Bible in 90 Days
Tôi Tớ Của CHÚA
13 Kìa, tôi tớ Ta sẽ thành đạt,
Sẽ được tán dương, được nâng lên rất cao.
14 Như nhiều người kinh hoàng về người,[a]
Hình dung người bị hủy hoại đến nỗi không còn giống con người;
Và dáng vẻ không còn giống con cái loài người nữa.
15 Cho nên người làm ngạc nhiên[b] nhiều quốc gia;
Các vua sẽ câm miệng vì người;
Vì họ sẽ thấy điều chưa ai bảo cho mình biết,
Hiểu điều mình chưa được nghe.
Tôi Tớ Chịu Khổ
53 Ai tin điều chúng tôi đã nghe?[c]
Và cánh tay[d] của CHÚA đã bày tỏ cho ai?
2 Người đã lớn lên trước mặt Ngài như một cây non;
Như cái rễ từ đất khô khan.
Người không có hình dung, cũng không uy nghi để chúng ta nhìn ngắm;
Người cũng không có bề ngoài để chúng ta ưa thích.
3 Người bị người ta khinh bỉ và ruồng bỏ;
Là người chịu đau khổ và biết sự đau ốm.
Như người mà người ta tránh mặt không muốn nhìn;[e]
Người bị khinh bỉ; chúng ta cũng không xem người ra gì.
4 Thật, chính người đã mang những bệnh tật của chúng ta
Và gánh những đau khổ của chúng ta.
Nhưng chúng ta lại tưởng
Người bị Đức Chúa Trời đánh, phạt và bị khổ sở.
5 Chính người bị đâm vì sự vi phạm của chúng ta,
Bị chà đạp vì sự gian ác của chúng ta.
Hình phạt người chịu để chúng ta được bình an,
Vết thương người mang để chúng ta được chữa lành.
6 Tất cả chúng ta đều như chiên đi lạc,
Mỗi người đi theo đường lối riêng của mình.
Nhưng CHÚA đã chất
Tội lỗi của tất cả chúng ta trên người.
7 Người bị áp bức và khổ sở
Nhưng không hề mở miệng.
Như chiên bị dẫn đi làm thịt,
Như cừu câm nín đứng trước kẻ hớt lông;
Người không hề mở miệng.
8 Người đã bị ức hiếp,[f] xử đoán và giết đi.[g]
Những người đồng thời[h] với người có ai suy xét rằng
Người bị cắt đứt khỏi đất người sống
Là vì tội lỗi dân Ta đáng bị đánh phạt.[i]
9 Người ta đã đặt mồ người chung với những kẻ ác
Và khi chết[j] người được chôn với một người giàu có,
Dù người đã không hành động hung bạo
Và miệng không hề lừa dối.
10 Nhưng CHÚA bằng lòng để người bị chà đạp và đau đớn[k]
Khi người[l] dâng mạng sống mình làm tế lễ chuộc tội.
Người sẽ thấy dòng dõi mình, các ngày của người sẽ lâu dài
Và nhờ tay người, ý của CHÚA sẽ được thành đạt.
11 Do sự thống khổ của linh hồn mình
Người sẽ thấy ánh sáng.[m]
Nhờ sự hiểu biết của mình[n] người sẽ hài lòng. [o] Người công chính tức là tôi tớ Ta sẽ làm cho nhiều người được công chính
Và người sẽ gánh lấy tội lỗi họ.
12 Cho nên Ta sẽ chia phần cho người cùng với những người vĩ đại[p]
Và người sẽ chia chiến lợi phẩm với những kẻ mạnh.
Vì người đã đổ mạng sống mình cho đến chết,
Bị liệt vào hàng tội nhân.
Nhưng thật ra chính người đã mang lấy tội lỗi của nhiều người
Và cầu thay cho những kẻ tội lỗi.
Giao Ước Bình An
54 “Hỡi phụ nữ hiếm hoi,
Không sinh nở, hãy hát lên;
Hỡi người chưa từng đau đớn sinh nở
Hãy cất tiếng ca hát và reo hò.
Vì con cái của phụ nữ bị ruồng bỏ
Sẽ nhiều hơn con cái của phụ nữ có chồng,”
CHÚA phán như vậy.
2 “Hãy nới rộng chỗ trại ngươi ở;
Căng các tấm bạt của trại ngươi ra,
Đừng giữ lại.
Hãy giăng dây cho dài,
Đóng cọc cho chắc.
3 Vì ngươi sẽ tràn ra bên phải lẫn bên trái;
Dòng dõi ngươi sẽ chiếm hữu các nước
Và định cư trong các thành bỏ hoang.
4 Đừng sợ; vì ngươi sẽ không bị xấu hổ,
Chớ lo; vì ngươi sẽ không bị nhục nhã;
Vì ngươi sẽ quên sự xấu hổ của thời thanh xuân
Và không còn nhớ nữa nỗi nhục nhã của thời góa bụa.
5 Vì Đấng tạo ra ngươi là chồng ngươi;
Danh Ngài là CHÚA Vạn Quân.
Đấng chuộc ngươi lại chính là Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên;
Ngài được xưng là Đức Chúa Trời của cả trái đất.
6 Vì CHÚA đã gọi ngươi về
Như người vợ bị bỏ và đau khổ trong lòng;[q]
Tức là người vợ cưới thời thanh xuân đã bị bỏ;”[r]
Đức Chúa Trời ngươi phán như vậy.
7 “Ta đã bỏ ngươi trong một thời gian ngắn
Nhưng với lòng thương xót lớn lao Ta sẽ đón ngươi về.
8 Trong cơn thịnh nộ bừng bừng,
Ta đã tránh mặt không nhận ngươi trong một lúc;
Nhưng với tình yêu thương đời đời
Ta sẽ thương xót ngươi,”
CHÚA, Đấng Cứu Chuộc ngươi phán như vậy.
9 “Điều này đối với Ta cũng như nạn nước[s] lụt thời Nô-ê;
Như Ta đã thề rằng nước lụt thời Nô-ê sẽ không bao giờ tràn ngập đất nữa,
Thì Ta cũng thề rằng Ta sẽ không giận ngươi
Và không quở trách ngươi.
10 Dù núi dời,
Dù đồi chuyển
Nhưng tình yêu thương Ta dành cho ngươi sẽ không đổi;
Giao ước bình an của Ta cũng không thay.”
CHÚA, Đấng thương xót ngươi, phán như vậy.
11 “Hỡi kẻ khốn khổ,[t] đang bị bão tố, không người an ủi,
Này chính Ta sẽ dùng đá màu[u] lát đá cho ngươi;
Xây nền cho ngươi bằng lam ngọc.[v]
12 Ta sẽ xây các tháp canh ngươi bằng hồng ngọc,
Các cổng thành ngươi bằng ngọc lóng lánh
Và tất cả tường thành ngươi bằng đá quý.
13 Tất cả con cái ngươi sẽ được CHÚA dạy dỗ;
Chúng sẽ được thái bình thịnh vượng.[w]
14 Ngươi sẽ được thiết lập trong sự công chính;
Ngươi sẽ tránh xa áp bức
Vì chẳng sợ chi
Và thoát khỏi kinh hoàng
Vì nó sẽ không đến gần ngươi.
15 Nếu người nào lập mưu hại ngươi, điều đó không phải đến từ Ta.
Ai lập mưu hại ngươi sẽ vì ngươi mà ngã.
16 Này, chính Ta đã tạo nên thợ rèn
Thổi lửa đốt than
Và chế ra vũ khí để dùng.
Chính Ta đã tạo nên kẻ phá hoại để gây ra sự tàn phá.
17 Mọi vũ khí tạo nên để chống lại ngươi đều thất bại.[x]
Mọi lưỡi dấy lên tố cáo ngươi đều sẽ bị bác bỏ.
Đó là cơ nghiệp của các tôi tớ của CHÚA
Và sự xác minh từ Ta mà đến;”[y] CHÚA tuyên bố như vậy.
55 “Hỡi tất cả những ai khao khát,
Hãy đến nơi các nguồn nước.
Và người không tiền bạc,
Hãy đến mua và ăn.
Hãy đến mua rượu và sữa
Mà không cần tiền và không phải trả phí tổn.
2 Tại sao các ngươi tiêu phí tiền cho vật không phải là bánh,
Lao lực cho vật không làm cho mãn nguyện.
Hãy lắng nghe Ta, hãy ăn vật ngon,
Thì linh hồn các ngươi sẽ vui với đồ béo bổ.
3 Hãy nghiêng tai và đến cùng Ta,
Hãy nghe thì linh hồn các ngươi sẽ sống.
Ta sẽ lập một giao ước đời đời với các ngươi,
Tức là tình yêu trung kiên Ta đã hứa cùng Đa-vít.
4 Kìa, Ta đã lập người làm nhân chứng cho dân chúng,
Làm lãnh đạo và chỉ huy dân chúng.
5 Kìa, ngươi sẽ kêu gọi nước mà ngươi không biết;
Nước không biết ngươi sẽ chạy đến cùng ngươi.
Vì CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,
Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên
Tôn vinh ngươi.”
6 Hãy tìm kiếm CHÚA đang khi mình có thể gặp được,
Hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần.
7 Kẻ ác hãy từ bỏ đường lối mình,
Người bất chính hãy từ bỏ ý tưởng mình.
Hãy trở lại cùng CHÚA vì Ngài thương xót ngươi,
Hãy đến cùng Đức Chúa Trời vì Ngài tha thứ dồi dào.
8 “Vì ý tưởng Ta không phải là ý tưởng các ngươi,
Đường lối các ngươi chẳng phải là đường lối Ta,”
CHÚA tuyên bố như vậy.
9 “Vì trời cao hơn đất bao nhiêu
Thì đường lối Ta cao hơn đường lối các ngươi;
Ý tưởng Ta cao hơn ý tưởng các ngươi bấy nhiêu.
10 Vì như mưa và tuyết
Từ trời rơi xuống,
Nó không trở lại trời
Nhưng tưới đất,
Làm cho đất đượm mầu và nẩy nở;
Đem lại hạt giống cho kẻ gieo và bánh cho người ăn.
11 Này, lời đã ra từ miệng Ta,
Sẽ không trở về cùng Ta vô hiệu quả,[z]
Nhưng sẽ làm điều Ta đã định
Và hoàn thành việc Ta đã sai khiến nó.
12 Còn các ngươi sẽ đi ra trong vui mừng,
Và được dẫn về trong bình an.
Núi đồi sẽ
Cất tiếng hát trước mặt các ngươi.
Và tất cả cây cối ngoài đồng
Sẽ vỗ tay.
13 Cây tùng sẽ mọc lên thay cho cây gai,
Cây hạnh đào thay cho gai góc.
Ấy là một kỷ niệm cho CHÚA,
Một dấu đời đời không bị cắt bỏ.”
Chúa Kêu Gọi Mọi Dân Tộc
56 CHÚA phán như vầy:
“Hãy duy trì sự công bình
Và làm điều công chính;
Vì sự cứu rỗi của Ta sắp đến
Và sự công chính của Ta sắp được hiển hiện.
2 Phước cho người nào làm điều này!
Và phước cho con cái nào của loài người giữ điều đúng;
Tức là người giữ, không vi phạm[aa] ngày Sa-bát
Và gìn giữ tay mình không làm một điều ác nào.”
3 Người ngoại quốc đã liên hiệp với CHÚA chớ nói rằng:
“CHÚA chắc chắn sẽ tách rời tôi khỏi dân Ngài.”
Người bị hoạn cũng chớ nói rằng:
“Này, tôi là một cây khô.”
4 Vì CHÚA phán như vầy:
“Những kẻ hoạn mà giữ các ngày Sa-bát của Ta;
Chọn những điều đẹp lòng Ta
Và giữ giao ước Ta;
5 Ta sẽ ban cho họ trong nhà của Ta, tức là trong các tường thành Ta,
Một nơi kỷ niệm[ab] và một danh
Quý hơn con trai, con gái;
Ta sẽ ban cho họ[ac] một danh đời đời
Không hề bị cắt đứt.
6 Những người ngoại quốc đã liên hiệp với CHÚA
Để phục vụ Ngài,
Yêu mến danh CHÚA
Và làm tôi tớ Ngài;
Tất cả những người giữ, không vi phạm ngày Sa-bát
Và giữ giao ước Ta
7 Đều được Ta đem lên núi thánh
Và ban cho niềm vui mừng trong nhà cầu nguyện của Ta.
Các tế lễ thiêu và tế lễ hy sinh của họ dâng
Trên bàn thờ Ta sẽ được chấp nhận,
Vì nhà Ta sẽ được gọi là
Nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc.”
8 CHÚA, Đấng đang tập họp những người bị tản lạc của Y-sơ-ra-ên,
Tuyên bố như vầy:
“Ta sẽ còn tập họp những người khác về với nó[ad]
Ngoài những người đã được tập họp.”
Trách Sự Bất Trung Của Dân Y-sơ-ra-ên
9 Hỡi tất cả thú đồng,
Mọi loại thú rừng, hãy đến mà ăn.
10 Những kẻ canh gác của Y-sơ-ra-ên, tất cả đều đui mù,
Không biết gì cả.
Chúng nó hết thảy đều như chó câm,
Không biết sủa;
Chỉ mơ mộng,[ae]
Nằm khểnh và thích ngủ.
11 Chúng là loài chó tham ăn,
Chẳng biết no;
Ấy là những kẻ chăn chiên không biết phân biệt.
Tất cả chúng nó đều xoay theo đường lối riêng của mình;
Mỗi người, từ đầu chí cuối, đều tìm kiếm lợi riêng, chúng nói:[af]
12 “Hãy đến, Ta sẽ lấy rượu
Rồi tha hồ uống rượu mạnh.
Ngày mai cũng sẽ như ngày hôm nay,
Còn trọng thể hơn nữa.”
Tình Trạng Sa Đọa Của Y-sơ-ra-ên
57 Người công chính chết đi
Nhưng chẳng ai để ý đến.
Người nhân đức bị cất đi
Nhưng không ai hiểu rằng:
Người công chính được cất đi
Khỏi[ag] tai họa,[ah]
2 Người đi vào sự bình an.
Những kẻ sống[ai] ngay thẳng
Sẽ an nghỉ trên giường mình.
3 “Nhưng các ngươi, hỡi con cái của phù thủy,
Dòng dõi của kẻ ngoại tình và gái điếm, hãy lại gần đây.
4 Các ngươi đã cười nhạo ai?
Các ngươi đã mở to miệng,
Le lưỡi chế giễu ai?
Không phải các ngươi là con cái của kẻ tội lỗi,
Dòng dõi của kẻ nói dối sao?
5 Các ngươi hành dâm bên cây sồi,[aj]
Dưới mọi cây xanh;
Các ngươi giết con cái làm sinh tế nơi thung lũng,
Dưới vực đá sâu.
6 Gia tài của ngươi ở giữa vòng các tảng đá trơn tru nơi thung lũng;
Chính chúng nó là sản nghiệp ngươi.
Ngươi đã đổ dầu làm lễ tưới
Và dâng tế lễ ngũ cốc cho các tảng đá ấy.[ak]
Ta có nên nguôi giận vì những việc như thế không?
7 Ngươi đã đặt giường trên núi cao lừng lững
Và lên đó dâng tế lễ.
8 Ngươi đã đặt vật tượng trưng[al]
Sau cửa và cột cửa;
Vì từ bỏ Ta, ngươi đã lột trần,
Leo lên giường; làm cho giường rộng thêm.
Ngươi đã tự kết ước với chúng;
Yêu mến giường chúng và ngắm nhìn sự lõa lồ.[am]
9 Ngươi đem dầu
Và nhiều hương liệu đến dâng cho vua.[an]
Ngươi sai các sứ giả đi đến phương xa,
Xuống tận Âm Phủ.
10 Ngươi mệt mỏi vì đường dài[ao]
Nhưng vẫn không nhận là vô vọng.
Ngươi tìm được sức mạnh cho tay mình[ap]
Nên ngươi không suy yếu.
11 Ngươi đã kiêng nể và kính sợ ai
Đến nỗi nói dối cùng Ta?
Ngươi không nhớ đến Ta,
Không để Ta trong lòng ngươi?
Có phải vì Ta đã im lặng khá lâu
Mà ngươi không kính sợ Ta chăng?
12 Ta sẽ công bố các công đức[aq] và việc làm của ngươi,
Nhưng chúng sẽ chẳng giúp ích gì cho ngươi.
13 Khi ngươi kêu cứu,
Hãy để những đấng ngươi đã thu nạp[ar] giải cứu ngươi!
Chỉ một ngọn gió sẽ thổi chúng bay đi,
Một hơi thở sẽ cất đi tất cả!
Nhưng ai trú ẩn nơi Ta
Sẽ thừa hưởng đất
Và sẽ sở hữu núi thánh Ta.”
14 Ngài sẽ phán:
“Hãy xây, hãy đắp; hãy sửa soạn đường lối;
Hãy loại bỏ những chướng ngại trên đường dân Ta.”
15 Vì Đấng cao quý, Đấng ngự nơi vĩnh hằng
Và danh Ngài là thánh, phán như vầy:
“Ta ngự nơi cao cả và thánh khiết
Nhưng cũng ở cùng người có tâm thần ăn năn và khiêm tốn,
Để phục hồi sức sống cho người có tâm thần khiêm tốn;
Cùng phục hồi sức sống cho kẻ có lòng ăn năn.
16 Vì Ta chẳng buộc tội luôn luôn
Cũng không tức giận mãi mãi,
Kẻo thần linh[as] và sinh khí loài người mà Ta đã tạo ra
Sẽ phải suy tàn trước mặt Ta.
17 Vì tội tham lợi riêng nên Ta đã nổi giận và đánh nó;
Ta đã ngoảnh mặt đi trong cơn giận dỗi,
Nhưng nó vẫn tiếp tục quay trở lại con đường của lòng nó.
18 Đường lối nó Ta đã thấy nhưng Ta sẽ chữa lành,
Hướng dẫn và ban cho nó đầy lời an ủi;
19 Tức là tạo nên lời ca ngợi[at] trên môi miệng của những kẻ than khóc[au] trong Y-sơ-ra-ên.”[av]
CHÚA phán: “Bình an, bình an cho kẻ ở xa lẫn kẻ ở gần;
Ta sẽ chữa lành nó.”
20 Nhưng những kẻ ác giống như biển động
Không thể yên lặng được.
Nước biển chao động, bùn lầy nổi lên.
21 Đức Chúa Trời tôi phán: “Những kẻ gian ác sẽ không được bình an.”
Sự Kiêng Ăn Chân Thật
58 “Hãy gân cổ mà kêu, đừng ngừng lại.
Hãy cất tiếng kêu lên như tiếng tù và.
Hãy công bố cho dân Ta sự phản nghịch của họ
Và cho nhà Gia-cốp tội lỗi của chúng.
2 Mặc dù hằng ngày chúng tìm kiếm Ta,
Vui mừng biết đường lối Ta
Như một dân tộc làm điều công chính
Và không quên luật lệ của Đức Chúa Trời mình.
Chúng cầu xin Ta những quyết định công chính;
Vui mừng đến gần Đức Chúa Trời.
3 Chúng hỏi:[aw] ‘Tại sao chúng tôi kiêng ăn
Nhưng Ngài không thấy?
Chúng tôi hạ mình
Nhưng Ngài không biết?’
Này, trong ngày kiêng ăn, các ngươi vẫn tìm kiếm điều mình ưa thích;[ax]
Bóc lột mọi công nhân của mình.
4 Này, các ngươi kiêng ăn để tranh chấp và cãi vã;
Để nắm tay gian ác đánh đấm nhau.
Các ngươi không thể kiêng ăn như hiện nay
Để tiếng kêu của các ngươi được trời cao nghe thấy.
5 Phải chăng đó là sự kiêng ăn Ta chọn lựa?
Là ngày các ngươi hạ mình;
Cúi đầu như cây sậy;
Nằm trên vải thô và tro bụi?
Phải chăng các ngươi gọi đó là kiêng ăn?
Là ngày đẹp lòng CHÚA?
6 Không phải cách kiêng ăn mà Ta chọn lựa
Là tháo xiềng gian ác,
Mở dây cột ách,
Trả tự do cho kẻ bị áp bức,
Bẻ gãy mọi ách, hay sao?
7 Chẳng phải là chia cơm[ay] với kẻ đói;
Đem người nghèo không nhà cửa về nhà mình;
Khi thấy người không áo che thân thì mặc cho
Và không tránh mặt làm ngơ đối với người ruột thịt, hay sao?
8 Bấy giờ ánh sáng của ngươi sẽ tỏa ra như rạng đông;
Vết thương ngươi sẽ chóng lành;
Sự công chính ngươi sẽ đi trước mặt
Và vinh quang của CHÚA sẽ bảo vệ phía sau ngươi.
9 Bấy giờ, ngươi cầu xin, CHÚA sẽ đáp;
Ngươi kêu cứu, Ngài sẽ trả lời: Có Ta đây!
Nếu ngươi vứt bỏ ách giữa các ngươi,
Không chỉ tay[az] và nói lời hiểm độc.
10 Nếu ngươi dốc lòng[ba] nuôi kẻ đói,
Đáp ứng yêu cầu[bb] người khốn cùng
Thì ánh sáng ngươi sẽ tỏa ra nơi tối tăm
Và sự âm u của ngươi sẽ như giữa trưa.
11 CHÚA sẽ luôn luôn hướng dẫn ngươi;
Đáp ứng yêu cầu ngươi trong nơi đất khô hạn;
Ngài sẽ làm xương cốt ngươi mạnh mẽ;
Ngươi sẽ như thửa vườn được tưới nước,
Như ngọn suối không bao giờ khô.
12 Những người ra từ ngươi sẽ xây dựng lại những nơi cổ xưa đổ nát;
Sẽ lập lại các nền móng của nhiều đời trước.
Ngươi sẽ được gọi là người sửa chữa tường thành đổ vỡ,
Tu bổ đường phố cho dân cư ngụ.
13 Nếu ngươi gìn giữ, không vi phạm ngày Sa-bát;
Không làm điều mình ưa thích trong ngày thánh của Ta;
Nếu ngươi coi ngày Sa-bát là niềm vui thích;
Ngày thánh của CHÚA là đáng trọng;
Nếu ngươi tôn trọng ngày ấy và không làm theo đường lối riêng của mình;
Không theo đuổi điều mình ưa thích và không nói nhiều.[bc]
14 Bấy giờ ngươi sẽ được vui thích nơi CHÚA,
Và Ta sẽ cho ngươi cưỡi trên đỉnh cao của trái đất,
Ngươi sẽ được nuôi bằng gia nghiệp của Gia-cốp, tổ phụ ngươi.”
Vì chính miệng CHÚA
đã phán như vậy.
Tội Lỗi Và Ăn Năn
59 Này, chẳng phải tay của CHÚA quá ngắn để cứu
Và tai của Ngài quá nặng để nghe đâu!
2 Nhưng vì sự gian ác các ngươi đã ngăn cách
Các ngươi với Đức Chúa Trời mình;
Và tội lỗi các ngươi đã làm Ngài ẩn mặt
Không nghe các ngươi.
3 Bởi vì bàn tay các ngươi đã bị ô uế trong máu;
Ngón tay các ngươi bị ô uế vì gian ác;
Môi miệng các ngươi đã nói lời dối trá;
Lưỡi các ngươi đã thì thầm điều độc địa.
4 Không ai kiện cáo theo lẽ công chính;
Cũng không ai tranh tụng trong sự chân thật.
Người ta tin cậy vào điều hư không và lời gian dối;
Cưu mang điều tai hại và đẻ ra điều gian ác.
5 Chúng ấp trứng rắn,
Dệt màng nhện.
Ai ăn trứng của chúng sẽ chết;
Còn trứng bị bể sẽ nở ra rắn độc.
6 Màng chúng dệt không thể làm áo mặc;
Chúng không thể che thân bằng đồ chúng làm ra.
Công việc của chúng là công việc gian ác;
Hành động trong tay chúng là bạo lực.
7 Chân chúng chạy đến điều ác
Và nhanh nhẹn làm đổ máu người vô tội.
Tư tưởng của chúng là tư tưởng gian ác;
Chúng đem lại[bd] tàn phá và đổ nát trên đường chúng đi.
8 Chúng không biết con đường bình an,
Cũng không có công bình nơi đường lối của chúng.
Chúng tự làm đường lối mình cong quẹo,
Ai đi trên đường ấy không biết được bình an.
9 Cho nên sự công bình xa cách chúng ta;
Và lẽ công chính cũng không đến gần chúng ta được.
Chúng ta trông mong ánh sáng thì đây này, bóng tối!
Chúng ta trông mong sáng láng thì lại bước đi trong tối tăm.
10 Chúng ta mò mẫm men theo tường như người mù,
Như người không có mắt, chúng ta dò dẫm.
Ban ngày giữa trưa mà chúng ta vấp ngã như vào lúc chạng vạng;
Giữa những người mạnh khỏe mà chúng ta như người chết.
11 Tất cả chúng ta gầm gừ như gấu,
Than thở não nề như chim bồ câu.
Chúng ta trông lẽ công bình nhưng không có;
Mong sự cứu rỗi nhưng nó xa cách chúng ta.
12 Vì sự vi phạm của chúng tôi trước mặt Ngài thật nhiều;
Tội lỗi chúng tôi làm chứng nghịch chúng tôi.
Vì sự vi phạm của chúng tôi vẫn ở cùng chúng tôi
Và chúng tôi biết sự gian ác mình.
13 Chúng tôi đã vi phạm, đã phản bội CHÚA
Và quay lưng không theo Đức Chúa Trời mình.
Chúng tôi đã nói lời bạo ngược và phản loạn;
Cưu mang những lời gian dối trong lòng rồi thốt ra.
14 Lẽ công bình bị đẩy lui;
Sự công chính thì đứng xa;
Vì lẽ thật bị vấp ngã nơi quảng trường
Và sự ngay thẳng không thể vào.
15 Lẽ thật không còn nữa
Và kẻ lánh xa điều ác thì bị cướp giật.
CHÚA nhìn thấy và Ngài buồn lòng[be]
Vì không có sự công bình.
16 Ngài thấy không có ai cả;
Và kinh ngạc vì không ai cầu khẩn
Nên Ngài dùng cánh tay mình để cứu rỗi;
Và sự công chính của Ngài hỗ trợ mình.
17 Ngài mặc sự công chính như áo giáp
Và đội mão cứu rỗi trên đầu.
Ngài mặc áo báo trả làm y phục
Và choàng quanh mình bằng áo choàng nhiệt thành.
18 Ngài sẽ báo trả
Tùy công việc chúng làm,
Thịnh nộ cho kẻ chống đối,
Báo oán cho kẻ thù nghịch;
Ngài sẽ báo trả dân các hải đảo.
19 Từ phương tây người ta sẽ kính sợ danh CHÚA;
Những người từ phương đông sẽ kính sợ sự vinh quang Ngài.
Vì Ngài sẽ đến như sông chảy cuồn cuộn
Và hơi thở của CHÚA thúc đẩy nó.[bf]
20 “Đấng Cứu Chuộc sẽ đến Si-ôn;
Đến cùng những người thuộc nhà Gia-cốp đã từ bỏ tội lỗi,”
CHÚA tuyên bố như vậy.
21 CHÚA phán: “Về phần Ta, đây là giao ước của Ta với chúng: Thần Ta ở trên ngươi và những lời Ta đặt trong miệng ngươi sẽ không rời khỏi miệng ngươi, cũng như miệng con cái và cháu chắt ngươi từ nay cho đến đời đời.” CHÚA phán như vậy.
Vinh Quang Tương Lai
60 “Hãy đứng lên và chiếu sáng vì ánh sáng của ngươi đã đến
Và vinh quang CHÚA tỏa sáng trên ngươi.
2 Vì này, bóng tối sẽ bao trùm trái đất
Và tối tăm che phủ các dân.
Nhưng CHÚA sẽ tỏa sáng trên ngươi
Và vinh quang Ngài sẽ chiếu sáng trên ngươi.
3 Các nước sẽ đến cùng ánh sáng ngươi
Và các vua sẽ hướng về ánh bình minh của ngươi.
4 Hãy ngước mắt nhìn quanh và xem:
Tất cả chúng nó đều họp lại và đến cùng ngươi.
Các con trai ngươi sẽ đến từ phương xa;
Các con gái ngươi được ẵm trên hông.
5 Bấy giờ ngươi sẽ thấy và rạng rỡ;
Lòng ngươi sẽ xúc động và vui mừng.
Vì sự giàu có của biển cả sẽ đổ về ngươi;
Của cải của các nước sẽ đến với ngươi.
6 Muôn vàn lạc đà sẽ tràn ngập ngươi,
Cả lạc đà tơ của Ma-đi-an và Ê-pha.
Tất cả những người từ Shê-ba sẽ đến;
Mang theo vàng và trầm hương.
Họ sẽ loan truyền lời ca ngợi CHÚA.
7 Tất cả các bày súc vật của Kê-đa sẽ được tập trung về nơi ngươi.
Chiên đực của Nê-ba-giốt sẽ được dùng làm tế lễ;[bg]
Chúng sẽ được chấp nhận trên bàn thờ Ta
Và Ta sẽ làm nhà vinh hiển Ta thêm vinh hiển.
8 Những người này là ai mà như mây bay,
Như bồ câu trở về chuồng?
9 Chắc chắn các hải đảo sẽ trông đợi Ta;
Trước hết là các tầu của Ta-rê-si
Sẽ đem các con trai ngươi
Cùng vàng và bạc từ phương xa về
Để tôn vinh danh CHÚA, Đức Chúa Trời ngươi,
Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên
Vì Ngài làm cho ngươi vinh hiển.
10 Người ngoại quốc sẽ xây dựng các tường thành ngươi
Và vua của họ sẽ phục vụ ngươi.
Vì trong cơn thịnh nộ Ta đã đánh ngươi,
Nhưng trong lúc ban ơn Ta thương xót ngươi.
11 Các cổng thành ngươi sẽ luôn luôn mở,
Ngày đêm không bao giờ đóng
Để người ta đem của cải của các nước đến cho ngươi.
Các vua của họ dẫn đầu đoàn triều cống.[bh]
12 Vì dân nào, nước nào không thần phục ngươi sẽ bị diệt vong,
Các dân ấy sẽ hoàn toàn bị phá hủy.
13 Vinh quang của Li-ban sẽ đến trên ngươi;
Cây thông, cây du, cây bách sẽ cùng nhau
Trang hoàng điện thánh Ta
Và Ta sẽ làm cho nơi đặt chân Ta vinh quang.
14 Con cái của những kẻ áp bức ngươi sẽ cúi đầu đến cùng ngươi
Và tất cả những kẻ khinh bỉ ngươi sẽ quỳ mọp dưới chân ngươi.
Chúng sẽ gọi ngươi là thành của CHÚA,
Si-ôn của Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
15 Xưa kia ngươi đã bị lãng quyên, ghét bỏ
Và không ai qua lại;
Nay Ta sẽ làm cho ngươi thành cao quý mãi mãi,
Thành nguồn vui đời đời.
16 Ngươi sẽ bú sữa của các dân
Và được các bà vú của các vua nuôi nấng.[bi]
Ngươi sẽ biết rằng chính Ta là CHÚA, Đấng Cứu Rỗi ngươi,
Đấng Cứu Chuộc ngươi và là Đấng Quyền Năng của Gia-cốp.
17 Thay vì đồng thau, Ta sẽ đem cho ngươi vàng;
Thay vì sắt, Ta sẽ đem cho ngươi bạc;
Thay vì gỗ, Ta sẽ đem đồng;
Thay vì đá, Ta sẽ đem sắt cho ngươi.
Ta sẽ đặt bình an làm kẻ giám sát ngươi
Và sự công chính làm kẻ đốc công ngươi.
18 Người ta sẽ không nghe đến bạo lực trong xứ sở ngươi,
Cũng không có đổ nát và phá hủy trong biên cương ngươi.
Ngươi sẽ gọi thành lũy ngươi là sự cứu rỗi
Và cổng thành ngươi là lời ca ngợi.
19 Mặt trời sẽ không còn là ánh sáng cho ngươi vào ban ngày,
Ánh sáng của mặt trăng cũng không chiếu sáng ngươi.[bj]
Nhưng CHÚA sẽ là ánh sáng cho ngươi mãi mãi
Và Đức Chúa Trời ngươi sẽ là vinh hiển ngươi.
20 Mặt trời của ngươi sẽ không lặn nữa,
Mặt trăng của ngươi cũng chẳng hề tàn.
Vì CHÚA sẽ là ánh sáng mãi mãi cho ngươi,
Những ngày than khóc của ngươi sẽ chấm dứt.
21 Tất cả dân ngươi sẽ là công chính,
Họ sẽ sở hữu đất này đời đời.
Họ là mầm non Ta đã trồng,
Là công việc của tay Ta
Để được vinh hiển.
22 Kẻ bé nhỏ nhất của ngươi sẽ thành cả ngàn
Và người hèn yếu nhất sẽ thành một dân hùng mạnh.
Chính Ta là CHÚA,
Ta sẽ mau chóng thực hiện điều ấy đúng thời.”
Tin Mừng
61 Thần của CHÚA ở trên Ta
Vì CHÚA đã xức dầu cho Ta
Đặng loan báo tin mừng cho những kẻ nghèo khổ.
Ngài sai Ta đi băng bó những tấm lòng tan vỡ,
Công bố tự do cho những kẻ bị tù đầy,
Loan tin phóng thích cho những người bị xiềng xích;
2 Công bố năm thi ân của CHÚA
Và ngày báo trả của Đức Chúa Trời chúng ta;
Ngài sai Ta đi an ủi mọi kẻ than khóc;
3 Đặng ban cho những kẻ than khóc ở Si-ôn
Mão hoa
Thay vì tro bụi,
Dầu vui vẻ
Thay vì than khóc,
Áo choàng ca ngợi
Thay vì tinh thần sầu thảm;
Họ sẽ được gọi là cây sồi công chính,
Cây CHÚA đã trồng
Để bày tỏ vinh hiển Ngài.
4 Họ sẽ xây lại những nơi đổ nát xưa,
Dựng lại những chỗ hoang phế cũ,
Tu bổ các thành đổ nát,
Những nơi hoang phế từ bao thế hệ.
5 Kiều dân sẽ đứng chăn cừu cho các ngươi,
Người ngoại quốc sẽ cầy ruộng và làm vườn nho các ngươi.
6 Còn các ngươi sẽ được gọi là thầy tế lễ của CHÚA;
Người ta sẽ xưng các ngươi là người phụng sự Đức Chúa Trời chúng ta.
Các ngươi sẽ hưởng của cải của các dân
Và hãnh diện[bk] trong vinh hoa của họ.
7 Thay vì hổ thẹn,
Dân Ta sẽ hưởng gấp đôi,[bl]
Thay vì nhục nhã
Họ sẽ vui mừng vì phần điền sản của mình;
Cho nên họ sẽ sở hữu gấp đôi phần điền sản trong xứ
Và được vui mừng đời đời.
8 Vì Ta là CHÚA; Ta yêu công bình,
Ghét trộm cướp trong tế lễ thiêu,[bm]
Nhưng theo lòng thành tín của Ta, Ta sẽ thưởng công cho chúng
Và lập giao ước đời đời với chúng.
9 Dòng dõi họ sẽ được nổi tiếng trong các nước,
Con cháu họ sẽ nổi danh giữa các dân.
Tất cả những ai thấy họ đều công nhận
Rằng họ là dòng dõi được CHÚA ban phước.
10 Trong CHÚA, ta sẽ rất vui mừng,
Linh hồn ta sẽ hân hoan nơi Đức Chúa Trời ta;
Vì Ngài mặc cho ta áo cứu rỗi;
Khoác cho ta áo choàng công chính
Giống chàng rể khăn áo[bn] như thầy tế lễ,
Như cô dâu trang sức bằng nữ trang.
11 Vì như đất đai làm chồi mọc lên,
Vườn tược làm hạt giống nẩy mầm thể nào
Thì CHÚA sẽ làm cho sự công chính
Và lời ca ngợi trổi lên trước mặt muôn dân thể ấy.
Hy Vọng Và Cứu Rỗi
62 Vì cớ Si-ôn Ta sẽ không im lặng,
Vì cớ Giê-ru-sa-lem Ta sẽ không bất động
Cho đến khi nào sự công chính của nó phát ra như ánh sáng
Và ơn cứu rỗi bừng cháy như ngọn đuốc.
2 Các nước sẽ thấy sự công chính của ngươi;
Tất cả các vua sẽ thấy vinh quang ngươi.
Ngươi sẽ được gọi bằng tên mới,
Là tên chính miệng CHÚA sẽ ban cho.
3 Ngươi sẽ là mão vinh hiển trong tay CHÚA,
Là mũ miện hoàng gia trong lòng bàn tay Đức Chúa Trời ngươi.
4 Ngươi sẽ không còn bị gọi là kẻ bị ruồng bỏ,
Và đất đai ngươi là đất hoang phế nữa.
Nhưng ngươi sẽ được gọi là người mà Ta vui thích,[bo]
Và đất ngươi là đất có chồng.[bp]
Vì CHÚA vui thích về ngươi
Và đất ngươi là đất sẽ có chồng.
5 Như một thanh niên sẽ cưới một thiếu nữ
Thì các con trai ngươi[bq] sẽ kết ước với ngươi;
Như chàng rể vui mừng vì cô dâu
Thì Đức Chúa Trời ngươi cũng vui mừng vì cớ ngươi.
6 Hỡi Giê-ru-sa-lem, Ta đã đặt lính canh trên tường thành ngươi.
Suốt ngày đêm họ sẽ không hề nín lặng;
Các ngươi là người nhắc nhở CHÚA,
Chớ nghỉ ngơi.
7 Cũng đừng để Ngài nghỉ ngơi cho đến khi Ngài thiết lập lại Giê-ru-sa-lem
Và làm nó nổi danh trên đất.
8 CHÚA đã đưa tay phải
Và cánh tay quyền năng của Ngài lên mà thề rằng:
“Ta sẽ không ban lúa mì của ngươi
Cho kẻ thù ngươi ăn nữa;
Người ngoại quốc cũng sẽ không uống rượu nho mới của ngươi,
Là rượu mà ngươi đã lao lực làm ra.
9 Nhưng những người gặt hái lúa mì sẽ được ăn lúa
Và ca ngợi CHÚA.
Và những người hái nho sẽ được uống rượu nho
Trong sân thánh điện Ta.”
10 Hãy đi qua, hãy đi qua các cửa thành;
Hãy dọn đường cho dân.
Hãy xây đắp, hãy xây đắp đường cái;
Hãy dẹp sạch đá.
Hãy giương cờ cho các dân.
11 Này, CHÚA đã công bố
Đến tận cùng trái đất;
Hãy nói với con gái Si-ôn:
“Kìa, ơn cứu rỗi[br] ngươi đang đến.
Kìa, Ngài đem phần thưởng theo với Ngài;
Và thành tích[bs] Ngài đi trước Ngài.”
12 Chúng sẽ được gọi là dân thánh,
Dân được cứu chuộc của CHÚA.
Còn ngươi sẽ được gọi là thành người ta tìm đến,
Thành không bị ruồng bỏ.
Ngày Báo Trả Và Ơn Cứu Rỗi
63 Ai là Đấng từ Ê-đôm đến?
Ai là Đấng mặc áo đỏ thẫm đến từ Bốt-ra?[bt]
Ai trang phục lộng lẫy,
Tiến bước với sức mạnh vĩ đại.
“Chính là Ta, Đấng phán lời công chính,
Đấng quyền năng để cứu rỗi.”
2 Tại sao y phục Ngài nhuộm đỏ?
Ngài trang phục như người đạp bồn nho.
3 “Một mình Ta đã đạp, ép nho,
Không có người nào từ các dân ở với Ta.
Trong cơn giận, Ta đã đạp chúng,
Trong cơn thịnh nộ, Ta đã chà đạp chúng.
Máu[bu] của chúng bắn lên áo Ta,
Toàn thể y phục của Ta bị vấy hết.
4 Vì Ta đã định ngày báo thù trong lòng
Và năm của những kẻ được cứu chuộc của Ta đã đến.
5 Ta nhìn xem nhưng không ai giúp,
Ta ngạc nhiên nhưng không ai hỗ trợ.
Nên Ta đã dùng cánh tay Ta để tạo chiến thắng cho Ta
Và cơn thịnh nộ của Ta đã hỗ trợ Ta.
6 Ta chà đạp các dân trong cơn giận,
Ta khiến chúng nó say trong cơn thịnh nộ
Và Ta đổ máu chúng nó ra trên đất”.
Tình Yêu Thương Kiên Trì Của CHÚA
7 Tôi sẽ nhắc lại tình yêu thương của CHÚA
Cùng những lời ca ngợi CHÚA
Vì tất cả những gì CHÚA đã làm cho chúng ta
Và sự tốt lành lớn lao Ngài ban cho nhà Y-sơ-ra-ên;
Là những điều Ngài đã ban cho chúng ta.
Theo như lòng thương xót và tình yêu thương lớn lao của Ngài.
8 Ngài phán: “Thật, họ là dân Ta;
Những đứa con không lừa dối.”
Và Ngài đã trở thành Đấng Cứu Rỗi của họ.
9 Trong mọi cơn khốn quẫn của họ, Ngài cũng chịu khốn quẫn[bv]
Và thiên sứ trước mặt Ngài đã cứu họ.
Vì tình yêu thương và lòng thương xót,
Chính Ngài đã cứu chuộc họ,
Nâng họ lên và bồng bế họ suốt trong những ngày xưa.
10 Nhưng họ đã phản nghịch
Và làm buồn lòng Đức Thánh Linh của Ngài;
Cho nên Ngài đã trở thành kẻ thù của họ;
Chính Ngài chiến đấu chống lại họ.
11 Bấy giờ họ[bw] nhớ lại ngày xưa;
Nhớ đến Môi-se và dân Ngài nên hỏi:
Đấng đã đem họ ra khỏi biển
Cùng với những người chăn và bày chiên của Ngài đâu rồi?
Đấng đã đặt Đức Thánh Linh của Ngài
Ở giữa họ đâu rồi?
12 Ai khiến cánh tay vinh hiển Ngài
Đi bên phải Môi-se,
Ai rẽ nước ra trước mặt họ
Đặng lưu danh muôn đời?[bx]
13 Ai đã dẫn họ qua các vực sâu
Như ngựa trong sa mạc,
Không hề vấp ngã?
14 Như bày súc vật đi xuống thung lũng.
Thần của CHÚA đã ban cho họ an nghỉ.
Ngài đã dẫn dắt dân Ngài như thế
Để làm danh Ngài vinh hiển.
15 Từ trời xin Ngài hãy nhìn xuống,
Từ nơi ở thánh và vinh hiển xin hãy xem.
Lòng nhiệt thành và sức mạnh của Ngài ở đâu?
Ngài đã thu lại tấm lòng tha thiết và thương xót chúng tôi.[by]
16 Thật, chính Ngài là Cha chúng tôi.
Dù Áp-ra-ham không biết chúng tôi;
Y-sơ-ra-ên không công nhận chúng tôi
Thì Ngài, lạy CHÚA, vẫn là Cha chúng tôi.
Danh Ngài là Đấng Cứu Chuộc chúng tôi từ muôn đời.
17 Lạy CHÚA, sao Ngài để chúng tôi lầm lạc xa đường lối Ngài?
Sao Ngài để lòng chúng tôi chai đá không kính sợ Ngài?
Vì cớ các tôi tớ Ngài,
Và vì cớ các bộ tộc thuộc gia sản Ngài xin hãy trở lại.
18 Dân thánh Ngài sở hữu nơi này[bz]
Trong ít lâu nhưng kẻ thù Ngài đã giày đạp Nơi Thánh Ngài.
19 Đã từ lâu chúng tôi trở thành
Như một dân không do Ngài cai trị
Và không mang danh Ngài.[ca]
Lời Cầu Nguyện Của Dân Chúa
64 Ôi, ước gì Ngài xé rách các tầng trời ngự xuống,
Và núi non rung chuyển trước mặt Ngài.[cb]
2 Như lửa đốt củi khô;
Như lửa làm nước sôi sục
Để các kẻ thù biết đến danh Ngài
Và các nước run rẩy trước mặt Ngài.
3 Khi Ngài làm những việc đáng sợ mà chúng tôi không ngờ
Thì Ngài ngự xuống và núi non rung chuyển trước mặt Ngài.
4 Từ xưa, người ta chưa nghe nói đến,
Tai chưa nghe,
Mắt chưa thấy một Đức Chúa Trời nào ngoài ra Ngài;
Là Đấng đã hành động cho những kẻ trông đợi Ngài như thế.
5 Ngài tiếp đón những người vui vẻ làm điều công chính
Và những người nhớ đến Ngài, đi theo đường lối Ngài.
Kìa Ngài nổi giận vì chúng tôi phạm tội.
Ở trong ấy lâu đời mà chúng tôi vẫn được cứu rỗi sao?[cc]
6 Tất cả chúng tôi đã trở nên như người ô uế;
Mọi điều công chính của chúng tôi như chiếc áo bẩn thỉu.
Tất cả chúng tôi đều tàn héo như chiếc lá
Và tội lỗi chúng tôi như cơn gió cuốn chúng tôi đi.
7 Không ai cầu khẩn danh Ngài;
Không ai thức tỉnh để níu lấy Ngài.
Vì Ngài đã ẩn mặt khỏi chúng tôi
Và để chúng tôi tiêu tan[cd] trong tay tội lỗi của mình.
8 Dầu vậy, lạy CHÚA, Ngài là cha chúng tôi.
Chúng tôi là đất sét, Ngài là thợ gốm.
Tất cả chúng tôi là công việc của tay Ngài.
9 Lạy CHÚA, xin Ngài đừng quá giận,
Xin chớ ghi nhớ mãi tội ác chúng tôi.
Kìa, xin Ngài đoái xem,
Tất cả chúng tôi là con dân của Ngài.
10 Các thành thánh của Ngài đã trở nên sa mạc,
Si-ôn đã trở nên sa mạc, Giê-ru-sa-lem đã trở nên hoang phế.
11 Ngôi đền thánh và vinh hiển của chúng tôi, là nơi tổ tiên chúng tôi ca ngợi Ngài,
Đã bị lửa thiêu hủy.
Tất cả những gì[ce] chúng tôi quý trọng đều đã bị tàn phá.
12 Lạy CHÚA, trước những cảnh này Ngài vẫn đành lòng,
Ngài vẫn im lặng và để chúng tôi bị hình phạt nặng nề sao?
Lời Hứa Và Sự Giải Cứu
65 “Những kẻ vốn chẳng hỏi Ta thì Ta sẵn sàng để cho cầu khẩn.
Những kẻ vốn không tìm kiếm Ta thì Ta sẵn sàng cho gặp.
Ta đã phán cùng một nước không được gọi[cf] bằng danh Ta:
‘Ta đây, Ta đây này.’
2 Suốt ngày Ta đưa tay hướng về
Một dân tộc phản nghịch,
Là những người đi trong đường lối không tốt,
Theo ý riêng của mình;
3 Một dân cứ tiếp tục chọc giận
Vào mặt Ta.
Chúng tế lễ trong các vườn,
Dâng hương trên những đống gạch.
4 Chúng ngồi nơi mồ mả;
Ở đêm trong những nơi bí ẩn;
Ăn thịt heo,
Đựng nước canh của đồ ô uế trong chén bát mình.
5 Chúng nói: ‘Hãy tránh ra, đừng đến gần Ta
Vì Ta quá thánh đối với ngươi.’
Những điều này như khói phun ra từ mũi Ta,[cg]
Như lửa cháy suốt ngày.
6 Này, đây là điều đã được chép trước mặt Ta:
Ta sẽ không nín lặng nhưng Ta sẽ báo trả,
Ta sẽ báo trả vào lòng chúng nó những tội lỗi
7 Của chúng lẫn tội lỗi tổ tiên chúng,”
CHÚA phán.
“Vì chúng đã dâng hương trên các núi,
Xúc phạm Ta tại các đồi
Nên Ta sẽ đong đầy vào lòng chúng
Sự báo trả về những công việc trước kia của chúng.”
8 CHÚA phán như vầy:
“Như người ta thấy nước cốt nho còn trong chùm nho,
Nên bảo: ‘Đừng phá hủy đi,
Vì có phúc lành trong đó.’
Ta cũng sẽ làm như thế vì cớ các tôi tớ Ta;
Ta sẽ không hủy diệt tất cả.
9 Ta sẽ cho một dòng dõi xuất phát từ Gia-cốp;
Một người từ Giu-đa sẽ sở hữu các núi của Ta.
Những kẻ Ta lựa chọn sẽ sở hữu chúng
Và các tôi tớ Ta sẽ ở đó.
10 Và cho dân Ta, là những người đã tìm kiếm Ta thì Sa-rôn[ch] sẽ thành đồng cỏ cho chiên;
Và thung lũng A-cô[ci] sẽ là nơi bày bò nằm nghỉ.
11 Còn các ngươi là những kẻ từ bỏ CHÚA,
Quên núi thánh Ta;
Các ngươi đã bày bàn tiệc cho thần May Mắn,[cj]
Đã rót đầy rượu pha dâng cho thần Định Mệnh.[ck]
12 Ta sẽ định cho các ngươi bị gươm giáo,
Tất cả các ngươi sẽ phải cúi đầu cho người ta giết.
Vì Ta đã gọi nhưng các ngươi không đáp,
Ta đã phán nhưng các ngươi không nghe.
Các ngươi đã làm điều ác trước mắt Ta,
Và chọn những điều Ta không đẹp lòng.”
13 Cho nên CHÚA phán như vầy:
“Này, các tôi tớ Ta sẽ ăn,
Nhưng các ngươi sẽ đói.
Này, các tôi tớ Ta sẽ uống,
Nhưng các ngươi sẽ khát.
Này, các tôi tớ Ta sẽ vui mừng,
Nhưng các ngươi sẽ hổ thẹn.
14 Này, các tôi tớ Ta sẽ ca hát
Vì lòng vui vẻ
Nhưng các ngươi sẽ kêu gào
Vì lòng đau đớn;
Các ngươi sẽ than khóc
Vì tâm thần thống khổ.
15 Các ngươi sẽ lưu danh lại
Để những người được chọn của Ta làm lời nguyền rủa,
Và CHÚA sẽ giết các ngươi,[cl]
Nhưng Ngài sẽ ban một tên khác cho các tôi tớ Ngài.
16 Cho nên, ở trong xứ ai cầu phúc cho mình
Thì sẽ nhân danh Đức Chúa Trời chân thật mà cầu;
Ai thề thì sẽ nhân danh
Đức Chúa Trời chân thật mà thề.
Vì những nỗi khốn khổ trước kia
Đã bị quên lãng và đã ẩn tàng khỏi mắt Ta.
17 Vì này, Ta đã sáng tạo
Trời mới và đất mới.
Những điều trước kia sẽ không còn được nhớ đến,
Cũng không được nhắc đến trong tâm trí.[cm]
18 Nhưng hãy hân hoan và vui mừng mãi mãi
Vì những gì Ta sáng tạo.
Vì này, Ta tạo nên Giê-ru-sa-lem như một nguồn vui,
Ta dựng nên dân thành ấy như một niềm hoan hỉ.
19 Ta sẽ vui mừng vì Giê-ru-sa-lem,
Ta sẽ hoan hỉ vì dân Ta.
Nơi đó sẽ không còn nghe
Tiếng khóc la, than vãn.
20 Tại đó sẽ không còn
Trẻ con chết yểu,
Cũng chẳng có người già mà không sống đầy tuổi thọ.
Vì người chết lúc trăm tuổi
Là chết trẻ
Và kẻ chỉ sống đến trăm tuổi
Sẽ bị coi như bị rủa sả.[cn]
21 Người ta sẽ xây dựng nhà cửa và được ở trong đó,
Sẽ trồng vườn nho và được ăn quả.
22 Họ sẽ không xây nhà cho người khác ở,
Không trồng nho cho người khác ăn trái.
Vì tuổi thọ của dân Ta
Sẽ như số năm của cây;
Những người được chọn của Ta
Sẽ hưởng công lao của tay mình làm.
23 Họ sẽ không làm việc vất vả vô ích,
Không sinh con cái để gặp tai họa bất ngờ,
Vì là dòng dõi được CHÚA ban phước;
Họ cùng con cháu của họ.
24 Trước khi họ gọi, chính Ta đã đáp lời;
Khi họ còn đang nói, chính Ta đã nghe.
25 Chó sói và chiên con sẽ ăn chung,
Sư tử sẽ ăn rơm như bò,
Bụi đất sẽ là thức ăn cho rắn.
Sẽ không có ai làm tổn hại hay tàn phá
Trên khắp núi thánh Ta,”
CHÚA phán như vậy.
Sự Phán Xét Và Hy Vọng
66 CHÚA phán như vầy:
“Trời là ngôi Ta,
Đất là bệ chân Ta.
Các ngươi sẽ xây một ngôi nhà cho Ta ở đâu?
Nơi nào sẽ là chỗ Ta nghỉ ngơi?
2 Tay Ta đã làm ra tất cả những vật này,
Vì thế chúng đều hiện hữu.”[co]
CHÚA tuyên bố như vậy.
“Đây là kẻ Ta xem trọng:
Người nhu mì, tâm thần hối cải
Và run sợ vì lời Ta phán.
3 Còn người giết một con bò để tế
Cũng giống như giết một người;
Kẻ dâng một con chiên làm sinh tế
Giống như bẻ cổ một con chó;
Người dâng tế lễ chay
Giống như dâng máu heo;
Kẻ dâng hương tưởng niệm
Giống như người thờ tượng thần.
Vì chúng đã chọn con đường riêng của mình
Và linh hồn ưa thích những điều ghê tởm.
4 Ta cũng sẽ chọn bạc đãi[cp] cho chúng
Và đem đến điều chúng kinh hãi
Vì khi Ta gọi không ai đáp,
Ta phán không ai nghe;
Nhưng chúng đã làm điều ác trước mắt Ta
Và chọn điều Ta không đẹp lòng.”
5 Hỡi những kẻ run sợ vì lời Ngài,
Hãy nghe lời của CHÚA:
“Anh em ngươi là người nhân danh Ta ghét các ngươi,
Từ bỏ các ngươi, nói rằng:
‘Hãy để CHÚA được vinh quang
Đặng chúng ta thấy sự vui mừng của các ngươi.’
Nhưng chúng nó sẽ hổ thẹn.
6 Có tiếng nói từ trong thành,
Có tiếng phát ra từ đền thờ,
Tiếng của CHÚA báo trả
Những kẻ thù Ngài.
7 Trước khi đau chuyển bụng
Nàng đã sinh,
Trước khi cơn đau kéo đến,
Nàng đã sinh một đứa con trai.
8 Ai đã nghe một việc như thế?
Ai đã thấy những điều thế này?
Có thể một đất nước nào được chuyển bụng sinh ra trong một ngày
Hay một nước nào được sinh ra trong một lúc không?
Thế mà Si-ôn vừa chuyển bụng
Đã sinh ra đàn con.”
9 CHÚA phán: “Chính Ta là Đấng mở dạ mẹ
Lại không cho sinh sao?
Hoặc chính Ta là Đấng cho thụ thai nhi
Nhưng lại đóng dạ mẹ sao?” Đức Chúa Trời ngươi phán.
10 “Hãy vui mừng với Giê-ru-sa-lem,
Hỡi tất cả những người yêu mến Giê-ru-sa-lem, hãy hân hoan vì nó.
Hỡi tất cả những người than khóc cho Giê-ru-sa-lem,
Hãy hết sức vui với nó.
11 Để các ngươi bú sữa no nê
Nơi vú an ủi của mẹ,[cq]
Để được uống thỏa thích
Từ nguồn sung mãn vinh quang của người.”[cr]
12 Vì CHÚA phán như vầy:
“Này, Ta sẽ đem sự bình an đến cho thành như con sông;
Đem vinh quang của các nước đến như suối nước tràn ngập.
Các ngươi sẽ được bú sữa, được bồng trên lòng,
Được vỗ về trên đầu gối.
13 Như người mẹ an ủi con mình,
Chính Ta sẽ an ủi các ngươi như thế.
Các ngươi sẽ được an ủi nơi Giê-ru-sa-lem.”
14 Các ngươi sẽ thấy và lòng hân hoan;
Xương cốt các ngươi sẽ nẩy nở như cỏ.
Người ta sẽ biết rằng tay của CHÚA ở cùng các tôi tớ Ngài
Nhưng cơn thịnh nộ dành cho những kẻ thù Ngài.
15 Vì kìa, CHÚA sẽ đến trong lửa
Và xe chiến mã của Ngài như bão tố
Để báo trả cơn giận của Ngài bằng thịnh nộ
Và lời quở trách của Ngài trong ngọn lửa.
16 Vì CHÚA sẽ dùng lửa và gươm
Để trừng trị mọi người phàm;[cs]
Nhiều người sẽ bị CHÚA xử tử.
17 “Những kẻ làm cho mình thánh khiết, tinh sạch để đi vào các vườn theo một người đứng ở giữa;[ct] là những kẻ ăn thịt heo, rắn rít ghê tởm và chuột.” CHÚA tuyên bố: “Chúng nó cùng đến ngày tận số cả.”
18 “Còn Ta, Ta biết rõ[cu] hành động và tư tưởng chúng. Ta sẽ đến, tập họp tất cả các nước và các ngôn ngữ lại. Chúng sẽ đến và thấy vinh quang Ta.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)