Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Ê-xê-chi-ên 47:13 - Đa-ni-ên 8:27

Ranh Giới Trong Xứ

13 CHÚA phán như vầy: “Đây là ranh giới để các ngươi phân chia đất làm sản nghiệp cho mười hai bộ tộc Y-sơ-ra-ên, Giô-sép sẽ được hai phần. 14 Mỗi người đều sẽ được phân chia sản nghiệp bằng nhau vì Ta đã đưa tay thề ban đất cho tổ tiên các ngươi nên đất này sẽ thuộc về các ngươi để làm sản nghiệp.

15 Đây là ranh giới của đất:

Về phía bắc, từ Biển Lớn theo con đường Hết-lon qua Lê-bô Xê-đát, 16 Ha-mát, Bê-rốt và Síp-ra-im nằm giữa ranh giới Đa-mách và Ha-mát, Hát-se Hát-thi-côn nằm trên ranh giới Ha-vơ-ran. 17 Vậy, ranh giới sẽ chạy từ biển tới Hát-se Ê-nôn tại biên giới Đa-mách; từ miền bắc đi lên hướng bắc là ranh giới Ha-mát, ấy là ranh giới phía bắc.

18 Phía đông, từ Ha-vơ-ran đến Đa-mách, dọc theo sông Giô-đanh từ Ga-la-át và đất Y-sơ-ra-ên ra biển đông, đến tận Ta-ma;[a] ấy là ranh giới phía đông.

19 Phía nam, từ Ta-ma đến dòng nước Ma-ri-ba tại Ca-đê, dọc theo con suối Ai Cập[b] đến Biển Lớn; ấy là ranh giới phía nam.

20 Phía tây, Biển Lớn sẽ là ranh giới đến tận điểm đối diện Lê-bô Ha-mát; ấy là ranh giới phía tây.

21 Vậy, các ngươi hãy phân chia xứ này giữa vòng các ngươi tùy theo bộ tộc Y-sơ-ra-ên. 22 Các ngươi hãy bắt thăm chia đất này làm sản nghiệp cho các ngươi và cho những ngoại kiều định cư giữa các ngươi và sinh con cái giữa các ngươi. Các ngươi sẽ coi họ như người bản xứ Y-sơ-ra-ên; họ cũng sẽ được bắt thăm chia phần sản nghiệp với các ngươi giữa các bộ tộc Y-sơ-ra-ên. 23 Người ngoại kiều định cư trong bộ tộc nào, thì các ngươi phải cho nó sản nghiệp ở đó;” CHÚA tuyên bố.

Sự Phân Chia Đất

48 “Đây là tên của các bộ tộc: Phần của Đan từ cực bắc chạy theo con đường Hết-lon đến Lê-bô Ha-mát, Hát-se Ê-nôn ở vùng ranh giới Đa-mách, về phía bắc giáp Ha-mát, ranh giới từ đông sang tây.

Dọc theo bờ cõi của Đan, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của A-se.

Dọc theo bờ cõi của A-se, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Nép-ta-li.

Dọc theo bờ cõi của Nép-ta-li, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Ma-na-se.

Dọc theo bờ cõi của Ma-na-se, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Ép-ra-im.

Dọc theo bờ cõi của Ép-ra-im, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Ru-bên.

Dọc theo bờ cõi của Ru-bên, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây là phần của Giu-đa.

Dọc theo bờ cõi của Giu-đa, từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây, các ngươi phải trích ra một phần đặc biệt, chiều ngang hai mươi lăm ngàn am-ma, chiều dài từ ranh giới phía đông đến ranh giới phía tây bằng một phần của các bộ tộc; thánh điện sẽ ở giữa phần này.

Phần đặc biệt mà các ngươi dâng cho CHÚA sẽ dài hai mươi lăm ngàn am-ma, rộng mười ngàn am-ma. 10 Đây sẽ là phần trích dâng thánh dành cho các thầy tế lễ; phía bắc dài hai mươi lăm ngàn am-ma, phía tây rộng mười ngàn am-ma, phía đông rộng mười ngàn am-ma, phía nam dài hai mươi lăm ngàn am-ma. Đền thánh của CHÚA sẽ ở giữa phần đất này. 11 Phần này dành cho các thầy tế lễ đã được thánh hóa thuộc dòng dõi Xa-đốc, những người đã trung tín phục vụ Ta, không lầm lạc như những người Lê-vi đã lầm lạc khi dân Y-sơ-ra-ên đi lầm lạc. 12 Họ sẽ có một phần, là phần đất trích ra rất thánh, kế bên ranh giới phần đất của người Lê-vi.

13 Người Lê-vi có phần đất dọc theo ranh giới phần đất của các thầy tế lễ, dài hai mươi lăm ngàn am-ma, rộng mười ngàn am-ma; tức là cả chiều dài hai mươi lăm ngàn am-ma và rộng mười ngàn am-ma. 14 Không một phần nào của phần đất tốt nhất này sẽ được bán, trao đổi hay chuyển nhượng vì đó là đất thánh dâng cho CHÚA.

15 Phần đất còn lại rộng năm ngàn am-ma, dài hai mươi lăm ngàn am-ma, để sử dụng thông thường trong thành phố, làm nhà ở, làm đồng cỏ; thành phố thì ở chính giữa. 16 Kích thước của nó như sau: Phía bắc bốn ngàn năm trăm am-ma, phía nam bốn ngàn năm trăm am-ma, phía đông bốn ngàn năm trăm am-ma và phía tây bốn ngàn năm trăm am-ma. 17 Đồng cỏ của thành phố, phía bắc hai trăm năm mươi am-ma, phía nam hai trăm năm mươi am-ma, phía đông hai trăm năm mươi am-ma và phía tây hai trăm năm mươi am-ma. 18 Phần đất còn lại, chiều ngang giáp ranh với phần đất thánh, phía đông mười ngàn am-ma, phía tây mười ngàn am-ma giáp ranh với phần đất thánh; nông sản của phần đất này dùng làm lương thực cho nhân viên thành phố. 19 Những nhân viên thành phố từ mọi bộ tộc Y-sơ-ra-ên sẽ canh tác phần đất này. 20 Các ngươi phải để ra trọn một phần đất vuông vức mỗi cạnh hai mươi lăm ngàn am-ma làm phần đất thánh cùng với tài sản của thành phố.

21 Phần còn lại dọc hai bên cạnh phần đất thánh và phần tài sản của thành phố sẽ thuộc về hoàng tử. Từ mặt phía đông, dài hai mươi lăm ngàn am-ma, ra đến tận ranh giới phía đông; từ mặt phía tây, dài hai mươi lăm ngàn am-ma, đến ranh giới phía tây, song song với các phần đất của các bộ tộc. Phần đất thánh và đền thánh sẽ ở giữa phần đất ấy. 22 Như thế, sản nghiệp của người Lê-vi và sản nghiệp của thành phố sẽ nằm giữa phần đất của hoàng tử. Phần đất của hoàng tử ở giữa, giáp ranh với phần đất của Giu-đa và Bên-gia-min. 23 Phần còn lại của các bộ tộc: Bên-gia-min một phần từ đông sang tây.

24 Giáp ranh Bên-gia-min, từ đông sang tây, là phần của Si-mê-ôn.

25 Giáp ranh Si-mê-ôn, từ đông sang tây, là phần của Y-sa-ca.

26 Giáp ranh Y-sa-ca, từ đông sang tây, là phần của Sa-bu-luân.

27 Giáp ranh Sa-bu-luân, từ đông sang tây, là phần của Gát.

28 Ranh giới phía nam của Gát chạy về phía nam, từ Tha-ma đến dòng nước Mê-ri-ba ở Ca-đê, dọc theo suối Ai Cập cho đến Biển Lớn.

29 Đây là đất các ngươi sẽ bắt thăm, chia cho các bộ tộc Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp và đó là các phần đất cho chúng nó;” CHÚA tuyên bố.

30 “Đây là các lối ra của thành, cạnh phía bắc, bốn ngàn năm trăm am-ma. 31 Các cổng thành sẽ mang tên các bộ tộc Y-sơ-ra-ên. Ba cổng phía bắc là cổng Ru-bên, cổng Giu-đa và cổng Lê-vi.

32 Cạnh phía đông, bốn ngàn năm trăm am-ma. Ba cổng sẽ là cổng Giô-sép, cổng Bên-gia-min và cổng Đan.

33 Cạnh phía nam, bốn ngàn năm trăm am-ma. Ba cổng sẽ là cổng Si-mê-ôn, cổng Y-sa-ca và cổng Sa-bu-luân.

34 Cạnh phía tây, bốn ngàn năm trăm am-ma. Ba cổng sẽ là cổng Gát, cổng A-se và cổng Nép-ta-li.

35 Chu vi thành sẽ là mười tám ngàn am-ma. Từ nay tên của thành sẽ là:

CHÚA Ở TẠI ĐÓ.”

Đa-ni-ên Và Ba Người Bạn

Năm thứ ba dưới triều vua Giê-hô-gia-kim nước Giu-đa, Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn, đem quân vây thành Giê-ru-sa-lem. CHÚA giao vua Giê-hô-gia-kim, nước Giu-đa, vào tay vua Nê-bu-cát-nết-sa, luôn với một số dụng cụ dùng trong đền thờ Đức Chúa Trời; vua Nê-bu-cát-nết-sa đem những dụng cụ ấy về Si-nê-a,[c] cất trong kho tại miếu thần mình.

Sau đó, vua ra lệnh cho Át-bê-na, trưởng các quan cận thần, chọn một số thanh niên trong vòng hoàng tộc và quý tộc Do-thái, và dạy họ ngôn ngữ và văn học Canh-đê. Các thanh niên này phải đẹp trai, không tật nguyền, khôn ngoan về mọi mặt, có kiến thức, nhanh hiểu, để có thể phục vụ tại triều đình. Vua cũng ra lệnh ban cho họ mỗi ngày thức ăn y như thức ăn dọn cho vua dùng và rượu vua uống. Sau ba năm học tập, họ sẽ được bổ nhiệm vào triều.

Trong số các thanh niên được chọn thuộc bộ tộc Giu-đa có Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria. Nhưng trưởng các quan cận thần đặt tên khác cho họ. Ông gọi Đa-ni-ên là Bên-tơ-sát-xa, Ha-na-nia là Sa-đơ-rắc, Mi-sa-ên là Mê-sác, và A-xa-ria là A-bết Nê-gô.

Đa-ni-ên quyết tâm không để cho mình bị ô uế vì thức ăn và rượu của vua, nên xin trưởng các quan cận thần miễn cho chàng những thứ ấy để chàng khỏi bị ô uế. Đức Chúa Trời khiến cho Đa-ni-ên được lòng trưởng các quan cận thần. 10 Tuy nhiên, ông đáp lời Đa-ni-ên: “Tôi sợ vua. Vua đã chỉ định thức ăn thức uống cho các anh. Nếu vua thấy các anh tiều tụy hơn các thanh niên cùng lứa tuổi, thì chẳng khác nào các anh nộp đầu tôi cho vua.”

11 Nhưng, Đa-ni-ên xin người quản lý được trưởng các quan cận thần giao nhiệm vụ coi sóc Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria: 12 “Xin ông thử nghiệm chúng tôi là tôi tớ ông trong vòng mười ngày, chỉ cho chúng tôi ăn rau và uống nước thôi. 13 Sau đó, xin ông so sánh diện mạo chúng tôi với diện mạo các thanh niên kia, là những người dùng thức ăn của nhà vua. Rồi xin ông đối xử với chúng tôi tùy theo điều ông thấy.” 14 Viên quản lý chấp thuận đề nghị ấy và thử nghiệm Đa-ni-ên và các bạn chàng trong vòng mười ngày.

15 Sau mười ngày, trông họ khỏe mạnh và đầy đặn hơn các thanh niên dùng thức ăn của vua. 16 Vậy viên quản lý tiếp tục cất phần thức ăn và rượu vua cấp cho họ, và chỉ cho họ ăn rau mà thôi.

17 Đức Chúa Trời ban cho bốn thanh niên này khả năng học hỏi, và hiểu biết mọi ngành văn học và khoa học. Ngoài ra, Đức Chúa Trời còn ban cho Đa-ni-ên biết giải nghĩa mọi khải tượng và chiêm bao.

18 Sau thời gian huấn luyện do vua ấn định, trưởng các quan cận thần đem tất cả các thanh niên ấy vào triều bệ kiến vua Nê-bu-cát-nết-sa. 19 Vua khảo hạch họ, và trong toàn nhóm, không ai bằng Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria. Vậy bốn thanh niên này được phục vụ trong triều. 20 Khi vua tham khảo họ về bất cứ vấn đề gì đòi hỏi sự khôn ngoan thông sáng, vua nhận thấy họ giỏi hơn mười lần tất cả các pháp sư và thuật sĩ trong toàn đế quốc.

21 Đa-ni-ên tiếp tục phục vụ trong triều cho đến năm thứ nhất đời vua Si-ru.

Chiêm Bao Thứ Nhất Của Nê-bu-cát-nết-sa

Năm thứ hai triều vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua thấy chiêm bao khiến tinh thần vua bối rối đến nỗi mất ngủ. Vì thế, vua ra lệnh triệu tập các pháp sư, thuật sĩ, thầy phù thủy, và người Canh-đê, để họ thuật lại cho vua nghe chiêm bao của vua. Khi họ đến chầu trước mặt vua, vua phán: “Ta thấy chiêm bao, và tinh thần ta bối rối muốn biết chiêm bao ấy có nghĩa gì.”

Những người Canh-đê tâu bằng tiếng A-ram: “Hoàng đế vạn tuế! Xin bệ hạ thuật lại chiêm bao rồi chúng tôi sẽ giải thích ý nghĩa.”

Vua đáp: “Lệnh ta đã công bố. Nếu các ngươi không thuật lại chiêm bao và giải thích ý nghĩa cho rõ, các ngươi sẽ bị băm nát, nhà cửa các ngươi sẽ thành đống phân.[d] Còn nếu các ngươi cho ta biết chiêm bao và giải thích ý nghĩa, ta sẽ ban thưởng nhiều và vinh dự lớn lao. Vậy các ngươi hãy thuật lại chiêm bao và giải thích ý nghĩa ngay đi!”

Họ lại tâu một lần nữa: “Cúi xin bệ hạ cho bề tôi biết chiêm bao, rồi chúng tôi xin giải thích ý nghĩa.”

Vua đáp: “Bây giờ ta biết rõ các ngươi chỉ tìm cách trì hoãn! Vì các ngươi nhận thấy rằng ta đã quyết: nếu các ngươi không cho ta biết chiêm bao, chỉ có một hình phạt chung cho tất cả các ngươi. Các ngươi đã đồng mưu với nhau đem lời dối trá gạt gẫm ta cho đến khi tình hình thay đổi. Vậy bây giờ hãy thuật chiêm bao cho ta, rồi ta mới biết các ngươi có khả năng giải nghĩa chiêm bao.”

10 Những người Canh-đê tâu: “Không một ai trên thế gian này có khả năng bày tỏ điều bệ hạ yêu cầu. Chưa hề có một vua nào dầu vĩ đại hoặc quyền uy đến đâu, ra lệnh cho bất cứ một pháp sư, thuật sĩ, hoặc người Canh-đê nào làm việc ấy. 11 Việc bệ hạ đòi khó quá, không ai có thể thực hiện được, ngoại trừ các thần linh, nhưng các vị ấy không sống giữa loài người phàm tục.”

12 Nghe vậy, vua nổi giận lôi đình, truyền lệnh xử tử tất cả các nhà thông thái của Ba-by-lôn.

13 Lệnh xử tử các nhà thông thái vừa ban hành, người ta đi tìm Đa-ni-ên và các bạn của chàng để xử tử. 14 Nhưng Đa-ni-ên khôn khéo tiếp xúc với A-ri-óc, chỉ huy trưởng đoàn vệ binh hoàng cung, đang khi ông này trên đường thi hành bản án xử tử các nhà thông thái Ba-by-lôn. 15 Đa-ni-ên hỏi A-ri-óc: “Tại sao đức vua ra lệnh khẩn cấp như vậy?” Sau khi A-ri-óc thuật lại đầu đuôi câu chuyện, 16 Đa-ni-ên liền vào chầu vua, xin vua cho mình thêm một thời hạn nữa để giải nghĩa chiêm bao cho vua.

17 Khi Đa-ni-ên về nhà, trình bày vấn đề cho các bạn Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria biết, 18 và yêu cầu họ nài xin Đức Chúa Trời thương xót bày tỏ điều huyền nhiệm này, để Đa-ni-ên và các bạn của ông không phải chết cùng với các nhà thông thái khác của Ba-by-lôn. 19 Chúa bày tỏ cho Đa-ni-ên biết điều huyền nhiệm ấy trong một khải tượng vào ban đêm. Và Đa-ni-ên ca ngợi Đức Chúa trên trời. 20 Đa-ni-ên nói:

“Chúc tụng danh Đức Chúa Trời đời đời mãi mãi,
    Vì sự khôn ngoan và quyền năng đều thuộc về Ngài!
21 Chính Ngài thay đổi thời kỳ và mùa tiết,
    Phế và lập các vua.
Sự khôn ngoan của người khôn ngoan là do Ngài ban,
    Và tri thức của người thông sáng cũng đến từ Ngài.
22 Chính Ngài bày tỏ những điều sâu xa kín nhiệm,
    Ngài biết mọi sự xảy ra trong tối tăm,
    Và ánh sáng ở với Ngài.
23 Lạy Chúa là Đức Chúa Trời của tổ phụ con, con cảm tạ và ca ngợi Ngài,
    Vì Ngài ban cho con sự khôn ngoan và quyền năng,
Vì bây giờ Ngài đã bày tỏ cho con điều chúng con cầu xin,
    Ngài cho chúng con biết sự việc của vua.”

Đa-ni-ên Giải Chiêm Bao Cho Vua

24 Sau đó, Đa-ni-ên đến gặp quan A-ri-óc, là người vua chỉ định thi hành bản án xử tử các nhà thông thái Ba-by-lôn. Đa-ni-ên thưa với A-ri-óc: “Xin quan đừng xử tử các nhà thông thái Ba-by-lôn. Xin quan đưa tôi vào triều, tôi sẽ tâu đức vua ý nghĩa điềm chiêm bao.”

25 A-ri-óc vội vã đưa Đa-ni-ên vào triều và tâu: “Muôn tâu bệ hạ, tôi vừa tìm được một thanh niên trong vòng các phu tù Giu-đa. Anh ta sẽ tâu trình bệ hạ ý nghĩa điềm chiêm bao.”

26 Vua hỏi Đa-ni-ên, cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa: “Ngươi có thật sự đủ khả năng cho ta biết điềm chiêm bao ta thấy và ý nghĩa của nó không?”

27 Đa-ni-ên tâu: “Tâu bệ hạ, điều huyền nhiệm mà bệ hạ hỏi, thật sự không một nhà thông thái, thuật sĩ, pháp sư, hoặc chiêm tinh nào có khả năng giải thích cho bệ hạ. 28 Tuy nhiên, có Đức Chúa Trời trên trời, Ngài giải bày điều huyền nhiệm. Ngài cho bệ hạ biết việc gì sẽ xảy ra trong những ngày cuối cùng. Đây là chiêm bao, là khải tượng trong tâm trí bệ hạ đang khi bệ hạ ngủ trên giường:

29 Muôn tâu bệ hạ, khi bệ hạ ngủ trên giường, bệ hạ có những tư tưởng về những việc sẽ xảy ra sau này; và Đấng tiết lộ những điều huyền nhiệm đã tỏ cho bệ hạ biết việc gì sẽ xảy ra. 30 Về phần tôi, Đức Chúa Trời đã bày tỏ điều huyền nhiệm này cho tôi không phải vì tôi khôn ngoan hơn người, nhưng để trình bày ý nghĩa chiêm bao cho bệ hạ và giúp bệ hạ thấu hiểu các tư tưởng trong lòng mình.

31 Muôn tâu, bệ hạ đang nhìn, thì kìa, một pho tượng lớn xuất hiện. Pho tượng này đứng trước mặt bệ hạ, khổng lồ và sáng chói lạ thường, nhưng hình thù trông thật kinh khiếp. 32 Đầu tượng bằng vàng ròng, ngực và cánh tay bằng bạc, bụng và đùi bằng đồng, 33 ống chân bằng sắt, bàn chân nửa bằng sắt, nửa bằng đất nung. 34 Khi bệ hạ đang nhìn, thì một tảng đá, không do tay người đục ra, đập vào hai[e] bàn chân nửa bằng sắt nửa bằng đất nung của pho tượng, khiến chúng vỡ tan tành. 35 Ngay lúc đó, sắt, đất nung, đồng, bạc và vàng đều bị nghiền nát như trấu trên sân đạp lúa mùa hè, và bị gió đùa đi mất tăm. Nhưng tảng đá đập nát pho tượng thì biến thành một ngọn núi lớn, đầy dẫy khắp trái đất.

36 Đó là chiêm bao bệ hạ đã thấy. Bây giờ chúng tôi xin trình bày ý nghĩa. 37 Muôn tâu, bệ hạ là vua vĩ đại nhất trong các vua! Chúa trên trời đã ban cho bệ hạ đế quốc, lực lượng, uy quyền, và vinh quang. 38 Ngài ban cho bệ hạ quyền cai trị tất cả mọi loài ở khắp mọi nơi, từ loài người đến thú rừng, đến chim trời. Bệ hạ chính là cái đầu bằng vàng.

39 Theo sau bệ hạ, một đế quốc khác sẽ nổi lên, thua kém đế quốc của bệ hạ, rồi sau đó, một đế quốc thứ ba, bằng đồng, sẽ cai trị cả thế giới. 40 Kế đó, một đế quốc thứ tư mạnh như sắt, vì sắt đập bể và nghiền nát mọi vật. Y như sắt đập tan mọi vật, đế quốc này sẽ đập tan và nghiền nát mọi đế quốc trước. 41 Như bệ hạ đã thấy các bàn chân và ngón chân nửa bằng đất nung của thợ gốm, nửa bằng sắt, đế quốc này sẽ bị phân chia, nhưng vẫn còn phần nào sức mạnh của sắt, vì như bệ hạ thấy sắt pha đất nung. 42 Còn các ngón chân nửa bằng sắt, nửa bằng đất nung, có nghĩa là đế quốc này có phần mạnh cũng có phần giòn. 43 Như bệ hạ thấy sắt pha đất nung, các dân trong đế quốc sẽ sống lẫn lộn[f] với nhau, nhưng vẫn không kết hợp được, y như sắt không thể nào kết dính với đất nung.

44 Trong đời các vua ấy, Chúa trên trời sẽ thiết lập một vương quốc đời đời không bao giờ sụp đổ, và không hề bị một dân tộc nào khác tước đoạt chủ quyền. Vương quốc này sẽ nghiền nát và tiêu diệt tất cả các vương quốc khác trong khi chính nó sẽ trường tồn mãi mãi, 45 y như bệ hạ thấy tảng đá không do tay người đục ra từ ngọn núi và nghiền nát sắt, đồng, đất nung, bạc và vàng. Đức Chúa Trời vĩ đại đã bày tỏ cho bệ hạ biết điều gì sẽ xảy ra sau này. Tôi đã thuật chiêm bao đúng như bệ hạ thấy, và lời giải hoàn toàn đáng tin cậy.”

Vua Thăng Chức Cho Đa-ni-ên

46 Ngay sau đó, vua Nê-bu-cát-nết-sa sấp mặt xuống đất, lạy Đa-ni-ên, và ra lệnh đem lễ vật và trầm hương tặng cho Đa-ni-ên. 47 Vua tuyên bố: “Đức Chúa Trời của ngươi thật là thần vĩ đại nhất trong các thần, là Chúa Tể trên các vua, là Đấng tiết lộ điều huyền nhiệm, vì Ngài đã ban cho ngươi khả năng giải bày điều huyền nhiệm này.”

48 Vua thăng chức cho Đa-ni-ên và ban cho chàng nhiều tặng phẩm quý giá. Vua giao cho Đa-ni-ên cai trị toàn tỉnh Ba-by-lôn và cử chàng làm tham mưu trưởng lãnh đạo tất cả các nhà thông thái Ba-by-lôn. 49 Theo lời thỉnh cầu của Đa-ni-ên, vua bổ nhiệm Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô quản lý hành chính tỉnh Ba-by-lôn, còn Đa-ni-ên phục vụ tại triều.

Ba Bạn Của Đa-ni-ên Gặp Thử Thách

Vua Nê-bu-cát-nết-sa truyền đúc một pho tượng vàng, cao 60 am-ma, ngang 6 am-ma,[g] và dựng tượng trong đồng bằng Đu-ra, thuộc tỉnh Ba-by-lôn. Vua ra lệnh triệu tập các tổng trấn, các quan tham mưu, và các tỉnh trưởng, cùng các cố vấn, các giám đốc ngân khố, các thẩm phán, các cảnh sát trưởng, và tất cả các quan chức khác trong tỉnh để cử hành lễ khánh thành pho tượng mà vua đã truyền dựng lên.

Khi tất cả các quan chức[h] tụ về dự lễ khánh thành đứng trước pho tượng, quan chủ lễ lớn tiếng thông báo: “Đức vua truyền lệnh cho mọi người thuộc mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ. Ngay khi các ngươi nghe tiếng kèn, sáo, đàn lia, đàn tam giác, đàn hạc, trống, và tất cả các nhạc khí khác thổi lên, các ngươi phải sấp mình xuống đất thờ lạy pho tượng vàng đức vua đã truyền dựng lên. Người nào không sấp mình xuống thờ lạy pho tượng lập tức sẽ bị quăng vào lò lửa cháy phừng phừng.”

Vì thế, ngay khi nghe tiếng kèn, sáo, đàn lia, đàn tam giác, đàn hạc, và tất cả các nhạc khí khác trổi lên, tất cả mọi người thuộc mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ đều sấp mình xuống thờ lạy pho tượng vàng vua Nê-bu-cát-nết-sa đã truyền dựng lên.

Ba Bạn Đa-ni-ên Bị Tố Cáo

Lúc ấy, một số người Canh-đê thừa cơ ra mặt tố cáo người Giu-đa. Họ tâu vua Nê-bu-cát-nết-sa: “Bệ hạ vạn tuế! 10 Muôn tâu, bệ hạ đã ra lệnh cho mọi người khi nghe tiếng kèn, sáo, đàn lia, đàn tam giác, đàn hạc, trống và tất cả các loại nhạc khí khác, phải sấp mình xuống thờ lạy pho tượng vàng; 11 còn người nào không sấp mình xuống thờ lạy pho tượng sẽ bị quăng vào lò lửa cháy phừng phừng. 12 Mấy người Giu-đa được bệ hạ phong làm quản lý hành chính tỉnh Ba-by-lôn là Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô đã phạm tội khi quân. Chúng không thờ các thần của bệ hạ, cũng không quỳ lạy pho tượng vàng bệ hạ cho dựng lên.”

13 Bấy giờ vua Nê-bu-cát-nết-sa nổi giận, ra lệnh điệu Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô đến. Vừa khi điệu đến, 14 vua tra hỏi: “Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô, có phải thật sự các ngươi không thờ thần ta, cũng không quỳ lạy pho tượng vàng ta đã dựng lên không? 15 Bây giờ, khi nghe tiếng kèn, sáo, đàn lia, đàn tam giác, đàn hạc, trống và tất cả các loại nhạc khí khác, các ngươi có sẵn sàng sấp mình xuống thờ lạy pho tượng vàng ta truyền đúc nên không? Nếu các ngươi không chịu lạy pho tượng, các ngươi sẽ bị quăng ngay lập tức vào lò lửa cháy phừng phừng. Thế thì thần nào có thể giải cứu các ngươi khỏi tay ta?”

16 Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô đáp: “Muôn tâu bệ hạ, chúng tôi không cần phải biện minh về vấn đề này. 17 Nếu sự việc như vậy thì Đức Chúa Trời mà chúng tôi đang phục vụ có khả năng để giải cứu chúng tôi khỏi lò lửa cháy phừng phừng và Ngài sẽ giải cứu chúng tôi khỏi tay bệ hạ. 18 Còn nếu như Ngài không giải cứu chúng tôi, xin bệ hạ biết chắc rằng chúng tôi vẫn không thờ các thần của bệ hạ, cũng không quỳ lạy pho tượng vàng bệ hạ đã cho dựng lên.” 19 Đến đây, vua Nê-bu-cát-nết-sa đầy giận dữ biến sắc mặt đối với Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô. Vua ra lệnh đốt lò lửa nóng hơn bình thường gấp bảy lần, 20 và truyền cho các binh sĩ mạnh nhất trong quân đội trói chặt Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô, quăng vào lò lửa cháy phừng phừng. 21 Vậy ba người này bị trói với đầy đủ quần, áo, khăn xếp, và các thứ y phục khác trên mình, và quăng vào lò lửa đang cháy phừng phừng. 22 Vì lệnh vua quá gấp, và lò nóng quá độ, nên luồng lửa phực lên thiêu chết các binh sĩ khi khiêng Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô quăng vào lò; 23 còn ba người này, Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô, vẫn bị trói, rơi vào lò lửa cháy phừng phừng.

Ba Bạn Đa-ni-ên Được Giải Cứu

24 Vua Nê-bu-cát-nết-sa bỗng sửng sốt đứng phắt dậy, hỏi các quần thần: “Có phải chúng ta quăng ba người bị trói vào lò lửa hay không?” Quần thần thưa: “Muôn tâu bệ hạ, đúng như vậy.” 25 Vua bảo: “Nhưng ta thấy bốn người không bị trói đi lại giữa lò lửa hực, không ai bị cháy cả, và hình dáng người thứ tư giống như con trai của các thần.” 26 Rồi vua Nê-bu-cát-nết-sa tiến đến gần cửa lò đang cháy phừng phừng, gọi vọng vào: “Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô, đầy tớ của Thần Tối Cao, hãy ra đây!”

Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô liền bước ra khỏi lò lửa. 27 Các tổng trấn, các quan tham mưu, các tỉnh trưởng, và các quần thần xúm lại chung quanh ba người này và nhận thấy lửa không có quyền gì trên cơ thể họ cả. Tóc trên đầu họ không sém, quần áo họ không nám, ngay cả mùi khói cũng không dính vào người họ.

28 Vua Nê-bu-cát-nết-sa tuyên bố: “Ngợi khen Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô! Ngài đã sai thiên sứ Ngài giải cứu đầy tớ Ngài, là những người tin cậy Ngài, thà bất tuân lệnh vua, hy sinh tính mạng hơn là cúng thờ quỳ lạy thần nào khác ngoài Đức Chúa Trời của họ. 29 Vì thế, ta ban hành nghị định này cho mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ: bất cứ người nào xúc phạm đến Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết Nê-gô thì sẽ bị băm nát, và nhà cửa của họ sẽ thành đống phân. Vì không có thần nào khác có khả năng giải cứu như vậy.”

30 Sau đó, vua thăng chức cho Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết Nê-gô trong tỉnh Ba-by-lôn.

Chiêm Bao Thứ Nhì Của Vua Nê-bu-cát-nết-sa

Vua Nê-bu-cát-nết-sa gởi cho mọi người, thuộc mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ khắp thế giới:

“Chúc các ngươi an khang thịnh vượng! Ta vui mừng công bố cho các ngươi biết các phép lạ và việc kỳ diệu mà Đức Chúa Trời Tối Cao đã làm cho ta.

Ôi, phép lạ của Ngài thật vĩ đại,
    Việc kỳ diệu Ngài làm đầy quyền uy!
Ngài là vua đời đời,
    Cai trị mãi mãi!

Ta, Nê-bu-cát-nết-sa, đang sống an nhàn vui thỏa trong cung điện ta. Bỗng, đang khi ngủ trên giường, ta thấy chiêm bao làm ta sợ hãi, và những hình ảnh ta thấy trong tâm trí khiến ta kinh hoàng. Vậy ta ra lệnh triệu tập tất cả các nhà thông thái Ba-by-lôn để giải thích chiêm bao cho ta rõ. Khi các pháp sư, thuật sĩ, người Canh-đê, và các nhà chiêm tinh vào chầu, ta thuật chiêm bao cho họ nghe, nhưng không ai giải được ý nghĩa chiêm bao cả. Cuối cùng, Đa-ni-ên vào chầu ta. Người này đã được đổi tên là Bên-tơ-sát-xa, theo danh hiệu của thần ta. Linh của các vị thần thánh khiết ngự trong người. Ta thuật lại chiêm bao cho người:

Này, Bên-tơ-sát-xa, trưởng đoàn pháp sư. Vì ta biết linh của các vị thần thánh khiết ngự trong ngươi, và không có điều huyền nhiệm nào khó quá cho ngươi, nên hãy nghe chiêm bao ta thấy và giải thích ý nghĩa cho ta rõ. 10 Đây là khải tượng ta nhìn thấy đang khi ngủ trên giường: Kìa, một cây rất cao mọc lên ở trung tâm của đất. 11 Cây lớn mạnh, đến nỗi ngọn vươn lên tận trời, và mọi nơi trên khắp cả đất đều trông thấy. 12 Lá cây sum sê, cây sai trái đến nỗi cung cấp thức ăn cho mọi loài; thú rừng núp dưới bóng cây, chim trời làm tổ trên cành và mọi loài sinh vật đều nhờ cây nuôi sống.

13 Đang khi ngủ trên giường, ta thấy, trong khải tượng, một thiên sứ từ trời ngự xuống. 14 Thiên sứ lớn tiếng ra lệnh: ‘Hãy đốn cây này đi, chặt hết các cành; ngắt trụi lá, rải trái ra khắp nơi. Hãy làm cho thú rừng núp dưới bóng cây bỏ chạy, và chim trời bay xa khỏi cành. 15 Nhưng hãy chừa lại gốc cây và rễ dưới lòng đất; xiềng gốc cây lại bằng xiềng sắt và đồng, giữa cánh đồng cỏ. Hãy để cho nó dầm thấm sương móc từ trời, và cùng ăn cỏ với thú ngoài đồng. 16 Hãy cất lòng người khỏi nó, và cho nó lòng thú vật, suốt bảy năm.’

17 Quyết định này do các thiên sứ truyền lại, bản án này do các bậc thánh rao ra, để mọi người biết rõ rằng Đấng Tối Cao cầm quyền trên mọi nước, Ngài muốn giao quyền thống trị cho ai tùy ý Ngài, Ngài có thể đem người ở địa vị thấp nhất lên cai trị.

18 Ta, vua Nê-bu-cát-nết-sa, đã thấy chiêm bao ấy. Vậy bây giờ, ngươi, Bên-tơ-sát-xa, hãy giải nghĩa cho ta. Tất cả các nhà thông thái trong vương quốc ta đều không thể giải ý nghĩa cho ta rõ, nhưng ngươi có khả năng làm điều ấy, vì linh của các vị thần thánh khiết ngự trong ngươi.”

Ý Nghĩa Chiêm Bao

19 Bấy giờ Đa-ni-ên, cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa, kinh hoàng vì ý nghĩa của chiêm bao,[i] sững người trong chốc lát. Vua bảo: “Bên-tơ-sát-xa, đừng để chiêm bao và ý nghĩa của nó làm cho ngươi kinh hãi.”

Bên-tơ-sát-xa thưa: “Muôn tâu bệ hạ, ước gì chiêm bao này ứng cho người nào nghịch lại bệ hạ, và ý nghĩa của nó dành cho kẻ thù của bệ hạ! 20 Bệ hạ thấy một cây lớn mạnh, đến nỗi ngọn vươn lên tận trời, khắp đất đều trông thấy; 21 lá cây sum sê, cây sai trái đến nỗi cung cấp thức ăn cho mọi loài; thú rừng sống dưới bóng cây, và chim trời làm tổ trên cành. 22 Muôn tâu, bệ hạ chính là cây đó. Bệ hạ đã trở nên vĩ đại và cường thịnh. Sự vĩ đại của bệ hạ vươn lên tận trời, và uy quyền bệ hạ bao trùm khắp đất.

23 Bệ hạ cũng thấy thiên sứ từ trời ngự xuống ra lệnh: ‘Hãy đốn cây này đi, hủy diệt nó, nhưng hãy chừa lại gốc và rễ trong lòng đất. Xiềng gốc cây lại bằng xiềng sắt và đồng, giữa đồng cỏ. Hãy để nó dầm thấm sương móc từ trời, cho nó ăn cỏ với loài thú ngoài đồng suốt trọn bảy năm.’

24 Tâu bệ hạ, đây là ý nghĩa của điềm chiêm bao. Đấng Tối Cao đã truyền lệnh này về bệ hạ: 25 bệ hạ sẽ bị đuổi ra khỏi xã hội loài người, và sống với thú rừng; bệ hạ sẽ ăn cỏ như bò và dầm thấm sương móc từ trời suốt trọn bảy năm, cho đến khi bệ hạ nhận biết rõ rằng Đấng Tối Cao cầm quyền trên mọi quốc gia, và Ngài muốn giao quyền thống trị cho ai tùy ý Ngài. 26 Lệnh truyền chừa lại gốc và rễ cây có nghĩa là vương quốc của bệ hạ sẽ được giao lại cho bệ hạ khi bệ hạ nhận thức rằng Đức Chúa Trời trên trời tể trị mọi loài.

27 Vì thế, tâu bệ hạ, nguyền xin lời khuyên của tôi đẹp lòng bệ hạ. Xin bệ hạ cự tuyệt tội lỗi bằng cách làm việc lành, và cự tuyệt sự độc ác bằng cách đối xử nhân từ với người bị đàn áp; may ra sự bình an thịnh vượng của bệ hạ có thể kéo dài thêm.”

28 Mọi việc ấy đều xảy ra cho vua Nê-bu-cát-nết-sa. 29 Một năm sau, đang khi dạo chơi trên sân thượng hoàng cung tại Ba-by-lôn, 30 vua tuyên bố: “Kìa, xem Ba-by-lôn vĩ đại dường nào! Há chẳng phải chính ta đã xây thủ đô này với sức mạnh và quyền năng của ta, làm nơi ta ngự, để bày tỏ sự vinh hiển và uy quyền của ta sao?”

31 Vua chưa dứt lời, bỗng có tiếng phán từ trời: “Vua Nê-bu-cát-nết-sa, đây là điều được tuyên bố cho ngươi: vương quyền của ngươi đã bị tước bỏ. 32 Ngươi sẽ bị đuổi ra khỏi xã hội loài người, sống với thú rừng, và ăn cỏ như bò suốt trọn bảy năm, cho đến khi ngươi nhận biết rằng Đấng Tối Cao cầm quyền trên mọi quốc gia, và Ngài muốn giao quyền thống trị cho ai tùy ý Ngài.”

33 Ngay giờ đó, lời phán được ứng nghiệm. Vua Nê-bu-cát-nết-sa bị đuổi ra khỏi xã hội loài người; vua ăn cỏ như bò; thân thể vua dầm thấm sương móc từ trời, trong khi tóc vua mọc dài như lông chim đại bàng, và móng tay móng chân vua dài quặp lại như móng chim.

34 “Đến cuối thời hạn đó, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ngước mắt lên trời: trí khôn ta bình phục, ta chúc tụng Đấng Tối Cao, ca ngợi và tôn vinh Đấng sống đời đời.

Ngài tể trị mãi mãi,
    Vương quốc Ngài tồn tại đời đời.
35 Trước mặt Ngài, mọi người sống trên đất đều không ra gì,
Ngài thi hành ý muốn Ngài đối với đạo binh trên trời
    Cũng như loài người dưới đất.
Không ai có quyền ngăn chặn ý muốn Ngài,
    Hoặc chất vấn việc Ngài làm.

36 Ngay khi trí khôn ta bình phục, ta nhận lại quyền uy rực rỡ và sự vinh hiển của vương quốc ta. Các bậc cố vấn và quyền thế của ta ngày trước mời ta về trao trả ngai vàng cho ta, và ta trở nên sang trọng hơn trước nhiều. 37 Vì thế cho nên, bây giờ, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ca ngợi, tán dương, và tôn vinh vua trời: mọi việc Ngài làm đều ngay thẳng, đường lối Ngài đều công bình; Ngài có quyền hạ thấp người nào sống kiêu căng.”

Yến Tiệc Của Vua Bên-sát-xa

Vua Bên-sát-xa tổ chức yến tiệc linh đình đãi một ngàn đại thần. Vua mời họ uống rượu. Vừa nếm rượu, vua Bên-sát-xa truyền lệnh đem cốc chén bằng vàng và bạc mà vua cha Nê-bu-cát-nết-sa đã mang về từ đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, để vua cùng các đại thần, các hoàng hậu, và các cung phi dùng uống rượu. Vậy khi cốc chén vàng mang về từ đền thờ, tức là nhà của Đức Chúa Trời, được dọn ra, vua cùng các đại thần, hoàng hậu, và cung phi dùng cốc chén ấy uống rượu. Họ vừa uống rượu, vừa tán tụng các thần tượng bằng vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ và đá.

Ngay lúc ấy, những ngón tay của một bàn tay người xuất hiện và viết trên vách tường quét vôi của hoàng cung, đối ngang trụ đèn. Khi vua nhìn thấy phần bàn tay đang viết, mặt vua biến sắc, vua kinh hoảng, xương cốt vua rã rời, hai đầu gối run lập cập.

Vua lớn tiếng ra lệnh triệu tập các thuật sĩ, người Canh-đê, và các nhà chiêm tinh. Vua phán với các nhà thông thái này của xứ Ba-by-lôn: “Ai đọc được hàng chữ này và giải nghĩa cho ta rõ, ta sẽ cho mặc cẩm bào màu tía, đeo dây chuyền vàng vào cổ, và người ấy sẽ là người thứ ba trong bộ ba thống trị vương quốc.”

Tuy nhiên, dù tất cả các nhà thông thái của vua đều tập họp lại, không một ai đọc được hàng chữ để giải nghĩa cho vua rõ. Vì thế, vua Bên-sát-xa càng thêm hoảng sợ, mặt vua tái xanh, trong khi các đại thần sững sờ.

10 Nghe tiếng vua và các đại thần xôn xao, bà thái hậu bước vào phòng tiệc. Bà lên tiếng: “Chúc vua vạn tuế! Xin vua đừng hoảng sợ, cũng đừng biến sắc. 11 Trong vương quốc của vua có một người được linh của các vị thần thánh khiết ngự trong mình. Dưới đời vua cha, người này tỏ ra sáng suốt, thông hiểu, và khôn ngoan, ví như sự khôn ngoan của các thần, cho nên vua cha là vua Nê-bu-cát-nết-sa đã phong người làm trưởng các pháp sư, thuật sĩ, người Canh-đê, và các nhà chiêm tinh. 12 Vì người, tức là Đa-ni-ên, mà vua cha đổi tên là Bên-tơ-sát-xa, có tài trí vượt bậc, tri thức và sự thông hiểu để giải nghĩa chiêm bao, giải thích những điều huyền nhiệm, và giải quyết các vấn đề khúc mắc, nên xin vua truyền gọi Đa-ni-ên đến để ông ấy giải nghĩa cho vua rõ.”

Đa-ni-ên Giải Nghĩa Hàng Chữ Viết Trên Tường

13 Vậy Đa-ni-ên được mời vào chầu vua. Vua bảo Đa-ni-ên: “Có phải ngươi là Đa-ni-ên, thuộc nhóm phu tù Giu-đa mà vua cha ta đã giải về từ Giu-đa không? 14 Ta nghe nói linh của các thần ngự trong ngươi, và ngươi có sự sáng suốt, thông hiểu và khôn ngoan vượt bậc. 15 Các nhà thông thái, các pháp sư, được triệu đến để đọc hàng chữ viết này và giải nghĩa cho ta rõ, nhưng không ai giải nghĩa được cả. 16 Nhưng ta có nghe nói về ngươi, rằng ngươi có khả năng giải thích chiêm bao, và giải quyết các vấn đề khúc mắc. Vậy nếu ngươi đọc được hàng chữ viết này và giải nghĩa cho ta rõ, ta sẽ cho ngươi mặc cẩm bào màu tía, đeo dây chuyền vàng vào cổ, và ngươi sẽ là người thứ ba trong bộ ba thống trị vương quốc.”

17 Bây giờ Đa-ni-ên tâu với vua: “Kính xin bệ hạ giữ lại phần thưởng hoặc trao cho người khác. Tuy nhiên tôi xin đọc hàng chữ viết và giải nghĩa cho vua rõ.

18 Muôn tâu bệ hạ, Đức Chúa Trời Tối Cao đã ban cho vua cha bệ hạ là vua Nê-bu-cát-nết-sa vương quốc cùng với uy quyền vĩ đại, vinh dự, và oai phong. 19 Chính vì uy quyền vĩ đại Đức Chúa Trời ban cho vua cha mà mọi người thuộc mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ đều run sợ. Vua muốn giết ai hoặc cho ai sống, tùy ý. Vua muốn nâng ai lên hoặc hạ ai xuống, tùy ý. 20 Nhưng khi vua cứng lòng tự tôn mình lên, vua bị truất ngôi và tước hết vinh dự. 21 Vua bị đuổi ra khỏi xã hội loài người, tâm trí vua trở nên như tâm trí loài thú, vua sống với lừa rừng, ăn cỏ như bò, và thân thể vua dầm thấm sương móc từ trời, cho đến khi vua nhận biết rằng Đức Chúa Trời Tối Cao tể trị vương quốc loài người, và Ngài giao quyền thống trị cho ai tùy ý Ngài.

22 Nhưng bệ hạ là con vua cha, dù bệ hạ đã biết tất cả những điều ấy, bệ hạ vẫn không chịu hạ mình. 23 Nhưng bệ hạ lại tự tôn mình lên chống nghịch CHÚA trên trời, rồi bệ hạ cùng các đại thần, hoàng hậu, và cung phi dùng cốc chén ấy uống rượu. Bệ hạ tán tụng các thần bằng bạc, vàng, đồng, sắt, gỗ và đá, là các thần không thấy, không nghe, không hiểu, trong khi Đức Chúa Trời, là Đấng nắm trong tay Ngài hơi thở và các lối đi nước bước của bệ hạ, bệ hạ lại không tôn vinh. 24 Vì thế, chính Ngài đã sai phần bàn tay viết này viết những lời ấy.

25 Hàng chữ viết thế này:

MÊ-NÊ, MÊ-NÊ, TÊ-KEN, VÀ PHÁC-SIN.[j]
26 Và đây là ý nghĩa hàng chữ.
    Mê-nê, nghĩa là Đức Chúa Trời đã đếm và chấm dứt số ngày vua trị vì.
27     Tê-ken, nghĩa là vua đã bị cân trên bàn cân, và thấy là thiếu kém.
28     Phê-rết, nghĩa là vương quốc vua bị chia đôi và giao cho các dân Mê-đi và Ba-tư.”

29 Vua Bên-sát-xa tức khắc truyền lệnh mặc cẩm bào màu tía cho Đa-ni-ên, đeo dây chuyền vàng vào cổ, và thông báo ông được tấn phong ngôi thứ ba trong bộ ba thống trị vương quốc.

30 Ngay đêm ấy, Bên-sát-xa, vua dân Canh-đê, bị giết chết.

31 Và Đa-ri-út, người Mê-đi chiếm ngôi vua ở tuổi khoảng sáu mươi hai.

Đa-ni-ên Trong Hầm Sư Tử

Vua Đa-ri-út quyết định bổ nhiệm một trăm hai mươi tổng trấn cai trị toàn vương quốc dưới quyền ba thượng thư, trong đó có Đa-ni-ên. Các tổng trấn phải phúc trình mọi việc cho ba vị này để nhà vua khỏi bị thiệt hại. Nhưng Đa-ni-ên vượt hẳn các thượng thư và tổng trấn kia, nhờ có tâm trí siêu phàm, nên vua dự định giao cho ông trông coi toàn vương quốc. Do đó, các thuợng thư và tổng trấn cố tìm cớ để tố cáo Đa-ni-ên trong vấn đề quản lý việc nước, nhưng họ không tìm được cớ hoặc lỗi lầm nào, vì Đa-ni-ên vốn là người trung tín, không hề sơ suất hoặc mắc phải lỗi gì. Vậy những người này nói với nhau: “Chúng ta sẽ chẳng tìm được cớ nào để buộc tội tên Đa-ni-ên này; ngoại trừ lý do liên quan đến tôn giáo của nó.”

Sau khi bàn mưu định kế, các thượng thư và tổng trấn này kéo đến chầu vua và tâu: “Chúc bệ hạ vạn tuế! Tất cả các thượng thư, quan tham mưu, tổng trấn, quần thần và tỉnh trưởng đều nhất trí kính xin bệ hạ ban hành sắc chỉ nghiêm cấm bất cứ ai cầu xin một thần nào hay người nào ngoài bệ hạ, trong vòng ba mươi ngày; người nào vi phạm sắc chỉ cấm ấy sẽ bị quăng xuống hầm sư tử. Kính xin bệ hạ lập sắc chỉ đó và ký tên vào, để sắc chỉ này trở thành bất di bất dịch như các luật không thể hủy bỏ khác của dân Mê-đi và Ba-tư.” Thế là vua Đa-ri-út ký sắc chỉ.

10 Sau khi Đa-ni-ên nghe tin vua đã ký sắc chỉ, ông về nhà, lên một phòng trên cao, nơi có cửa sổ mở hướng về thành Giê-ru-sa-lem, quỳ gối cầu nguyện và ca ngợi Đức Chúa Trời của ông, như ông vẫn thường làm lâu nay, mỗi ngày ba lần. 11 Bấy giờ những người ấy hẹn nhau kéo đến và bắt gặp Đa-ni-ên đang khẩn thiết cầu nguyện với Đức Chúa Trời mình. 12 Họ liền vào triều nhắc lại lệnh cấm của vua: “Muôn tâu bệ hạ, có phải bệ hạ đã ký sắc chỉ cấm bất cứ ai cầu xin một thần nào hoặc người nào ngoài bệ hạ, trong vòng ba mươi ngày, và người nào vi phạm sẽ bị quăng xuống hầm sư tử không?”

Vua đáp: “Đúng, sắc chỉ đó tuyệt đối không thể hủy bỏ, y như các luật khác của dân Mê-đi và Ba-tư.”

13 Bấy giờ họ thưa với vua: “Muôn tâu bệ hạ, trong nhóm dân lưu đày Giu-đa, có Đa-ni-ên là người chẳng hề tôn trọng bệ hạ hoặc sắc chỉ cấm bệ hạ đã ký, nhưng cứ tiếp tục cầu nguyện với thần mình mỗi ngày ba lần.”

14 Nghe những lời ấy, vua rất đau lòng. Vua quyết tâm cứu Đa-ni-ên nhưng cố gắng mãi đến khi mặt trời lặn vẫn chưa tìm được cách nào.

15 Bấy giờ những người kia lại họp nhau đến chầu vua: “Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ biết rằng chiếu theo luật của dân Mê-đi và Ba-tư, mọi lệnh cấm và sắc chỉ nhà vua ban hành đều bất di bất dịch.”

16 Vì thế, vua đành hạ lệnh triệu Đa-ni-ên đến để quăng xuống hầm sư tử. Vua bảo Đa-ni-ên: “Vị thần mà ngươi luôn luôn phụng sự, chính vị ấy sẽ giải cứu ngươi.”

17 Người ta đem một tảng đá tới đặt trên miệng hầm. Vua đóng ấn của mình và ấn của các đại thần niêm phong tảng đá để không còn thay đổi gì được nữa về số phận của Đa-ni-ên. 18 Sau đó, vua về cung. Vua thức trắng đêm, không ăn gì hết, cũng không chịu dùng một hình thức giải khuây[k] nào.

Đức Chúa Trời Giải Cứu Đa-ni-ên

19 Vừa lúc rạng đông, vua trỗi dậy, vội vàng đi đến hầm sư tử. 20 Đến gần miệng hầm, vua đau xót gọi: “Đa-ni-ên, tôi tớ của Thần Hằng Sống, vị thần mà ngươi luôn luôn phụng sự có cứu ngươi khỏi hàm sư tử được không?”

21 Đa-ni-ên đáp: “Chúc bệ hạ vạn tuế! 22 Đức Chúa Trời mà tôi phụng sự đã sai thiên sứ Ngài khóa hàm sư tử nên chúng không hại tôi được, vì Ngài đã xét thấy tôi vô tội. Đối với bệ hạ cũng vậy, tôi không hề làm điều sai quấy.”

23 Bấy giờ vua mừng rỡ quá đỗi, truyền kéo Đa-ni-ên lên khỏi hầm. Khi Đa-ni-ên được kéo lên khỏi hầm, không có dấu vết thương tích gì trên người cả, vì ông tin cậy Đức Chúa Trời mình.

24 Rồi vua truyền điệu những người đã vu cáo Đa-ni-ên đến cùng với vợ con họ, và quăng tất cả xuống hầm sư tử. Khi chưa chạm tới đáy hầm họ đã bị sư tử vồ lấy ăn nghiến cả xương.

25 Bấy giờ vua Đa-ri-út gởi thông điệp cho mọi người thuộc mọi quốc gia, dân tộc, và ngôn ngữ ở khắp mọi nơi trên đất:

“Chúc các ngươi an khang thịnh vượng!

26 Ta truyền cho mọi người trên toàn lãnh thổ vương quốc ta phải tôn thờ và kính sợ Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên.

Vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống,
    Ngài tồn tại mãi mãi;
Vương quốc Ngài chẳng hề suy vong,
    Quyền thống trị của Ngài chẳng hề dứt.
27 Ngài cứu sống và giải thoát,
    Ngài thực hiện phép lạ nhiệm màu
    Trên trời và dưới đất,
Ngài cứu sống Đa-ni-ên khỏi nanh vuốt sư tử.”

28 Vậy Đa-ni-ên được trọng dụng và ưu đãi dưới triều vua Đa-ri-út và dưới triều Si-ru, người Ba-tư.

Các Khải Tượng Của Đa-ni-ên: Khải Tượng Thứ Nhất: Bốn Con Thú

Vào năm thứ nhất triều vua Bên-sát-xa, xứ Ba-by-lôn, Đa-ni-ên nằm chiêm bao. Ông thấy khải tượng trong tâm trí đang khi nằm ngủ trên giường. Sau đó, ông ghi lại chiêm bao ấy thuật lại những điều chính yếu.

Đa-ni-ên kể: “Trong khải tượng ban đêm, tôi thấy gió bốn phương trời khuấy động biển lớn. Bốn con thú khổng lồ từ biển lên, mỗi con mỗi khác.

Con thú thứ nhất giống như sư tử, nhưng lại mang cánh giống như cánh đại bàng. Tôi còn đang nhìn thì cánh nó bị bẻ gẫy, nó được nhấc lên khỏi mặt đất và đặt đứng trên hai chân như người. Rồi nó được ban cho tâm trí loài người.

Và này, một con thú khác, con thứ hai, giống như con gấu. Một bên thân nó được nhấc cao lên.[l] Miệng nó ngậm ba chiếc xương sườn giữa hai hàm răng. Có tiếng bảo nó: ‘Đứng lên, ăn thịt cho nhiều!’

Sau đó, tôi đang nhìn, thì kìa, một con thú khác, giống như con beo, nhưng lại mang bốn cánh giống như cánh chim trên lưng. Nó có bốn đầu và được quyền thống trị.

Sau đó, vẫn trong khải tượng ban đêm, tôi tiếp tục nhìn, thì kìa, một con thú thứ tư trông khủng khiếp, ghê rợn, và mạnh mẽ phi thường. Nó có răng to, bằng sắt. Nó nuốt, nó nghiền, rồi dùng chân chà nát phần còn sót lại. Nó khác hẳn tất cả các con thú trước. Nó có đến mười sừng.

Tôi đang chăm chú nhìn các sừng ấy, thì kìa, một cái sừng khác, nhỏ hơn, mọc lên giữa các sừng kia, khiến cho ba trong các sừng trước bị nhổ bật gốc. Sừng nhỏ này có nhiều mắt giống như mắt người, và miệng khoe khoang xấc xược.

Đấng Thái Cổ

Tôi nhìn thấy
Các ngai được xếp đặt,
    Đấng Thái Cổ an tọa.
Áo Ngài trắng như tuyết,
    Tóc trên đầu Ngài như lông cừu tinh sạch.
Ngai của Ngài giống như ngọn lửa,
    Bánh xe của Ngài như lửa cháy hừng.
10 Một sông lửa phát xuất từ nơi ngai
    Cuồn cuộn chảy ra.
Ngàn ngàn hầu hạ Ngài,
    Vạn vạn phục vụ Ngài.
Tòa bắt đầu phiên xử,
    Các sách đều mở ra.

11 Bấy giờ, khi tôi đang nhìn, tôi nghe tiếng cái sừng nói lời ngạo mạn. Tôi tiếp tục nhìn khi con thú bị giết, thây nó bị hủy diệt, phó cho lửa thiêu đốt. 12 Những con thú còn lại bị tước quyền thống trị, nhưng đời chúng được kéo dài thêm một thời và một kỳ.

13 Trong khải tượng ban đêm, tôi nhìn thấy một vị hình dáng như con người ngự đến với mây trời. Người tiến lại gần, và được đưa vào trình Đấng Thái Cổ. 14 Ngài trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương quốc. Mọi người thuộc mọi quốc gia, dân tộc và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người còn đời đời, chẳng hề chuyển dịch; vương quốc Người chẳng hề suy vong.

Giải Thích Khải Tượng

15 Về phần tôi, Đa-ni-ên, tâm thần tôi xao xuyến về những điều ấy,[m] những khải tượng trong đầu làm tôi kinh hoàng. 16 Vậy tôi đến gần một trong những vị đứng hầu tại đấy và hỏi xem tất cả những điều ấy thật sự có nghĩa gì.

Người giải thích cho tôi biết ý nghĩa những việc ấy: 17 ‘Bốn con thú khổng lồ ấy là bốn vua nổi lên cầm quyền trên đất. 18 Nhưng rồi dân thánh của Đấng Tối Cao sẽ nhận lãnh vương quốc và nắm giữ vương quyền đời đời mãi mãi.’

19 Bấy giờ tôi muốn biết con thú thứ tư thật sự có ý nghĩa gì. Nó khác hẳn tất cả các con thú kia. Trông nó khủng khiếp vô cùng, với răng bằng sắt và vuốt bằng đồng. Nó nuốt, nó nghiền nát, rồi dùng chân chà đạp phần còn sót lại. 20 Tôi cũng muốn biết thêm về mười cái sừng trên đầu con thú và về cái sừng kia khi mọc lên khiến cho ba cái sừng trước phải ngã. Sừng này có nhiều mắt và miệng khoe khoang xấc xược. Trông nó oai vệ hơn các sừng khác. 21 Khi tôi nhìn, sừng này giao chiến với dân thánh và thắng họ 22 cho đến khi Đấng Thái Cổ ngự đến, xét xử và minh oan cho dân thánh của Đấng Tối Cao. Đã đến lúc dân thánh nhận lãnh vương quốc.

23 Vị đứng hầu bên ngai giải thích cho tôi: ‘Con thú thứ tư là vương quốc thứ tư xuất hiện trên mặt đất, khác hẳn mọi vương quốc kia. Nó sẽ ăn nuốt, đập tan, và dẫm nát toàn thế giới. 24 Còn mười sừng là mười vua sẽ nổi lên cai trị vương quốc ấy. Nhưng sau đó, một vua khác sẽ nổi lên, khác hẳn các vua trước, và sẽ hạ ba vua trong số các vua ấy. 25 Vua này sẽ nói phạm đến Đấng Tối Cao và áp bức dân thánh của Ngài. Vua định thay đổi Kinh Luật và các ngày lễ. Dân thánh sẽ bị nộp vào tay vua trong ba năm rưỡi.

26 Nhưng khi tòa mở phiên xét xử, quyền thống trị của vua sẽ bị tước đi, bị tiêu diệt hoàn toàn và vĩnh viễn. 27 Rồi dân thánh của Đấng Tối Cao sẽ nhận lãnh vương quyền, quyền thống trị, và vinh quang cao cả của tất cả các vương quốc trên đất. Vương quyền của dân thánh sẽ tồn tại mãi mãi, mọi quyền thống trị sẽ phụng sự và vâng phục Ngài.’

28 Khải tượng kết thúc tại đây. Về phần tôi, Đa-ni-ên, các tư tưởng trong tôi làm tôi kinh hoàng đến nỗi mặt tôi biến sắc. Nhưng tôi giữ kín sự việc trong lòng.”

Khải Tượng Thứ Nhì: Cừu Đực Và Dê Đực

Năm thứ ba triều vua Bên-sát-xa, tôi là Đa-ni-ên được thấy một khải tượng. Khải tượng này xảy ra sau khải tượng tôi thấy trước đây. Trong khải tượng, tôi thấy mình đang ở tại pháo đài Su-san, thuộc tỉnh Ê-lam. Tôi đang đứng bên bờ kinh U-lai. Tôi ngước mắt lên nhìn và thấy một con cừu đực đứng bên bờ kinh. Cừu có hai sừng cao, nhưng sừng cao hơn lại mọc lên sau sừng kia. Tôi thấy con cừu đực lấy sừng húc về phía tây, phía bắc, và phía nam. Không một con thú nào chống lại nó được, hoặc thoát khỏi tay nó. Nó muốn làm gì tùy ý, và trở nên lớn.

Tôi đang ngẫm nghĩ về điều ấy, thì kìa, một con dê đực vụt tới từ phía tây, băng ngang qua khắp cả đất mà chân không hề chạm đất. Con dê có một sừng to lồ lộ giữa hai mắt. Nó tiến lại chỗ con cừu có hai sừng tôi vừa thấy đứng bên bờ kinh. Nó hùng hổ phóng về phía con cừu. Tôi thấy nó xông vào con cừu, giận dữ húc cừu làm gẫy luôn cả hai sừng cừu. Con cừu không đủ sức chống cự. Dê quật cừu ngã xuống đất, rồi lấy chân đạp lên. Không ai cứu cừu khỏi tay dê. Dê đực trở nên rất lớn. Nhưng khi uy quyền nó lên đến tột đỉnh, cái sừng lớn của nó bật gẫy. Thay vào đó, bốn sừng khác lồ lộ mọc lên, hướng theo gió bốn phương trời.

Từ một trong các sừng ấy, một sừng nhỏ nhú lên, rồi lớn mạnh cực kỳ về phía nam, phía đông, và miền đất xinh đẹp. 10 Nó lớn mạnh đến nỗi tấn công đạo binh trên trời, làm cho một phần đạo binh, và một phần các vì sao, rơi xuống đất, rồi nó dẫm chân lên. 11 Nó xấc xược thách thức ngay cả vị Nguyên Soái đạo binh. Nó bãi bỏ việc dâng tế lễ hằng ngày và làm ô uế đền thánh Ngài. 12 Bởi vì tội ác, đạo binh bị nộp cho nó cùng với tế lễ hằng ngày.[n] Cái sừng đó quăng lẽ thật xuống đất. Nó làm mọi việc đều thành công.

13 Bấy giờ tôi nghe một vị thánh lên tiếng, và một vị thánh khác hỏi vị thánh vừa lên tiếng: “Những biến cố trong khải tượng sẽ kéo dài đến bao giờ? Tội ác kinh hoàng sẽ thay thế việc dâng tế lễ hằng ngày trong bao lâu? Đền thánh và đạo binh sẽ bị chà đạp đến bao giờ?”

14 Vị này đáp: “Cho đến hai ngàn ba trăm buổi chiều và buổi sáng. Bấy giờ đền thánh sẽ được thanh tẩy và phục hồi.”

Thiên Sứ Gáp-ri-ên Giải Thích Khải Tượng

15 Trong khi tôi, Đa-ni-ên, đang tìm hiểu khải tượng tôi vừa thấy, bỗng dưng có một hình dạng đứng trước mặt tôi, trông giống như một người đàn ông. 16 Và tôi nghe tiếng người gọi vọng vào từ giữa dòng kinh U-lai: “Gáp-ri-ên, hãy giải thích khải tượng cho người này hiểu.”

17 Khi Gáp-ri-ên đến gần nơi tôi đứng, tôi kinh hãi ngã sấp mặt xuống. Nhưng thiên sứ bảo tôi: “Hỡi con người, hãy hiểu rằng khải tượng này liên quan đến thời cuối cùng.”

18 Thiên sứ còn đang nói thì tôi đã ngất xỉu, mặt hãy còn sấp xuống đất. Thiên sứ lay tôi dậy và đỡ tôi đứng lên.

19 Thiên sứ bảo: “Này, ta cho ngươi biết điều sẽ xảy ra trong những ngày cuối của thời thịnh nộ. Vì khải tượng liên quan đến thời cuối cùng và thời này đã được ấn định rồi. 20 Con cừu đực có hai sừng mà ngươi thấy tượng trưng cho các vương quốc Mê-đi và Ba-tư. 21 Con dê đực tượng trưng cho vương quốc Hy-lạp, và cái sừng lớn giữa hai mắt là vua đầu tiên. 22 Khi sừng này bị gãy, bốn sừng mọc lên thay vào đó, có nghĩa là đất nước này chia thành bốn vương quốc, nhưng không còn sức mạnh của vương quốc đầu tiên.

23 Vào cuối triều đại chúng, khi những kẻ phạm pháp đã vi phạm quá mức, một vua sẽ nổi dậy, mặt mày hung bạo, vô cùng xảo quyệt. 24 Vua càng thêm mạnh mẽ, nhưng không bởi sức riêng. Vua sẽ hủy diệt tàn khốc, và thành công trong mọi việc mình làm. Vua sẽ hủy diệt người hùng mạnh cùng với dân thánh. 25 Nhờ tài xảo quyệt, vua thành công trong những thủ đoạn gian manh. Vua sinh lòng tự cao tự đại, bất ngờ hủy diệt nhiều người. Vua dám nổi dậy chống lại ngay cả Chúa của các chúa nhưng vua sẽ bị hủy diệt, không do tay con người.

26 Khải tượng vừa nói về các buổi chiều và các buổi sáng là sự thật. Phần ngươi, hãy giữ kín khải tượng, vì nó nói về tương lai xa.”

27 Về phần tôi, Đa-ni-ên, tôi đờ đẫn như người mất hồn. Tôi đau ốm nhiều ngày. Sau khi bình phục, tôi tiếp tục làm công việc của vua giao cho tôi. Nhưng tôi vẫn còn kinh hoàng vì khải tượng ấy và vẫn không hiểu.

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)