Bible in 90 Days
19 Chúng đối đầu với tôi giữa lúc tôi lâm cảnh nguy nan,
Nhưng Chúa đã giúp đỡ tôi.
20 Ngài đã đem tôi ra một nơi an toàn thoải mái;
Ngài đã giải cứu tôi, vì Ngài thấy tôi đẹp lòng Ngài.
21 Chúa đã ban thưởng cho tôi tùy theo lòng ngay lành của tôi;
Ngài đã đền bù cho tôi, tùy theo sự thanh sạch của tay tôi.
22 Vì tôi đã gìn giữ các đường lối Chúa;
Tôi đã không làm gì xấu xa gian ác nghịch lại Ðức Chúa Trời của mình.
23 Vì các mạng lịnh Ngài hằng ở trước mặt tôi;
Còn các luật lệ Ngài tôi không bao giờ từ bỏ.
24 Tôi luôn giữ mình cho trọn vẹn trước mặt Ngài;
Tôi gìn giữ chính mình khỏi những gì tội lỗi.
25 Vì thế Chúa đã ban thưởng cho tôi tùy theo lòng ngay lành của tôi,
Tùy theo sự trong sạch của tôi ở trước thánh nhan Ngài.
26 Ðối với người có lòng thương xót, Ngài lấy ơn thương xót mà đối với họ;[a]
Ðối với người trọn vẹn, Ngài bày tỏ cho họ thế nào là trọn vẹn theo tiêu chuẩn của Ngài;
27 Ðối với người trong sạch,
Ngài cho họ biết sự trong sạch theo chuẩn mực của Ngài phải ra sao;
Ðối với những kẻ gian manh,
Ngài cho chúng biết chúng không thể qua mặt được Ngài.[b]
28 Ngài sẽ cứu giúp những người khốn khổ;
Nhưng mắt Ngài sẽ theo dõi những kẻ kiêu ngạo, để hạ chúng xuống.
29 Lạy Chúa, vì Ngài là ngọn đèn của con;
Chúa biến hoàn cảnh tối tăm của con trở nên sáng sủa.
30 Vì nhờ Chúa, con có thể xông qua một đạo quân;
Nhờ Ðức Chúa Trời của con, con có thể vượt qua được tường thành.
31 Lạy Ðức Chúa Trời, đường lối Ngài thật là toàn hảo;
Lời Chúa thật linh nghiệm vô cùng.
Ngài là thuẫn khiên cho những ai tin cậy Ngài.
32 Vì ngoài Chúa ra, ai là Ðức Chúa Trời?
Ngoài Ðức Chúa Trời ra, ai là Vầng Ðá của chúng ta?
33 Ðức Chúa Trời là thành trì và sức mạnh của tôi.
Ngài làm cho đường lối tôi trở nên trọn vẹn.
34 Ngài làm cho chân tôi nhanh nhẹn tựa chân nai.
Ngài lập cho tôi được vững vàng trên những nơi cao.
35 Ngài luyện tập tay tôi cho ngày chiến trận,
Ðể đôi tay tôi có thể giương nổi một cây cung đồng.
36 Ngài đã ban cho con ơn cứu rỗi của Ngài, để làm thuẫn khiên che chở;
Cách Ngài đối xử dịu dàng với con đã làm cho con được tôn trọng.
37 Ðường con đi Ngài mở toang rộng rãi;
Nên chân con chẳng trợt ngã bao giờ.
38 Con đuổi theo những kẻ thù của con và tiêu diệt chúng;
Con không quay trở về cho đến khi chúng bị tiêu diệt hoàn toàn.
39 Con đã tiêu diệt chúng và đập tan chúng, khiến chúng không ngóc dậy được nữa;
Chúng đã bị ngã gục dưới chân con.
40 Vì Ngài đã nai nịt cho con bằng sức mạnh để ra trận;
Ngài đã làm cho những kẻ nổi dậy chống con phải quỳ lạy dưới chân con.
41 Ngài khiến quân thù của con phải quay lưng bỏ chạy;
Và cho con tiêu diệt những kẻ ghét con.
42 Chúng trông ngóng, nhưng chẳng ai cứu giúp;
Chúng cũng kêu cầu Chúa, nhưng Ngài chẳng đáp lời.
43 Bấy giờ con đánh chúng tan tành như bụi đất;
Con giày đạp chúng và rải chúng ra như bùn ở ngoài đường.
44 Ngài đã giải thoát con khỏi các cuộc chống đối của dân con;
Ngài đã giữ con làm thủ lãnh của các quốc gia;
Một dân con chưa biết sẽ phục vụ con.
45 Những người ngoại quốc thuận phục con;
Vừa khi nghe đến con, họ liền vâng phục.
46 Quân ngoại bang đều hồn phi phách tán;
Từ trong các chiến lũy chúng run rẩy kéo ra hàng.
47 Chúa là Ðấng hằng sống!
Chúc tụng Vầng Ðá của tôi!
Nguyện Ðức Chúa Trời, Vầng Ðá cứu rỗi của tôi, được tôn cao!
48 Chính Ðức Chúa Trời đã báo thù cho tôi;
Ngài đã bắt thiên hạ phục dưới quyền tôi.
49 Lạy Ðấng giải cứu con khỏi những kẻ thù của con,
Thật vậy Ngài đã nâng con lên trên những kẻ nổi lên chống lại con;
Ngài đã giải cứu con khỏi kẻ bạo tàn.
50 Vì thế, lạy Chúa, con sẽ chúc tạ Ngài ở giữa các dân;
Con sẽ hát ca chúc tụng danh Ngài.
51 Ngài là tháp cứu rỗi[c] cho người Ngài lập làm vua;
Ngài bày tỏ lòng thương xót đối với người được xức dầu của Ngài,
Tức với Ða-vít và dòng dõi của người ấy đến đời đời.”
Bài Ca Cuối Cùng của Ða-vít
23 Ðây là những lời cuối cùng của Ða-vít:
“Ða-vít con của Giê-se nói,
Người đã được cất nhắc lên cao nói,
Tức người đã được Ðức Chúa Trời của Gia-cốp xức dầu,
Người đã viết ra những bản thánh thi được yêu chuộng trong I-sơ-ra-ên:
2 Thần của Chúa phán với tôi,
Lời của Ngài ở trên lưỡi tôi.
3 Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên phán,
Vầng Ðá của I-sơ-ra-ên nói với tôi,
‘Người nào trị vì trên người ta cách công chính,
4 Tức người trị vì với lòng kính sợ Ðức Chúa Trời,
Người ấy sẽ rực rỡ như ánh bình minh khi mặt trời ló dạng,
Như buổi sáng nắng đẹp không một gợn mây;
Như cỏ non mọc lên từ lòng đất,
Trong một ngày nắng ráo sau cơn mưa.’
5 Gia đình tôi dù không được ngay lành trước mặt Ðức Chúa Trời,
Dù vậy Ngài đã lập với tôi một giao ước đời đời;
Mọi sự đã được Ngài an bài và làm cho ổn định.
Ðây là tất cả những gì tôi mong được hưởng trong ơn cứu rỗi,
Và là tất cả những gì tôi hằng ao ước;
Ngài sẽ chẳng làm cho điều ấy cứ tăng lên sao?
6 Nhưng quân phản bội sẽ như những nhánh gai bị vứt bỏ,
Vì không ai có thể dùng tay trần nắm chúng được;
7 Nhưng ai muốn đụng đến chúng,
Người ấy phải có dụng cụ bằng sắt hoặc cầm nơi cán giáo mới được an toàn.
Bọn ấy sẽ hoàn toàn bị thiêu rụi trong lửa ngay tại chỗ của chúng.”
Những Dũng Sĩ của Ða-vít
(1Sử 11:10-41)
Ba Dũng Sĩ Hàng Ðầu
8 Ðây là tên các dũng sĩ của Ða-vít: Giô-sép Ba-sê-bết người Ta-kê-mô-ni. Ông chỉ huy Ba Dũng Sĩ. Chính ông là người đã dùng cây giáo đánh hạ tám trăm quân thù trong một trận đánh.
9 Sau ông có Ê-lê-a-xa con trai của Ðô-đô[d] người A-hô-hi. Ông là một trong ba dũng sĩ. Có lần ông đi với Ða-vít đến nơi quân Phi-li-tin tụ lại dàn trận để giao tranh. Quân I-sơ-ra-ên đã rút lui, 10 nhưng ông cứ ở lại mà đánh quân Phi-li-tin cho đến khi cánh tay ông đuối sức, và bàn tay ông dính chặt vào cán gươm. Ngày hôm đó Chúa đã ban cho họ một chiến thắng lớn. Quân I-sơ-ra-ên quay trở lại, nhưng chỉ để thu lượm chiến lợi phẩm.
11 Kế sau ông là Sam-ma con của A-ghi, người Ha-ra-ri. Dân Phi-li-tin tập họp với nhau thành một đạo quân trong một cánh đồng trồng đậu. Quân I-sơ-ra-ên bỏ chạy trước mặt quân Phi-li-tin, 12 nhưng một mình ông cứ đứng trụ ngay giữa cánh đồng mà chống cự và đánh giết quân Phi-li-tin. Nhờ thế Chúa đã ban cho họ một chiến thắng lớn.
Ba Dũng Sĩ Ðặc Biệt
13 Vào đầu một mùa gặt kia, ba người trong Nhóm Ba Mươi Dũng Sĩ đi xuống gặp Ða-vít ở hang A-đu-lam, giữa lúc quân Phi-li-tin đang hạ trại trong thung lũng ở Rê-pha-im. 14 Ða-vít đang ở trong chiến lũy, còn quân Phi-li-tin thì đóng đồn ngay tại Bết-lê-hem. 15 Bấy giờ Ða-vít ước ao và nói, “Ôi, ước gì có ai cho tôi uống nước giếng ở cổng thành Bết-lê-hem!” 16 Ba dũng sĩ ấy bèn xông qua trại của quân Phi-li-tin, đến giếng nơi cổng thành Bết-lê-hem, lấy nước, và đem về cho Ða-vít. Tuy nhiên Ða-vít không uống nước ấy, nhưng đổ nó ra, dâng lên Chúa, 17 và nói, “Lạy Chúa, xin đừng để con làm điều nầy nữa. Ðây há chẳng phải là máu của những người đã liều mạng đi lấy nó về sao?” Vì thế Ða-vít không uống nước ấy. Ðó là việc ba dũng sĩ ấy đã làm.
Các Dũng Sĩ Khác
18 A-bi-sai em Giô-áp, con của bà Xê-ru-gia, chỉ huy Nhóm Ba Mươi[e] Dũng Sĩ. Ông lấy cây giáo của ông đánh ba trăm quân thù và giết chết chúng. Vì thế danh ông được liệt vào hàng của Ba Mươi[f] Dũng Sĩ hàng đầu. 19 Ông há không đáng được tôn trọng nhất trong Nhóm Ba Mươi dũng sĩ sao? Vì thế ông đã được đặt làm người chỉ huy của họ. Tuy nhiên ông không được vào nhóm ba dũng sĩ kia.
20 Bê-na-gia con trai của Giê-hô-gia-đa là một người dũng mãnh quê ở Cáp-xê-ên. Ông được nổi tiếng vì có nhiều thành tích. Ông đã đánh hạ hai tay anh hùng dữ tợn như sư tử của dân Mô-áp. Ngoài ra một ngày tuyết rơi nọ, ông đi xuống hố lấy nước, không ngờ tại đó đã có một con sư tử. Nó nhảy đến vồ ông, nhưng ông đã đánh nó chết. 21 Ông cũng đánh hạ một tên Ai-cập có tướng mạo to lớn dị thường. Tên Ai-cập ấy cầm cây giáo trong tay, còn ông chỉ có một cây gậy. Ông giật lấy cây giáo khỏi tay tên Ai-cập, rồi dùng cây giáo ấy giết hắn. 22 Ðó là các thành tích mà Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa đã làm, nên danh ông không kém gì ba dũng sĩ kia. 23 Trong nhóm Ba Mươi Dũng Sĩ, ông được tôn trọng hơn nhiều người, nhưng không bằng ba dũng sĩ hàng đầu. Ða-vít đặt ông chỉ huy các cận vệ của mình.
24 Trong nhóm Ba Mươi Dũng Sĩ còn có A-sa-ên em Giô-áp, Ên-ha-nan con của Ðô-đô người Bết-lê-hem, 25 Sam-ma người Ha-rốt, Ê-li-ca người Ha-rốt, 26 Hê-lê người Pan-ti, I-ra con của Ích-kết người Tê-cô-a, 27 A-bi-ê-xe người A-na-thốt, Mê-bun-nai người Hu-sa-thi, 28 Xanh-môn người A-hô-hi, Ma-ha-rai người Nê-tô-pha-thi, 29 Hê-lét con của Ba-a-na người Nê-tô-pha-thi, Ít-tai con của Ri-bai người Ghi-bê-a, dòng dõi Bên-gia-min, 30 Bê-na-gia người Pi-ra-thô-ni, Hi-đai quê ở các suối vùng Ga-ách, 31 A-bi Anh-bôn người Ạc-ba-thi, A-ma-vét người Ba-hu-rim,[g] 32 Ên-gia-ba người Sa-anh-bô-ni, các con trai của Gia-sên, Giô-na-than con của 33 Sam-ma người Ha-ra-ri, A-hi-am con của Sa-ra người Ha-ra-ri, 34 Ê-li-phê-lét con của A-hát-bai dòng dõi của Ma-a-ca-thi, Ê-li-am con của A-hi-thô-phên người Ghi-lô-ni, 35 Hê-xơ-rô người Cạt-mên-li, Pa-a-rai người Ạc-bi, 36 I-ganh con của Na-than người Xô-ba, Ba-ni người Gát, 37 Xê-léc người Am-môn, Na-ha-rai người Bê-ê-rô-thi – ông là người vác binh khí cho Giô-áp con trai bà Xê-ru-gia – 38 I-ra người I-thơ-ri, Ga-rếp người I-thơ-ri, 39 và U-ri-a người Hít-ti. Tất cả là ba mươi bảy người.
Ða-vít Lập Thống Kê Dân Số
(1 Sử 21:1-27)
24 Chúa lại nổi giận với I-sơ-ra-ên một lần nữa. Ngài xui khiến Ða-vít gây họa cho họ khi ra lịnh rằng, “Hãy đi, lập cuộc thống kê dân số I-sơ-ra-ên và Giu-đa.” 2 Vua nói với Giô-áp, tướng chỉ huy quân đội,[h] đang có mặt lúc đó với vua, “Hãy đi khắp các chi tộc I-sơ-ra-ên, từ Ðan cho đến Bê-e Sê-ba, thực hiện cuộc kiểm tra dân số, để ta biết dân số trong nước được bao nhiêu.”
3 Giô-áp thưa với vua, “Cầu xin Chúa, Ðức Chúa Trời của ngài, làm gia tăng gấp trăm lần số người chúng ta đang có, và cầu xin chính mắt vua, chúa thượng của tôi, sẽ chứng kiến được điều ấy. Nhưng tại sao vua, chúa thượng của tôi, lại muốn thực hiện điều ấy?”
4 Tuy nhiên lời của vua thắng hơn lời bàn của Giô-áp và các vị tướng lãnh quân đội. Vậy Giô-áp và các vị tướng lãnh quân đội rời khỏi mặt vua và ra đi thực hiện cuộc thống kê dân số I-sơ-ra-ên. 5 Họ vượt qua Sông Giô-đanh và đến A-rô-e. Họ hạ trại về phía nam của thành, vào khoảng giữa thung lũng, rồi từ đó họ đi về hướng Gia-xe, vào địa phận của Gát. 6 Kế đó họ đi khắp miền Ghi-lê-át, rồi đến miền Ta-tim Hốt-si.[i] Từ đó họ đến Ðan,[j] rồi từ Ðan họ đến các miền xung quanh Si-đôn. 7 Họ cũng đến thành trì kiên cố tại Ty-rơ và tất cả các thành của người Hi-vi và người Ca-na-an. Sau đó họ đến tận Bê-e Sê-ba, thuộc miền nam của Giu-đa. 8 Vậy sau khi họ đã đi qua khắp lãnh thổ, mất chín tháng hai mươi ngày, họ trở về Giê-ru-sa-lem. 9 Giô-áp báo cáo cho vua kết quả của cuộc thống kê dân số: Ở I-sơ-ra-ên có tám trăm ngàn chiến sĩ sử dụng gươm, còn ở Giu-đa năm trăm ngàn.
Bệnh Dịch
10 Bấy giờ Ða-vít cảm thấy bứt rứt trong lòng sau khi đã ra lịnh thống kê dân số. Ða-vít thưa với Chúa, “Con đã phạm trọng tội về việc con đã làm. Nhưng bây giờ, Chúa ôi, cầu xin Ngài cất bỏ tội lỗi của tôi tớ Ngài, vì con đã hành động cách dại dột.”
11 Sáng hôm sau khi Ða-vít thức dậy, có lời của Chúa đến với Gát, vị tiên kiến của Ða-vít, 12 “Hãy đi và nói với Ða-vít. Chúa phán thế nầy: Ta cho ngươi ba điều, ngươi hãy chọn một trong ba điều ấy, rồi ta sẽ thực hiện đối với ngươi.”
13 Vậy Gát đến gặp Ða-vít và nói với ông, “Ðây là những điều có thể xảy đến với ngài: ba[k] năm đói kém trong toàn lãnh thổ của ngài, hoặc ba tháng chạy trốn trước mặt quân thù của ngài và bị chúng truy kích, hoặc ba ngày bị bịnh dịch hoành hành khắp nước của ngài. Xin ngài suy nghĩ kỹ, rồi cho tôi biết, để tôi thưa lại với Ðấng đã sai tôi.”
14 Ða-vít nói với Gát, “Tôi bị khốn đốn thật quá lớn! Thà chúng ta rơi vào tay Chúa vì lòng thương xót của Ngài rất lớn, nhưng xin đừng để tôi rơi vào tay loài người.”
15 Vậy Chúa sai một bệnh dịch đến trên toàn cõi I-sơ-ra-ên, từ sáng hôm đó cho đến thời điểm đã định, khiến cho từ Ðan đến Bê-e Sê-ba có bảy mươi ngàn người qua đời. 16 Khi vị thiên sứ còn đưa tay ra hướng về Giê-ru-sa-lem để hủy diệt nó thì Chúa nguôi giận về tai họa ấy, Ngài phán với vị thiên sứ đang thực hiện cơn hủy diệt dân, “Ðủ rồi. Bây giờ hãy dừng tay.” Lúc ấy vị thiên sứ của Chúa đang ở tại sân đập lúa của A-rau-na người Giê-bu-si. 17 Khi Ða-vít thấy vị thiên sứ đang hủy diệt dân, ông thưa với Chúa, “Chỉ một mình con đã phạm tội, chỉ một mình con là người có lỗi, nhưng đàn chiên nầy, họ đâu có làm gì sai? Cầu xin tay Chúa chỉ phạt con và nhà cha con mà thôi.”
Ða-vít Lập Bàn Thờ Ðể Thờ Phượng CHÚA
(1 Sử 21:18-27)
18 Ngày hôm đó Gát đến gặp Ða-vít và nói với ông, “Xin ngài đi lên và lập một bàn thờ để thờ phượng Chúa tại sân đập lúa của A-rau-na người Giê-bu-si.” 19 Nghe theo lời của Gát, Ða-vít đi lên đó như lịnh Chúa đã truyền. 20 Khi A-rau-na nhìn xuống, ông thấy vua và bầy tôi của vua đang tiến về nhà ông. A-rau-na đi ra và sấp mình xuống đất trước mặt vua. 21 A-rau-na nói, “Có chuyện gì mà đức vua, chúa thượng của tôi, phải đích thân đến nhà của tôi tớ ngài như vậy?”
Ða-vít đáp, “Ta đến để xin mua sân đập lúa của ngươi, để xây một bàn thờ dâng của tế lễ lên Chúa, hầu bệnh dịch sẽ ngưng diệt dân.”
22 A-rau-na nói với Ða-vít, “Xin đức vua, chúa thượng của tôi, lấy những gì ngài thấy là tốt để dâng hiến. Ðây, tôi có mấy con bò có thể dùng làm của lễ thiêu, cũng có các xe đạp lúa và các ách để làm củi. 23 Tâu vua, A-rau-na xin biếu tất cả những thứ ấy cho đức vua.” A-rau-na lại nói với ông, “Cầu xin Chúa, Ðức Chúa Trời của ngài, nhậm lời ngài.”
24 Nhưng Ða-vít nói với A-rau-na, “Không, ta muốn mua và trả tiền sòng phẳng cho ngươi, vì ta không muốn dâng các của lễ thiêu lên Chúa, Ðức Chúa Trời của ta, mà ta không tốn kém gì.”
Vậy Ða-vít mua sân đập lúa và các con bò với giá năm mươi sê-ken bạc.[l] 25 Ða-vít xây tại đó một bàn thờ để thờ phượng Chúa, rồi ông dâng các của lễ thiêu và các của lễ cầu an lên Ngài. Chúa nhậm lời cầu nguyện của ông cho đất nước và bệnh dịch ngưng hủy diệt dân I-sơ-ra-ên.
Tranh Giành Kế Vị
1 Vua Ða-vít đã già và cao tuổi. Mặc dù người ta đắp cho ông mấy lớp áo, ông vẫn cảm thấy không đủ ấm. 2 Bề tôi của ông tâu với ông, “Xin để người ta tìm cho chúa thượng của hạ thần một trinh nữ trẻ, để nàng hầu hạ và chăm sóc hoàng thượng. Xin hãy để nàng nằm trong lòng hoàng thượng, như thế chúa thượng của hạ thần mới có thể ấm được.” 3 Vậy họ phái người đi tìm một thiếu nữ xinh đẹp trong khắp lãnh thổ I-sơ-ra-ên, và họ tìm được A-bi-sắc người Su-nem; rồi họ đem nàng đến với vua. 4 Người thiếu nữ ấy rất đẹp. Nàng hầu hạ và săn sóc vua, nhưng vua không có liên hệ tình dục[m] với nàng.
5 Bấy giờ Hoàng Tử A-đô-ni-gia con trai Hoàng Phi Hắc-ghít tự tôn mình lên rằng, “Ta sẽ làm vua.” A-đô-ni-gia sắm cho ông các xe chiến mã, những người đánh xe, và năm mươi người chạy trước mặt ông. 6 Cha ông chẳng hề quở trách ông lấy một lời, mà hỏi rằng, “Tại sao con làm như thế?” Ông lại là một người tuấn tú, sanh kế sau Hoàng Tử Áp-sa-lôm. 7 Ông bàn mưu với Giô-áp con của bà Xê-ru-gia và Tư Tế A-bi-a-tha. Họ đồng lòng ủng hộ A-đô-ni-gia. 8 Nhưng Tư Tế Xa-đốc, Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa, Tiên Tri Na-than, Si-mê-i, Rê-i, và các dũng sĩ của Ða-vít không theo phe A-đô-ni-gia.
9 A-đô-ni-gia tổ chức một buổi lễ dâng các chiên, bò, và thú mập làm các vật hiến tế trên một vầng đá ở Xô-hê-lết, gần Ên Rô-ghên. Ông mời tất cả anh em ông, tức các hoàng tử, và tất cả các quan trong triều đang ở Giu-đa; 10 nhưng ông không mời Tiên Tri Na-than, Bê-na-gia, các dũng sĩ, hay Sa-lô-môn em trai ông.
11 Bấy giờ Na-than nói với Bát-sê-ba mẹ Sa-lô-môn rằng, “Bà không nghe Hoàng Tử A-đô-ni-gia con của Hắc-ghít đã tự xưng làm vua, và Ða-vít chúa của chúng ta không hay biết gì sao? 12 Vậy bây giờ hãy lại đây để tôi bày kế cho, hầu có thể cứu mạng bà và mạng Sa-lô-môn con trai bà. 13 Hãy lập tức đi gặp Vua Ða-vít và tâu với vua rằng: ‘Tâu hoàng thượng: Chẳng phải hoàng thượng đã thề với nữ tỳ của hoàng thượng rằng ‘Con ngươi là Sa-lô-môn chắc chắn sẽ kế vị ta để làm vua, và nó sẽ ngồi trên ngai ta’ chăng? Thế mà sao bây giờ A-đô-ni-gia lại làm vua?’ 14 Rồi khi bà còn ở đó tâu với vua, tôi sẽ vào sau bà và xác nhận những lời bà nói.”
15 Vậy Bát-sê-ba đến gặp vua trong ngự phòng. Bấy giờ vua đã già yếu lắm, và có A-bi-sắc người Su-nem hầu hạ vua. 16 Bát-sê-ba sấp mình phủ phục trước mặt vua. Vua hỏi, “Bà muốn gì?”
17 Bà nói, “Tâu hoàng thượng, hoàng thượng đã thề với tiện thiếp trước mặt Chúa, Ðức Chúa Trời của hoàng thượng, rằng, ‘Con trai ngươi là Sa-lô-môn sẽ kế vị ta để làm vua. Nó sẽ ngồi trên ngai ta.’ 18 Nhưng bây giờ đột nhiên A-đô-ni-gia đã trở thành vua, mà chúa thượng của tiện thiếp vẫn chưa hay biết gì cả. 19 A-đô-ni-gia đã dâng các con vật hiến tế bằng bò, thú mập, và thật nhiều chiên. Hoàng tử ấy đã mời tất cả các hoàng tử khác, luôn cả Tư Tế A-bi-a-tha, Quan Tổng Binh Giô-áp, nhưng tôi tớ của hoàng thượng là Sa-lô-môn thì không được mời. 20 Tâu hoàng thượng, mọi mắt của cả I-sơ-ra-ên đang nhìn vào hoàng thượng để chờ nghe hoàng thượng bảo họ biết ai sẽ ngồi trên ngai kế vị hoàng thượng. 21 Nếu không, rồi đây khi hoàng thượng đã về an giấc cùng tổ tiên mình, thì tiện thiếp và Sa-lô-môn con của tiện thiếp sẽ bị xem như những kẻ tội đồ.”
22 Ðang khi bà còn tâu với vua, Tiên Tri Na-than bước vào. 23 Người ta tâu với vua, “Có Tiên Tri Na-than đến.” Khi vị tiên tri đến trước mặt vua, ông sấp mặt xuống đất bái kiến vua. 24 Tiên Tri Na-than nói, “Tâu chúa thượng của hạ thần, có phải chúa thượng đã nói rằng, ‘A-đô-ni-gia sẽ kế vị ta để làm vua, và nó sẽ ngồi trên ngai ta’ chăng? 25 Vì hôm nay hoàng tử ấy đã đi xuống dâng những con vật hiến tế bằng bò, thú mập, và rất nhiều chiên. Hoàng tử ấy cũng đã mời tất cả các con trai của chúa thượng, Quan Tổng Binh Giô-áp, và Tư Tế A-bi-a-tha. Bây giờ họ đang ăn uống trước mặt hoàng tử ấy và chúc mừng rằng, ‘Vua A-đô-ni-gia vạn tuế!’ 26 Nhưng hạ thần tôi tớ của chúa thượng, hay Tư Tế Xa-đốc, hay Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa, hay tôi tớ của chúa thượng là Sa-lô-môn đều không được mời. 27 Phải chăng việc nầy là do chúa thượng của hạ thần đã sắp đặt như thế, và ngài không muốn cho bầy tôi của ngài biết trước ai sẽ ngồi trên ngai chúa thượng của hạ thần để kế vị?”
Sa-lô-môn Lên Ngôi Làm Vua
28 Vua Ða-vít nói, “Hãy truyền Bát-sê-ba đến gặp ta.” Người ta đưa bà vào triều kiến vua, và bà đứng trước mặt vua. 29 Vua thề rằng, “Nguyện Chúa là Ðấng hằng sống, Ðấng đã cứu mạng ta khỏi mọi nghịch cảnh, làm chứng. 30 Như ta đã thề với ngươi trước mặt Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, rằng ‘Con trai ngươi là Sa-lô-môn sẽ kế vị ta để làm vua, và nó sẽ ngồi trên ngai ta thay cho ta.’ Hôm nay ta sẽ thực hiện điều đó.”
31 Bát-sê-ba liền quỳ sấp mặt xuống đất, phủ phục trước mặt vua, và tâu, “Nguyện chúa của tiện thiếp, Vua Ða-vít, sống đời đời!”
32 Vua Ða-vít phán, “Hãy triệu cho ta Tư Tế Xa-đốc, Tiên Tri Na-than, và Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa.” Khi họ đến trước mặt vua, 33 vua bảo họ, “Các ngươi hãy đem các tôi tớ của chúa các ngươi đi theo, đỡ Sa-lô-môn con trai ta, cỡi trên con lừa của ta, rồi đem nó xuống Ghi-hôn. 34 Tại đó Tư Tế Xa-đốc và Tiên Tri Na-than hãy xức dầu cho nó làm vua trên I-sơ-ra-ên. Rồi các ngươi hãy thổi kèn và hô lên rằng, ‘Vua Sa-lô-môn vạn tuế!’ 35 Sau đó các ngươi hãy theo nó đi lên. Hãy đưa nó vào triều và ngồi trên ngai ta. Nó sẽ làm vua thế cho ta, vì ta chỉ định nó trị vì trên toàn cõi I-sơ-ra-ên và Giu-đa.”
36 Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa tâu với vua, “A-men! Nguyện Chúa, Ðức Chúa Trời của chúa thượng của hạ thần, chuẩn y như vậy. 37 Nguyện Chúa, Ðấng đã ở với chúa thượng của hạ thần, sẽ ở với Sa-lô-môn và làm cho ngôi nước người lớn hơn ngôi nước của Vua Ða-vít, chúa của hạ thần.”
38 Vậy Tư Tế Xa-đốc, Tiên Tri Na-than, Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa, các cận vệ người Kê-rê-thi và đội quân hộ giá người Pê-lê-thi đi xuống, đỡ Sa-lô-môn cỡi lên con lừa của Vua Ða-vít và dẫn Sa-lô-môn đi xuống Ghi-hôn. 39 Tại đó Tư Tế Xa-đốc lấy cái sừng đựng dầu trong Ðền Tạm xức dầu cho Sa-lô-môn. Rồi họ thổi kèn và mọi người reo vang, “Vua Sa-lô-môn vạn tuế!” 40 Toàn thể dân chúng theo Sa-lô-môn đi lên, họ thổi sáo và reo mừng rất lớn, đến nỗi đất rúng động vì tiếng reo hò của họ.
41 A-đô-ni-gia và tất cả quan khách của ông đều nghe tiếng reo hò đó vào lúc vừa mãn tiệc. Khi Giô-áp nghe tiếng kèn thì hỏi, “Tại sao trong thành náo nhiệt như thế?” 42 Khi ông còn đang nói, Giô-na-than con của Tư Tế A-bi-a-tha vừa đến. A-đô-ni-gia nói, “Hãy vào đây, ông là một người được kính trọng; thế nào ông cũng đem tin mừng.”
43 Giô-na-than đáp lời A-đô-ni-gia, “Không đâu! Vì Vua Ða-vít chúa của chúng ta đã lập Sa-lô-môn làm vua rồi. 44 Hoàng thượng đã sai Tư Tế Xa-đốc, Tiên Tri Na-than, Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa, các cận vệ người Kê-rê-thi, cùng đội quân hộ giá người Pê-lê-thi đã đi với Sa-lô-môn, và họ đã đỡ Sa-lô-môn cỡi lên con lừa của vua. 45 Tư Tế Xa-đốc và Tiên Tri Na-than đã xức dầu cho Sa-lô-môn làm vua tại Ghi-hôn, và họ đã reo mừng và đi lên. Ðó là tiếng huyên náo trong thành. Ðó chính là tiếng reo hò mà quý vị đã nghe. 46 Sa-lô-môn bây giờ đang ngồi trên ngai vua. 47 Hơn nữa các triều thần đã đến chúc mừng chúa thượng của chúng ta là Vua Ða-vít rằng, ‘Nguyện Ðức Chúa Trời làm cho danh của Sa-lô-môn trỗi hơn danh của hoàng thượng và ngôi nước của người trỗi hơn ngôi nước của hoàng thượng.’ Nhà vua đã sấp mình xuống nơi giường của người để thờ lạy 48 và đã cầu nguyện thế nầy, ‘Chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng hôm nay đã cho con có người ngồi trên ngai con và cho mắt con được chứng kiến cảnh ấy.’”
49 Bấy giờ tất cả các quan khách của A-đô-ni-gia đều đứng dậy, run sợ, và ai đi đường nấy. 50 A-đô-ni-gia sợ Sa-lô-môn, nên ông đi lên nắm lấy sừng bàn thờ. 51 Người ta báo cáo cho Sa-lô-môn điều đó, rằng, “A-đô-ni-gia đang sợ Vua Sa-lô-môn. Kìa, ông ấy đang nắm lấy sừng bàn thờ và nói rằng, ‘Xin Vua Sa-lô-môn thề với tôi hôm nay rằng vua sẽ không giết tôi tớ của người bằng gươm.’”
52 Vậy Sa-lô-môn đáp, “Nếu anh ấy cứ chứng tỏ anh ấy là một người xứng đáng, thì không một sợi tóc nào của anh ấy sẽ bị rơi xuống đất; nhưng kể từ nay, nếu anh ấy có điều chi gian ác, anh ấy ắt phải chết.” 53 Rồi Vua Sa-lô-môn sai người đem A-đô-ni-gia xuống khỏi bàn thờ. A-đô-ni-gia liền đến bái kiến Vua Sa-lô-môn. Vua Sa-lô-môn bảo ông, “Anh hãy về nhà anh đi.”
Ða-vít Dặn Dò Sa-lô-môn
2 Khi ngày Ða-vít qua đời đến gần, Ða-vít dặn dò Sa-lô-môn con trai ông rằng, 2 “Cha sắp đi vào con đường mọi người trên đất phải đi qua. Vậy con hãy mạnh mẽ, hãy chứng tỏ con là một bậc trượng phu, 3 và hãy để ý kỹ những gì Chúa, Ðức Chúa Trời của con, đòi hỏi nơi con. Con hãy đi trong đường lối của Ngài, vâng giữ các mạng lịnh, điều răn, luật pháp, và quy tắc của Ngài như đã chép trong Luật Pháp Môi-se, để con được thành công trong mọi việc con làm và trong mọi nơi con đến, 4 hầu Chúa sẽ giữ lời Ngài đã hứa với cha rằng, ‘Nếu con cháu ngươi biết cẩn trọng sống trước mặt Ta, nếu chúng hết lòng và hết linh hồn bước đi cách trung thành trước mặt Ta, ngươi sẽ không lo có một người kế vị ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên.’
5 Ngoài ra con cũng đã biết những việc Giô-áp con của bà Xê-ru-gia đã làm cho cha, thế nào ông ấy đã đối với hai vị chỉ huy quân đội của I-sơ-ra-ên, tức Áp-ne con của Nê-rơ và A-ma-sa con của Giê-the. Ông ấy đã giết hai người đó, làm đổ máu họ trong thời bình như thể ngoài trận mạc. Ông ấy đã làm vấy máu chiến trường trên đai lưng của ông ấy và trên giày ông ấy mang nơi chân. 6 Con hãy dùng sự khôn ngoan của con mà xử sự trong việc nầy, và đừng để đầu bạc của ông ấy bình an đi xuống âm phủ.
7 Con hãy đối xử tốt với các con của Bác-xi-lai người Ghi-lê-át. Hãy mời họ ăn đồng bàn với con, vì họ đã đứng bên cha khi cha chạy trốn khỏi Áp-sa-lôm anh con.
8 Con cũng có Si-mê-i con của Ghê-ra người Bên-gia-min ở Ba-hu-rim. Hắn đã lấy những lời độc địa nguyền rủa cha trong ngày cha chạy trốn đến Ma-ha-na-im, nhưng khi hắn xuống đón cha ở bờ Sông Giô-đanh, cha có nhân danh Chúa mà thề với hắn rằng, ‘Ta sẽ không giết ngươi bằng gươm.’ 9 Nhưng con chớ coi hắn là vô tội, vì con khôn ngoan và biết phải đối xử với hắn thể nào. Con hãy làm cho hắn phải mang đầu bạc dính máu xuống âm phủ.”
Ða-vít Qua Ðời
10 Sau đó Ða-vít an giấc cùng các tổ tiên ông và được chôn trong Thành Ða-vít. 11 Những ngày Ða-vít trị vì trên I-sơ-ra-ên là bốn mươi năm. Ông trị vì bảy năm tại Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. 12 Vậy Sa-lô-môn ngồi trên ngai Ða-vít cha ông, và vương quốc của Sa-lô-môn được thiết lập vững vàng.
Sa-lô-môn Củng Cố Vương Quyền
13 A-đô-ni-gia con của Hắc-ghít đến gặp Bát-sê-ba mẹ của Sa-lô-môn. Bà hỏi, “Cậu đến đây có ý bình an chăng?”
A-đô-ni-gia đáp, “Thưa, bình an.” 14 Rồi ông nói tiếp, “Tôi có một lời xin thưa với bà.”
Bà đáp, “Hãy nói đi.”
15 A-đô-ni-gia nói, “Chắc bà cũng biết là vương quốc nầy đáng lý thuộc về tôi, và cả I-sơ-ra-ên đều mong đợi tôi trị vì, nhưng bây giờ vương quốc đã thuộc về em tôi; ấy là do Chúa đã định cho em tôi. 16 Nhưng bây giờ tôi có một điều muốn xin bà, mong bà đừng từ chối.”
Bà đáp, “Hãy nói đi.”
17 A-đô-ni-gia nói, “Xin bà hãy nói giùm với Vua Sa-lô-môn, vì vua chẳng từ chối bà điều gì, xin ban cho tôi A-bi-sắc người Su-nem để làm vợ tôi.”
18 Bát-sê-ba đáp, “Ðược, ta sẽ nói với vua cho ngươi.”
19 Bát-sê-ba đến gặp Vua Sa-lô-môn để xin vua giùm cho A-đô-ni-gia. Vua đứng dậy đón bà và cúi đầu chào bà. Ðoạn vua ngồi xuống trên ngai mình, rồi truyền đem đặt một ngai nữa cho thái hậu, và bà ngồi bên phải vua. 20 Bấy giờ bà nói, “Mẹ có một việc nhỏ xin con, mong con đừng từ chối.”
Vua đáp, “Thưa mẹ, xin mẹ nói, con sẽ không từ chối đâu.”
21 Bà nói, “Hãy ban A-bi-sắc người Su-nem làm vợ A-đô-ni-gia anh con.”
22 Nhưng Vua Sa-lô-môn đáp với thái hậu, “Tại sao mẹ lại xin A-bi-sắc người Su-nem cho A-đô-ni-gia? Sao mẹ không xin cho anh ấy luôn cả vương quốc nầy đi? Vì anh ấy là anh con kia mà. Sao mẹ không xin cho anh ấy Tư Tế A-bi-a-tha và Giô-áp con bà Xê-ru-gia luôn một thể đi?”
23 Bấy giờ Vua Sa-lô-môn nhân danh Chúa mà thề, “Nguyện Ðức Chúa Trời phạt ta cách nặng nề nếu A-đô-ni-gia không bị thiệt mạng vì lời yêu cầu nầy. 24 Vậy bây giờ ta nhân danh Chúa hằng sống, Ðấng đã làm cho ta được vững vàng, đã đặt ta trên ngai của Ða-vít cha ta, và xây dựng một nhà cho ta như Ngài đã hứa, mà nói rằng A-đô-ni-gia phải bị xử tử hôm nay.” 25 Vua Sa-lô-môn truyền lịnh cho Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa. Bê-na-gia đến giết A-đô-ni-gia và A-đô-ni-gia chết.
26 Vua truyền cho Tư Tế A-bi-a-tha, “Hãy trở về A-na-thốt, nơi sản nghiệp của ngươi, vì ngươi đáng chết. Nhưng hôm nay ta không giết ngươi, vì ngươi đã khiêng Rương của Chúa Hằng Hữu[n] trước mặt Ða-vít cha ta, và vì ngươi đã chia sẻ những khổ cực cha ta đã gánh chịu.” 27 Vậy Sa-lô-môn đuổi A-bi-a-tha đi, không cho ông làm tư tế trước mặt Chúa nữa, để lời Chúa đã phán tại Si-lô về gia đình của Tư Tế Hê-li được ứng nghiệm.
28 Khi tin ấy đến tai Giô-áp –vì Giô-áp đã ủng hộ A-đô-ni-gia, mặc dù ông đã không ủng hộ Áp-sa-lôm– ông liền trốn đến Ðền Tạm của Chúa và nắm lấy sừng của bàn thờ. 29 Người ta tâu với Vua Sa-lô-môn, “Giô-áp đã trốn đến Ðền Tạm của Chúa, và kìa ông ấy đang nắm lấy sừng bàn thờ.”
Sa-lô-môn truyền cho Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa, “Hãy đi và giết ông ấy.”
30 Vậy Bê-na-gia đến Ðền Tạm của Chúa và nói với ông ấy, “Vua truyền rằng: Ông hãy ra khỏi nơi đó.”
Nhưng Giô-áp đáp, “Không. Tôi sẽ chết ở đây.”
Bê-na-gia tâu lại với vua, “Tôi đã nói với Giô-áp như thế đó, và ông ấy đã đáp lại như thế kia.”
31 Vua truyền cho ông, “Hãy làm y như ông ấy đã nói. Hãy giết ông ấy và đem chôn ông ấy đi. Như thế ta và nhà cha ta sẽ được cất khỏi máu vô tội mà Giô-áp đã làm đổ ra vô cớ. 32 Chúa sẽ báo trả những hành động đẫm máu lại trên đầu ông ấy, bởi vì trong khi Ða-vít cha ta không hay biết, ông ấy đã bất thần tấn công và giết hai người ngay lành và tốt hơn ông ấy, đó là Áp-ne con của Nê-rơ, chỉ huy trưởng quân đội I-sơ-ra-ên, và A-ma-sa con của Giê-the, chỉ huy trưởng quân đội Giu-đa. 33 Vậy máu của họ sẽ đổ lại trên đầu của Giô-áp và trên đầu của dòng dõi ông ấy mãi mãi; nhưng Ða-vít và dòng dõi của người, cùng nhà người, và ngôi nước người sẽ được bình an do Chúa ban cho đến đời đời.”
34 Vậy Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa đi lên, đánh hạ Giô-áp, và giết ông ấy. Người ta chôn ông ấy tại nhà của ông, gần sa mạc. 35 Vua lập Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa làm chỉ huy trưởng quân đội thay cho Giô-áp, và vua cũng lập Tư Tế Xa-đốc thay thế chức vụ của A-bi-a-tha.
36 Sau đó vua truyền cho Si-mê-i vào chầu và phán, “Hãy cất cho ngươi một cái nhà trong Giê-ru-sa-lem và ở đó. Chớ ra khỏi đó để đi đây đi đó. 37 Vì ngươi khá biết rằng hễ ngày nào ngươi ra khỏi đó mà vượt qua khỏi Khe Kít-rôn, ngươi sẽ chết. Máu của ngươi sẽ đổ lại trên đầu ngươi.”
38 Si-mê-i đáp với vua, “Lời của hoàng thượng thật là tốt. Chúa thượng của hạ thần đã truyền dạy thế nào, hạ thần sẽ làm y như thế.” Vậy Si-mê-i sống ở Giê-ru-sa-lem lâu ngày.
39 Nhưng sau ba năm, hai đầy tớ của Si-mê-i bỏ trốn đến với Vua A-kích con của Ma-a-ca của xứ Gát. Người ta báo cho Si-mê-i, “Kìa, các đầy tớ của ông đang ở tại Gát.” 40 Si-mê-i liền đứng dậy, thắng lừa, và đến Gát, gặp A-kích để tìm các đầy tớ của ông. Vậy Si-mê-i đến Gát và bắt các đầy tớ của ông về.
41 Khi Vua Sa-lô-môn được tâu rằng Si-mê-i đã rời Giê-ru-sa-lem đi Gát và đã trở về, 42 vua cho gọi Si-mê-i vào và nói với ông, “Có phải ta đã bắt ngươi thề trước mặt Chúa và cảnh cáo ngươi rằng, ‘Ngày nào ngươi rời khỏi Giê-ru-sa-lem mà đi đây đi đó, ngươi sẽ chết’ chăng? Ngươi đã nói với ta rằng, ‘Lời của hoàng thượng nói thật là tốt. Tôi sẽ tuân theo.’ 43 Thế tại sao ngươi không giữ lời ngươi đã thề trước mặt Chúa và tuân theo lệnh ta đã truyền cho ngươi?”
44 Vua lại nói tiếp với Si-mê-i, “Ngươi đã biết và lòng ngươi cũng đã quá rõ những việc ác ngươi đã làm đối với Ða-vít cha ta. Bây giờ Chúa sẽ báo trả ngươi những việc ác ngươi đã làm. 45 Nhưng Vua Sa-lô-môn sẽ được ban phước và ngôi của Ða-vít sẽ tồn tại cách vững bền trước mặt Chúa đời đời.”
46 Kế đó vua truyền lịnh cho Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa; ông ấy đến đánh Si-mê-i, và Si-mê-i chết. Như vậy vương quốc được thiết lập vững vàng trong tay Sa-lô-môn.
Sa-lô-môn Xin Sự Khôn Ngoan
(2 Sử 1:3-12)
3 Sa-lô-môn kết đồng minh với Pha-ra-ôn vua Ai-cập. Ông cưới con gái của Pha-ra-ôn, rồi đưa nàng về Thành Ða-vít, cho đến khi ông hoàn thành công trình xây cất cung điện cho ông, Ðền Thờ cho Chúa, và tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem. 2 Tuy nhiên dân chúng vẫn còn sát tế trên các tế đàn ở các nơi cao, vì đến bấy giờ ông chưa xây Ðền Thờ cho danh Chúa. 3 Sa-lô-môn kính mến Chúa, bước đi theo những huấn lệnh của Ða-vít cha ông, ngoại trừ ông vẫn còn sát tế và dâng hương trên các tế đàn ở các nơi cao.
4 Vua đi đến Ghi-bê-ôn để sát tế, vì đó là chỗ thờ phượng trên nơi cao quan trọng nhất. Tại đó Sa-lô-môn dâng trên bàn thờ một ngàn của lễ thiêu. 5 Tại Ghi-bê-ôn, ban đêm Chúa hiện ra cùng Sa-lô-môn trong chiêm bao, Ðức Chúa Trời phán rằng, “Hãy cầu xin Ta bất cứ điều gì ngươi muốn, Ta sẽ ban cho.”
6 Sa-lô-môn thưa, “Ngài đã lấy lòng nhân từ mà đối xử với tôi tớ Ngài là Ða-vít cha con, vì cha con đã hết lòng bước đi cách trung thành, ngay lành, và chính trực trước mặt Ngài. Ngài lại tiếp tục bày tỏ lòng nhân từ lớn lao ấy đối với cha con mà ban cho cha con một con trai để ngồi trên ngai của cha con cho đến ngày nay. 7 Bây giờ, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của con, Ngài đã cho tôi tớ Ngài được làm vua kế vị cho Ða-vít cha con, nhưng con chỉ là một đứa trẻ; con không biết phải điều khiển việc nước như thế nào. 8 Tôi tớ Ngài lại ở giữa tuyển dân của Ngài, thật là một dân lớn và rất đông, không thể đếm hết được. 9 Vậy xin Ngài ban cho tôi tớ Ngài một tâm trí thông minh khôn sáng, một khả năng phân biệt chính tà để trị vì dân Ngài, vì ai có thể trị vì một dân lớn như thế nầy của Ngài?”
10 Chúa rất hài lòng vì Sa-lô-môn đã xin điều ấy. 11 Vậy Ðức Chúa Trời phán với ông, “Bởi vì ngươi xin điều nầy, mà không xin cho ngươi được sống lâu hay giàu có, ngươi cũng không xin cho những kẻ thù của ngươi bị tiêu diệt, nhưng lại xin sự thông minh khôn sáng để thi hành công lý, 12 nầy, Ta sẽ ban cho ngươi điều ngươi cầu xin. Nầy, Ta sẽ ban cho ngươi tâm trí khôn ngoan và thông sáng, đến nỗi trước ngươi chưa có ai bằng, và sau ngươi sẽ không ai sánh kịp. 13 Ngoài ra Ta sẽ ban cho ngươi những điều ngươi không cầu xin. Ngươi sẽ được cả giàu có lẫn tôn trọng, đến nỗi trọn đời ngươi không một vua nào có thể sánh với ngươi. 14 Nếu ngươi cứ bước đi trong đường lối Ta, vâng theo các luật lệ và các điều răn Ta, như Ða-vít cha ngươi đã làm, Ta sẽ cho ngươi được trường thọ.”
15 Bấy giờ Sa-lô-môn thức giấc và nhận biết rằng đó là một giấc chiêm bao. Ông trở về Giê-ru-sa-lem, đứng chầu trước Rương Giao Ước của Chúa, và dâng lên Ngài các của lễ thiêu và các của lễ tạ ơn.[o] Sau đó ông mở một yến tiệc thết đãi tất cả quần thần của ông.
Sa-lô-môn Xử Kiện
16 Bấy giờ người ta đem hai cô gái điếm đến đứng trước mặt vua. 17 Một người nói, “Tâu chúa thượng, người đàn bà nầy và tôi sống chung một nhà. Tôi sinh được một con trai trong lúc chị ấy đang ở nhà với tôi. 18 Ngày thứ ba, sau khi tôi sinh con, chị ấy cũng sinh một con trai. Chỉ có hai chúng tôi ở trong nhà, không có người nào khác. 19 Ðang đêm, con trai của chị ấy chết, vì chị ngủ say và đè trên đứa bé. 20 Thế rồi nửa đêm chị ấy thức dậy, đang lúc tôi ngủ say, chị đến bế con trai của tôi đang ở bên cạnh tôi và đem nó đặt vào lòng chị; sau đó chị đem đứa con đã chết của chị để vào lòng tôi. 21 Sáng hôm sau tôi dậy cho con tôi bú, thì kìa, nó đã chết rồi. Nhưng khi trời sáng, tôi nhìn kỹ, tôi biết rằng đó không phải là đứa con tôi đã sinh ra.”
22 Người đàn bà kia nói, “Không! Ðứa sống là con tôi, đứa chết là con chị.”
Nhưng người nọ cứ khẳng định, “Không! Ðứa chết là con chị, đứa sống là con tôi.” Vậy họ cãi nhau trước mặt vua.
23 Vua phán, “Người nầy nói, ‘Con tôi là đứa sống, còn con chị là đứa chết,’ trong khi người kia nói, ‘Không! Con chị là đứa chết, còn con tôi là đứa sống.’”
24 Bấy giờ vua truyền, “Hãy đem cho ta một thanh gươm.” Vậy họ mang đến vua một thanh gươm. 25 Vua ra lịnh, “Hãy chặt đứa bé còn sống đó ra làm hai, cho người nầy một nửa và người kia một nửa.”
26 Người đàn bà mẹ của đứa con còn sống rất xúc động vì thương con, bà tâu với vua, “Tâu chúa thượng, xin đừng. Xin cho chị ấy đứa bé. Xin đừng giết nó!”
Nhưng người kia nói, “Nó sẽ không là con của chị và cũng không là con của tôi. Cứ chặt nó ra làm hai đi.”
27 Bấy giờ vua phán quyết, “Hãy trao đứa bé còn sống cho người thứ nhất. Ðừng giết nó. Người ấy chính là mẹ nó.”
28 Khi cả I-sơ-ra-ên đã nghe về phán quyết của vua, họ kính phục vua, vì họ nhận thấy vua có sự khôn ngoan của Ðức Chúa Trời để thi hành công lý.
4 Vua Sa-lô-môn trị vì trên toàn cõi I-sơ-ra-ên. 2 Sau đây là quần thần của ông:
A-xa-ri-a con của Xa-đốc làm tư tế.
3 Ê-li-ô-rếp và A-hi-gia, hai con trai của Si-sa, làm hai bí thư.
Giê-hô-sa-phát con của A-hi-lút làm ngự sử.
4 Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa chỉ huy quân đội.
Xa-đốc và A-bi-a-tha làm tư tế.
5 A-xa-ri-a con của Na-than chỉ huy các quan lại.
Xa-bút con của Na-than làm tư tế và cố vấn của vua.
6 A-hi-sa làm tổng quản hoàng cung.
A-đô-ni-ram con của Áp-đa phụ trách việc lao dịch.
7 Sa-lô-môn có mười hai quan trưởng trên toàn cõi I-sơ-ra-ên. Họ phụ trách việc cung cấp lương thực cho vua và mọi người trong triều đình. Mỗi người chịu trách nhiệm cung cấp một tháng trong một năm. 8 Ðây là tên của họ:
Bên Hu-rơ phụ trách vùng Cao Nguyên Ép-ra-im.
9 Bên Ðéc-ke phụ trách vùng Ma-cát, Sa-anh-bim, Bết Sê-mết, và Ê-lôn thuộc Bết Ha-nan.
10 Bên Hê-sết phụ trách vùng A-rúp-bốt. Ông ấy cũng quản nhiệm vùng Sô-cô và toàn xứ Hê-phe.
11 Bên A-bi-na-đáp phụ trách toàn vùng cao nguyên Ðô-rơ. Vợ ông là Công Chúa Ta-phát, ái nữ của Sa-lô-môn.
12 Ba-a-na con của A-hi-lút phụ trách vùng Ta-a-nác, Mê-ghi-đô, cả xứ Bết Sê-an gần Xa-rê-than phía dưới Giê-rê-ên, và vùng từ Bết Sê-an đến A-bên Mê-hô-la chạy dài đến phía bên kia Giốc-mê-am.
13 Bên Ghê-be ở Ra-mốt Ghi-lê-át phụ trách các thị trấn của Giai-rơ con của Ma-na-se trong miền Ghi-lê-át. Ông cũng cai trị vùng Ạc-gốp trong xứ Ba-san, gồm sáu mươi thành có tường bao quanh và cổng thành có những thanh cài làm bằng đồng.
14 A-hi-na-đáp con của I-đô phụ trách vùng Ma-ha-na-im.
15 A-hi-ma-a phụ trách vùng Náp-ta-li. Ông cưới Công Chúa Ba-sê-mát ái nữ của Sa-lô-môn làm vợ.
16 Ba-a-na con của Hu-sai phụ trách vùng A-se và Bê-a-lốt.
17 Giê-hô-sa-phát con của Pa-ru-a phụ trách vùng I-sa-ca.
18 Si-mê-i con của Ê-la phụ trách vùng Bên-gia-min.
19 Ghê-be con của U-ri phụ trách vùng Ghi-lê-át. Ngày trước vùng đó là lãnh thổ của Si-hôn vua dân A-mô-ri và Óc vua Ba-san. Chỉ một mình ông làm quan cai trị cả xứ ấy.
Sự Huy Hoàng của Triều Ðại Sa-lô-môn
20 Dân Giu-đa và dân I-sơ-ra-ên đông như cát nơi bờ biển. Họ ăn, uống, và sống an vui. 21 Sa-lô-môn trị vì trên các vương quốc từ Sông Ơ-phơ-rát[p] đến xứ Phi-li-tin, tận đến biên giới Ai-cập. Người ta phải triều cống và phục vụ Vua Sa-lô-môn trọn đời ông.
22 Mỗi ngày trong hoàng cung của Sa-lô-môn người ta tiêu thụ sáu ngàn sáu trăm lít[q] bột mịn, mười ba ngàn hai trăm lít[r] bột thô, 23 mười con bò mập nuôi trong chuồng, hai mươi con bò nuôi ngoài đồng, một trăm con chiên, không kể nai, hoàng dương, mang rừng, và gà vịt nuôi mập.
24 Sa-lô-môn trị vì trên các nước phía tây Sông Ơ-phơ-rát, từ Típ-sa đến Ga-xa. Tất cả các nước phía tây Sông Ơ-phơ-rát đều ở dưới quyền của ông. Ông giao hảo thân thiện với tất cả các nước chung quanh. 25 Trọn đời Sa-lô-môn trị vì, Giu-đa và I-sơ-ra-ên, từ Ðan cho đến Bê-e Sê-ba, sống an cư lạc nghiệp. Ai nấy đều sống an lành dưới bóng mát của cây nho và cây vả của mình.
26 Sa-lô-môn có bốn mươi ngàn[s] chuồng ngựa để nuôi ngựa kéo các xe chiến mã do mười hai ngàn kỵ binh điều khiển.
27 Các quan trưởng mỗi vùng cứ theo tháng đã định cho họ cung cấp mọi nhu cầu thực phẩm cho Vua Sa-lô-môn và tất cả những ai đến bàn ăn của Vua Sa-lô-môn. Họ không để cho thiếu vật chi. 28 Họ còn đem đến nơi đã chỉ định lúa mạch và rơm cho ngựa chiến và ngựa kéo xe chiến mã theo số đã quy định cho họ.
Sự Khôn Ngoan của Sa-lô-môn
29 Ðức Chúa Trời ban cho Sa-lô-môn khôn ngoan, thông sáng, và một kiến thức uyên bác vô kể như cát nơi bờ biển. 30 Sự khôn ngoan của Sa-lô-môn trỗi hơn sự khôn ngoan của mọi người ở phương đông, trỗi hơn sự khôn ngoan của mọi người ở Ai-cập. 31 Sa-lô-môn khôn ngoan hơn mọi người khác, kể cả Ê-than người Ê-xơ-ra-hi. Ông khôn ngoan hơn Hê-man, Canh-côn, và Ðạc-đa, tức các con trai của Ma-hôn. Danh tiếng của ông thật lẫy lừng trong các nước chung quanh. 32 Ông nói ra ba ngàn câu châm ngôn và sáng tác một ngàn lẻ năm bài hát. 33 Ông luận về các thảo mộc, từ cây bá hương ở Li-băng cho đến cây bài hương mọc ở bờ tường. Ông giảng giải về các thú vật và chim chóc, loài bò sát và loài cá. 34 Thiên hạ từ mọi nước kéo đến để nghe những lời khôn ngoan của Sa-lô-môn. Khi các vua trên đất nghe nói về sự khôn ngoan của Sa-lô-môn, họ phái người đến triều kiến để nghe sự khôn ngoan của ông.
Sa-lô-môn Chuẩn Bị Xây Cất Ðền Thờ
(2 Sử 2:1-18)
5 Khi Vua Hi-ram của Ty-rơ nghe rằng Sa-lô-môn đã được xức dầu làm vua kế vị cho vua cha là Ða-vít, ông sai các sứ giả đến triều kiến Sa-lô-môn, vì ông là bạn của Vua Ða-vít lúc sinh tiền. 2 Sa-lô-môn gởi sứ điệp đến Vua Hi-ram, tâu rằng:
3 “Chắc ngài đã biết rằng vì chiến tranh giặc giã tứ phía nên thân phụ tôi đã không có thể xây cất một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của người, cho đến khi Chúa đã cho người đè bẹp các kẻ thù của người dưới chân. 4 Nhưng bây giờ Chúa, Ðức Chúa Trời của tôi, đã cho tôi được bình an tứ phía, không còn quân thù và cũng chẳng có tai họa. 5 Vì thế tôi muốn xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của tôi, như Chúa đã phán với Ða-vít thân phụ tôi rằng, ‘Con trai ngươi, kẻ Ta sẽ đặt trên ngai kế vị ngươi, sẽ xây một Ðền Thờ cho danh Ta.’ 6 Vậy xin ngài ban lịnh cho phép đốn những cây bá hương ở Li-băng cho tôi. Người của tôi sẽ làm việc với người của ngài. Tôi sẽ trả lương cho người của ngài theo giá do ngài ấn định, vì ngài biết rằng không ai trong chúng tôi thạo nghề đốn gỗ bằng người Si-đôn.”
7 Khi Hi-ram nghe những lời ấy, ông rất vui mừng và nói, “Chúc tụng Chúa, vì ngày nay Ngài đã ban cho Ða-vít một con trai khôn ngoan để trị vì trên một nước lớn như thế.”
8 Vậy Hi-ram sai người đến nói với Sa-lô-môn, “Tôi đã nhận được sứ điệp do ngài đã sai người đem đến tôi. Tôi sẽ làm cho ngài mọi điều ngài muốn về việc gỗ bá hương và gỗ tùng. 9 Người của tôi sẽ di chuyển các gỗ đó từ Li-băng xuống biển, rồi tôi sẽ cho đóng bè và đưa đến nơi ngài chỉ định. Tại đó, tôi sẽ rã bè, và ngài sẽ lấy đi. Còn ngài, xin ngài làm cho tôi điều tôi yêu cầu, ấy là cung cấp lương thực cho cả triều đình của tôi.”
10 Như thế Hi-ram cung cấp cho Sa-lô-môn tất cả gỗ bá hương và gỗ tùng ông muốn. 11 Còn Sa-lô-môn cung cấp cho Hi-ram bốn ngàn bốn trăm tấn[t] lúa mì làm lương thực cho triều đình của ông ấy. Ngoài ra ông còn cấp thêm cho Hi-ram bốn ngàn bốn trăm lít[u] dầu ô-liu nguyên chất. Sa-lô-môn cung cấp như thế cho Hi-ram hằng năm. 12 Chúa ban cho Sa-lô-môn sự khôn ngoan như Ngài đã phán với ông. Giữa Hi-ram và Sa-lô-môn có mối giao hảo thân thiện, và hai vua đã kết ước với nhau.
13 Vua Sa-lô-môn truyền lịnh trưng dụng dân công trong khắp I-sơ-ra-ên. Có ba mươi ngàn người nằm trong thành phần nầy. 14 Vua phái họ thay phiên nhau đến Li-băng, mỗi tháng mười ngàn người. Vậy họ ở Li-băng một tháng và ở nhà hai tháng. A-đô-ni-ram chỉ huy lực lượng dân công nầy. 15 Sa-lô-môn có bảy mươi ngàn người làm lao công và tám mươi ngàn người đục đá trên núi. 16 Ngoài ra, còn có ba ngàn ba trăm[v] người do vua bổ nhiệm để quản lý công trình xây cất và điều động nhân công. 17 Theo lịnh vua, họ cho đục những tảng đá quý thành những phiến đá vuông vức và to lớn để làm nền Ðền Thờ. 18 Những thợ khéo của Sa-lô-môn và Hi-ram cùng với người Ghê-banh[w] lo việc đốn gỗ và đục đá để chuẩn bị xây cất Ðền Thờ.
Xây Cất Ðền Thờ
(2 Sử 3:1-7)
6 Năm thứ bốn trăm tám mươi sau khi dân I-sơ-ra-ên ra khỏi đất Ai-cập, tức là năm thứ tư của thời Sa-lô-môn trị vì trên dân I-sơ-ra-ên, vào tháng Xi-vơ, tức tháng thứ hai, ông bắt đầu xây cất Ðền Thờ để thờ phượng Chúa.
2 Ngôi đền mà Vua Sa-lô-môn xây cất cho Chúa dài ba mươi mét, rộng mười mét, và cao mười lăm mét.[x] 3 Tiền đình ở trước chính điện của Ðền Thờ dài mười mét, theo chiều rộng của Ðền Thờ, và rộng năm mét,[y] nối theo chiều dài của Ðền Thờ. 4 Vua cũng làm những cửa sổ có chấn song cho Ðền Thờ. 5 Dọc theo tường quanh chính điện và Nơi Chí Thánh ông xây các tầng lầu với nhiều phòng chái. 6 Tầng dưới rộng hai mét rưỡi, tầng giữa rộng ba mét, và tầng thứ ba rộng ba mét rưỡi.[z] Ông cho xây các vách tường thụt vào để các cây đà của các tầng lầu có thể gác đầu trên các vách, nhưng không đâm vào vách Ðền Thờ.
7 Khi xây cất đền, người ta chỉ dùng những khối đá đã được đục sẵn nơi các hầm đá, nên khi xây cất không ai nghe tiếng búa, tiếng đục đẽo, hay tiếng một dụng cụ bằng sắt nào cả.
8 Lối vào tầng dưới[aa] nằm về bên phải[ab] của Ðền Thờ. Người ta làm một cầu thang hình xoắn ốc đi từ dưới lên tầng giữa, rồi từ tầng giữa đi lên tầng thứ ba. 9 Vậy ông xây cất Ðền Thờ và hoàn tất công trình xây cất ấy. Ông đóng trần Ðền Thờ bằng những cây đà ngang và những phiến gỗ bá hương. 10 Ông cũng xây các phòng dọc theo tường Ðền Thờ. Mỗi phòng cao hai mét rưỡi.[ac] Những phòng ấy dính liền với Ðền Thờ bằng các cây đà làm bằng gỗ bá hương.
11 Có lời của Chúa phán với Sa-lô-môn, 12 “Về ngôi đền mà ngươi đang xây cất, nếu ngươi đi theo các mạng lịnh Ta, thi hành các luật lệ Ta, giữ gìn mọi điều răn Ta, và vâng theo chúng, Ta sẽ làm trọn những lời Ta đã hứa với Ða-vít cha ngươi trên đời sống ngươi. 13 Ta sẽ ngự giữa dân I-sơ-ra-ên và Ta sẽ không bỏ I-sơ-ra-ên dân Ta.”
14 Vậy Sa-lô-môn xây cất Ðền Thờ và hoàn tất công trình xây cất ấy.
Bài Trí Bên Trong Ðền Thờ
(2 Sử 3:8-14)
15 Ông dùng ván bá hương lát mặt tường trong của Ðền Thờ, từ nền cho đến trần. Còn mặt nền của Ðền Thờ thì ông lát bằng ván tùng. 16 Ông dùng ván bá hương ngăn mười mét[ad] phần trong cùng của Ðền Thờ, từ nền cho đến trần, thành một phòng cực thánh ở trong cùng, và gọi là Nơi Chí Thánh. 17 Phần chính điện ở phía trước của Nơi Chí Thánh dài hai mươi mét.[ae] 18 Tường bên trong của Ðền Thờ được lát toàn bằng ván bá hương chạm trổ những hình trái bầu và hoa nở. Chỗ nào cũng là gỗ bá hương chứ không thấy đá.
19 Ông cũng chuẩn bị một Nơi Chí Thánh trong Ðền Thờ để đặt Rương Giao Ước của Chúa tại đó. 20 Nơi Chí Thánh dọc mười mét, ngang mười mét, và cao mười mét.[af] Ông dát vàng ròng khắp Nơi Chí Thánh. Ông cũng dát vàng ròng cho bàn thờ làm bằng gỗ bá hương. 21 Sa-lô-môn dát vàng ròng bên trong Ðền Thờ. Ông cho giăng một dây xích làm bằng vàng ở phía trước Nơi Chí Thánh, là nơi cũng được dát bằng vàng. 22 Vậy ông dát vàng toàn phía trong Ðền Thờ đến nỗi không còn một chỗ nào là không được dát vàng. Ông cũng dát vàng bàn thờ ở trong Nơi Chí Thánh.
23 Trong Nơi Chí Thánh, ông làm hai chê-ru-bim bằng gỗ ô-liu, mỗi chê-rúp[ag] cao năm mét.[ah] 24 Một cánh của chê-rúp dài hai mét rưỡi, cánh kia cũng dài hai mét rưỡi; vậy từ đầu cánh nầy đến đầu cánh kia là năm mét.[ai] 25 Chê-rúp thứ hai cũng đo được năm mét. Cả hai chê-ru-bim đều giống nhau về kích thước lẫn hình dạng. 26 Chiều cao của một chê-rúp là năm mét; chê-rúp thứ hai cũng vậy. 27 Ông đặt hai chê-ru-bim với đôi cánh dang ra ấy vào Nơi Chí Thánh của Ðền Thờ. Một cánh của một chê-rúp đụng ở tường nầy, một cánh của chê-rúp kia đụng ở tường kia, hai cánh còn lại chạm vào nhau ở chính giữa Nơi Chí Thánh. 28 Ông dát vàng cả hai chê-ru-bim.
29 Trên tường chung quanh Ðền Thờ, ông chạm hình các chê-ru-bim, các cây chà là, và các cành hoa nở, cả Nơi Chí Thánh lẫn Nơi Thánh[aj]. 30 Ông cũng dát vàng mặt nền của Ðền Thờ, cả Nơi Chí Thánh lẫn Nơi Thánh.
31 Lối vào Nơi Chí Thánh, ông làm hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, gắn vào hai trụ cửa có năm cạnh. 32 Trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, ông chạm hình các chê-ru-bim, các cây chà là, và các cành hoa nở. Ông dát vàng hình các chê-ru-bim và các cây chà là bằng vàng cán mỏng. 33 Lối vào Nơi Thánh cũng vậy, ông làm các trụ cửa có bốn cạnh bằng gỗ ô-liu. 34 Ông cũng làm hai cửa bằng gỗ tùng; cửa nầy có hai cánh xoay trên bản lề, và cửa kia cũng có hai cánh xoay trên bản lề. 35 Ông chạm hình các chê-ru-bim, các cây chà là, và các cành hoa nở trên các cánh cửa, rồi lấy vàng khảm vào những đường nét đã chạm.
36 Ông cũng xây hàng rào để làm sân trong, trước mặt tiền của Ðền Thờ. Hàng rào ấy được xây như thế nầy: cứ ba hàng đá quý được đục đẽo mỹ thuật thì có một hàng xà ngang làm bằng gỗ bá hương.
37 Năm thứ tư, vào tháng Xi-vơ, nền Ðền Thờ Chúa được khai móng. 38 Năm thứ mười một, tháng Bun tức tháng tám, công trình xây cất Ðền Thờ được hoàn tất, đúng theo các chi tiết về kiểu mẫu và kích thước đã định. Ông mất bảy năm mới xây xong Ðền Thờ.
Sa-lô-môn Xây Cung Ðiện
7 Sa-lô-môn cũng xây cất cung điện cho ông. Ông hoàn tất công trình xây cất đó trong mười ba năm.
2 Ông xây Cung Ðiện Rừng Li-băng. Cung điện ấy dài năm mươi mét, rộng hai mươi lăm mét, và cao mười lăm mét.[ak] Cung điện được xây trên bốn hàng cột gỗ bá hương; gỗ bá hương cũng được dùng làm đà đặt trên các hàng cột gỗ bá hương. 3 Trần cung điện được lát bằng gỗ bá hương, do bốn mươi lăm cây đà nâng đỡ, mười lăm cây mỗi dãy, các đà ấy đều gác đầu trên cột. 4 Có ba dãy cửa sổ, các cửa sổ đối diện nhau, và cứ mỗi ba cửa sổ thành một bộ. 5 Gỗ của tất cả các cửa và khung cửa đều có bốn cạnh, đối diện với nhau, và cứ ba cửa thành một bộ.
6 Ông cũng xây một sảnh đường bằng cột, sảnh đường ấy dài hai mươi lăm mét, rộng mười lăm mét.[al] Phía trước sảnh đường là một vòm mặt tiền với một hàng cột và một mái hiên.
7 Ông cũng xây một triều cung để đặt ngai vàng, nơi ông xét đoán; đó là Cung Công Lý. Cung ấy được lát bằng gỗ bá hương từ sàn cho đến trần.
8 Còn cung thất, nơi ông ở, nằm phía sau triều cung, cũng có lối kiến trúc như thế. Sa-lô-môn cũng xây một cung tương tự cho con gái của Pha-ra-ôn mà ông đã cưới làm vợ.
9 Tất cả các cung điện ấy đều được xây bằng đá quý – các đá ấy được đục đẽo cắt xén theo kích thước đã định sẵn – cả phía trước lẫn phía sau, từ nền cho đến trần, từ bên ngoài cho đến đại sảnh. 10 Nền các cung điện làm bằng những phiến đá quý và lớn, mỗi phiến rộng bốn mét và dài năm mét.[am] 11 Xây trên nền là các phiến đá thượng hạng đã cắt sẵn theo kích thước, và gỗ bá hương. 12 Chung quanh đại sảnh là ba hàng đá và một hàng đà bằng gỗ bá hương, giống như nội điện của Ðền Thờ Chúa và tiền đình của Ðền Thờ.
Hi-ram Người Thợ Ðồng
13 Vua Sa-lô-môn sai người mời Hi-ram ở Ty-rơ về. 14 Ông là con một góa phụ thuộc chi tộc Náp-ta-li, cha ông là người Ty-rơ, một chuyên viên làm đồ đồng. Hi-ram là một người có tài khéo, kinh nghiệm, và có kiến thức về nghệ thuật và kỹ thuật làm đồ đồng. Ông đến với Vua Sa-lô-môn và làm mọi việc vua giao cho ông.
Trụ Ðồng của Ðền Thờ
(2 Sử 3:15-17)
15 Hi-ram đúc hai trụ đồng, mỗi trụ cao chín mét;[an] chu vi mỗi trụ là sáu mét[ao] nếu lấy dây mà đo. 16 Ông cũng đúc hai đầu trụ bằng đồng để đặt trên đầu hai trụ. Chiều cao của đầu trụ nầy là hai mét rưỡi,[ap] chiều cao của đầu trụ kia cũng hai mét rưỡi. 17 Ông cũng làm một lưới bằng đồng gắn trên đầu mỗi trụ; lưới ấy do các dây chuyền đồng kết lại; các dây chuyền ấy được đúc theo hình các đóa hoa. Có bảy dây chuyền cho đầu trụ nầy và bảy dây chuyền cho đầu trụ kia. 18 Hi-ram cũng đúc hai hàng trái lựu bằng đồng, gắn bên ngoài lưới bằng đồng, ở trên đầu trụ, để tô điểm cho đầu trụ được đẹp đẽ. Ông làm như vậy cho mỗi đầu trụ. 19 Các đầu trụ đặt trên các trụ dựng nơi tiền đình đều được đúc theo hình hoa huệ; các hình ấy cao hai mét.[aq] 20 Ở ngoài mặt, trên chóp mỗi đầu trụ, gần lưới đồng, ông cho đúc một hàng hai trăm trái lựu, gắn quanh đầu trụ. 21 Ðoạn ông dựng hai trụ ấy nơi tiền đình của Ðền Thờ. Ông dựng một trụ bên phải và đặt tên là Gia-kin;[ar] ông dựng một trụ bên trái và đặt tên là Bô-a.[as] 22 Mỗi đầu trụ đặt trên chóp trụ đều có hình hoa huệ. Vậy công việc làm hai trụ đồng được hoàn tất.
Bể Nước Bằng Ðồng
(2 Sử 4:2-5)
23 Hi-ram cũng đúc một bể nước tròn, bằng đồng, đường kính của miệng bể là năm mét; bể nước nầy cao hai mét rưỡi, với chu vi mười lăm mét[at] nếu lấy dây mà đo. 24 Ông cũng cho đúc hai hàng hình trái bầu quanh miệng bể, cứ nửa mét[au] mười trái. Ông cho đúc như thế cùng một lượt khi đúc bể. 25 Bể nước bằng đồng nầy được đặt trên lưng mười hai con bò đúc, đứng quay đuôi vào nhau. Ba con quay mặt về hướng bắc, ba con quay mặt về hướng tây, ba con quay mặt về hướng nam, và ba con quay mặt về hướng đông. 26 Thành bể dày bằng bề ngang của bàn tay, và miệng bể giống như miệng chén hình hoa huệ. Bể ấy chứa được bốn mươi bốn ngàn lít nước.[av]
Xe Ðồng và Bồn Nước
27 Hi-ram cũng làm mười chiếc xe bằng đồng, mỗi xe có chiều ngang hai mét, chiều dọc hai mét, và chiều cao một mét rưỡi.[aw] 28 Kiểu của mỗi xe như sau: mỗi xe đều có các tấm đồng gắn vào khung. 29 Trên mỗi tấm đồng gắn vào khung có chạm hình các sư tử, các bò đực, và các chê-ru-bim. Phía trên và phía dưới các hình của các sư tử và các bò đực được chạm hình các dây hoa. 30 Mỗi xe có bốn bánh bằng đồng và các trục bằng đồng. Ở bốn góc xe lại có bốn cái trụ để chịu sức nặng của sàn xe. Bốn trụ ấy được đúc liền với khung xe và ngoài mặt các trụ ấy có chạm hình các dây hoa. 31 Trên mặt sàn xe là một khung tròn để làm đế cho bồn nước, khung nầy cao hơn mặt sàn xe nửa mét và lõm xuống bảy tấc rưỡi.[ax] Mặt của thành khung được chạm khắc mỹ thuật. Mặt ấy được làm bằng những tấm đồng vuông, chứ không tròn. 32 Dưới các tấm đồng của thân xe là bốn bánh và các trục bánh xe. Mỗi bánh xe cao bảy tấc rưỡi.[ay] 33 Các bánh xe ấy cũng được làm giống như các bánh xe của xe chiến mã. Cây trục, vành, căm, và bộ trục đều được đúc. 34 Ở bốn góc xe, dưới bốn trụ là bốn cái đế được đúc liền với xe. 35 Trên mặt sàn xe cũng có một niền tròn, cao hai tấc rưỡi.[az] Thành của niền và chân của nó được đúc liền với sàn xe. 36 Trên các mặt vuông của khung tròn và trên mặt các tấm đồng ở thân xe ông chạm hình các chê-ru-bim, các sư tử, và các cây chà là. Nơi nào còn trống, ông chạm các dây hoa vòng quanh nơi đó.
37 Ông làm mười chiếc xe như thế. Tất cả đều được đúc cùng một khuôn, một kích thước, và một kiểu.
Copyright © 2011 by Bau Dang