Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
I Sử Ký 24:1 - II Sử Ký 7:10

Các Ðơn Vị Tư Tế

24 Ðây là các đơn vị của họ, được phân chia theo nhiệm vụ đã trao cho các con của A-rôn. Các con của A-rôn là Na-đáp và A-bi-hu, Ê-lê-a-xa và I-tha-ma. Nhưng Na-đáp và A-bi-hu đã qua đời trước cha của họ, và vì họ không có con nối dõi, nên Ê-lê-a-xa và I-tha-ma đảm trách chức vụ tư tế.

Ða-vít với sự giúp đỡ của Xa-đốc con cháu của Ê-lê-a-xa và A-hi-mê-léc con cháu của I-tha-ma đã phân chia họ theo phẩm trật của họ để họ phục vụ. Sau khi thống kê, họ thấy có nhiều người làm thủ lãnh trong vòng con cháu của Ê-lê-a-xa hơn là trong vòng con cháu của I-tha-ma. Trong con cháu của Ê-lê-a-xa có mười sáu người là thủ lãnh các gia tộc của họ; còn trong con cháu của I-tha-ma chỉ có tám người là thủ lãnh các gia tộc của họ. Vì thế để được công bằng, họ bốc thăm chia thời khóa biểu phục vụ cho các thủ lãnh của hai thị tộc, vì họ đều là những viên chức cao cấp trong khu vực thánh và những viên chức của Ðức Chúa Trời trong vòng con cháu của Ê-lê-a-xa và con cháu của I-tha-ma. Thư Ký Sê-ma-gia con của Nê-tha-nên, một người Lê-vi, ghi tên họ trước mặt vua, các nhà lãnh đạo, Tư Tế Xa-đốc, A-hi-mê-léc con của A-bi-a-tha, các tộc trưởng của các thị tộc tư tế, và các tộc trưởng của người Lê-vi, cứ một thăm cho thị tộc Ê-lê-a-xa thì một thăm cho thị tộc I-tha-ma.

Khi ấy thăm thứ nhất trúng Giê-hô-gia-ríp,
thăm thứ nhì trúng Giê-đa-gia,
thăm thứ ba trúng Ha-rim,
thăm thứ tư trúng Sê-ô-rim,
thăm thứ năm trúng Manh-ki-gia,
thăm thứ sáu trúng Mi-gia-min,
10 thăm thứ bảy trúng Hắc-cô,
thăm thứ tám trúng A-bi-gia,
11 thăm thứ chín trúng Giê-sua,
thăm thứ mười trúng Sê-ca-ni-a,
12 thăm thứ mười một trúng Ê-li-a-síp,
thăm thứ mười hai trúng Gia-kim,
13 thăm thứ mười ba trúng Húp-pa,
thăm thứ mười bốn trúng Giê-sê-bê-a,
14 thăm thứ mười lăm trúng Bin-ga,
thăm thứ mười sáu trúng Im-me,
15 thăm thứ mười bảy trúng Hê-xia,
thăm thứ mười tám trúng Ha-pi-xê,
16 thăm thứ mười chín trúng Pê-tha-hi-a,
thăm thứ hai mươi trúng Giê-hê-kên,
17 thăm thứ hai mươi mốt trúng Gia-kin,
thăm thứ hai mươi hai trúng Gia-mun,
18 thăm thứ hai mươi ba trúng Ðê-la-gia,
thăm thứ hai mươi bốn trúng Ma-a-xi-a.

19 Ðó là thứ tự của họ để được vào phục vụ trong nhà Chúa theo như quy luật do A-rôn tổ phụ của họ đã định cho họ, mà Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, đã truyền cho ông.

Các Ðơn Vị Người Lê-vi

20 Các con cháu còn lại của Lê-vi gồm:

Trong các con của Am-ram có Su-ba-ên; trong các con của Su-ba-ên có Giê-đê-gia.

21 Về Rê-ha-bi-a: trong các con của Rê-ha-bi-a có I-si-a làm thủ lãnh.

22 Trong các con của Ít-ha có Sê-lô-mốt; trong các con của Sê-lô-mốt có Gia-hát.

23 Trong các con của Hếp-rôn có Giê-ri-a làm thủ lãnh,[a] A-ma-ri-a thứ nhì, Gia-ha-xi-ên thứ ba, Giê-ca-mê-am thứ tư.

24 Trong các con của U-xi-ên có Mi-ca; trong các con của Mi-ca có Sa-mia. 25 Trong dòng họ của Mi-ca có I-si-a; trong các con của I-si-a có Xa-cha-ri-a.

26 Trong các con của Mê-ra-ri có Ma-li và Mu-si.

Trong các con của Gia-a-xi-a có Bê-nô.[b]

27 Trong các con của Mê-ra-ri có Gia-a-xi-a, Bê-nô,[c] Sô-ham, Xác-cua, và Íp-ri.

28 Về dòng dõi của Ma-hi có Ê-lê-a-xa, ông không có con trai kế tự.

29 Về dòng dõi Kích: trong các con của Kích có Giê-ra-mê-ên.

30 Trong các con của Mu-si có Ma-hi, Ê-đe, và Giê-ri-mốt. Ðó là các con cháu của người Lê-vi, theo gia phả trong gia tộc họ.

31 Những người ấy cũng làm như bà con của họ là con cháu của A-rôn: trong vòng họ bất kể là thủ lãnh trong gia tộc hay người có vai vế thấp nhất trong gia tộc, ai cũng được bắt thăm để phục vụ, trước sự chứng kiến của Vua Ða-vít, Xa-đốc, A-hi-mê-léc, các thủ lãnh của các gia tộc tư tế, và các thủ lãnh của các gia tộc người Lê-vi.

Ban Thánh Nhạc

25 Ða-vít và các vị chỉ huy quân đội chọn ra một số người trong vòng con cháu của A-sáp, con cháu của Hê-man, và con cháu của Giê-đu-thun để phục vụ trong việc ca ngợi,[d] với sự phụ họa của ban nhạc gồm các đàn lia, hạc cầm, và khánh chiêng. Ðây là danh sách những người được chọn để làm nhiệm vụ đó:

Trong các con của A-sáp có Xác-cua, Giô-sép, Nê-tha-ni-a, và A-sa-rê-la. Các con của A-sáp do chính A-sáp chỉ huy; còn ông chỉ cất tiếng ca ngợi khi nào nhà vua yêu cầu.

Về Giê-đu-thun: các con của Giê-đu-thun là Ghê-đa-li-a, Xê-ri, Giê-sa-gia, Si-mê-i,[e] Ha-sa-bi-a, và Mát-ti-thi-a – sáu người. Họ cất tiếng ca ngợi theo sự chỉ huy của cha họ là Giê-đu-thun, người cất tiếng cảm tạ và tôn ngợi Chúa cùng với tiếng đàn lia.

Về Hê-man: các con của Hê-man là Búc-ki-a, Mát-ta-ni-a, U-xi-ên, Sê-bu-ên, Giê-ri-mốt, Ha-na-ni-a, Ha-na-ni, Ê-li-a-tha, Ghít-đan-ti, Rô-mam-ti Ê-xe, Giô-bê-ca-sa, Manh-lô-thi, Hô-thia, và Ma-ha-xi-ốt. Tất cả những người ấy là con của Hê-man, đấng tiên kiến của vua; Ðức Chúa Trời ban cho ông những người con ấy, theo như lời hứa của Ngài, để họ tôn vinh[f] Ngài. Ðức Chúa Trời ban cho Hê-man mười bốn con trai và ba con gái. Tất cả những người ấy lo việc ca hát trong nhà Chúa, dưới sự điều khiển của cha họ. Họ sử dụng khánh chiêng, hạc cầm, và đàn lia khi thờ phượng trong nhà của Ðức Chúa Trời.

A-sáp, Giê-đu-thun, và Hê-man ở dưới sự chỉ huy của nhà vua. Tổng số những người bà con của họ, những người được huấn luyện để ca hát tôn ngợi Chúa, những người có kỹ năng trong lãnh vực âm nhạc là hai trăm tám mươi tám người. Họ bắt thăm thay phiên phục vụ, bất kể nhỏ hay lớn, nhạc sư hay nhạc sinh.

Giô-sép thuộc gia tộc A-sáp trúng thăm thứ nhất.

Ghê-đa-li-a trúng thăm thứ nhì, gồm ông, anh em ông, và các con ông – mười hai người.

10 Xác-cua trúng thăm thứ ba, các con ông và anh em ông – mười hai người.

11 Ít-ri trúng thăm thứ tư, các con ông và anh em ông – mười hai người.

12 Nê-tha-ni-a trúng thăm thứ năm, các con ông và anh em ông – mười hai người.

13 Búc-ki-a trúng thăm thứ sáu, các con ông và anh em ông – mười hai người.

14 Giê-sa-rê-la trúng thăm thứ bảy, các con ông và anh em ông – mười hai người.

15 Giê-sa-gia trúng thăm thứ tám, các con ông và anh em ông – mười hai người.

16 Mát-ta-ni-a trúng thăm thứ chín, các con ông và anh em ông – mười hai người.

17 Si-mê-i trúng thăm thứ mười, các con ông và anh em ông – mười hai người.

18 A-xa-rên trúng thăm thứ mười một, các con ông và anh em ông – mười hai người.

19 Ha-sa-bi-a trúng thăm thứ mười hai, các con ông và anh em ông, mười hai người.

20 Su-ba-ên trúng thăm thứ mười ba, các con ông và anh em ông – mười hai người.

21 Mát-ti-thi-a trúng thăm thứ mười bốn, các con ông và anh em ông – mười hai người.

22 Giê-rê-mốt trúng thăm thứ mười lăm, các con ông và anh em ông – mười hai người.

23 Ha-na-ni-a trúng thăm thứ mười sáu, các con ông và anh em ông – mười hai người.

24 Giô-bê-ca-sa trúng thăm thứ mười bảy, các con ông và anh em ông – mười hai người.

25 Ha-na-ni trúng thăm thứ mười tám, các con ông và anh em ông – mười hai người.

26 Manh-lô-thi trúng thăm thứ mười chín, các con ông và anh em ông – mười hai người.

27 Ê-li-a-tha trúng thăm thứ hai mươi, các con ông và anh em ông – mười hai người.

28 Hô-thia trúng thăm thứ hai mươi mốt, các con ông và anh em ông – mười hai người.

29 Ghít-đan-ti trúng thăm thứ hai mươi hai, các con ông và anh em ông – mười hai người.

30 Ma-ha-xi-ốt trúng thăm thứ hai mươi ba, các con ông và anh em ông – mười hai người.

31 Rô-mam-ti Ê-xe trúng thăm thứ hai mươi bốn, các con ông và anh em ông – mười hai người.

Các Toán Canh Gác Ðền Thánh

26 Về các toán canh gác nơi thánh:

Trong dòng họ Cô-ra có Mê-sê-lê-mi-a con của Cô-rê, một trong các con của A-sáp.

Các con của Mê-sê-lê-mi-a là Xa-cha-ri-a con đầu lòng, Giê-đi-a-ên thứ nhì, Xê-ba-đi-a thứ ba, Giát-ni-ên thứ tư, Ê-lam thứ năm, Giê-hô-ha-na thứ sáu, Ê-li-ê-hô-ê-nai thứ bảy.

Các con của Ô-bết Ê-đôm là Sê-ma-gia con đầu lòng, Giê-hô-xa-bát thứ nhì, Giô-a thứ ba, Sa-kha thứ tư, Nê-tha-ên thứ năm, Am-mi-ên thứ sáu, I-sa-ca thứ bảy, Pê-un-lê-thai thứ tám, vì Ðức Chúa Trời đã ban phước cho ông.

Sê-ma-gia, con ông ấy, có các con làm những người lãnh đạo trong gia tộc của họ, bởi vì họ đều là những người dũng lược. Các con của Sê-ma-gia là Ốt-ni, Rê-pha-ên, Ô-bết, và Ên-xa-bát, và Ê-li-hu và Sê-ma-ki-a hai người bà con của họ. Tất cả những người đó là con cháu của Ô-bết Ê-đôm, họ, các con cháu của họ, và anh em của họ đều là những người có đầy đủ bản lĩnh để thi hành công tác canh gác. Con cháu Ô-bết Ê-đôm có cả thảy sáu mươi hai người.

Mê-sê-lê-mi-a có các con và anh em, ai nấy đều có khả năng – mười tám người.

10 Hô-sa thuộc dòng dõi Mê-ra-ri có các con: Sim-ri là thủ lãnh –Dù ông không phải là con đầu lòng, nhưng cha ông đã lập ông làm thủ lãnh– 11 Hinh-ki-a thứ nhì, Tê-ba-lia-a thứ ba, Xa-cha-ri-a thứ tư. Tất cả con cháu và anh em của Hô-sa là mười ba người.

12 Những người ấy được chia thành các toán, đúng với người thủ lãnh, để đảm trách việc giữ cửa nơi nhà Chúa. 13 Họ bắt thăm với nhau theo gia tộc, bất kể chi tộc lớn hay chi tộc nhỏ, để chọn cổng gác.

14 Sê-lê-mi-a trúng thăm gác cổng hướng đông.

Họ cũng bốc thăm cho con ông là Xa-cha-ri-a, một mưu sĩ khôn ngoan, và ông được trúng thăm gác cổng hướng bắc.

15 Những người trong gia tộc của Ô-bết Ê-đôm trúng thăm gác cổng hướng nam.

Các con của ông trúng thăm canh gác các kho của đền thờ.

16 Súp-pim và Hô-sa trúng thăm gác cổng hướng tây, tức cổng Sanh-lê-khết dẫn lên dốc.

Những người canh gác chia phiên nhau thi hành nhiệm vụ.

17 Sáu người Lê-vi lo việc canh gác cổng hướng đông mỗi ngày, bốn người cổng hướng bắc mỗi ngày, bốn người cổng hướng nam mỗi ngày, và ở nhà kho, hai toán hai người; 18 cổng hướng tây là nơi có sân đền thánh, bốn người canh ở đầu đường dẫn vào đền thánh, và hai người canh ở cổng nơi sân đền thánh.

19 Ðó là các toán của những người phụ trách việc canh gác, trong vòng con cháu của Cô-ra và con cháu của Mê-ra-ri.

Ban Thủ Kho Ðền Thánh

20 Trong vòng người Lê-vi, A-hi-gia được trao cho trách nhiệm quản lý các kho báu của nhà Ðức Chúa Trời và các kho chứa các vật thánh.

21 Trong vòng con cháu của La-đan, những người trong dòng họ Ghẹt-sôn đều thuộc quyền điều khiển của gia tộc La-đan. Thủ lãnh trong dòng họ Ghẹt-sôn là một người trong gia tộc La-đan tên Giê-hi-ê-li. 22 Các con của Giê-hi-ê-li là Xê-tham và Giô-ên em trai ông; họ phụ trách việc quản lý các kho của nhà Chúa.

23 Về các thị tộc Am-ram, Ít-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên, 24 thì Sê-bu-ên con cháu của Ghẹt-sôm con của Môi-se làm tổng quản lý các kho báu. 25 Những người bà con của ông: các con cháu ra từ dòng dõi của Ê-li-ê-xe có Rê-ha-bi-a con ông, Giê-sa-gia con ông, Giô ram con ông, Xích-ri con ông, và Sê-lô-mốt con ông. 26 Ông Sê-lô-mốt nầy và anh em của ông quản lý tất cả các kho chứa các vật thánh mà Vua Ða-vít, các vị trưởng tộc, các sĩ quan chỉ huy hàng ngàn quân và hàng trăm quân, và các vị chỉ huy quân đội đã dâng hiến. 27 Họ lấy từ các chiến lợi phẩm đem về sau các trận đánh, dâng vào để dùng cho việc bảo trì nhà Chúa. 28 Các kho ấy còn chứa tất cả các lễ vật mà Sa-mu-ên đấng tiên kiến, Sau-lơ con của Kích, Áp-ne con của Nê-rơ, Giô-áp con của bà Xê-ru-gia, và mọi người khác đã dâng, và tất cả đều do Sê-lô-mốt và anh em của ông quản lý.

Các Quan Lại của Ða-vít

29 Về con cháu của Ít-ha, Kê-na-ni-a và các con của ông được lập làm các quan và thẩm phán trong dân I-sơ-ra-ên.

30 Về con cháu của Hếp-rôn, Ha-sa-bi-a và bà con của ông, một ngàn bảy trăm người dũng lược được lập làm quan của dân I-sơ-ra-ên ở phía tây Sông Giô-đanh, để làm mọi công việc Chúa và để phục vụ nhà vua.

31 Về con cháu của Hếp-rôn, Giê-ri-gia là thủ lãnh các con cháu của Hếp-rôn. Trong năm thứ bốn mươi của triều đại Ða-vít, người ta tìm kiếm và đã tìm được những người dũng mãnh ở giữa họ tại Gia-xe trong miền Ghi-lê-át. 32 Vua Ða-vít bổ nhiệm Giê-ri-a và bà con của ông, hai ngàn bảy trăm người dũng lược, các trưởng tộc, để làm quan của chi tộc Ru-bên, chi tộc Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se, hầu điều hành mọi việc thuộc về Ðức Chúa Trời và những việc của nhà vua.

Tổ Chức Quân Ðội của Ða-vít

27 Ðây là danh sách những người I-sơ-ra-ên, các thủ lãnh của các thị tộc, các vị chỉ huy của hàng ngàn quân và hàng trăm quân, và các sĩ quan của họ cùng phục vụ nhà vua trong mọi việc quân sự liên quan đến các quân đoàn – mỗi quân đoàn có hai mươi bốn ngàn quân thay phiên nhau ứng trực hằng tháng quanh năm:

Gia-sô-bê-am con của Xáp-đi-ên chỉ huy quân đoàn thứ nhất, ứng trực tháng thứ nhất. Quân đoàn của ông có hai mươi bốn ngàn quân. Ông là con cháu trong dòng dõi của Pê-rê và là tổng tư lệnh của tất cả các vị chỉ huy quân đội trong tháng thứ nhất.

Ðô-đai người A-hô-hi chỉ huy quân đoàn ứng trực tháng thứ nhì. Mít-lốt là tham mưu trưởng quân đoàn của ông. Quân đoàn của ông có hai mươi bốn ngàn quân.

Người chỉ huy quân đoàn thứ ba, ứng trực tháng thứ ba, là Bê-na-gia con trai Tư Tế Giê-hô-gia-đa. Ông là chỉ huy trưởng, và quân đoàn của ông có hai mươi bốn ngàn quân. Bê-na-gia nầy là người dũng mãnh trong số ba mươi người dũng mãnh, và ông chỉ huy nhóm ba mươi người đó. Am-mi-xa-bát con trai ông là tham mưu trưởng quân đoàn của ông.

Người chỉ huy quân đoàn thứ tư, ứng trực tháng thứ tư, là A-sa-ên em trai Giô-áp. Xê-ba-đi-a con trai ông làm chỉ huy phó. Quân đoàn của ông có hai mươi bốn ngàn quân.

Người chỉ huy quân đoàn thứ năm, ứng trực tháng thứ năm, là Sam-hút người Ít-ra-hi. Quân đoàn của ông có hai mươi bốn ngàn quân.

Người chỉ huy quân đoàn thứ sáu, ứng trực tháng thứ sáu, là Ích-kết người Tê-cô-a. Quân đoàn của ông có hai mươi bốn ngàn quân.

10 Người chỉ huy quân đoàn thứ bảy, ứng trực tháng thứ bảy, là Hê-lê người Pê-lô-ni, thuộc dòng dõi Ép-ra-im. Quân đoàn của ông có hai mươi bốn ngàn quân.

11 Người chỉ huy quân đoàn thứ tám, ứng trực tháng thứ tám, là Síp-bê-cai người Hu-sa-thi, thuộc dòng dõi Sê-ra-hi. Quân đoàn của ông có hai mươi bốn ngàn quân.

12 Người chỉ huy quân đoàn thứ chín, ứng trực tháng thứ chín, là A-bi-ê-xe người A-na-thốt, thuộc dòng dõi Bên-gia-min. Quân đoàn của ông có hai mươi bốn ngàn quân.

13 Người chỉ huy quân đoàn thứ mười, ứng trực tháng thứ mười, là Ma-ha-rai người Nê-tô-pha-thi, thuộc dòng dõi Xê-ra-hi. Quân đoàn của ông có hai mươi bốn ngàn quân.

14 Người chỉ huy quân đoàn thứ mười một, ứng trực tháng thứ mười một, là Bê-na-gia người A-na-thốt, thuộc dòng dõi Bên-gia-min. Quân đoàn của ông có hai mươi bốn ngàn quân.

15 Người chỉ huy quân đoàn thứ mười hai, ứng trực tháng thứ mười hai, là Hên-đai người Nê-tô-pha, thuộc dòng dõi Ốt-ni-ên. Quân đoàn của ông có hai mươi bốn ngàn quân.

Lãnh Tụ Các Chi Tộc

16 Sau đây là danh sách những người lãnh đạo các chi tộc của I-sơ-ra-ên:

Ê-li-ê-xe con của Xích-ri lãnh đạo chi tộc Ru-bên.

Sê-pha-ti-a con của Ma-a-ca lãnh đạo chi tộc Si-mê-ôn.

17 Ha-sa-bi-a con của Kê-mu-ên lãnh đạo chi tộc Lê-vi.

Xa-đốc lãnh đạo thị tộc A-rôn.

18 Ê-li-hu, một trong các anh của Ða-vít lãnh đạo chi tộc Giu-đa.

Ôm-ri con của Mi-chên lãnh đạo chi tộc I-sa-ca.

19 Ích-ma-gia con của Ô-ba-đi-a lãnh đạo chi tộc Xê-bu-lun.

Giê-ri-mốt con của A-xơ-ri-ên lãnh đạo chi tộc Náp-ta-li.

20 Hô-sê-a con của A-xa-xi-a lãnh đạo chi tộc Ép-ra-im.

Giô-ên con của Pê-đa-gia lãnh đạo phân nửa chi tộc Ma-na-se.

21 I-đô con của Xa-cha-ri-a lãnh đạo phân nửa chi tộc Ma-na-se ở miền Ghi-lê-át.

Gia-a-si-ên con của Áp-ne lãnh đạo chi tộc Bên-gia-min.

22 A-xa-rên con của Giê-rô-ham lãnh đạo chi tộc Ðan.

Ðó là những người lãnh đạo các chi tộc của I-sơ-ra-ên.

23 Ða-vít không tính những người dưới hai mươi tuổi, vì Chúa đã hứa sẽ làm cho I-sơ-ra-ên đông như sao trên trời. 24 Giô-áp con của bà Xê-ru-gia đã khởi sự đếm họ nhưng không hoàn tất công việc đó, vì một cơn thịnh nộ đã giáng xuống I-sơ-ra-ên do việc đếm người ấy, và số người đã đếm không được ghi vào sách Sử Ký của Vua Ða-vít.

Các Viên Chức Khác

25 Ngoài ra, A-ma-vết con của A-đi-ên quản lý các kho của vua trong kinh thành.

Giô-na-than con của U-xi-a quản lý các kho ngoài kinh thành, trong các thành phố, trong các làng mạc, và trong các đồn lũy.

26 Ê-xơ-ri con của Kê-lúp quản lý những người lo việc ruộng rẫy cho vua.

27 Si-mê-i người Ra-ma-thi trông coi các vườn nho. Xáp-đi người Si-phi phụ trách việc chế biến trái nho thành rượu nho để cung cấp cho hoàng gia.

28 Ba-anh Ha-nan người Ghê-đê-ri trông coi các vườn ô-liu và các vườn vả ở đồng bằng.

Giô-ách chịu trách nhiệm cung cấp dầu.

29 Si-trai người Sa-rôn trông coi việc chăn nuôi các đàn bò của vua ở Sa-rôn. Sa-phát con của Át-lai trông coi việc chăn nuôi các đàn bò của vua trong các thung lũng.

30 Ô-bin người Ích-ma-ên trông coi các lạc đà. Giê-đê-gia người Mê-rô-nô-thi trông coi các đàn lừa.

31 Gia-xi người Hắc-ri trông coi các đàn chiên.

Tất cả những người ấy là các viên chức trông coi các tài sản của Ða-vít.

32 Giô-na-than cậu của Ða-vít là mưu sĩ của vua. Ông là một người khôn ngoan và trí thức.

Giê-hi-ên con của Hách-mô-ni phụ trách việc giáo dục các con của vua.

33 A-hi-thô-phên là mưu sĩ của vua.

Hu-sai người Ạc-ki là bạn của vua.

34 Sau A-hi-thô-phên là Giê-hô-gia-đa con của Bê-na-gia, và A-bi-a-tha.

Giô-áp là tổng tư lệnh quân đội của vua.

Sa-lô-môn Ðược Giao Trách Nhiệm Xây Cất Ðền Thờ

28 Ða-vít triệu tập tất cả những người lãnh đạo của I-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem: những người lãnh đạo các chi tộc, những vị chỉ huy các quân đoàn phục vụ vua, các chỉ huy trưởng hàng ngàn quân, các chỉ huy trưởng hàng trăm quân, các quan chức trông coi tất cả tài sản và súc vật của vua và của các con vua, cùng các đại quan, những người có quyền thế, và tất cả các dũng sĩ. Bấy giờ Vua Ða-vít đứng dậy và nói:

“Hỡi anh em và hỡi đồng bào, xin hãy nghe ta nói: Bấy lâu nay lòng ta hằng ao ước sẽ xây một ngôi nhà để Rương Giao Ước của Chúa nghỉ tại đó và để làm bệ chân cho Ðức Chúa Trời. Ta đã chuẩn bị mọi sự để xây dựng ngôi nhà ấy. Nhưng Ðức Chúa Trời đã phán với ta, ‘Ngươi sẽ không xây một ngôi nhà cho danh Ta, vì ngươi là người của chiến tranh, và ngươi đã làm đổ máu quá nhiều.’ Tuy nhiên Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, đã chọn ta giữa bao nhiêu người trong nhà cha ta để lập ta làm vua trên I-sơ-ra-ên vĩnh viễn. Số là Ngài đã chọn Giu-đa làm người lãnh đạo; rồi trong chi tộc Giu-đa Ngài đã chọn gia đình ta, và trong vòng các con của cha ta, Ngài đã vui lòng chọn ta và lập ta làm vua trên toàn dân I-sơ-ra-ên. Trong vòng tất cả các con ta –vì Chúa đã cho ta có nhiều con– Ngài đã chọn Sa-lô-môn con trai ta để ngồi trên ngai vương quốc của Chúa mà trị vì trên I-sơ-ra-ên. Ngài đã phán với ta, ‘Sa-lô-môn con trai ngươi, chính nó sẽ xây một ngôi nhà cho Ta và xây các sân cho Ta, vì Ta đã chọn nó làm con Ta, và Ta sẽ làm cha nó. Ta sẽ làm cho vương quốc nó được vững lập đời đời, nếu nó luôn vâng giữ các điều răn và các mạng lịnh Ta như ngươi đang làm ngày nay.’

Vậy bây giờ trước mặt toàn thể I-sơ-ra-ên, hội chúng của Chúa, và có Ðức Chúa Trời chúng ta nghe thấy, hãy vâng giữ và hết lòng tìm kiếm tất cả điều răn của Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, để các ngươi có thể mãi chiếm hữu đất nước tốt đẹp nầy, và để nó lại làm sản nghiệp cho con cháu các ngươi sau nầy mãi mãi.

Còn con, hỡi Sa-lô-môn con của cha, khá nhận biết Ðức Chúa Trời của cha, hãy hết lòng và quyết chí phục vụ Ngài, vì Chúa dò xét mọi tâm trí, thấu suốt mọi ý định và tư tưởng. Nếu con hết lòng tìm kiếm Ngài, con sẽ tìm được Ngài; nhưng nếu con lìa bỏ Ngài, Ngài sẽ lìa bỏ con mãi mãi. 10 Bây giờ con hãy để tâm vào, vì Chúa đã chọn con xây cho Ngài một ngôi nhà làm nơi thánh. Hãy mạnh mẽ và hãy bắt tay thực hiện.”

11 Bấy giờ Ða-vít trao cho Sa-lô-môn con ông họa đồ của tiền đường đền thờ, các kiến trúc của phần chính ngôi đền, các nhà kho của đền thờ, các phòng ở tầng trên, các phòng bên trong, và phòng phía trong nơi để nắp thi ân. 12 Ông cũng trao cho con ông họa đồ mà ông đã có trong ý của ông về các sân của nhà Chúa, tất cả các phòng chung quanh khu đền thờ, các nhà kho của nhà Ðức Chúa Trời, các nhà kho để cất giữ các vật thánh, 13 các phòng dành cho các vị tư tế, các phòng dành cho những người Lê-vi, các phòng dùng để làm mọi công việc của nhà Chúa, và các phòng để chứa mọi khí cụ dùng cho việc phục vụ nhà Chúa. 14 Ông cũng dặn dò về số lượng vàng phải dùng để chế tạo các khí cụ cho việc phục vụ và số lượng bạc phải dùng để chế tạo các khí cụ cho việc phục vụ, 15 ngay cả số lượng vàng phải dùng để chế tạo các cây đèn vàng và các đèn vàng gắn trên mỗi cây đèn ấy, số lượng vàng dành cho từng cây đèn và các đèn vàng gắn trên từng cây đèn ấy, số lượng bạc phải dùng để chế tạo các cây đèn bạc và các đèn bạc gắn trên mỗi cây đèn ấy theo số lượng cần có để chế tạo mỗi cây đèn ấy, 16 số lượng vàng phải dùng cho mỗi bàn, để làm các bàn để Bánh Hiện Diện, và số lượng bạc phải dùng cho các bàn bằng bạc, 17 số lượng vàng ròng phải dùng để chế tạo các chĩa, các chậu, và các bình, số lượng vàng phải dùng để làm các chén vàng, từng chén một, số lượng bạc phải dùng để làm các chén bạc, từng chén một, 18 và số lượng vàng tinh luyện để làm bàn thờ dâng hương. Ông cũng trao bản vẽ kiểu chiếc xe chiến mã chở các chê-ru-bim bằng vàng dang cánh ra che bên trên Rương Giao Ước của Chúa.

19 Ða-vít nói, “Tất cả những điều ấy ta biết được vì tay Chúa ở trên ta, khiến ta hiểu biết tất cả chi tiết của các đồ án ấy.” 20 Ða-vít nói với Sa-lô-môn con ông, “Con hãy mạnh mẽ và hãy can đảm thực hiện công việc. Chớ sợ và chớ mất tinh thần, vì Chúa Ðức Chúa Trời, tức Ðức Chúa Trời của cha, ở với con. Ngài sẽ không để con thất bại hay lìa bỏ con, cho đến khi con làm xong mọi sự cho việc phục vụ nhà Chúa. 21 Này, con đã có các đội ngũ tư tế và các đội ngũ người Lê-vi sẵn sàng để làm mọi việc nơi nhà Ðức Chúa Trời, cùng nhiều người có nhiệt tâm và tài giỏi trong các ngành chuyên môn sẵn sàng giúp con thực hiện mọi việc. Ngoài ra các vị lãnh đạo và toàn dân cũng đều sẵn sàng vâng lịnh con.”

Dâng Hiến Ðể Xây Cất Ðền Thờ

29 Vua Ða-vít nói với toàn thể hội chúng, “Sa-lô-môn con ta, người duy nhất được Ðức Chúa Trời chọn, vẫn còn trẻ và thiếu kinh nghiệm, trong khi trọng trách thật lớn lao, vì ngôi đền sắp được xây dựng không phải để cho người ta nhưng cho Chúa Ðức Chúa Trời. Vì thế ta đã hết sức trong khả năng của ta chuẩn bị mọi sự cho việc xây cất nhà Ðức Chúa Trời của ta, vàng cho những gì cần vàng, bạc cho những gì cần bạc, đồng cho những gì cần đồng, sắt cho những gì cần sắt, gỗ cho những gì cần gỗ, đá mã não, các loại đá quý để khảm, các loại ngọc thạch có vân và nhiều màu đẹp đẽ, cùng mọi thứ đá quý và cẩm thạch rất nhiều. Ngoài ra vì lòng ta yêu mến nhà Ðức Chúa Trời của ta, nên ngoài những gì ta đã chuẩn bị để xây cất đền thánh, ta đã để dành một số vàng và số bạc riêng của ta để dâng cho việc xây dựng nhà Ðức Chúa Trời của ta, gồm ba ngàn ta-lâng[g] vàng, loại vàng Ô-phia, và bảy ngàn ta-lâng[h] bạc tinh luyện, để dát các mặt tường của các kiến trúc thuộc phần chính của ngôi đền. Vàng để dùng cho những gì cần đến vàng, và bạc để dùng cho những gì cần đến bạc, mà các thợ chuyên môn về mỹ thuật sẽ cần đến để làm mọi việc cần làm. Vậy bây giờ có ai trong các ngươi hôm nay muốn biệt riêng ra thánh một số của cải mình có để dâng cho việc xây dựng nhà Chúa không?”

Bấy giờ các vị thủ lãnh các thị tộc, các vị lãnh đạo các chi tộc, các vị chỉ huy trưởng hàng ngàn quân, các vị chỉ huy trưởng hàng trăm quân, và các quan chức điều hành các công việc của vua đều dâng hiến một cách vui lòng. Họ dâng hiến cho việc xây dựng nhà Ðức Chúa Trời năm ngàn ta-lâng[i] và mười ngàn a-đạc-côn[j] vàng, mười ngàn ta-lâng[k] bạc, mười tám ngàn ta-lâng[l] đồng, và một trăm ngàn ta-lâng[m] sắt. Những người có đá quý cũng đã đem chúng dâng vào kho của nhà Chúa và trao cho Giê-hi-ên hậu duệ của Ghẹt-sôn cai quản. Bấy giờ mọi người rất đỗi vui mừng, vì họ đã dâng hiến với lòng thành và dâng hiến cách vui lòng cho công việc nhà Chúa. Chính Vua Ða-vít cũng vui mừng khôn xiết.

Ða-vít Cảm Tạ CHÚA

10 Vì thế Ða-vít chúc tụng Chúa trước mặt toàn thể hội chúng. Ða-vít nói, “Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên tổ phụ chúng con, chúc tụng Ngài từ đời đời cho đến đời đời. 11 Chúa ôi, nguyện sự vĩ đại, quyền năng, vinh hiển, uy nghi, và huy hoàng đều thuộc về Ngài, vì mọi sự trên trời và dưới đất đều thuộc về Ngài. Lạy Chúa, nguyện vương quyền thuộc về Ngài, vì Ngài được tôn cao và là thủ lãnh của tất cả. 12 Sự giàu sang và tôn trọng đều từ Ngài đến; Ngài trị vì tất cả. Quyền năng và sức mạnh đều ở trong tay Ngài. Tay Ngài làm cho mọi kẻ Ngài chọn được tôn trọng và được ban quyền lực. 13 Vậy bây giờ, lạy Ðức Chúa Trời của chúng con, chúng con cảm tạ Ngài và chúc tụng danh vinh hiển của Ngài.

14 Nhưng con là ai và dân tộc con có là gì trước mặt Ngài mà chúng con có thể dâng lên Ngài một cách rộng rãi thế nầy? Vì tất cả những gì chúng con có đều do Ngài ban cho. Những gì chúng con dâng chẳng qua là lấy từ những gì Ngài đã ban cho, rồi đem dâng lên Ngài mà thôi. 15 Vì chúng con chỉ là những kiều dân, những người tạm trú trước mặt Ngài, giống như tổ tiên của chúng con. Những ngày của chúng con qua mau, chẳng khác nào chiếc bóng thoáng qua, chẳng còn lại gì.

16 Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng con, về số tài vật khá nhiều nầy mà chúng con đã dâng để chuẩn bị xây một ngôi nhà cho danh thánh của Ngài quả là chúng đã đến từ tay Ngài, vì tất cả là của Ngài.

17 Lạy Ðức Chúa Trời của con, con biết Ngài muốn thử lòng người, và Ngài lấy làm vui về lòng trung hậu của chúng con. Do sự trung hậu của lòng con, con đã dâng hiến lên Ngài tất cả các tài vật nầy. Bây giờ con thấy dân Ngài, những người hiện diện tại đây, cũng đã nhiệt tình tự nguyện dâng hiến lên Ngài cách vui lòng. 18 Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, I-sác, và I-sơ-ra-ên –các tổ tiên của chúng con– cầu xin Ngài cứ giữ mãi những ý nguyện và những tâm tình ấy trong lòng của dân Ngài, và khiến lòng họ luôn hướng về Ngài. 19 Cầu xin Ngài ban cho Sa-lô-môn con trai con một tâm chí quyết vâng giữ trọn vẹn các điều răn, luật lệ, và mạng lịnh của Ngài, để nó thi hành tất cả những điều ấy, và có thể xây dựng một ngôi đền cho Ngài mà con đã chuẩn bị.”

20 Sau đó Ða-vít nói với toàn thể hội chúng, “Hãy chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của các ngươi.” Bấy giờ toàn thể hội chúng chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên họ. Họ cúi đầu và sấp mình xuống trước mặt Chúa và vua. 21 Ngày hôm sau họ dâng các của lễ lên Chúa và dâng các của lễ thiêu, gồm một ngàn con bò đực, một ngàn con chiên đực, và một ngàn con chiên con, cùng với rượu tế, và rất nhiều của lễ cho toàn dân I-sơ-ra-ên. 22 Họ ăn và uống trước mặt Chúa ngày hôm đó với niềm vui khôn xiết.

Sa-lô-môn Ðược Xức Dầu Làm Vua Một Lần Nữa

Họ lập Sa-lô-môn con trai Ða-vít làm vua một lần nữa. Họ xức dầu cho ông làm người Chúa chọn để lãnh đạo, và họ cũng lập Xa-đốc làm tư tế. 23 Sau đó Sa-lô-môn ngồi lên ngai Chúa ban cho, kế vị cha ông để làm vua. Ông được thành công, và toàn dân I-sơ-ra-ên vâng phục ông. 24 Tất cả các vị lãnh đạo và các dũng sĩ mạnh mẽ, cùng tất cả các con trai của Vua Ða-vít đều tuyên thệ trung thành với Vua Sa-lô-môn. 25 Chúa làm cho Sa-lô-môn được rất mực tôn trọng trước mặt toàn dân I-sơ-ra-ên. Ngài ban cho ông sự huy hoàng uy vệ của một bậc đế vương, mà chưa một vị vua nào của I-sơ-ra-ên trước kia đã có.

Kết Thúc Triều Ðại của Ða-vít

26 Như thế Ða-vít con của Giê-se đã trị vì trên toàn thể I-sơ-ra-ên. 27 Thời gian ông trị vì trên I-sơ-ra-ên là bốn mươi năm. Ông trị vì bảy năm tại Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. 28 Ông qua đời lúc cao niên trường thọ, được giàu sang và tôn trọng. Sa-lô-môn con trai ông kế vị ông.

29 Này, mọi việc của Vua Ða-vít, từ đầu đến cuối, đều được chép trong sách của Sa-mu-ên đấng tiên kiến, trong sách của Na-than đấng tiên tri, và trong sách của Gát đấng tiên kiến. 30 Họ ghi chép tất cả những gì về triều đại của ông, quyền lực của ông, và những diễn biến đã xảy ra cho ông, cho cả I-sơ-ra-ên, và cho tất cả các vương quốc lân cận mà họ biết lúc bấy giờ.

Sa-lô-môn Xin Sự Khôn Ngoan

Sa-lô-môn con của Ða-vít củng cố vương quyền trong vương quốc của ông. Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, ở với ông; Ngài làm cho ông rất được tôn trọng. Sa-lô-môn triệu tập tất cả những người lãnh đạo trong dân I-sơ-ra-ên, gồm các chỉ huy trưởng hàng ngàn quân, các chỉ huy trưởng hàng trăm quân, các quan tư pháp, các quan hành pháp trong khắp nước I-sơ-ra-ên, và các vị trưởng tộc. Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên đi với ông đến một nơi cao ở Ghi-bê-ôn, vì tại đó có Lều Hội Kiến của Ðức Chúa Trời mà Môi-se đã làm khi còn trong đồng hoang. Nhưng Rương của Ðức Chúa Trời thì Ða-vít đã đem từ Ki-ri-át Giê-a-rim đến chỗ ông đã chuẩn bị cho Rương Thánh, vì ông đã dựng một cái lều đặc biệt cho Rương Thánh tại Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra nơi cao đó còn có bàn thờ bằng đồng mà Bê-xa-lên con của U-ri, cháu của Hu-rơ, đã làm và đặt tại đó, trước sân Lều của Chúa. Ðó là nơi Sa-lô-môn và hội chúng cầu vấn Ngài.

Sa-lô-môn đi lên đó, đến bàn thờ bằng đồng ở trước mặt Chúa, tức bàn thờ bằng đồng trước sân Lều Hội Kiến, và dâng một ngàn của lễ thiêu trên bàn thờ ấy. Ðêm đó Ðức Chúa Trời đã hiện ra với Sa-lô-môn và phán với ông, “Hãy cầu xin điều ngươi muốn Ta làm cho ngươi.”

Sa-lô-môn thưa với Ðức Chúa Trời, “Ngài đã bày tỏ tình thương lớn lao đối với Ða-vít cha con và đã lập con làm vua kế vị cho người. Bây giờ lạy Chúa Ðức Chúa Trời,[n] cầu xin Ngài làm cho lời hứa của Ngài đối với Ða-vít được vững lập, vì Ngài đã lập con làm vua trị vì một dân đông như bụi đất. 10 Bây giờ xin Ngài ban cho con khôn ngoan và tri thức để con lãnh đạo dân nầy,[o] vì ai có đủ khả năng để trị vì dân lớn lao đông đúc nầy của Ngài được?”

11 Bấy giờ Ðức Chúa Trời phán với Sa-lô-môn, “Bởi vì đó là điều trong lòng ngươi; ngươi không xin giàu sang, phú quý, tôn trọng, và mạng sống của kẻ thù; ngươi cũng không xin được cao niên trường thọ, nhưng chỉ xin được khôn ngoan và tri thức để có thể lãnh đạo dân Ta, dân mà Ta đã lập ngươi làm vua. 12 Vì thế ngươi sẽ được ban cho khôn ngoan và tri thức. Ngoài ra Ta sẽ ban cho ngươi giàu sang, phú quý, và tôn trọng, mà không vua nào trước ngươi đã có và không vua nào sau ngươi sẽ được như vậy.”

13 Vậy Sa-lô-môn từ trước Lều Hội Kiến ở nơi cao tại Ghi-bê-ôn trở về Giê-ru-sa-lem và trị vì dân I-sơ-ra-ên.

Quyền Thế của Sa-lô-môn

14 Sa-lô-môn tập trung các xe chiến mã và các kỵ binh lại. Ông có một ngàn bốn trăm xe chiến mã và mười hai ngàn kỵ binh. Ông chia họ ra trú đóng trong các thành và một đơn vị đóng ở Giê-ru-sa-lem, gần bên vua. 15 Vua làm cho bạc và vàng ở Giê-ru-sa-lem ra tầm thường như sỏi đá, và gỗ bá hương nhiều như gỗ sung, một thứ cây mọc ở đồng bằng. 16 Sa-lô-môn mua nhiều ngựa nhập cảng từ Ai-cập và Cư-ê.[p] Các thương gia của triều đình đến tận Cư-ê mua chúng theo thời giá đem về. 17 Họ đặt mua các xe chiến mã tại Ai-cập, mỗi chiếc xe giá sáu trăm miếng[q] bạc; còn một con ngựa giá một trăm năm mươi miếng[r] bạc. Sau đó họ đem ra bán lại cho các vua dân Hi-tít và các vua dân A-ram.

Chuẩn Bị Xây Cất Ðền Thờ

Sa-lô-môn truyền lịnh xây cất một Ðền Thờ cho danh Chúa và một cung điện cho ông. Sa-lô-môn lập một đội ngũ nhân công, gồm bảy mươi ngàn người đảm trách việc khuân vác, tám mươi ngàn người lo việc đục đá trên các sườn núi, và ba ngàn sáu trăm[s] đốc công để điều động họ.

Giao Kèo với Vua Hu-ram

Sa-lô-môn sai sứ giả đến gặp Hu-ram[t] vua Ty-rơ, tâu rằng, “Kính xin ngài cung cấp gỗ bá hương cho tôi như ngài đã làm cho Ða-vít cha tôi, cung cấp gỗ cho cha tôi xây nhà để ở. Tâu vua, tôi dự tính sẽ xây một ngôi nhà cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của tôi, hiến dâng ngôi nhà ấy cho Ngài, để dâng các hương thơm lên trước thánh nhan Ngài, dâng các Bánh Hằng Hiến, dâng các của lễ thiêu vào mỗi buổi sáng và mỗi buổi chiều, những ngày Sa-bát, những ngày trăng mới, và những ngày lễ trọng thể để tôn thờ Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi, vì đó là luật định đời đời cho dân I-sơ-ra-ên. Ngôi nhà mà tôi sắp xây sẽ rất nguy nga tráng lệ, vì Ðức Chúa Trời của chúng tôi vĩ đại hơn tất cả các thần. Nhưng thật ra ai có thể xây cho Ngài một ngôi nhà? Vì trời cao vô tận kia, tức trời của các từng trời, mà còn chưa thể chứa được Ngài thay. Thế thì tôi là ai mà có thể xây cho Ngài một ngôi nhà? Bất quá chỉ là có chỗ để dâng hương lên Ngài thôi. Vậy bây giờ kính xin ngài biệt phái cho tôi một người chuyên môn chế tạo các đồ vật bằng vàng, bạc, đồng, và sắt. Người ấy cũng phải giỏi về việc sử dụng vải tím, vải đỏ, và vải xanh dương. Ngoài ra người ấy cũng chuyên môn về kỹ thuật chạm khắc, để có thể làm việc với các chuyên viên của tôi tại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, những người Ða-vít cha tôi đã chuẩn bị sẵn. Xin ngài cũng gởi cho tôi gỗ bá hương, gỗ trắc, và gỗ đàn hương ở Li-băng, vì tôi biết các tôi tớ ngài rất thành thạo trong việc đốn gỗ ở Li-băng. Các tôi tớ tôi sẽ làm việc với các tôi tớ ngài. Kính xin ngài cung cấp cho tôi thật nhiều gỗ, vì Ðền Thờ tôi sắp xây cất sẽ rất to lớn và nguy nga. 10 Tâu vua, tôi sẽ cung cấp cho các tôi tớ ngài, tức các thợ đốn gỗ của ngài, bốn ngàn bốn trăm tấn lúa mì,[u] bốn ngàn bốn trăm tấn lúa mạch, bốn trăm bốn mươi ngàn lít[v] rượu, và bốn trăm bốn mươi ngàn lít dầu.”

11 Bấy giờ Hu-ram vua Ty-rơ viết một thư phúc đáp và gởi đến Sa-lô-môn; nội dung như sau, “Bởi vì Chúa đã yêu thương dân Ngài, nên Ngài đã lập ngài làm vua cai trị họ.” 12 Hu-ram viết tiếp, “Chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng dựng nên trời và đất, Ðấng đã ban cho Vua Ða-vít một con trai khôn ngoan, được phú cho thông minh và khôn sáng, để xây cất một Ðền Thờ cho Chúa và một cung điện cho mình. 13 Nay tôi phái đến ngài một chuyên gia đại tài tên là Hu-ram A-bi; ông ấy là một người rất thông sáng. 14 Mẹ ông là người của chi tộc Ðan, còn cha ông là người Ty-rơ. Ông là người rất giỏi việc chế tạo các vật dụng bằng vàng, bạc, đồng, sắt, đá, gỗ, vải tím, vải xanh dương, vải gai mịn, và vải đỏ. Ông ấy lại rất khéo trong kỹ thuật chạm khắc mọi vật, và có thể chế tạo bất cứ món hàng mỹ nghệ nào người ta đặt. Ngài có thể bổ nhiệm ông làm việc chung với các tôi tớ ngài và các tôi tớ của chúa thượng của tôi là Vua Ða-vít, thân phụ ngài. 15 Vậy bây giờ, về lúa mì, lúa mạch, dầu, và rượu mà chúa thượng của tôi đã hứa, xin ngài xúc tiến việc gởi chúng đến các tôi tớ ngài. 16 Chúng tôi sẽ đốn gỗ ở Li-băng cho ngài theo số lượng ngài cần. Chúng tôi sẽ đóng bè thả xuống Giốp-pa cho ngài, và ngài sẽ chịu trách nhiệm mang chúng lên Giê-ru-sa-lem.”

17 Sa-lô-môn cho kiểm kê tất cả kiều dân đang tạm trú trong nước I-sơ-ra-ên, sau cuộc thống kê Ða-vít cha ông đã thực hiện trước kia, và họ tìm thấy một trăm năm mươi ba ngàn sáu trăm kiều dân. 18 Từ trong số những người ấy ông lập một đội ngũ nhân công gồm bảy mươi ngàn người đảm trách việc khuân vác, tám mươi ngàn người lo việc đục đá trên các sườn núi, và ba ngàn sáu trăm đốc công để điều động họ.

Sa-lô-môn Xây Cất Ðền Thờ

(1 Vua 6:1-38)

Bấy giờ Sa-lô-môn cho khởi công xây cất Ðền Thờ Chúa ở Giê-ru-sa-lem, trên Núi Mô-ri-a, nơi Chúa đã hiện ra với Ða-vít cha ông, ở chỗ mà Ða-vít đã chọn sẵn, trong sân đập lúa của Ọt-nan người Giê-bu-si. Ông cho khởi công xây cất vào ngày mồng hai tháng hai, năm thứ tư của triều đại ông.

Ðây là kích thước của cái nền mà Sa-lô-môn đã đặt để xây Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. Chiều dài ba mươi mét và chiều rộng mười mét,[w] tính theo thước cũ. Tiền đình ở phía trước Ðền Thờ dài mười mét,[x] nằm dọc theo chiều rộng của Ðền Thờ. Chiều cao sáu mươi mét.[y] Toàn thể mặt trong đều được dát bằng vàng ròng. Ông dùng gỗ trắc lát mặt trong của phòng chính Ðền Thờ. Sau đó ông dùng vàng thượng hạng dát lên trên, và cho khắc hình các cây chà là và các dây xích trên mặt tường. Ông trang trí Ðền Thờ bằng những đá quý. Loại vàng ông dùng là vàng Pạc-va-im. Ông dát vàng khắp Ðền Thờ, gồm các đà ngang của trần nhà, các khung cửa, các vách tường, và các cánh cửa; trên các vách tường ông chạm hình các chê-ru-bim.

Ông xây Nơi Chí Thánh. Chiều dọc của phòng ấy dài bằng chiều rộng của Ðền Thờ, tức mười mét, và chiều ngang của phòng ấy cũng mười mét. Ông dùng hai mươi ngàn bốn trăm ký[z] vàng thượng hạng để dát toàn thể mặt trong của phòng ấy. Ông dùng các đinh nặng năm trăm bảy mươi lăm gờ-ram[aa] một cái. Ông dát vàng các phòng nhỏ ở tầng trên.

10 Trong Nơi Chí Thánh, ông làm hai tượng chê-ru-bim[ab] và dát vàng chúng; đó là một tác phẩm của nghệ thuật điêu khắc. 11 Các cánh của hai chê-ru-bim dang ra dài mười mét. Một cánh của chê-rúp nầy dài hai mét rưỡi[ac] dang ra chạm vào tường Ðền Thờ, còn cánh kia cũng dài hai mét rưỡi và dang ra chạm vào chóp của cánh chê-rúp kia. 12 Tương tự một cánh của chê-rúp kia dài hai mét rưỡi dang ra chạm vào tường bên kia của Ðền Thờ, còn cánh khác cũng dài hai mét rưỡi dang ra chạm vào chóp của cánh chê-rúp nầy. 13 Các cánh của hai chê-ru-bim dang ra dài cả thảy mười mét. Hai chê-ru-bim đó đứng trên chân mình, và mặt nhìn vào Nơi Thánh. 14 Ông làm một bức màn bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải gai mịn, rồi thêu hình các chê-ru-bim lên màn đó.

15 Phía trước Ðền Thờ, ông dựng hai cây trụ, mỗi trụ cao mười bảy mét rưỡi,[ad] trên đỉnh mỗi trụ có một cái đầu trụ cao hai mét rưỡi. 16 Ông làm các dây chuyền và treo chúng quanh hai đầu trụ ấy. Ông làm một trăm trái lựu và treo chúng vào các dây chuyền ấy. 17 Ông dựng hai trụ ở trước Ðền Thờ, một trụ bên phải và một trụ bên trái. Ông đặt tên cho trụ bên phải là Gia-kin và trụ bên trái là Bô-a.

Các Vật Dụng trong Ðền Thờ

Ông làm một bàn thờ bằng đồng, chiều dọc mười mét, chiều ngang mười mét, và chiều cao năm mét.[ae]

Ông đúc một bể nước tròn bằng đồng, đường kính của miệng bể năm mét, bể cao hai mét rưỡi, chu vi mười lăm mét[af] nếu đo bằng thước dây. Bên dưới gờ quanh miệng bể là hai hàng hình các con bò đúc nổi trên thân bể. Chúng được đúc cùng một lượt với bể, cứ khoảng nửa mét mười con. Bể được đặt trên lưng mười hai con bò. Ba con quay về hướng bắc, ba con quay về hướng tây, ba con quay về hướng nam, và ba con quay về hướng đông. Bể đồng ấy được đặt trên lưng mười hai con bò đúc, thân sau của chúng đều quay vào trong. Thành bể dày bằng bề ngang của bàn tay. Miệng bể được đúc như miệng chén hình hoa huệ. Bể ấy có thể chứa đến sáu mươi sáu ngàn lít[ag] nước.

Ông cũng làm mười cái bồn nước để rửa. Ông đặt năm cái bên phải và năm cái bên trái. Người ta dùng các bồn nước ấy để rửa các của lễ sẽ đem thiêu. Còn cái bể đồng thì chỉ để cho các tư tế dùng.

Ông làm mười cây đèn bằng vàng như đã chỉ bảo, rồi đặt chúng trong Ðền Thờ, năm cái ở phía nam và năm cái ở phía bắc.

Ông làm mười cái bàn và đặt chúng trong Ðền Thờ, năm cái bên phải và năm cái bên trái. Ông làm một trăm cái chậu bằng vàng.

Ông xây một sân dành cho các tư tế, và một sân lớn, cùng làm các cửa cho sân. Ông dát đồng các cửa ấy. 10 Ông đặt bể nước ở góc đông nam của Ðền Thờ.

11 Hu-ram làm các nồi, các xẻng, và các bình rảy. Vậy Hu-ram hoàn tất công tác chế tạo các vật dụng cho Ðền Thờ Ðức Chúa Trời theo như Vua Sa-lô-môn đã chỉ thị: 12 hai cây trụ, hai bầu trên đầu hai trụ, hai bộ lưới trang trí quanh bầu trên đầu hai trụ, 13 bốn trăm trái lựu gắn vào hai bộ lưới. Mỗi bộ lưới được gắn hai hàng trái lựu, để trang trí hai bầu trên đầu hai trụ. 14 Ông làm mười chiếc xe và các bồn nước đặt trên các xe ấy, 15 một cái bể và mười hai con bò đỡ bên dưới bể ấy, 16 các nồi, các xẻng, các chĩa thịt, và các dụng cụ liên hệ. Hu-ram A-bi chế tạo tất cả các vật dụng đó cho Ðền Thờ bằng đồng đánh bóng, theo như chỉ thị của Sa-lô-môn. 17 Vua cho dùng đất sét làm khuôn để đúc chúng trong Ðồng Bằng Giô-đanh, giữa Súc-cốt và Xê-rê-đa. 18 Vua Sa-lô-môn cho làm rất nhiều các món ấy, và số lượng đồng dùng để chế tạo chúng rất nhiều, không sao cân xuể. 19 Sa-lô-môn làm tất cả các đồ vật trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời: bàn thờ bằng vàng, các bàn để các Bánh Hằng Hiến, 20 các cây đèn và các ngọn đèn đều bằng vàng ròng, để thắp sáng phía trước Nơi Chí Thánh như đã quy định. 21 Các hoa, các đèn, và các kẹp gắp đều bằng vàng ròng; 22 các kéo cắt tim đèn, các chậu, các bát dâng hương, và các khay than đều bằng vàng ròng. Về các lối ra vô trong Ðền Thờ, tức các cửa bên trong để ra vào Nơi Chí Thánh và các cửa ra vào Nơi Thánh đều được dát vàng.

Khi mọi việc Sa-lô-môn làm cho Ðền Thờ Chúa hoàn tất, Sa-lô-môn mang vào Ðền Thờ những vật mà Ða-vít cha ông đã dâng hiến, tức tất cả các đồ vật bằng bạc và bằng vàng, cùng mọi món đồ khác. Ông để chúng trong các kho của Ðền Thờ Ðức Chúa Trời.

Rước Rương Giao Ước vào Ðền Thờ

(1 Vua 8:1-9)

Bấy giờ Sa-lô-môn triệu tập các vị trưởng lão của I-sơ-ra-ên, tất cả các vị thủ lãnh của các chi tộc, và các vị lãnh đạo của các gia tộc I-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem để rước Rương Giao Ước của Chúa từ Si-ôn, tức Thành Ða-vít, lên. Vậy toàn thể dân I-sơ-ra-ên về tụ họp quanh vua trong kỳ đại lễ thường niên vào tháng bảy.[ah] Sau khi các vị trưởng lão của I-sơ-ra-ên đến, các tư tế khiêng Rương đi lên. Họ khiêng Rương, Lều Hội Kiến, và mọi vật dụng thánh trong lều ấy đem lên. Các tư tế và những người Lê-vi đã khiêng tất cả những vật ấy và đem lên.

Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên đã tụ họp quanh ông sát tế chiên và bò, nhiều vô số, không thể kể hoặc đếm được, ở trước Rương. Sau đó các tư tế khiêng Rương Giao Ước của Chúa đặt vào chỗ của Rương ở phòng trong cùng của Ðền Thờ, tức Nơi Chí Thánh, bên dưới các cánh của chê-ru-bim. Các chê-ru-bim dang cánh ra bên trên nơi đặt Rương, che trên Rương và hai đòn khiêng. Các đòn khiêng ấy khá dài, đến nỗi lòi các đầu ra, khiến ai đứng ở trước Nơi Chí Thánh đều có thể trông thấy, nhưng ai đứng ở ngoài thì không thấy được. Hai đòn khiêng ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. 10 Trong Rương đó không có gì ngoài hai bản đá mà Môi-se đã đặt vào trong đó lúc ở Hô-rếp, nơi Chúa đã lập giao ước với dân I-sơ-ra-ên khi họ vừa ra khỏi Ai-cập.

Vinh Quang của Chúa Ngự Xuống Ðền Thờ

(1 Vua 8:11-13)

11 Kế đó các tư tế ra khỏi Nơi Thánh. Số là tất cả các tư tế hiện diện đều đã thánh hóa chính họ, bất kể phẩm trật của họ như thế nào. 12 Tất cả người Lê-vi trong ban thánh nhạc, gồm A-sáp, Hê-man, Giê-đu-thun, các con cháu của họ, và bà con dòng họ của họ đều mặc áo lễ bằng vải gai mịn, đứng ở phía đông bàn thờ, sử dụng các phèng la, hạc cầm, và đàn lia, hòa với ban kèn gồm một trăm hai mươi tư tế mà trỗi nhạc. 13 Kế đó ban kèn và ca đoàn đồng thanh trỗi tiếng vang lừng ca ngợi và cảm tạ Chúa. Họ cất tiếng hòa cùng tiếng kèn, tiếng phèng la, và tiếng các nhạc khí chúc tụng Chúa rằng, “Ngài thật tốt, vì tình thương của Ngài còn đến đời đời.” Bấy giờ mây mù bao phủ ngôi đền, tức Ðền Thờ Chúa, 14 đến nỗi các tư tế không thể đứng để tiếp tục thi hành chức vụ, vì mây mù bao phủ mịt mùng, bởi vinh quang của Chúa tràn ngập cả Ðền Thờ Ðức Chúa Trời.

Cung Hiến Ðền Thờ

Bấy giờ Sa-lô-môn nói, “Chúa đã phán rằng, Ngài ngự giữa mây mù đen mịt, và con thật được vinh dự xây cho Ngài một Ðền Thờ tráng lệ, làm một nơi để Ngài ngự đời đời.”

Sa-lô-môn Hiệu Triệu Dân

Kế đó vua quay lại và chúc phước cho toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, trong khi cả hội chúng I-sơ-ra-ên đang đứng. Ông nói, “Chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng đã dùng tay Ngài làm trọn mọi điều miệng Ngài đã hứa với Ða-vít cha tôi rằng, ‘Từ ngày Ta đem dân Ta ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn thành nào của bất cứ chi tộc nào trong dân I-sơ-ra-ên để xây một Ðền Thờ, hầu danh Ta có thể ngự tại đó, và Ta cũng đã không chọn ai để làm người lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên Ta. Nhưng Ta đã chọn Giê-ru-sa-lem để danh Ta ngự tại đó, và đã chọn Ða-vít làm người lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên Ta.’

Lúc ấy Ða-vít cha tôi có ý xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, nhưng Chúa đã phán với Ða-vít cha tôi rằng, ‘Ngươi quả có ý tốt, khi lòng ngươi muốn xây một Ðền Thờ cho danh Ta. Tuy nhiên ngươi sẽ không xây Ðền Thờ ấy cho Ta đâu, nhưng con trai ngươi, kẻ do ngươi sinh ra, sẽ xây Ðền Thờ ấy cho danh Ta.’

10 Chúa đã làm thành những lời Ngài đã phán. Tôi đã được nhấc lên kế vị của Ða-vít cha tôi và được ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên như Chúa đã phán, và tôi cũng đã xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 11 Ðây nầy tôi đã làm một chỗ để đặt Rương Giao Ước, trong đó có đựng giao ước Chúa đã lập với dân I-sơ-ra-ên.”

Sa-lô-môn Cầu Nguyện Cung Hiến Ðền Thờ

(1 Vua 6:22-51)

12 Bấy giờ ông đứng trước bàn thờ Chúa, trước mặt toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, và đưa hai tay lên trời. 13 Số là Sa-lô-môn đã làm một bục bằng đồng, chiều ngang hai mét rưỡi, chiều dọc hai mét rưỡi, và chiều cao bảy tấc rưỡi, và đặt bục đó ở giữa sân. Ông đứng trên bục ấy; rồi trước mặt toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên ông quỳ xuống, đưa hai tay lên trời, 14 và cầu nguyện rằng:

“Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, chẳng có thần nào giống như Ngài ở trên trời cao kia hay ở dưới đất thấp nầy. Ngài giữ giao ước và bày tỏ tình thương đối với các tôi tớ Ngài, những người hết lòng bước đi trước mặt Ngài. 15 Ngài đã giữ những lời Ngài đã phán với tôi tớ Ngài là Ða-vít cha con. Ðiều miệng Ngài đã phán thì ngày nay chính tay Ngài đã thực hiện. 16 Vậy bây giờ, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, xin Ngài tiếp tục giữ những gì Ngài đã hứa với Ða-vít cha con rằng, ‘Ngươi sẽ không bao giờ thiếu một kẻ kế vị để ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên trước mặt Ta, nếu con cháu ngươi biết cẩn thận trong đường lối chúng, bước đi trước mặt Ta như ngươi đã bước đi trước mặt Ta.’ 17 Vì vậy, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, cầu xin Ngài thực hiện những lời Ngài đã hứa với Ða-vít tôi tớ Ngài.

18 Nhưng Ðức Chúa Trời có ở với người phàm trên đất chăng? Ngay cả trời của các từng trời còn chưa thể chứa được Ngài thay, huống chi Ðền Thờ con xây cất cho Ngài đây. 19 Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của con, xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của tôi tớ Ngài; xin lắng nghe lời cầu xin và khẩn nguyện tôi tớ Ngài dâng lên trước thánh nhan Ngài. 20 Nguyện mắt Ngài ngày đêm đoái xem Ðền Thờ nầy, nơi Ngài phán, ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó,’ để nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài hướng về nơi đây mà cầu nguyện. 21 Cầu xin Ngài lắng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và của I-sơ-ra-ên dân Ngài, mỗi khi họ hướng về nơi nầy mà cầu nguyện. Từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe, nhậm lời, và tha thứ cho.

22 Khi có ai phạm tội đối với người khác, và người ta bắt kẻ ấy phải thề, nếu kẻ ấy đến và thề trước bàn thờ Ngài trong Ðền Thờ nầy, 23 thì từ thiên đàng xin Ngài lắng nghe, hành động, và xét xử các tôi tớ Ngài. Xin Ngài kết án kẻ có tội và bắt nó phải cúi đầu nhận lấy hậu quả tội lỗi của nó, và xin Ngài minh oan cho người ngay lành và ban thưởng cho người ấy vì sự ngay lành của người ấy.

24 Khi dân I-sơ-ra-ên của Ngài phạm tội đối với Ngài và bị đánh bại trước mặt quân thù, nhưng nếu họ biết quay về với Ngài, xưng nhận danh Ngài, cầu nguyện, và van xin Ngài trong Ðền Thờ nầy, 25 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin Ngài tha thứ tội của dân I-sơ-ra-ên Ngài, và đem họ trở về xứ sở Ngài đã ban cho họ và cho tổ tiên họ.

26 Khi trời đóng lại và không mưa xuống đất, vì họ phạm tội đối với Ngài, nhưng sau đó họ biết hướng về nơi nầy mà cầu nguyện, xưng nhận danh Ngài, lìa bỏ tội lỗi của họ, vì Ngài đã sửa phạt họ, 27 thì từ thiên đàng, xin Ngài dủ nghe, xin tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Ngài, tức dân I-sơ-ra-ên của Ngài, xin chỉ dạy họ con đường tốt họ phải đi, và xin ban mưa xuống xứ sở Ngài ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.

28 Khi trong xứ gặp nạn đói, khi họ gặp phải ôn dịch, hạn hán, nấm mốc, cào cào, hay sâu bọ, nếu quân thù đến vây hãm thành nào của họ, bất cứ họ bị ôn dịch nào, bất cứ họ bị chứng bịnh gì, 29 nhưng có cá nhân nào hay toàn dân I-sơ-ra-ên của Ngài hết lòng nhận biết nỗi đau đớn của họ, đưa tay ra hướng về Ðền Thờ nầy mà cầu nguyện và nài xin, 30 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe, tha thứ, và báo trả mỗi người tùy theo điều Ngài biết nơi lòng họ, và tùy theo các đường lối của họ –vì chỉ một mình Ngài biết rõ mọi sự trong lòng người– 31 hầu họ sẽ kính sợ Ngài và bước đi trong đường lối Ngài trọn đời của họ, trong xứ Ngài đã ban cho tổ tiên chúng con.

32 Ngoài ra khi có người ngoại quốc nào, không phải là dân I-sơ-ra-ên của Ngài, từ một xứ xa xăm đến đây vì đã được nghe về đại danh của Ngài, về tay quyền năng của Ngài, và về cánh tay Ngài đã đưa ra, khi họ đến và hướng về Ðền Thờ nầy mà cầu nguyện, 33 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe và đoái nhậm mọi điều người ngoại quốc đó cầu xin với Ngài, hầu mọi dân trên đất sẽ biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài, giống như dân I-sơ-ra-ên của Ngài đã làm, và thiên hạ sẽ biết rằng Ðền Thờ nầy mà con đã xây được gọi bằng danh Ngài.

34 Khi dân Ngài phải ra chiến trận đối phó với quân thù ở bất cứ nơi nào Ngài sai họ đến, khi họ hướng về thành nầy, thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, 35 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ họ.

36 Khi họ phạm tội đối với Ngài –vì chẳng ai là không phạm tội– khiến Ngài giận họ và phó họ cho quân thù; chúng bắt họ đem đi lưu đày biệt xứ, bất kể xa hay gần; 37 nhưng nếu đang lúc ở trong xứ lưu đày, họ biết tỉnh ngộ, ăn năn, và kêu cầu với Ngài trong xứ họ bị lưu đày, mà rằng, ‘Chúng con đã phạm tội, chúng con đã sai lầm, chúng con đã làm việc gian tà,’ 38 nếu họ hết lòng và hết linh hồn ăn năn quay về với Ngài trong xứ họ bị lưu đày, và từ nơi họ bị đem đi lưu đày, họ hướng về xứ Ngài đã ban cho tổ tiên họ, về thành Ngài đã chọn, và về Ðền Thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, 39 thì từ thiên đàng, nơi Ngài ngự, xin Ngài dủ nghe lời cầu nguyện và nài xin của họ mà binh vực duyên cớ của họ, và xin Ngài tha thứ cho dân Ngài, những người đã phạm tội đối với Ngài.

40 Bây giờ, lạy Ðức Chúa Trời của con, cầu xin Ngài luôn để mắt nhìn và để tai nghe những lời cầu nguyện dâng lên từ nơi nầy.

41 Vậy bây giờ, lạy Chúa Hằng Hữu,[ai] xin trỗi dậy và ngự đến nơi nghỉ ngơi của Ngài,
Xin Ngài và Rương quyền năng của Ngài.
Lạy Chúa Hằng Hữu, nguyện các tư tế của Ngài mặc lấy ơn cứu rỗi,
Nguyện những người trung tín tin thờ Ngài được vui vẻ vì phước hạnh Ngài ban.
42 Lạy Chúa Hằng Hữu, xin đừng loại bỏ người được xức dầu của Ngài,
Xin nhớ lại tình thương vô đối Ngài dành cho Ða-vít đầy tớ Ngài.”

Tế Lễ Cung Hiến Ðền Thờ

(1 Vua 6:62-66)

Khi Sa-lô-môn cầu nguyện xong, lửa từ trời giáng xuống thiêu rụi các của lễ thiêu và các lễ vật hiến tế, và vinh quang của Chúa tràn ngập cả Ðền Thờ. Các tư tế không thể vào Ðền Thờ Chúa được, vì vinh quang của Chúa tràn ngập cả Ðền Thờ Chúa. Khi toàn dân I-sơ-ra-ên thấy lửa từ trời giáng xuống và vinh quang của Chúa ngự xuống Ðền Thờ, họ sấp mình xuống và úp mặt sát đất, để thờ phượng và chúc tụng Chúa, “vì Ngài thật tốt, vì tình thương của Ngài còn đến đời đời.”

Sau đó vua và toàn dân dâng hiến các lễ vật trước thánh nhan Chúa. Vua Sa-lô-môn sát tế hai mươi hai ngàn con bò và một trăm hai mươi ngàn con chiên. Như vậy vua và toàn dân cung hiến Ðền Thờ lên Ðức Chúa Trời.

Các tư tế đứng tại vị trí đã chỉ định cho họ, trong khi những người Lê-vi sử dụng các nhạc khí do Ða-vít chế ra để ca ngợi Chúa trỗi vang tôn ngợi Chúa, “vì tình thương của Ngài còn đến đời đời.” Họ hát các bài thánh ca do Ða-vít đã soạn cho ban thờ phượng. Ban kèn của các tư tế đứng đối diện trỗi nhạc vang lừng, trong khi toàn dân đứng đó hòa lòng thờ phượng.

Sa-lô-môn biệt riêng khu vực ở giữa sân phía trước Ðền Thờ Chúa cho việc dâng các của lễ. Tại đó ông dâng các của lễ thiêu và mỡ cho các của lễ cầu an, vì bàn thờ bằng đồng Sa-lô-môn đã làm không đủ chỗ để dâng các của lễ thiêu, các của lễ chay, và các phần mỡ phải thiêu dâng.

Khi ấy Sa-lô-môn cử hành lễ như thế liên tục bảy ngày. Toàn dân I-sơ-ra-ên hiệp chung với ông, một đoàn dân rất đông đảo; họ đã đến từ Ải Ha-mát ở miền bắc cho đến Suối Ai-cập ở miền nam. Vào ngày thứ tám họ có một lễ bế mạc rất trọng thể, bởi vì họ đã dự lễ cung hiến bàn thờ bảy ngày và Lễ Lều Tạm bảy ngày nữa. 10 Vào ngày hai mươi ba tháng bảy, vua tiễn chào dân, để ai về nhà nấy. Mọi người ra về với lòng vui mừng và phấn khởi, vì phước hạnh của Chúa đã ban cho Ða-vít, cho Sa-lô-môn, và cho dân I-sơ-ra-ên của Ngài.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang