Hê-nóc, Mê-tu-sê-la, Lê-méc, Nô-ê, Sem, Cham, Gia-phết.

Các con trai của Gia-phết là:

Gô-me, Ma-gót, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-siếc và Ti-ra.

Các con trai của Gô-me là:

Ách-kê-na, Đi-phát và Tô-ga-ma.

Các con trai của Gia-van là:

Ê-li-sa, Ta-rê-si, Kít-tim và Rô-đa-nim.

Các con trai của Cham là:

Cúc, Mích-ra-im, Phút và Ca-na-an.

Các con trai của Cúc là:

Sê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-ê-ma và Sáp-tê-ca.

Các con trai của Ra-ê-ma là:

Sê-ba và Đê-đan.

10 Cúc sinh Nim-rốt;

người trở thành dũng sĩ đầu tiên trên đất.

11 Mích-ra-im sinh

Lu-đim, A-na-mim, Lê-ha-bim, Náp-tu-him, 12 Phát-ru-sim, Cách-lu-him, từ người có dân Phi-li-tin, và Cáp-tô-rim.

13 Ca-na-an sinh

Si-đôn, là trưởng nam, và Hếch, 14 Giê-bu-sít, A-mô-rít, Ghi-rê-ga-sít, 15 Hê-vít, A-rê-kít, Si-nít, 16 A-va-đi, Xê-ma-rít và Ha-ma-tít.

17 Các con trai của Sem là:

Ê-lam, A-sua, A-bác-sát, Lút, A-ram, Út-xơ, Hu-lơ, Ghê-te và Mê-siếc.

18 A-bác-sát sinh Sê-lách;

Sê-lách sinh Hê-be.

19 Hê-be sinh hai con trai;

một đứa tên Bê-lét vì vào thời này đất đã bị phân chia, đứa kia tên là Giốc-tan.

20 Giốc-tan sinh

A-mô-đát, Sê-lép, Ha-sa-ma-vết, Giê-rách, 21 Ha-đô-ram, U-xa, Điếc-la, 22 Ê-ban, A-bi-ma-ên, Sê-ba, 23 Ô-phia, Ha-vi-la và Giô-báp. Tất cả những người đó là con trai của Giốc-tan.

24 Sem, A-bác-sát, Sê-lách,

25 Hê-be, Bê-léc, Rê-hu,

26 Sê-rúc, Na-cô, Tha-rê,

27 Áp-ram, tức là Áp-ra-ham.

28 Các con trai của Áp-ra-ham là:

Y-sác và Ích-ma-ên.

29 Đây là dòng dõi của chúng:

Con trưởng nam của Ích-ma-ên là: Nê-ba-giốt; kế đến là Kê-đa, Át-bê-ên, Mi-bô-sam, 30 Mích-ba, Đu-ma, Ma-sa, Ha-đát, Thê-ma, 31 Giê-thu, Na-phích và Kết-ma. Đó là các con trai của Ích-ma-ên.

32 Các con trai do Kê-tu-ra, vợ sau của Áp-ra-ham sinh:

Xim-ram, Giốc-san, Mê-đan, Ma-đi-an, Dích-bác và Su-ách.

Các con trai của Giốc-san là:

Sê-ba và Đê-đan.

33 Các con trai của Ma-đi-an là:

Ê-pha, Ê-phê, Ha-nóc, A-bi-đa và Ên-đa.

Tất cả những người này là con cháu của Kê-tu-ra.

34 Áp-ra-ham sinh Y-sác.

Các con trai của Y-sác là:

Ê-sau và Y-sơ-ra-ên.

35 Các con trai của Ê-sau là:

Ê-li-pha, Rê-u-ên, Giê-úc, Gia-lam và Cô-ra.

36 Các con trai của Ê-li-pha là:

Thê-man, Ô-ma, Xê-phi, Ga-tham, Kê-na, Thim-na và A-ma-léc.

37 Các con trai của Rê-u-ên là:

Na-hát, Xê-rách, Sam-ma và Mích-xa.

38 Các con trai của Sê-i-rơ là:

Lô-than, Sô-banh, Xi-bê-ôn, A-na, Đi-sôn, Ét-xe và Đi-san.

39 Các con trai của Lô-than là:

Hô-ri và Hô-man; Thim-na là em gái Lô-than.

40 Các con trai của Sô-banh là:

A-li-an, Ma-na-hát, Ê-ban, Sê-phi và Ô-nam.

Các con trai của Xi-bê-ôn là:

Ai-gia và A-na.

41 Con trai của A-na là:

Đi-sôn.

Các con trai của Đi-sôn là:

Ham-ran, Ếch-ban, Dít-ran và Kê-ran.

42 Các con trai của Ét-xe là:

Binh-han, Xa-van và Gia-a-can.

Các con trai của Đi-san là:

Út-xơ và A-ran.

43 Đây là các vua cai trị vùng Ê-đôm trước khi một vua nào trong các vua Y-sơ-ra-ên trị vì:

Bê-la, con của Bê-ô; tên của thành là Đin-ha-ba.

44 Khi Bê-la chết, Giô-báp, con trai Xê-rách, người Bốt-ra, kế vị.

45 Khi Giô-báp chết, Hu-sam, người xứ Thê-man, kế vị.

46 Khi Hu-sam chết, Ha-đát, con trai Bê-đát, kế vị; vua này đánh bại người Ma-đi-an tại đồng Mô-áp; thành của người tên là A-vít.

47 Khi Ha-đát chết, Sam-la, người Ma-rê-ca, kế vị.

48 Khi Sam-la chết, Shau-lơ, người Rê-hô-bốt thuộc vùng sông[a] kế vị.

49 Khi Shau-lơ chết, Ba-anh Ha-nan, con trai Hạt-bồ, kế vị.

50 Khi Ba-anh Ha-nan chết, Ha-đát kế vị; tên thành của người là Pha-i; vợ người tên Mê-hê-ta-bên, con gái của Mát-rết, cháu của Mê-xa-háp. 51 Sau đó Ha-đát cũng chết.

Các trưởng tộc của Ê-đôm là:

Trưởng tộc Thim-na, trưởng tộc A-li-a, trưởng tộc Giê-tết, 52 trưởng tộc Ô-hô-li-ba-ma, trưởng tộc Ê-la, trưởng tộc Phi-nôn, 53 trưởng tộc Kê-na, trưởng tộc Thê-man, trưởng tộc Mép-xa, 54 trưởng tộc Mác-đi-ên và trưởng tộc Y-ram. Đó là các trưởng tộc của Ê-đôm.

Dòng Dõi Của Y-sơ-ra-ên Và Giu-đa

Đây là các con trai của Y-sơ-ra-ên:

Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca, Sa-bu-luân, Đan, Giô-sép, Bên-gia-min, Nép-ta-li, Gát và A-se.

Các con trai của Giu-đa là:

Ê-rơ, Ô-nan và Shê-la. Ba người này do con gái Su-a, người Ca-na-an sinh. Ê-rơ là con trưởng nam của Giu-đa nhưng người là kẻ ác trước mặt CHÚA nên Ngài cất mạng sống người đi. Ta-ma, con dâu của Giu-đa, sinh cho người Phê-rết và Xê-rách. Các con trai của Giu-đa tất cả là năm người.

Các con trai của Phê-rết là:

Hết-rôn và Ha-mun.

Các con trai của Sê-rách là:

Xim-ri, Ê-than, Hê-man, Canh-đôn và Đa-ra; tất cả là năm người.

Con trai của Cạt-mi là:

A-ca[b] người đem tai họa cho Y-sơ-ra-ên vì đã vi phạm điều cấm kỵ.

Con trai của Ê-than là:

A-xa-ria.

Các con trai của Hết-rôn là:

Giê-rác-mê-ên, Ram và Kê-lu-bai.

10 Ram sinh

A-mi-na-đáp, A-mi-na-đáp sinh Na-ha-sôn, một thủ lãnh của dân Giu-đa. 11 Na-ha-sôn sinh Sanh-ma, Sanh-ma sinh Bô-ô, 12 Bô-ô sinh Ô-bết, Ô-bết sinh Y-sai.

13 Y-sai sinh con trưởng nam là

Ê-li-áp, con thứ hai là A-bi-na-đáp, con thứ ba là Si-mê-a, 14 con thứ tư là Na-tha-na-ên, con thứ năm là Ra-đai, 15 con thứ sáu là Ô-xem, con thứ bảy là Đa-vít. 16 Các chị em của họ là Xê-ru-gia và A-bi-ga-in. Ba con trai của Xê-ru-gia là A-bi-sai, Giô-áp và A-xa-ên. 17 A-bi-ga-in sinh A-ma-sa; cha của A-ma-sa là Giê-the, người Ích-ma-ên.

18 Ca-lép, con trai của Hết-rôn, lấy vợ là A-xu-ba và Giê-ri-ốt; các con trai của bà là Giê-se, Sô-báp và Ạt-đôn. 19 A-xu-ba qua đời; Ca-lép lấy Ê-phơ-rát và người sinh Hu-rơ. 20 Hu-rơ sinh U-ri, U-ri sinh Bết-sa-lê-ên.

21 Sau đó, khi người đã sáu mươi tuổi, Hết-rôn ăn ở với con gái của Ma-ki, là cha của Ga-la-át; Hết-rôn lấy nàng làm vợ và nàng sinh Sê-gúp. 22 Sê-gúp sinh Giai-rơ, người có hai mươi ba thành trong xứ Ga-la-át. 23 Dân Ghê-su-rơ và Sy-ri chiếm lấy thành Giai-rơ và Kê-nát cùng với các vùng phụ cận gồm sáu mươi thành. Tất cả những người này là con cháu Ma-ki, cha của Ga-la-át.

24 Sau khi Hết-rôn chết tại Ca-lép Ép-ra-tha, vợ người là A-bi-gia sinh cho người A-sua, cha của Thê-cô-a.

25 Các con trai của Giê-rác-mê-ên, con trưởng nam của Hết-rôn, là:

Ram, Bu-na, Ô-ren, Ô-xem và A-hi-gia. 26 Giê-rác-mê-ên lấy một người vợ nữa tên là A-ta-ra, mẹ của Ô-nam.

27 Các con trai của Ram, con trưởng nam của Giê-rác-mê-ên, là:

Ma-ách, Gia-min và Ê-ke.

28 Các con trai của Ô-nam là:

Sa-mai và Gia-đa.

Các con trai của Sha-mai là:

Na-đáp và A-bi-su.

29 Vợ của A-bi-su tên là A-bi-hai, nàng sinh Ạc-ban và Mô-lít.

30 Các con trai của Na-đáp là:

Sê-lê và Áp-ba-im. Sê-lê qua đời không có con.

31 Con trai của Áp-ba-im là:

Di-si. Con trai của Di-si là Sê-san

và con trai của Sê-san là Ạc-lai.

32 Các con trai của Gia-đa, em Sa-mai là:

Giê-the và Giô-na-than. Giê-the qua đời không con.

33 Các con trai của Giô-na-than là:

Phê-lết và Xa-xa.

Đó là con cháu của Giê-rác-mê-ên.

34 Sê-san không có con trai, chỉ có con gái; người cũng có một người tôi tớ Ai Cập tên Gia-ra. 35 Sê-san gả con gái mình cho Gia-ra, tôi tớ mình và nàng sinh Ạt-tai.

36 Ạt-tai sinh Na-than,

Na-than sinh Xa-bát,

37 Xa-bát sinh Êp-la,

Ép-la sinh Ô-bết,

38 Ô-bết sinh Giê-hu,

Giê-hu sinh A-xa-ria,

39 A-xa-ria sinh Hê-lết,

Hê-lết sinh Ê-la-xa,

40 Ê-la-xa sinh Sít-mai,

Sít-mai sinh Sa-lum,

41 Sa-lum sinh Giê-ca-mia,

Giê-ca-mia sinh Ê-li-sa-ma.

42 Các con trai của Ca-lép, em Giê-rác-mê-ên, là:

Mê-sa, con trưởng nam, người là tổ phụ của Xíp và các con trai của Ma-rê-sa, là tổ phụ của Hếp-rôn.

43 Các con trai của Hếp-rôn là:

Cô-ra, Táp-bua, Rê-kem và Sê-ma. 44 Rê-ma sinh Ra-cham, tổ phụ của Giô-kê-am; Rê-kem sinh Sa-mai. 45 Con trai của Sa-mai là Ma-ôn và Ma-ôn là tổ phụ của Bết-sua.

46 Ê-pha là vợ nhỏ của Ca-lép, sinh Ha-ran, Một-sa và Ga-xe; Ha-ran sinh Ga-xe.

47 Các con trai của Gia-đai là:

Rê-ghem, Giô-than, Ghê-san, Phê-lết, Ê-pha và Sa-áp.

48 Vợ nhỏ của Ca-lép là Ma-a-ca; nàng sinh Sê-be và Ti-ra-na; 49 nàng cũng sinh Sa-áp, tổ phụ của Mát-ma-na, Sê-va, tổ phụ của Mác-bê-na và Ghi-bê-a. Con gái của Ca-lép là Ạc-sa. 50 Đây là con cháu của Ca-lép:

Các con trai của Hu-rơ, con trưởng nam của Ép-ra-ta:

Sô-banh là tổ phụ của Ki-ri-át Giê-a-rim; 51 Sanh-ma là tổ phụ của Bết-lê-hem; Ha-rép là tổ phụ của Bết-ga-đe.

52 Con cháu của Sô-banh, tổ phụ của Ki-ri-át Giê-a-rim, là:

Ha-rô-ê và nửa phần dân Mê-nu-hốt; 53 các dòng của Ki-ri-át Giê-a-rim là Dít-rít, Phu-tít, Su-ma-tít và Mích-ra-ít. Từ các dòng này có dân Xô-ra-tít và Ếch-tao-lít.

54 Con cháu của Sanh-ma là:

Bết-lê-hem, dân Nê-tô-pha-tít, dân Ạt-rốt Bết Giô-áp, nửa phần dân Ma-na-ha-tít và dân Xô-rít. 55 Dòng họ của các giáo sư Kinh Luật ở tại Gia-bết là Ti-ra-tít, Si-ma-tít và Su-ca-tít. Đây là dân Kê-nít, dòng dõi của Ha-mát, tổ phụ nhà Rê-cáp.

Dòng Dõi Vua Đa-vít

Đây là các con trai của Đa-vít sinh tại Hếp-rôn:

Am-nôn, con trưởng nam, mẹ là A-hi-nô-am, người Gít-rê-ên.

Con thứ hai là Đa-ni-ên, mẹ là A-bi-ga-in, người Cạt-mên;

con thứ ba là Áp-sa-lôm, mẹ là Ma-a-ca, con gái Tan-mai, vua vùng Ghê-su-rơ;

con thứ tư là A-đô-ni-gia, mẹ là Ha-ghít;

con thứ năm là Sê-pha-tia, mẹ là A-bi-tanh;

con thứ sáu là Dít-rê-am, mẹ là Éc-la, vợ Đa-vít.

Sáu người con này sinh tại Hếp-rôn;

Đa-vít trị vì tại đó bảy năm sáu tháng; người trị vì tại Giê-ru-sa-lem ba mươi ba năm. Đây là những người con sinh tại Giê-ru-sa-lem:

Si-mê-a, Sô-báp, Na-than và Sa-lô-môn; bốn người có mẹ là Bát-sê-ba,[c] con gái của A-mi-ên. Cũng có Gi-ba, Ê-li-sa-ma, Ê-li-phê-lết, Nô-ga, Nê-phết, Gia-phia, Ê-li-sa-ma, Ê-li-gia-đa và Ê-li-phê-lết, tất cả chín người đều là các con trai của Đa-vít không kể những người con của các cung phi và Ta-ma là chị em của chúng.

10 Con trai của Sa-lô-môn là Rô-bô-am,

con Rô-bô-am là A-bi-gia,

con trai A-bi-gia là A-sa,

con trai A-sa là Giô-sa-phát,

11 con trai Giô-sa-phát là Giô-ram,

con trai Giô-ram là A-cha-xia,

con trai A-cha-xia là Giô-ách,

12 con trai Giô-ách là A-ma-xia,

con trai A-ma-xia là A-xa-ria,

con trai A-xa-ria là Giô-tham,

13 con trai Giô-tham là A-cha,

con trai A-cha là Ê-xê-chia,

con trai Ê-xê-chia là Ma-na-se,

14 con trai Ma-na-se là A-môn,

con trai A-môn là Giô-si-a.

15 Các con trai của Giô-si-a là:

Giô-ha-nan, con trưởng nam,

con thứ nhì là Giê-hô-gia-kim,

con thứ ba là Sê-đê-kia,

con thứ tư là Sa-lum.

16 Các con trai của Giê-hô-gia-kim là:

Giê-cô-nia

và Sê-đê-kia.

17 Các con trai của Giê-cô-nia, người bị lưu đày là:

Sa-la-thi-ên, 18 Manh-ki-ram, Phê-đa-gia, Sê-na-xa, Giê-ca-mia, Hô-sa-ma và Nê-đa-mia.

19 Các con trai của Phê-đa-gia là:

Xô-rô-ba-bên và Si-mê-i.

Các con trai của Xô-rô-ba-bên là:

Mê-su-lam và Ha-na-nia;

và Sê-lô-mi là chị em của chúng.

20 Năm người con khác là:

Ha-su-ba, Ô-hên, Bê-rê-kia, Ha-sa-đia và Du-sáp Hê-sết.

21 Các con trai của Ha-na-nia là:

Phê-la-tia và I-sa; cũng có các con trai của Rê-pha-gia, của Ạc-nan, của Ô-ba-đia và của Sê-ca-nia.

22 Con trai của Sê-ca-nia là:

Sê-ma-gia;

các con trai của Sê-ma-gia là:

Hát-túc, Di-ganh, Ba-ria, Nê-a-ria và Sa-phát, gồm sáu người.

23 Các con trai của Nê-a-ria là:

Ê-li-ô-ê-nai, Ê-xê-chia, và A-ri-kham, gồm ba người.

24 Các con trai của Ê-li-ô-ê-nai là:

Hô-đa-via, Ê-li-a-síp, Phê-la-gia, A-cúp, Giô-ha-nan, Đê-la-gia và A-na-ni, gồm bảy người.

Dòng Dõi Giu-đa Và Si-mê-ôn

Các con trai của Giu-đa là:

Phê-rết, Hết-rôn, Cạt-mi, Hu-rơ và Sô-banh.

Rê-a-gia, con trai của Sô-banh, sinh Gia-hát; Gia-hát sinh A-hu-mai và La-hát. Những người này là dòng họ Xô-ra-tít.

Đây là con cháu của A-bi Ê-tam:

Gít-rê-ên, Dít-ma và Di-ba; em gái họ tên là Ha-sê-lê-bô-ni. Phê-nu-ên là tổ phụ của Ghê-đô và Ê-xe, tổ phụ của Hu-sa.

Những người này là con cháu của Hu-rơ, con trưởng nam của Ép-ra-ta, tổ phụ của Bết-lê-hem.

A-sua, tổ phụ của Thê-cô-a, có hai vợ là Hê-lê-a và Na-a-ra.

Na-a-ra sinh A-hu-xam, Hê-phê, Thê-mê-ni và A-hách-tha-ri. Đây là các con trai của Na-a-ra.

Các con trai của Hê-lê-a là:

Xê-rết, Xô-ba và Ết-nan. Ha-cốt sinh A-núp, Hát-xô-bê-ba và dòng họ A-ha-bên, con của Ha-rum.

Gia-bê được tôn trọng hơn các anh em người. Mẹ người đặt tên là Gia-bê vì nói rằng “ta đã sinh nó trong sự đau đớn.” 10 Gia-bê cầu khẩn Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên rằng: “Xin Chúa ban phước cho tôi, xin Ngài mở rộng bờ cõi tôi, nguyện tay Ngài ở cùng tôi và bảo vệ tôi khỏi tai họa đau khổ.” Đức Chúa Trời ban cho người điều người cầu xin.

11 Kê-lúp, anh của Su-ha, sinh Mê-hia, tổ phụ của Ê-tôn. 12 Ê-tôn sinh Ra-pha, Pha-sê-a và Tê-hi-na, tổ phụ của I-na-hách. Đây là những người thuộc dòng họ Rê-ca.

13 Các con trai của Kê-na là:

Ốt-ni-ên và Sê-ra-gia.

Con trai của Ốt-ni-ên là:

Ha-thát và Mê-ô-nô-thai. 14 Mê-ô-nô-thai sinh Óp-ra;

Sê-ra-gia sinh Giô-áp,

tổ phụ của Ghe Ha-ra-shim, gọi như thế vì những người này là thợ thủ công.

15 Các con trai của Ca-lép, con của Giê-phu-nê, là:

Y-ru, Ê-la và Na-am;

con trai của Ê-la là:

Kê-na.

16 Các con trai của Giê-ha-lê-le là:

Xíp, Xi-pha, Thi-ria và A-sa-rên.

17 Các con trai của Ê-xơ-ra là:

Giê-the, Mê-rết, Ê-phe và Gia-luân. Vợ của Mê-rết sinh Mi-ri-am, Sa-mai và Dít-bác, tổ phụ của Ếch-tê-mô-a. 18 Còn vợ khác, là người Giu-đa, sinh Giê-rệt, tổ phụ của Ghê-đô, Hê-be, tổ phụ của Sô-cô và Giê-cu-ti-ên, tổ phụ của Xa-nô-a. Những người này là các con của Bi-thia, con gái Pha-ra-ôn mà Mê-rết cưới làm vợ.

19 Các con trai của vợ của Hô-đia, em gái Na-ham là:

cha của Kê-hi-la, người Hạc-mít và Ếch-tê-mô-a, người Ma-ca-thít.

20 Các con trai của Si-môn là:

Am-môn, Ri-na, Bên Ha-nan và Ti-lôn.

Các con trai của Di-si là:

Xô-hết và Bên Xô-hết.

21 Các con trai của Sê-la, con trai Giu-đa, là:

Ê-rơ, tổ phụ của Lê-ca, La-ê-đa, tổ phụ của Ma-rê-sa và dòng họ của những người dệt vải ở Bết Ách-bê-a, 22 Giô-kim, những người Cô-xê-ba, Giô-ách và Sa-ráp, người cai trị vùng Mô-áp và Gia-su-bi Lê-chem. Đây là những điều ghi chép cổ xưa. 23 Những người này là thợ gốm cư ngụ tại Nê-ta-im và Ghê-đê-ra; họ ở đó và làm việc cho vua.

24 Các con trai của Si-mê-ôn là:

Nê-mu-ên, Gia-min, Gia-ríp, Xê-ra và Sau-lơ.

25 Con trai của Sau-lơ là Sa-lum; con trai của Sa-lum là Míp-sam; con trai của Míp-sam là Mích-ma.

26 Con trai của Mích-ma là:

Ha-mu-ên; con trai của Ha-mu-ên là Xa-cư; con trai của Xa-cư là Si-mê-i.

27 Si-mê-i có mười sáu con trai và sáu con gái nhưng các anh em người không có nhiều con cho nên cả họ hàng của họ không đông bằng họ hàng Giu-đa. 28 Chúng ở tại Biệt-sê-ba, Mô-la-đa, Ha-sa-xua, 29 Bi-la, Ê-xem, Tô-lát, 30 Bê-tu-ên, Họt-ma, Xiếc-lác, 31 Bết-ma-ca-bốt, Hát-sa-su-sim, Bết-bi-rê và Sa-a-ra-im. Đó là những thành của họ cho đến đời Đa-vít. 32 Năm làng của họ là Ê-tam, A-in, Rim-môn, Tô-ken và A-san; 33 và tất cả các làng khác chung quanh các thành kia đến tận Ba-anh. Đó là những nơi họ cư ngụ và gia phả của họ.

34 Mê-sô-báp, Giam-léc, Giô-sa, con trai của A-ma-xia; 35 Giô-ên và Giê-hu, con trai của Giô-xơ-bia, cháu Sê-ra-gia, chắt A-si-ên; 36 Ê-li-ô-ê-nai, Gia-cô-ba, Giê-sô-ha-giai, A-sa-gia, A-đi-ên, Giê-si-mi-ên, Bê-na-gia, 37 Xi-xa, con trai của Si-phi, cháu của A-lôn, chắt của Giê-đa-gia, chít của Sim-ri, con trai của Sê-ma-gia.

38 Những người có tên trên là những người lãnh đạo trong họ hàng mình; dòng họ của chúng gia tăng rất nhiều. 39 Họ đi qua vùng phụ cận của Ghê-đô đến phía đông của thung lũng tìm đồng cỏ cho bày súc vật mình. 40 Họ tìm được đồng cỏ phì nhiêu, tươi tốt và đất thì rộng rãi, yên lặng và bình an; trước kia dòng dõi Cham sinh sống ở đó. 41 Những người có tên ở trên đã đến đây vào thời vua Ê-xê-chia, vua Giu-đa và tấn công những người sống ở đó cùng người Ma-ô-nít trong vùng; họ hủy diệt hoàn toàn chúng và ở thay vào đó cho đến ngày nay. Vì tại đó có đồng cỏ cho bầy súc vật của họ. 42 Một số trong vòng họ, năm trăm người Si-mê-ôn đi đến vùng núi Sê-i-rơ, những người lãnh đạo của họ là Phê-la-tia, Nê-a-ria, Rê-pha-gia và U-xi-ên; đó là những con trai của Di-si. 43 Họ tiêu diệt những người A-ma-léc còn sống sót và cư ngụ ở đó cho đến ngày nay.

Dòng Dõi Ru-bên

Các con trai của Ru-bên, trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, vì người là trưởng nam nhưng đã làm ô uế giường của cha mình nên quyền trưởng nam của người bị trao cho các con của Giô-sép, con trai của Y-sơ-ra-ên; vì vậy người không được ghi trong gia phả như là trưởng nam. Mặc dù Giu-đa hùng mạnh hơn các anh em mình và một nhà lãnh đạo ra từ người nhưng quyền trưởng nam thuộc về Giô-sép. Các con trai của Ru-bên, trưởng nam của Y-sơ-ra-ên là:

Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn và Cạt-mi.

Con trai của Giô-ên là:

Sê-ma-gia; con trai của Sê-ma-gia là Gót;

con trai của Gót là Si-mê-i; con trai của Si-mê-i là Mi-ca;

con trai của Mi-ca là Rê-a-gia, con trai của Rê-a-gia là Ba-anh;

con trai của Ba-anh là Bê-ê-ra, người bị Tiếc-lác Phin-nê-se, vua A-si-ri bắt đi lưu đày, người là nhà lãnh đạo của bộ tộc Ru-bên.

Anh em của Bê-ê-ra theo họ hàng được liệt kê trong gia phả của dòng họ là:

Giê-i-ên, trưởng tộc, Xa-cha-ri, Bê-la, con trai A-xa, cháu Sê-ma, chắt Giô-ên. Bê-la cư ngụ tại A-rô-e, cho đến Nê-bô và Ba-anh Mê-ôn; về phía đông người cư ngụ từ bờ sa mạc đến sông Ơ-phơ-rát vì bày súc vật của người tăng gia rất nhiều trong xứ Ga-la-át. 10 Trong thời vua Sau-lơ, họ tranh chiến với dân Ha-ga-rít và đánh bại chúng rồi cư ngụ trong khắp vùng của chúng ở phía đông Ga-la-át.

Dòng Dõi Gát

11 Các con trai của Gát cư ngụ đối diện với họ trong xứ Ba-san cho đến Sanh-ca.

12 Giô-ên là trưởng tộc, Sa-pham là phó rồi đến Gia-nai và Sa-phát ở Ba-san.

13 Họ hàng theo tông tộc gồm có bảy người: Mi-ca-ên, Mê-su-lam, Sê-ba, Giô-rai, Gia-can, Xia và Ê-be; 14 những người này là con cháu của A-bi-hai, A-bi-hai con của Hu-ri, Hu-ri con của Gia-ô-ra, Gia-rô-a con của Ga-la-át, Ga-la-át con của Mi-ca-ên, Mi-ca-ên con của Giê-si-sai, Giê-si-sai con của Giác-đô, Giác-đô con của Bu-xơ; 15 A-hi con của Áp-đi-ên, Áp-đi-ên con của Gu-ni; A-hi là trưởng tộc.

16 Những người này cư ngụ tại Ga-la-át, Ba-san, các làng của họ và trong mọi đồng cỏ của Sa-rôn, đến tận ranh giới nó.

17 Tất cả những người này đều được chép trong gia phả vào thời vua Giô-tham nước Giu-đa và thời vua Giê-rô-bô-am nước Y-sơ-ra-ên.

18 Những người Ru-bên, người Gát và nửa bộ tộc Ma-na-se, là những người khỏe mạnh, biết sử dụng khiên, gươm, cung, thạo việc chinh chiến; có bốn mươi bốn ngàn bảy trăm sáu mươi người sẵn sàng để chiến đấu. 19 Họ giao chiến với dân Ha-ga-rít, dân Giê-tua, dân Na-phi và dân Nô-đáp. 20 Họ được giúp đỡ trong khi chiến đấu và dân Ha-ga-rít cùng những người theo chúng bị thua vì họ đã cầu khẩn Đức Chúa Trời trong khi chiến đấu và Ngài đáp lời họ vì họ tin cậy Ngài. 21 Họ bắt đi bày súc vật của người Ha-ga-rít: 50,000 lạc đà, 250,000 chiên, 2,000 lừa và 100,000 người; 22 Cũng có nhiều người chết vì Đức Chúa Trời chiến đấu trong trận chiến này. Họ cư ngụ thay vào chỗ đó cho đến khi bị lưu đày.

23 Người của nửa bộ tộc Ma-na-se rất đông, họ cư ngụ trong vùng từ Ba-san cho đến Ba-anh Hẹt-môn, Sê-nia và núi Hẹt-môn. 24 Đây là các tộc trưởng của họ: Ê-phe, Di-si, Ê-li-ên, Ách-ri-ên, Giê-rê-mi, Hô-đa-via và Giắt-đi-ên; họ là những trưởng tộc, dũng sĩ, can đảm và danh tiếng. 25 Nhưng chúng bất trung với Đức Chúa Trời của tổ tiên mình, chúng đi theo các thần của dân bản địa mà Đức Chúa Trời đã hủy diệt trước mặt chúng; 26 Nên Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên thúc đẩy tinh thần vua Phun của A-si-ri, vua Tiếc-lác Phin-nê-se của A-si-ri bắt dân Ru-bên, Gát và nửa bộ tộc Ma-na-se lưu đày sang Ha-la, Cha-bo, Ha-ra và vùng sông Gô-sen cho đến ngày nay.

Dòng Dõi Lê-vi

Các con trai của Lê-vi là:

Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri.

Các con trai của Kê-hát là:

Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên.

Các con của Am-ram là:

A-rôn, Môi-se và Mi-ri-am;

các con trai của A-rôn là:

Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma.

Ê-lê-a-sa sinh Phi-nê-a;

Phi-nê-a sinh A-bi-sua.

A-bi-sua sinh Bu-ki;

Bu-ki sinh U-xi.

U-xi sinh Xê-ra-hi-gia;

Xê-ra-hi-gia sinh Ma-ra-giốt;

Mê-ra-giốt sinh A-ma-ria;

A-ma-ria sinh A-hi-túp;

A-hi-túp sinh Xa-đốc;

Xa-đốc sinh A-hi-ma-ách;

A-hi-ma-ách sinh A-xa-ria;

A-xa-ria sinh Giô-ha-nan; 10 Giô-ha-nan sinh A-xa-ria, người là thầy tế lễ trong đền thờ vua Sa-lô-môn đã xây tại Giê-ru-sa-lem.

11 A-xa-ria sinh A-ma-ria;

A-ma-ria sinh A-hi-túp;

12 A-hi-túp sinh Xa-đốc;

Xa-đốc sinh Sa-lum;

13 Sa-lum sinh Hinh-kia;

Hinh-kia sinh A-xa-ria;

14 A-xa-ria sinh Sê-ra-gia;

Sê-ra-gia sinh Giê-hô-gia-đát;

15 Giê-hô-gia-đát bị đi lưu đày khi CHÚA trao Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vào tay Nê-bu-cát-nết-sa.

16 Các con trai của Lê-vi là

Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri;

17 Đây là tên các con trai của Ghẹt-sôn:

Líp-ni và Si-mê-i.

18 Các con trai của Kê-hát

là Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên.

19 Các con trai của Mê-ra-ri là:

Mách-li và Mu-si.

Ấy là họ hàng dòng Lê-vi theo tông tộc mình.

20 Con trai của Ghẹt-sôn là:

Líp-ni; con trai của Líp-ni là Gia-hát;

con trai của Gia-hát là Xim-ma;

con trai của Xim-ma là Giô-a;

21 con trai Giô-a là Y-đô;

con trai Y-đô là Xê-ra;

con trai Xê-ra là Giê-a-trai.

22 Con cháu của Kê-hát là:

A-mi-na-đáp; con trai của A-mi-na-đáp là Cô-rê;

con trai của Cô-rê là Át-si; con trai của Át-si là Ên-ca-na;

23 con trai của Ên-ca-na là Ê-bi-a-sáp; con trai của Ê-bi-a-sáp là Át-si;

24 con trai của Át-si là Ta-hát; con trai của Ta-hát là U-ri-ên;

con trai của U-ri-ên là U-xi-gia; con trai của U-xi-gia là Sau-lơ.

25 Con cháu của Ên-ca-na là:

A-ma-sai và A-hi-mốt;

26 Về Ên-ca-na, con trai của Ên-ca-na là Xô-phai;

con trai của Xô-phai là Na-hát; 27 con trai của Na-hát là Ê-li-áp;

con trai Ê-li-háp là Giê-rô-ham; con trai của Giê-rô-ham là Ên-ca-na

và con trai của Ên-ca-na là Sa-mu-ên.

28 Các con trai của Sa-mu-ên là:

Va-sê-ni, con trưởng nam, con thứ là A-bi-gia.

29 Con cháu của Mê-ra-ri là:

Mách-li; con trai Mách-li là Líp-ni;

con trai của Líp-ni là Si-mê-i; con trai của Si-mê-i là U-xa;

30 con trai của U-xa là Si-mê-a; con trai của Si-mê-a là Ha-ghi-gia;

con trai của Ha-ghi-gia là A-sai-gia.

31 Đây là những người vua Đa-vít cử ra đặt trách về việc ca hát trong đền của CHÚA sau khi Rương Giao Ước đặt ở đó. 32 Họ phục vụ trong việc ca hát trước đền tạm, tức là Trại Hội Kiến, cho đến khi Sa-lô-môn xây đền thờ CHÚA tại Giê-ru-sa-lem. Họ thi hành phận sự theo các quy luật đã định.

33 Đây là những người phục vụ cùng con cháu họ:

Con cháu Kê-hát là:

Hê-man, một ca sĩ,

con trai của Giô-ên, Giô-ên con trai của Sa-mu-ên;

34 Sa-mu-ên là con trai của Ên-ca-na; Ên-ca-na là con trai của Giê-rô-ham;

Giê-rô-ham là con trai của Ê-li-ên; Ê-li-ên là con trai của Thô-a;

35 Thô-a là con trai của Xu-phơ; Xu-phơ là con trai của Ên-ca-na;

Ên-ca-na là con trai của Ma-hát; Ma-hát là con trai của A-ma-sai;

36 A-ma-sai là con trai của Ên-ca-na; Ên-ca-na là con trai của Giô-ên;

Giô-ên là con trai của A-xa-ria; A-xa-ria là con trai của Xô-phô-ni;

37 Xô-phô-ni là con trai của Ta-hát; Ta-hát là con trai của Át-si;

Át-si là con trai của Ê-bi-a-sáp; Ê-bi-a-sáp là con trai của Cô-rê;

38 Cô-rê là con trai của Dít-sê-ha; Dít-sê-ha là con trai của Kê-hát;

Kê-hát là con trai của Lê-vi; Lê-vi là con trai của Y-sơ-ra-ên.

39 Anh em của Hê-man là A-sáp, phục vụ bên phải người.

A-sáp là con trai của Bê-rê-kia; Bê-rê-kia là con trai của Si-mê-a;

40 Si-mê-a là con trai của Mi-ca-ên; Mi-ca-ên là con trai của Ba-sê-gia;

Ba-sê-gia là con trai của Manh-ki-gia; 41 Manh-ki-gia là con trai của Ét-ni;

Ét-ni là con trai của Xê-ra; Xê-ra là con trai của A-đa-gia;

42 A-đa-gia là con trai của Ê-than; Ê-than là con trai của Xim-ma;

Xim-ma là con trai của Si-mê-i; 43 Si-mê-i là con trai của Gia-hát;

Gia-hát là con trai của Ghẹt-sôn; Ghẹt-sôn là con trai của Lê-vi.

44 Con cháu của Mê-ra-ri, anh em người phục vụ bên trái, là

Ê-than con trai của Ki-si, Ki-si con trai của Áp-đi,

Áp-đi con trai của Ma-lúc; 45 Ma-lúc con trai của Ha-sa-bia;

Ha-sa-bia con trai của A-ma-xia; A-ma-xia con trai của Hinh-kia;

46 Hinh-kia con trai của Am-si; Am-si con trai của Ba-ni;

Ba-ni con trai của Sê-me; 47 Sê-me con trai của Mách-li;

Mách-li con trai của Mu-si; Mu-si con trai của Mê-ra-ri;

Mê-ra-ri con trai của Lê-vi.

48 Những người Lê-vi anh em của chúng được giao cho mọi công việc phục vụ trong đền tạm, nhà của Đức Chúa Trời. 49 Nhưng A-rôn và con cháu người dâng tế lễ trên bàn thờ tế lễ thiêu hay trên bàn thờ dâng hương, làm mọi phận sự Nơi Chí Thánh và dâng tế lễ chuộc tội cho Y-sơ-ra-ên, theo như mọi điều Môi-se, tôi tớ Đức Chúa Trời, đã truyền.

Dòng Dõi A-rôn

50 Đây là con cháu A-rôn:

Ê-lê-a-sa con trai của người; Phi-nê-a con trai của Ê-lê-a-sa;

A-bi-sua con trai của Phi-nê-a; 51 Bu-ki con trai của A-bi-sua;

U-xi con trai của Bu-ki; Xê-ra-hi-gia con trai của U-xi;

52 Mê-ra-giốt con trai của Xê-ra-hi-gia; A-ma-ria con trai của Mê-ra-giốt;

A-hi-túp con trai của A-ma-ria; 53 Xa-đốc con trai của A-hi-túp;

A-hi-ma-ách con trai của Xa-đốc.

54 Đây là những địa điểm định cư trong địa phận cho con cháu A-rôn theo họ hàng Kê-hát vì phần họ được bóc thăm trước.

55 Họ được ban cho Hếp-rôn trong phần đất của Giu-đa và các đồng cỏ chung quanh. 56 Nhưng các cánh đồng trong thành và các làng thì ban cho Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê.

57 Con cháu A-rôn được ban cho các thành trú ẩn: Thành Hếp-rôn, Líp-na với các đồng cỏ của nó, Gia-tia và Ếch-tê-mô-a cùng các đồng cỏ của nó, 58 Hi-lên với các đồng cỏ của nó, Đê-bia cùng các đồng cỏ nó, 59 A-san và các đồng cỏ nó, Bết-sê-mết cùng các đồng cỏ nó; 60 từ bộ tộc Bên-gia-min họ được ban cho thành Ghê-ba và các đồng cỏ nó, A-lê-mết và các đồng cỏ nó, A-na-tốt và các đồng cỏ nó.

Tất cả là mười ba thành cho họ hàng chúng.

61 Con cháu còn lại của Kê-hát bắt thăm được mười thành từ dòng họ mình, từ nửa bộ tộc mình và nửa bộ tộc Ma-na-se.

62 Con cháu Ghẹt-sôn theo họ hàng được mười ba thành từ bộ tộc Y-sa-ca, bộ tộc A-se, bộ tộc Nép-ta-li và Ma-na-se trong vùng Ba-san.

63 Con cháu Mê-ra-ri theo họ hàng được mười hai thành từ bộ tộc Ru-bên, bộ tộc Gát và Sa-bu-luân.

64 Người Y-sơ-ra-ên cấp cho người Lê-vi các thành cùng với đồng cỏ của chúng. 65 Từ các bộ tộc Giu-đa, Si-mê-ôn và Bên-gia-min họ được các thành kể trên.

66 Một số người thuộc họ Kê-hát được các thành trong bộ tộc Ép-ra-im;

67 Họ được ban cho các thành trú ẩn: Thành Si-chem với các đồng cỏ nó trên núi Ép-ra-im, Ghê-xe với các đồng cỏ nó, 68 Giốc-mê-am với các đồng cỏ nó, Bết-hô-rôn với các đồng cỏ nó, 69 A-gia-lôn với các đồng cỏ nó, Gát-rim-môn với các đồng cỏ nó; 70 Những người con cháu còn lại của dòng họ Kê-hát cũng được thành A-ne cùng các đồng cỏ nó và Bi-li-am cùng các đồng cỏ nó từ nửa bộ tộc Ma-na-se.

71 Con cháu Ghẹt-sôn

từ họ hàng của nửa bộ tộc Ma-na-se được Gô-lan trong vùng Ba-san và các đồng cỏ nó, Ách-ta-rốt với các đồng cỏ nó.

72 Từ bộ tộc Y-sa-ca

họ được Kê-đe với các đồng cỏ nó, Đô-bê-rát với các đồng cỏ nó, 73 Ra-mốt cùng các đồng cỏ nó, A-nem cùng các đồng cỏ nó.

74 Từ bộ tộc A-se

họ được Ma-sanh cùng các đồng cỏ nó, Áp-đôn cùng các đồng cỏ nó, Hu-cô cùng các đồng cỏ nó, 75 Rê-hốp cùng các đồng cỏ nó.

76 Từ bộ tộc Nép-ta-li

họ được Kê-đe trong vùng Ga-li-lê cùng với các đồng cỏ nó, Ham-môn cùng các đồng cỏ nó, Ki-ri-a-tha-im cùng các đồng cỏ nó.

77 Con cháu còn lại của Mê-ra-ri nhận được từ bộ tộc Sa-bu-luân thành Ri-mô-nô cùng các đồng cỏ nó, Tha-bô cùng các đồng cỏ nó.

78 Từ bộ tộc Ru-bên, phía bên kia sông Giô-đanh, tức phía đông sông Giô-đanh ở khoảng Giê-ri-cô họ được Bết-se trong sa mạc với các đồng cỏ nó, Gia-xa cùng các đồng cỏ nó, 79 Kê-đê-mốt với các đồng cỏ nó, Mê-phát với các đồng cỏ nó.

80 Từ bộ tộc Gát

họ được Ra-mốt ở vùng Ga-la-át với các đồng cỏ nó, Ma-ha-na-im với các đồng cỏ nó, 81 Hết-rôn với các đồng cỏ nó và Gia-ê-xe cùng các đồng cỏ nó.

Dòng Dõi Y-sa-ca

Các con trai của Y-sa-ca là:

Thô-la, Phu-a, Gia-súp và Sim-rôn, bốn người.

Các con trai của Thô-la:

U-xi, Rê-pha-gia, Giê-ri-ên, Giác-mai, Díp-sam và Sa-mu-ên. Họ đều là trưởng tộc trong dòng họ Thô-la và là những chiến sĩ hùng dũng trong gia phả; vào thời vua Đa-vít số chiến sĩ được ghi trong gia phả là 22,600 người.

Con trai của U-xi là:

Dít-ra-hia;

các con trai của Dít-ra-hia là

Mi-ca-ên, Ô-ba-đia, Giô-ên và Di-si-gia, cả năm người đều là trưởng tộc. Theo gia phả của gia đình, họ có 36,000 quân vì họ có nhiều vợ và con.

Những người chiến sĩ cùng họ hàng thuộc bộ tộc Y-sa-ca tất cả là 87,000 người.

Dòng Dõi Bên-gia-min

Ba con trai của Bên-gia-min là:

Bê-la, Bê-ka và Giê-đi-a-ên.

Các con trai của Bê-la:

Ét-bôn, U-xi, U-xi-ên, Giê-ri-mốt và Y-ri; năm người đều là trưởng tộc. Họ có 22,034 chiến sĩ được ghi trong gia phả.

Các con trai của Bê-ka là:

Xê-mi-ra, Giô-ách, Ê-li-ê-se, Ê-li-ô-ê-nai, Ôm-ri, Giê-rê-mốt, A-bi-gia, A-na-tốt và A-lê-mết; tất cả đều là con Bê-ka. Họ là những trưởng tộc được ghi trong gia phả; có 20,200 chiến sĩ.

10 Con trai của Giê-đi-a-ên là:

Binh-han;

các con trai của Binh-han là:

Giê-úc, Bên-gia-min, Ê-hút, Kê-na-nia, Xê-than, Ta-rê-xi và A-hi-sa-ha. 11 Những người này là con cháu của Giê-đi-a-ên, đều là trưởng tộc, và số chiến sĩ sẵn sàng ra trận là 17,200 người.

12 Cũng có Súp-bim và Hốp-bim là con trai của Y-rơ và Hu-sim, con trai của A-he.

Dòng Dõi Nép-ta-li

13 Các con trai của Nép-ta-li:

Gia-si-ên, Gu-ni, Giê-se và Sa-lum; chúng đều là con của bà Bi-la.

Dòng Dõi Ma-na-se

14 Con cháu Ma-na-se là:

Ách-ri-ên do cô hầu người A-ram sinh; người cũng sinh Ma-ki, là tổ phụ của Ga-la-át. 15 Ma-ki cưới vợ cho Hốp-bim và Súp-bim; tên của em gái người là Ma-a-ca, tên của người con thứ là Xê-lô-phát; Xê-lô-phát chỉ có con gái.

16 Ma-a-ca, vợ của Ma-ki sinh một đứa con trai, đặt tên là Phê-rết; em người là Sê-rết. Sê-rết sinh U-lam và Ra-kem.

17 Con trai của U-lam là:

Bê-đan;

Những người này là con cháu của Ga-la-át, Ma-ki và Ma-na-se. 18 Em gái của người là Ha-mô-lê-kết sinh Y-sốt, A-bi-ê-se và Mác-la.

19 Các con trai của Sê-mi-đa là:

A-hi-an, Sê-kem, Li-khi và A-ni-am.

Dòng Dõi Ép-ra-im

20 Con trai của Ép-ra-im là:

Su-tê-la; con Su-tê-la là Bê-re,

con của Bê-re là Ta-hát, con của Ta-hát là Ê-lê-a-đa,

con trai của Ê-lê-a-đa là Ta-hát. 21 Con trai của Ta-hát là Xa-bát,

các con trai của Xa-bát là Su-tê-la, Ê-xe và Ê-lê-át.

Hai người sau bị những người bản xứ Gát giết vì chúng nó xuống cướp súc vật của họ. 22 Ép-ra-im, cha chúng nó khóc thương chúng nó nhiều ngày; các anh em người đến an ủi người. 23 Người ăn ở với vợ, bà mang thai và sinh một đứa con trai; người đặt tên là Bê-ri-a vì nhà người bị tai họa. 24 Con gái người là Sê-ê-ra, nàng xây dựng Bết Hê-rôn Hạ và Bết Hê-rôn Thượng cùng với U-xên Sê-ê-ra.

25 Người cũng sinh Rê-pha;

Rê-pha sinh Rê-sép và Tê-la; Tê-la sinh Ta-han;

26 Ta-han sinh La-đan, La-đan sinh Am-mi-hút;

Am-mi-hút sinh Ê-li-sa-ma; 27 Ê-li-a-ma sinh Nun,

Nun sinh Giô-suê.

28 Sản nghiệp và những nơi định cư của họ là Bê-tên và các làng; về phía đông là Na-a-ran và phía tây là Ghê-xe và các làng; Si-chem và các làng của nó cho đến Ga-xa và các làng của nó. 29 Dọc theo ranh giới của Ma-na-se là Bết-sê-an và các làng, Ta-nác và các làng, Mê-ghi-đô và các làng, Đô-rơ và các làng nó. Con cháu Giô-sép, con trai của Y-sơ-ra-ên sống tại những nơi này.

Dòng Dõi A-se

30 Các con trai của A-se:

Dim-na, Dích-va, Dích-vi, Bê-ri-a. Em gái của chúng là Sê-ra.

31 Các con trai của Bê-ri-a là:

Hê-be và Manh-ki-ên, người này là tổ của Biếc-xa-vít.

32 Hê-be là cha của Giáp-phơ-lết, Sô-mê, Hô-tham. Em gái của chúng là Su-a.

33 Các con trai của Giáp-phơ-lết là:

Pha-sác, Bim-hanh và A-vát.

Đó là các con trai của Giáp-phơ-lết.

34 Các con trai của Sô-mê là:

A-hi, Rô-hê-ga, Hu-ba và A-ram.

35 Các con trai của Hê-lem, em người, là:

Xô-pha, Dim-na, Sê-lết và A-manh.

36 Các con trai của Xô-pha là:

Su-a, Hạt-nê-phe, Su-anh, Bê-ri, Dim-ra, 37 Bết-se, Hốt, Sa-ma, Sinh-sa, Dít-ran và Bê-ê-ra.

38 Các con trai của Giê-the là:

Giê-phu-nê, Phít-ba, và A-ra.

39 Các con trai của U-la là:

A-ra-a, Ha-ni-ên và Ri-xi-a.

40 Tất cả những người này là con cháu A-se, trưởng tộc, những người chọn lọc, các chiến sĩ can đảm và là những người lãnh đạo hàng đầu. Số người sẵn sàng chiến đấu được ghi trong gia phả là 26,000 người.

Dòng Dõi Bên-gia-min

Bên gia-min sinh Bê-la, con trưởng nam,

Ách-bên, con thứ nhì, Ạc-ra, thứ ba,

Nô-ha, thứ tư và Ra-pha, thứ năm.

Các con trai của Bê-la là:

Át-đa, Ghê-ra, A-bi-hút, A-bi-sua, Na-a-man, A-hô-a, Ghê-ra, Sê-phu-phan và Hu-ram.

Đây là con cháu của Ê-hút; Những người này đều là trưởng tộc của những người sống ở Gê-ba; họ bị lưu đày sang xứ Ma-na-hát,

tức là Na-a-man, A-hi-gia và Ghê-ra; người đem họ đi và sinh U-xa và A-hi-hút. Các con của Sa-ha-ra-im được sinh ra trong xứ Mô-áp sau khi người bỏ các vợ mình là Hu-sim và Ba-ra. Các con trai do Hô-đe sinh là Giô-báp, Xi-bia, Mê-sa, Manh-cam, 10 Giê-út, Sô-kia và Mít-ma. Đây là các con trai người và là trưởng tộc. 11 Người cũng có con trai do bà Hu-sim sinh: A-bi-túp và Ên-ba-anh.

12 Các con trai của Ên-ba-anh là:

Ê-be, Mi-sê-am và Sê-mết; người xây thành Ô-nô và Lót cùng các làng nó, 13 Bê-ri-a và Sê-ma; họ là trưởng tộc của những người sống ở A-gia-lôn và đã đánh đuổi dân thành Gát.

14 Các con trai của Bê-ri-a là:

A-hi-ô, Sa-sác, Giê-rê-mốt, 15 Xê-ba-đia, A-rát, Ê-đe, 16 Mi-ca-ên, Dít-pha và Giô-ha.

17 Các con trai của Ên-ba-anh là:

Xê-ba-đia, Mê-su-lam, Hi-ki, Hê-be, 18 Gít-mê-rai, Gít-lia và Giô-báp.

19 Các con trai của Si-mê-i là:

Gia-kim, Xiếc-ri, Xáp-đi, 20 Ê-li-ê-nai, Xi-lê-thai, Ê-li-ên, 21 A-đa-gia, Bê-ra-gia và Sim-rát.

22 Các con trai của Sa-sác là:

Gít-ban, Ê-be, Ê-li-ên, 23 Áp-đôn, Xiếc-ri, Ha-nan, 24 Ha-na-nia, Ê-lam, An-tô-ti-gia, 25 Gíp-đê-gia và Phê-nu-ên.

26 Các con trai của Giê-rô-ham là:

Sam-sê-rai, Sê-ha-ria, A-ta-li, 27 Gia-rê-sia, Ê-li-gia và Xiếc-ri.

28 Đây là các trưởng tộc theo gia phả, những thủ lãnh; họ sống tại Giê-ru-sa-lem.

29 Cha của Ga-ba-ôn sống tại Ga-ba-ôn; vợ người tên là Ma-a-ca. 30 Con trưởng nam của người là Áp-đôn, rồi đến Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Na-đáp, 31 Ghê-đô, A-hi-ô, Xê-ke, 32 và Mích-lô, người này sinh Si-mê-a. Họ sống gần và đối diện với họ hàng mình tại Giê-ru-sa-lem.

33 Nê-rơ sinh Kích; Kích sinh Sau-lơ; Sau-lơ sinh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp và Ếch-ba-anh.

34 Con trai của Giô-na-than là:

Mê-ri-ba-anh; Mê-ri-ba-anh sinh Mi-ca.

35 Các con trai của Mi-ca là:

Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a và A-cha.

36 A-cha sinh Giê-hô-a-đa; Giê-hô-a-đa sinh A-lê-mết, Át-ma-vết và Xim-ri; Xim-ri sinh Một-sa; 37 Một-sa sinh Bi-nê-a; con trai của Bi-nê-a là Ra-pha; Ra-pha sinh Ê-lê-a-sa; Ê-lê-a-sa sinh A-xên.

38 A-xên có sáu con trai là:

A-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia và Ha-nan. Tất cả những người này đều là con của A-xên.

39 Các con trai của Ê-sết, anh em của A-xên, là:

U-lam, con trưởng nam, Giê-úc, thứ nhì, và Ê-li-phê-lết, thứ ba. 40 Các con trai của U-lam đều là những chiến sĩ can đảm, giỏi về cung tên; chúng có đông con cháu, tất cả là 150 người.

Tất cả những người này là con cháu của Bên-gia-min.

Những Người Ở Tại Giê-ru-sa-lem

Vậy tất cả người Y-sơ-ra-ên đều được đăng ký theo gia phả, được ghi chép trong sách của các vua Y-sơ-ra-ên. Người Giu-đa bị lưu đày sang Ba-by-lôn vì tội bất trung của họ. Những người đầu tiên định cư trong các sản nghiệp, các thành của họ là những người Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ, các người Lê-vi và những người phục vụ đền thờ.

Những ngươi Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im và Ma-na-se ở tại thành Giê-ru-sa-lem gồm có:

U-thai, con trai của A-mi-hút, A-mi-hút con trai của Ôm-ri, Ôm-ri con trai của Im-ri, Im-ri con trai của Ba-ni, Ba-ni con cháu của Phê-rết, con trai của Giu-đa.

Về dòng Si-lô-ni có

A-sai-gia, con trưởng nam và các con trai người.

Về dòng Xê-rách có Giê-u-ên

và anh em người, 690 người.

Về dòng Bên-gia-min có

Sa-lu, con trai Mê-su-lam, Mê-su-lam, con trai Hô-đa-via; Hô-đa-via, con trai A-sê-nu-a;

Gíp-ni-gia, con trai Giê-rô-ham; Ê-la, con trai U-xi; U-xi con trai Mi-cơ-ri; Mê-su-lam con trai Sê-pha-tia; Sê-pha-tia con trai Rê-u-ên; Rê-u-ên con trai Gíp-ni-gia;

và những anh em của họ theo gia phả là 956 người; tất cả đều là trưởng tộc trong dòng họ mình.

10 Về các thầy tế lễ có

Giê-đai-gia, Giê-hô-gia-ríp, Gia-kin,

11 và A-xa-ria, con trai Hinh-kia; Hinh-kia, con trai Mê-su-lam; Mê-su-lam, con trai Xa-đốc; Xa-đốc, con trai Mê-ra-giốt; Mê-ra-giốt con trai A-hi-túp, là nhân viên cai quản đền Đức Chúa Trời.

12 A-đa-gia, con trai Giê-rô-ham; Giê-rô-ham, con trai Pha-sua; Pha-sua, con trai Manh-ki-gia; Manh-ki-gia, con trai Ma-ê-sai; Ma-ê-sai, con trai A-đi-ên; A-đi-ên, con trai Gia-xê-ra; Gia-xê-ra, con trai Mê-su-lam; Mê-su-lam, con trai Mê-si-lê-mít; Mê-si-lê-mít, con trai Y-mê;

13 và những anh em của họ; số người là 1,760 người; họ đều là trưởng tộc, có khả năng, chịu trách nhiệm phục vụ trong đền Đức Chúa Trời.

14 Về những người Lê-vi có

Sê-ma-gia, con trai Ha-súp, cháu A-ri-kham, chắt Ha-sa-bia; chúng là con cháu Mê-ra-ri; 15 Bác-ba-cát, Hê-re, Ga-la, Ma-tha-nia là con cháu của Mi-ca, Xiếc-ri và A-sáp; 16 Ô-ba-đia, con trai của Sê-ma-gia, cháu của Ga-la, chắt của Giê-đu-thun; Bê-rê-kia, con trai A-sa, cháu Ên-ca-na; họ ở trong các làng của người Nê-tô-pha-tít.

17 Về những người giữ cổng có

Sa-lum, A-cúp, Tanh-môn, A-hi-man, và các anh em của họ; Sa-lum là trưởng; 18 họ canh giữ cổng Vua ở phía đông cho đến ngày nay và thuộc về trại của những người Lê-vi. 19 Sa-lum, con trai của Cô-rê, cháu Ê-bi-a-sáp, chắt Cô-ra và anh em họ hàng mình; những người Cô-rê có trách nhiệm phục dịch và canh giữ cửa trại đền tạm; tổ tiên họ cũng chịu trách nhiệm canh giữ cửa trại của CHÚA. 20 Xưa kia, Phi-nê-a, con trai Ê-lê-a-sa là người lãnh đạo của họ và CHÚA ở cùng người. 21 Xa-cha-ri, con trai Mê-sê-lê-mi, là người giữ cổng Trại Hội Kiến.

22 Những người này là những người được lựa chọn để canh giữ các cửa, tất cả là 212 người; họ được ghi trong gia phả theo các làng của mình. Vua Đa-vít và Sa-mu-ên, vị tiên kiến, đã tín cẩn lập họ giữ các chức vụ này. 23 Họ và con cháu họ lo việc canh giữ cổng đền CHÚA, tức là những người canh gác đền tạm. 24 Những người canh cổng giữ bốn phía đông, tây, bắc, nam; 25 các anh em họ hàng ở trong các làng theo thứ tự mỗi tuần đến giúp đỡ họ. 26 Nhưng bốn người trưởng của những người canh cổng là người Lê-vi; họ được tín cẩn giao phó việc canh giữ các phòng và kho tàng đền Đức Chúa Trời. 27 Họ cũng có trách nhiệm canh giữ chung quanh đền thờ Đức Chúa Trời ban đêm và mở cửa mỗi buổi sáng.

28 Một số người có trách nhiệm giữ các dụng cụ trong đền thờ; họ đếm chúng khi đem vào cũng như lúc lấy ra. 29 Một số khác coi sóc đồ đạc và dụng cụ trong thánh điện cùng bột, rượu, dầu, hương và trầm. 30 Nhưng một số thầy tế lễ lo việc pha chế hương trầm. 31 Ma-ti-thia, con trưởng nam của Sa-lum thuộc họ Cô-rê, người Lê-vi được giao phó việc nướng bánh tế. 32 Một số anh em của họ thuộc dòng Kê-hát thì lo về bánh, sửa soạn cho ngày Sa-bát.

33 Đây là những người ca hát, trưởng tộc trong vòng người Lê-vi, ở trong các phòng trong đền thờ, được miễn các dịch vụ khác vì họ phục vụ suốt ngày đêm.

34 Đó là những trưởng tộc của người Lê-vi theo gia phả; những trưởng tộc này sống trong Giê-ru-sa-lem.

Dòng Dõi Sau-lơ

35 Giê-i-ên ở thành Ga-ba-ôn là cha của Ga-ba-ôn;

vợ người tên Ma-a-ca. 36 Con trưởng nam của người là Áp-đôn, thứ đến là Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Nê-rơ, Na-đáp, 37 Ghê-đô, A-hi-ô, Xa-cha-ri và Mích-lô. 38 Mích-lô sinh Si-mê-am; chúng cùng họ hàng sống trong Giê-ru-sa-lem đối diện với họ hàng mình.

39 Nê-rơ sinh Kích; Kích sinh Sau-lơ; Sau-lơ sinh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp và Ếch-ba-anh.

40 Con trai Giô-na-than là:

Bê-ri-ba-anh; Mê-ri-ba-anh sinh Mi-ca.

41 Con trai của Mi-ca là:

Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê-a và A-cha. 42 A-cha sinh Gia-ê-ra; Gia-ê-ra sinh A-lê-mết, Ách-ma-vết và Xim-ri; Xim-ri sinh Một-sa; 43 Một-sa sinh Bi-nê-a; con trai Bi-nê-a là Rê-pha-gia; Rê-pha-gia sinh Ê-lê-a-sa và Ê-lê-a-sa sinh A-xên.

44 A-xên có sáu người con trai tên là

A-ri-kham, Bốc-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ria, Ô-ba-đia và Ha-nan. Những người này đều là con của A-xên.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)