Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Xuất Hành 15:19-28:43

19 Thật vậy, các ngựa, các xe chiến mã, và các kỵ binh của Pha-ra-ôn đã bị chìm sâu trong lòng biển, vì Chúa đã khiến nước ập lại phủ lấp họ, còn dân I-sơ-ra-ên đã đi trên đất khô mà vượt qua lòng biển.

Bài Ca của Mi-ri-am

20 Bấy giờ Nữ Tiên Tri Mi-ri-am chị của A-rôn cầm một trống lục lạc, và các phụ nữ cũng cầm trống lục lạc đi theo bà; họ vừa khua trống vừa nhảy múa. 21 Mi-ri-am cất tiếng hát rằng,

“Hãy ca ngợi Chúa, vì Ngài đã chiến thắng vẻ vang;[a]
Chiến mã và kỵ binh đều bị Ngài quăng xuống biển.”

Nước Ðắng Hóa Ngọt

22 Bấy giờ Môi-se truyền cho dân I-sơ-ra-ên nhổ trại rời Hồng Hải[b] ra đi. Họ đi vào Đồng Hoang Su-rơ. Họ đi trong đồng hoang ba ngày và chẳng nơi nào có nước. 23 Khi họ đến Ma-ra, họ không thể uống nước ở Ma-ra được, vì nước ở nơi đó đắng. Vì thế nơi đó có tên là Ma-ra.[c] 24 Dân oán trách Môi-se rằng, “Chúng tôi lấy gì uống đây?” 25 Ông kêu cầu Chúa; Chúa chỉ cho ông một khúc cây. Ông quăng khúc cây ấy xuống nước, nước liền biến thành ngọt.

Tại đó Ngài lập cho họ một quy luật và một mệnh lệnh, và cũng tại đó Ngài muốn thử lòng họ. 26 Ngài phán, “Nếu ngươi cẩn thận nghe theo tiếng Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, và làm theo lẽ phải trước mắt Ngài; nếu ngươi vâng theo các điều răn Ngài và giữ các mạng lịnh Ngài, thì Ta sẽ không giáng bịnh tật nào trên ngươi, như Ta đã giáng trên người Ai-cập, vì Ta là Chúa, Ðấng chữa lành[d] ngươi.”

27 Rồi từ đó họ đến Ê-lim là nơi có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là. Dân chúng hạ trại tại đó, bên cạnh các suối nước.

Lương Thực Từ Trời

16 Toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên nhổ trại rời khỏi Ê-lim đi vào Ðồng Hoang Sin, vùng đất nằm giữa Ê-lim và Si-nai; đó là ngày mười lăm, tháng thứ hai, sau khi họ rời khỏi xứ Ai-cập. Cả hội chúng I-sơ-ra-ên oán trách Môi-se và A-rôn trong đồng hoang. Dân I-sơ-ra-ên nói với họ, “Ước gì chúng tôi bị chết bởi tay Chúa trong xứ Ai-cập khi được ngồi bên nồi thịt và ăn bánh no nê còn hơn là để hai ông đem chúng tôi vào đồng hoang nầy để cả hội chúng phải chết đói.”

Chúa phán với Môi-se, “Nầy, Ta sẽ ban mưa bánh từ trời xuống cho các ngươi; mỗi ngày dân chúng sẽ đi ra và lấy đủ bánh cho ngày ấy. Ta sẽ dùng cách đó để thử chúng, xem chúng có vâng lời Ta chăng. Ngày thứ sáu, chúng sẽ lấy về gấp đôi số lượng chúng lấy trong những ngày khác.”

Vậy Môi-se và A-rôn nói với toàn dân I-sơ-ra-ên, “Ðến chiều tối anh chị em sẽ biết rằng chính Chúa đã đem anh chị em ra khỏi xứ Ai-cập. Rồi đến sáng mai, anh chị em sẽ thấy vinh hiển của Chúa, bởi Ngài đã nghe tiếng anh chị em oán trách Chúa. Vì chúng tôi đâu là gì mà anh chị em oán trách chúng tôi?”

Môi-se lại nói, “Chiều nay Chúa sẽ ban cho anh chị em thịt để ăn, rồi sáng mai anh chị em sẽ được no nê vì ăn bánh, bởi Chúa đã nghe tiếng oán trách mà anh chị em đã oán trách Ngài; chứ chúng tôi là ai? Những lời anh chị em oán trách không phải là oán trách chúng tôi, nhưng là oán trách Chúa.”

Ðoạn Môi-se nói với A-rôn, “Xin anh nói với toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, ‘Hãy lại gần Chúa, vì Ngài đã nghe tiếng oán trách của anh chị em.’”

10 Khi A-rôn nói với cả hội chúng I-sơ-ra-ên, họ hướng mắt nhìn về đồng hoang, và nầy, vinh quang Chúa hiện ra trên mây. 11 Chúa phán với Môi-se, 12 “Ta đã nghe tiếng oán trách của dân I-sơ-ra-ên. Hãy nói với chúng, ‘Vào chạng vạng tối nay các ngươi sẽ được ăn thịt; đến sáng mai các ngươi sẽ có bánh ăn no nê; bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của các ngươi.’”

13 Khi trời sắp tối các chim cút bay đến phủ khắp doanh trại; sáng hôm sau, lại có một lớp sương phủ xung quanh doanh trại. 14 Khi lớp sương đó tan đi, kìa, trên mặt đồng hoang có một chất gì như một lớp mỏng mịn màng, mịn như bột phủ trên mặt đất. 15 Khi dân I-sơ-ra-ên thấy vậy, họ hỏi nhau, “Thứ gì vậy?”[e] Vì họ không biết đó là thứ gì.

Môi-se nói với họ, “Ðây là bánh Chúa ban cho anh chị em để ăn. 16 Ðây là điều Chúa đã truyền, ‘Mỗi người cần bao nhiêu, cứ lấy đủ dùng cho mình, khoảng hai lít[f] cho mỗi người, cứ theo số người ở trong lều mà lấy đủ dùng cho mọi người.’”

17 Dân I-sơ-ra-ên làm như vậy. Một số lấy nhiều, một số lấy ít. 18 Rồi họ lấy ô-me[g] ra đong, ai lấy nhiều cũng không dư, ai lấy ít cũng không thiếu; cứ tùy sức mỗi người ăn được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. 19 Môi-se nói với họ, “Ðừng ai để vật ấy còn thừa lại đến ngày mai.” 20 Tuy nhiên vẫn có một số người không nghe lời Môi-se; họ để dành một phần đến sáng hôm sau; vật ấy bèn sinh giòi và bốc mùi hôi thối; do đó Môi-se giận họ. 21 Vậy sáng nào cũng thế, họ đi ra hốt lớp bột ấy làm lương thực cho mình, ai cần bao nhiêu thì hốt bấy nhiêu; nhưng khi ánh nắng mặt trời bắt đầu nóng, lớp bột ấy liền tan chảy.

22 Ðến ngày thứ sáu họ lấy số lượng gấp đôi, mỗi người bốn lít.[h] Khi những người lãnh đạo hội chúng đến hỏi Môi-se, 23 ông trả lời họ, “Ðây là điều Chúa đã truyền: ‘Ngày mai là ngày yên nghỉ, ngày Sa-bát thánh để tôn kính Chúa, hãy nướng món gì anh chị em muốn nướng, nấu món gì anh chị em muốn nấu, những gì còn dư hãy để dành cho sáng mai.’” 24 Vậy họ để dành bột ấy đến sáng mai, y như Môi-se đã truyền cho họ, và bột ấy không bị hôi thối hay bị sinh giòi.

25 Môi-se nói, “Hãy lấy bột ấy mà ăn hôm nay, vì hôm nay là ngày Sa-bát để tôn kính Chúa. Hôm nay anh chị em sẽ không thấy bột ấy ngoài đồng. 26 Trong sáu ngày anh chị em sẽ ra lấy về dùng, nhưng đến ngày thứ bảy, là ngày Sa-bát, sẽ không có bột ấy.”

27 Nhưng trong ngày thứ bảy vẫn có một số người đi ra lấy, và họ chẳng tìm được gì. 28 Chúa phán với Môi-se, “Các ngươi cứ từ chối, không vâng theo điều răn và mệnh lệnh Ta cho đến bao giờ? 29 Kìa, Chúa đã ban cho các ngươi ngày Sa-bát, vì thế ngày thứ sáu Ngài đã ban cho các ngươi lương thực đủ ăn cho hai ngày. Ai nấy trong các ngươi hãy ở tại chỗ mình; đừng rời khỏi nơi mình trong ngày thứ bảy.” 30 Vậy dân chúng nghỉ ngơi trong ngày thứ bảy.

31 Nhà I-sơ-ra-ên gọi vật ấy là ma-na. Nó giống như hột ngò, màu trắng, có mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong. 32 Môi-se nói, “Ðây là mệnh lệnh Chúa đã truyền, ‘Hãy lấy hai lít[i] ma-na giữ lại cho những thế hệ về sau, để chúng thấy thứ lương thực Ta đã nuôi các ngươi trong đồng hoang, khi Ta đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập.’”

33 Vậy Môi-se nói với A-rôn, “Xin anh lấy một cái bình, đổ hai lít[j] ma-na vào trong đó, rồi đặt bình ấy trước mặt Chúa, và giữ như vậy từ thế hệ nầy qua thế hệ khác.” 34 Theo như lệnh Chúa đã truyền cho Môi-se, A-rôn đặt bình ấy trước Chứng Cớ,[k] để lưu giữ.

35 Dân I-sơ-ra-ên ăn ma-na bốn mươi năm, cho đến khi họ vào trong xứ có thể canh tác được. Họ cứ ăn ma-na cho đến khi họ tiến vào bờ cõi xứ Ca-na-an. 36 Một ô-me là một phần mười của một ê-pha.[l]

Nước Từ Vầng Ðá Tuôn Ra

(Dân 20:1-13)

17 Từ Ðồng Hoang Sin, toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên nhổ trại ra đi từng chặng, như Chúa đã truyền cho họ. Họ hạ trại ở Rê-phi-đim, nhưng nơi đó chẳng có nước cho dân uống. Dân gây sự với Môi-se và nói, “Hãy cho chúng tôi nước uống.”

Môi-se nói với họ, “Tại sao anh chị em gây sự với tôi? Tại sao anh chị em muốn thử Chúa?”

Tuy nhiên tại đó dân chúng quá khát nước, nên họ oán trách Môi-se và nói, “Tại sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập, để chúng tôi, các con nhỏ chúng tôi, và các đàn súc vật của chúng tôi chết khát?”

Môi-se kêu cầu với Chúa, “Con phải làm gì với dân nầy bây giờ? Thiếu điều họ muốn ném đá con.”

Chúa phán với Môi-se, “Hãy đi trước dân I-sơ-ra-ên và đem một vài trưởng lão I-sơ-ra-ên đi với ngươi. Hãy cầm theo cây gậy ngươi đã dùng để đập vào nước Sông Nin và hãy đi. Nầy, Ta sẽ đứng tại đó, trước mặt ngươi, trên vầng đá ở Hô-rếp. Hãy đập vào vầng đá ấy, nước từ vầng đá ấy sẽ phun ra, để dân có nước uống.”

Môi-se làm y như vậy, trước mặt các trưởng lão của I-sơ-ra-ên. Ông đặt tên nơi đó là Ma-sa[m] và Mê-ri-ba,[n] vì dân I-sơ-ra-ên đã gây sự và thử Chúa rằng, “Không biết Chúa có thật sự ở giữa chúng ta chăng?”

Dân A-ma-léc Tấn Công Dân I-sơ-ra-ên và Bị Bại

Lúc ấy quân A-ma-léc đến và tấn công I-sơ-ra-ên ở Rê-phi-đim. Môi-se nói với Giô-suê, “Hãy chọn một số người trong chúng ta để ra đối phó với quân A-ma-léc. Ngày mai ta sẽ đứng trên đỉnh đồi với cây gậy của Ðức Chúa Trời trong tay.”

10 Vậy Giô-suê làm như lời Môi-se đã bảo ông. Ông xuống đánh quân A-ma-léc trong khi Môi-se, A-rôn, và Hu-rơ đi lên đỉnh đồi. 11 Hễ khi Môi-se đưa tay lên thì quân I-sơ-ra-ên thắng hơn, nhưng khi ông hạ tay xuống thì quân A-ma-léc thắng hơn. 12 Hai tay Môi-se mỏi, nên người ta dựng một hòn đá lên cho ông ngồi, rồi A-rôn và Hu-rơ đỡ hai tay ông lên, một người bên nầy, và một người bên kia. Vậy hai tay của ông cứ được đưa lên cho đến khi mặt trời lặn. 13 Giô-suê dùng gươm đánh bại A-ma-léc với dân ông ấy.

14 Bấy giờ Chúa phán với Môi-se, “Hãy chép điều nầy vào một cuốn sách để ghi nhớ, và đọc cho Giô-suê nghe rõ rằng: Ta sẽ xóa sạch kỷ niệm về A-ma-léc dưới trời.” 15 Môi-se cho xây một bàn thờ và đặt tên, “Chúa Là Biểu Kỳ của Tôi.”[o] 16 Ông nói, “Vì tay của A-ma-léc đã đưa lên chống lại ngai của Chúa, cho nên giữa Chúa và A-ma-léc sẽ có chiến tranh từ đời nầy sang đời khác.”[p]

Giê-trô Ðến Thăm Môi-se

18 Giê-trô, tư tế của người Mi-đi-an, nhạc phụ của Môi-se, đã nghe tất cả những gì Ðức Chúa Trời làm cho Môi-se và cho I-sơ-ra-ên dân Ngài, thể nào Chúa đã đem dân I-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Số là trước đó Môi-se đã gởi vợ ông là Xíp-pô-ra về cho nhạc phụ ông. Ông cụ đã nhận bà lại với hai con trai của bà. Tên của một cậu là Ghẹt-sôm, (vì ông nói, “Tôi là một kiều dân nơi đất khách quê người”), còn tên của cậu kia là Ê-li-ê-xe[q] (vì ông nói, “Ðức Chúa Trời của tổ tiên tôi là Ðấng giúp đỡ tôi và đã giải cứu tôi thoát khỏi gươm của Pha-ra-ôn”). Giê-trô nhạc phụ của Môi-se đến trong đồng hoang, nơi Môi-se đang hạ trại trên núi của Ðức Chúa Trời, dẫn theo hai con trai và vợ Môi-se đến cho ông. Cụ cho người nhắn tin với Môi-se, “Cha là Giê-trô nhạc phụ của con đang trên đường đến thăm con; có vợ và hai con trai con đi với cha.”

Môi-se đi ra đón nhạc phụ ông. Ông sấp mình xuống trước mặt cụ và ôm hôn cụ. Hai người hỏi thăm nhau, rồi họ vào trong lều. Môi-se thuật lại cho nhạc phụ ông nghe mọi điều Chúa đã làm cho Pha-ra-ôn và cho dân Ai-cập vì cớ dân I-sơ-ra-ên. Ông cũng kể cho cụ nghe những khó khăn họ gặp phải dọc đường, và thể nào Chúa đã giải cứu họ. Giê-trô vui mừng về các ơn lành Chúa đã làm cho dân I-sơ-ra-ên trong việc giải thoát họ ra khỏi tay dân Ai-cập.

10 Giê-trô nói, “Chúc tụng Chúa, Ðấng đã giải thoát quý vị khỏi tay dân Ai-cập và khỏi tay Pha-ra-ôn. 11 Bây giờ tôi biết rằng Chúa là Ðấng vĩ đại hơn tất cả các thần, vì Ngài đã giải thoát dân I-sơ-ra-ên ra khỏi tay người Ai-cập, những kẻ đã đối xử với họ cách kiêu căng.”[r] 12 Sau đó Giê-trô nhạc phụ của Môi-se dâng một của lễ thiêu và các con vật hiến tế lên Ðức Chúa Trời. A-rôn và tất cả các trưởng lão của I-sơ-ra-ên đến dùng bữa với nhạc phụ của Môi-se trước thánh nhan Ðức Chúa Trời.

Lời Khuyên của Giê-trô

(Phục 1:9-18)

13 Hôm sau Môi-se ngồi xét xử dân, trong khi đoàn dân đứng đợi quanh Môi-se từ sáng sớm đến chiều tối. 14 Khi nhạc phụ của Môi-se trông thấy mọi điều ông làm cho dân, cụ nói, “Con làm gì cho dân vậy? Tại sao con ngồi xét xử một mình trong khi mọi người phải đứng đợi quanh con từ sáng sớm đến chiều tối như thế?”

15 Môi-se trả lời nhạc phụ ông, “Bởi vì dân muốn đến gặp con để thỉnh ý Ðức Chúa Trời. 16 Khi có chuyện tranh tụng, họ đến với con, và con phân xử đôi bên. Con cũng cho họ biết luật lệ và mệnh lệnh của Ðức Chúa Trời.”

17 Nhạc phụ của Môi-se nói với ông, “Những gì con đang làm đó không tốt. 18 Con sẽ làm cho mình sớm kiệt lực, không những con mà luôn cả những người dân đang chờ con, vì công việc nầy quá nặng nề cho con; con không thể giải quyết hết một mình được. 19 Bây giờ con hãy nghe cha nói. Cha muốn khuyên con mấy lời, và cầu xin Ðức Chúa Trời ở với con: Con là người đại diện cho dân trước mặt Ðức Chúa Trời, để con có thể trình dâng những nan đề của họ lên Ðức Chúa Trời. 20 Con nên dạy họ các luật lệ và mệnh lệnh của Ngài, để họ biết phải đi theo đường nào và phải làm gì. 21 Ngoài ra con cũng phải tìm trong dân những người có khả năng, những người kính sợ Ðức Chúa Trời, đáng tin cậy, ghét lợi lộc bất chính, rồi lập những người ấy lên làm những người chỉ huy trên ngàn người, trăm người, năm mươi người, và mười người. 22 Hãy để họ xét xử dân thường xuyên. Khi nào có việc quan trọng, họ sẽ đem đến con; còn những việc thường, con hãy để cho những người ấy xét xử. Như vậy công việc của con sẽ nhẹ đi, vì họ sẽ chia sẻ bớt gánh nặng cho con. 23 Nếu con làm được như thế, và Ðức Chúa Trời cũng truyền cho con như vậy, con mới có thể gánh vác nổi, và tất cả những người đến chờ để được xét xử nầy cũng sẽ sớm được về nhà họ bình an.”

24 Môi-se nghe theo lời khuyên của nhạc phụ ông và làm theo mọi điều cụ khuyên bảo. 25 Môi-se chọn những người có khả năng trong toàn dân I-sơ-ra-ên, rồi lập họ lên làm đầu trên dân, để họ chỉ huy ngàn người, trăm người, năm mươi người, và mười người. 26 Hằng ngày những người ấy xét xử dân. Những trường hợp khó xử họ đem đến Môi-se, còn những trường hợp thường, họ xét xử lấy.

27 Sau đó Môi-se tiễn nhạc phụ ông ra về, và cụ đã lên đường trở về xứ mình.

Dân I-sơ-ra-ên Ðến Núi Si-nai

19 Ðến lần trăng mới thứ ba kể từ khi dân I-sơ-ra-ên rời khỏi xứ Ai-cập, vào ngày thứ nhất của tháng đó,[s] họ tới Ðồng Hoang Si-nai. Họ nhổ trại rời khỏi Rê-phi-đim để vào Ðồng Hoang Si-nai, và hạ trại trong đồng hoang. Dân I-sơ-ra-ên đóng trại tại đó, đối ngang ngọn núi.

Môi-se lên núi hầu chuyện với Ðức Chúa Trời. Từ trên núi Ðức Chúa Trời gọi ông và phán, “Ngươi hãy nói với nhà Gia-cốp và bảo dân I-sơ-ra-ên thế nầy: Các ngươi đã thấy những điều Ta làm cho dân Ai-cập, và thể nào Ta đã mang các ngươi trên cánh đại bàng đem các ngươi đến với Ta. Vậy bây giờ nếu các ngươi vâng theo tiếng Ta và giữ giao ước Ta, thì trong tất cả các dân, các ngươi sẽ là dân thuộc riêng về Ta, vì cả thế gian đều thuộc về Ta, và các ngươi sẽ thành một vương quốc tư tế và một dân thánh cho Ta. Ðó là những lời ngươi hãy nói lại với dân I-sơ-ra-ên.”

Vậy Môi-se trở xuống, triệu tập các vị trưởng lão trong dân lại, và trình ra trước họ mọi lời Chúa đã truyền cho ông. Toàn dân trả lời như một rằng, “Mọi điều gì Chúa phán bảo, chúng tôi sẽ làm theo.” Môi-se trình lại với Chúa những lời dân đã cam kết. Bấy giờ Chúa phán với Môi-se, “Ta sẽ ngự trong đám mây đen đến với ngươi, để khi Ta nói chuyện với ngươi thì dân có thể nghe, và như vậy chúng sẽ tin cậy ngươi mãi mãi.”

Biệt Riêng Dân Ra Thánh

Khi Môi-se đã trình lại với Chúa những lời dân đã cam kết, 10 Chúa phán với Môi-se, “Hãy đến với dân và làm cho chúng ra thánh hôm nay và ngày mai. Hãy bảo chúng giặt sạch y phục, 11 và chuẩn bị sẵn sàng cho ngày mốt, vì ngày mốt Chúa sẽ ngự xuống trên Núi Si-nai trước mặt toàn dân.

12 Ngươi hãy định giới hạn rõ ràng cho dân quanh chân núi và bảo chúng, ‘Hãy cẩn thận, đừng lên núi và cũng đừng chạm đến chân núi. Hễ ai chạm đến núi sẽ bị xử tử. 13 Không ai được đụng đến kẻ ấy. Nó phải bị ném đá hoặc bị bắn bằng cung tên. Bất kể thú vật hay người ta đều sẽ không được để cho sống.’ Chỉ khi nào có tiếng kèn thổi dài, bấy giờ chúng mới được phép lên núi.”

14 Vậy Môi-se từ trên núi đi xuống với dân. Ông làm cho dân ra thánh, và họ giặt sạch y phục của họ. 15 Ðoạn ông nói với dân, “Hãy chuẩn bị cho ngày mốt; không được gần phụ nữ.”

16 Vào sáng sớm ngày mốt, tức ngày thứ ba, trên không trung sấm nổ vang trời, chớp loé lên sáng rực khắp đất, mây đen kéo đến bao phủ núi, và tiếng kèn trỗi lên vang rền, đến nỗi dân trong trại phải run lên vì khiếp sợ. 17 Môi-se đưa dân ra khỏi trại để gặp Ðức Chúa Trời. Họ đến đứng nơi chân núi. 18 Vả, lúc bấy giờ cả Núi Si-nai đều tỏa khói mịt mù, vì Chúa đã ngự xuống trong một luồng lửa. Khói từ ngọn núi bốc lên như khói ra từ một lò lửa, trong khi cả núi rung chuyển dữ dội. 19 Ðang khi tiếng kèn càng lúc càng lớn, Môi-se thưa chuyện, và Ðức Chúa Trời đáp lời ông trong tiếng sấm. 20 Chúa ngự xuống trên đỉnh Núi Si-nai. Chúa gọi Môi-se lên đỉnh núi, và Môi-se đi lên đó. 21 Bấy giờ Chúa phán với Môi-se, “Hãy đi xuống và cảnh cáo dân: đừng vượt qua lằn ranh mà xông lên núi để nhìn Chúa, kẻo nhiều người sẽ chết. 22 Ngay cả các tư tế muốn đến gần Chúa cũng phải làm cho mình nên thánh, bằng không Chúa sẽ đánh phạt họ.”

23 Môi-se thưa với Chúa, “Dân không được phép lên Núi Si-nai, vì chính Ngài đã cảnh cáo chúng con rằng, ‘Hãy đặt giới hạn quanh núi và biệt riêng nó ra thánh.’”

24 Chúa phán với Môi-se, “Hãy đi xuống và dẫn A-rôn lên với ngươi, nhưng đừng cho phép các tư tế hay dân chúng vượt qua lằn ranh để đi lên nhìn Chúa, kẻo Ngài sẽ đánh phạt chúng.” 25 Vậy Môi-se đi xuống gặp dân và nói lại với họ.

Mười Ðiều Răn

(Phục 5:1-33)

20 Bấy giờ Ðức Chúa Trời phán mọi lời nầy, “Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, Ðấng đã đem ngươi ra khỏi xứ Ai-cập, tức khỏi nhà nô lệ:

Trước mặt Ta ngươi chớ có các thần khác.
Ngươi chớ làm hình tượng cho mình để thờ, bất kể hình tượng của vật gì trên trời, hoặc vật gì dưới đất, hoặc vật gì trong nước dưới mặt đất.
Ngươi không được sấp mình xuống trước mặt chúng hay thờ lạy chúng, vì Ta, Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, là một Thần[t] ghen tương. Do tội ghét bỏ Ta của ông bà cha mẹ mà con cháu sẽ bị vạ lây đến ba bốn đời, nhưng Ta sẽ bày tỏ ơn thương xót đến ngàn đời cho những kẻ yêu kính Ta và vâng giữ các điều răn Ta.
Ngươi chớ dùng danh Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, một cách bất kính, vì Chúa sẽ không kể vô tội kẻ nào dùng danh Ngài một cách bất kính.
Hãy nhớ ngày Sa-bát mà biệt riêng ngày ấy ra thánh. Ngươi sẽ lao động và làm mọi việc của mình trong sáu ngày, 10 nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát để tôn kính Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi; trong ngày đó, ngươi, con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, súc vật, hay ngoại kiều cư ngụ trong thành ngươi đều không được làm việc gì, 11 vì trong sáu ngày Chúa đã dựng nên trời, đất, biển, và mọi vật trong chúng, nhưng đến ngày thứ bảy, Ngài nghỉ. Vậy Chúa đã ban phước cho ngày Sa-bát và biệt riêng ngày ấy ra thánh.
12 Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, để ngươi được sống lâu trên đất mà Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, ban cho ngươi.
13 Ngươi chớ sát nhân.
14 Ngươi chớ ngoại tình.
15 Ngươi chớ trộm cắp.
16 Ngươi chớ làm chứng dối để hại người lân cận ngươi.[u]
17 Ngươi chớ tham nhà của người lân cận ngươi; ngươi chớ tham muốn vợ của người lân cận ngươi, hoặc tôi trai, tớ gái, bò, lừa, hay bất cứ vật chi thuộc về người lân cận ngươi.”

18 Khi toàn dân chứng kiến cảnh sấm nổ vang trời, sét chớp liên hồi, tiếng kèn trỗi lên vang lừng, và núi bốc khói mịt mù, thì sợ hãi và đứng cách xa. 19 Họ nói với Môi-se, “Xin chính ông nói với chúng tôi, và chúng tôi sẽ nghe lời ông, nhưng xin đừng để Ðức Chúa Trời nói với chúng tôi, e chúng tôi chết mất.”

20 Môi-se nói với dân, “Ðừng sợ, vì Ðức Chúa Trời đến chỉ để thử anh chị em, hầu anh chị em kính sợ Ngài mà đừng phạm tội.” 21 Dân cứ đứng cách một khoảng xa, trong khi Môi-se đến gần đám mây đen, nơi Ðức Chúa Trời đang ngự.

Luật về Việc Lập Bàn Thờ

22 Chúa phán với Môi-se, “Ngươi hãy nói với dân I-sơ-ra-ên như thế nầy: Chính các ngươi đã thấy Ta từ trời nói chuyện với các ngươi. 23 Các ngươi chớ đúc các tượng thần bằng bạc để thờ bên cạnh Ta. Các ngươi cũng chớ đúc các tượng thần bằng vàng để thờ.

24 Ngươi chỉ cần lập cho Ta một bàn thờ bằng đất, rồi dâng trên đó những của lễ thiêu, của lễ cầu an, chiên, và bò của mình ở những nơi Ta muốn danh Ta được ghi nhớ, để Ta sẽ đến với ngươi và ban phước cho ngươi. 25 Còn nếu ngươi muốn lập cho Ta một bàn thờ bằng đá thì chớ dùng những đá đã bị đục đẽo, vì nếu ngươi đã dùng mũi đục mà chạm khắc trên đá ấy, ngươi đã làm cho đá ấy trở nên ô uế. 26 Ngươi chớ đi lên bàn thờ bằng bực thang, để sự lõa lồ của ngươi sẽ không bị lộ.

Luật về Nô Lệ

(Phục 15:12-18)

21 Ðây là các luật lệ ngươi sẽ đặt trước mặt dân:

Khi ngươi mua một người Hê-bơ-rơ làm nô lệ, người ấy sẽ phục vụ ngươi sáu năm, nhưng năm thứ bảy người ấy sẽ được tự do ra đi mà không phải trả tiền chuộc. Nếu lúc đến làm nô lệ mà người ấy độc thân, khi ra đi người ấy sẽ ra đi độc thân; nhưng nếu lúc đến làm nô lệ mà người ấy đã lập gia đình, khi ra đi, vợ người ấy cũng sẽ ra đi với người ấy. Nếu trong thời gian làm nô lệ, chủ cưới vợ cho người ấy, rồi vợ người ấy sinh cho người ấy con trai hoặc con gái, khi ra đi vợ và con người ấy sẽ thuộc về chủ, người ấy chỉ ra đi một mình. Nhưng nếu người ấy nói, ‘Tôi thương chủ tôi, vợ tôi, và các con tôi. Tôi không muốn ra đi làm người tự do,’ thì chủ người ấy sẽ đem người ấy đến trước mặt các quan tòa.[v] Người ấy sẽ được dẫn đến bên cổng hoặc khung cửa, rồi chủ người ấy sẽ lấy dùi xỏ lủng tai người ấy, và người ấy sẽ phục vụ chủ suốt đời mình.

Khi một người bán con gái mình làm tỳ nữ, người con gái ấy sẽ không được tự do ra đi như các nam nô lệ. Nếu nàng không vừa ý chủ là người đã dành nàng cho mình, chủ phải cho nàng được chuộc lại. Chủ không có quyền bán nàng cho dân ngoại, vì như thế là thất tín với nàng. Nếu chủ muốn dành người con gái đó cho con trai mình, chủ phải đối xử với nàng như con gái mình. 10 Nếu chủ cưới một người phụ nữ khác làm vợ, chủ không được quyền cắt giảm phần lương thực, quần áo, và quyền phối ngẫu của nàng. 11 Nếu chủ không làm ba điều trên cho nàng, nàng có quyền ra đi tự do, không nợ nần, không phải trả tiền gì cả.

Luật về Tội Bạo Hành

12 Hễ ai đánh chết người, kẻ ấy sẽ bị xử tử. 13 Nếu người ấy không cố ý giết người, nhưng án mạng đã xảy ra do Ðức Chúa Trời cho phép kẻ bị chết phải chết bởi tay người ấy, thì Ta sẽ chỉ định cho ngươi một chỗ để người ấy có thể chạy đến đó ẩn náu. 14 Nhưng nếu ai cố tình toan tính, rồi xông vào giết người lân cận mình, ngươi phải lôi kẻ sát nhân ấy ra khỏi bàn thờ Ta, mà xử tử nó đi.

15 Kẻ nào đánh cha hoặc đánh mẹ sẽ bị xử tử.

16 Kẻ nào bắt cóc người ta, bất kể người bị bắt cóc đã bị bán hay còn bị nó giam giữ, kẻ bắt cóc ấy sẽ bị xử tử.

17 Kẻ nào chưởi cha hoặc mắng mẹ sẽ bị xử tử.

18 Khi hai người cãi nhau, nếu một người đánh người kia bằng cục đá hay bằng nắm tay, khiến người kia bị trọng thương, dù không gây cho người kia bị thiệt mạng, nhưng phải nằm liệt giường, 19 rồi sau đó có thể đứng dậy, chống gậy đi lại, và đi ra ngoài được, thì kẻ đánh người sẽ được tha, nhưng phải trả tiền chữa trị và thiệt hại cho người kia trong suốt thời gian dưỡng bịnh cho đến khi hoàn toàn bình phục.

20 Khi người chủ nô lệ đánh một nam nô lệ hay một nữ nô lệ bằng roi, và người nô lệ chết ngay dưới tay chủ, người chủ phải bị trừng phạt. 21 Nhưng nếu người nô lệ còn sống được một, hai ngày, người chủ khỏi bị trừng phạt, vì chủ đã bỏ tiền ra mua nó.

22 Khi người ta ẩu đả nhau, nếu ai gây cho một phụ nữ đang mang thai bị hư thai, nhưng không thiệt hại chi khác, kẻ gây cho nàng bị hư thai phải bồi thường theo số tiền chồng nàng đòi, và theo quyết định của quan tòa. 23 Nhưng nếu có thiệt hại gì khác, ngươi sẽ lấy mạng đền mạng, 24 mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, 25 phỏng đền phỏng, thương tích đền thương tích, bầm đền bầm.

26 Khi người chủ nô lệ đánh nhằm con mắt của một nam nô lệ hay một nữ nô lệ của mình, khiến nó bị mù, người chủ nô lệ đó phải để cho người nô lệ được ra đi tự do, để đền bù cho con mắt của người đó. 27 Nếu người chủ nô lệ đánh gãy răng của một nam nô lệ hay một nữ nô lệ của mình, người nô lệ ấy được ra đi tự do, để đền bù cho cái răng bị gãy.

Luật về Tài Sản

28 Khi một con bò húc chết một người đàn ông hay đàn bà, con bò ấy phải bị ném đá chết; không ai được ăn thịt nó. Chủ con bò ấy sẽ được xem là vô can. 29 Nhưng nếu con bò ấy hay có tật húc người, và chủ bò đã được khuyến cáo, nhưng không chịu kiềm chế nó, để nó húc chết một người nam hay nữ, con bò ấy sẽ bị ném đá chết và chủ nó cũng sẽ bị xử tử. 30 Nếu người ta cho chủ bò được đền tiền chuộc mạng, chủ bò phải đền bất cứ giá nào thân nhân của nạn nhân đòi cho mạng sống của nạn nhân. 31 Nếu bò húc chết một đứa bé trai hay một đứa bé gái, chủ bò cũng bị xử theo luật nầy. 32 Nếu bò húc chết một nam nô lệ hay một nữ nô lệ, chủ bò phải trả cho chủ người nô lệ ba trăm bốn mươi lăm gờ-ram bạc,[w] còn con bò phải bị ném đá chết.

33 Nếu ai để giếng mình không đậy, hoặc đào giếng mà không đậy miệng giếng lại, rủi bò hay lừa của ai té vào giếng ấy, 34 chủ giếng phải bồi thường tiền cho chủ con vật, nhưng xác con vật sẽ thuộc về chủ giếng.

35 Nếu bò của người nầy húc bò của người kia chết, phải bán con bò còn sống mà chia nhau số tiền, và họ cũng sẽ chia nhau con bò chết. 36 Nhưng nếu người ta biết một con bò đã có tật hay húc, mà chủ bò không kiềm chế nó, thì chủ bò phải lấy bò đền bò, và người ấy sẽ được giữ con bò chết.

Luật về Bồi Thường

22 Khi một người ăn trộm một con bò hay một con chiên, rồi làm thịt ăn hay đem bán, kẻ ăn trộm phải bồi thường năm con bò cho một con bị ăn cắp, và bốn con chiên cho một con bị ăn cắp.

Nếu kẻ trộm cắp bị bắt quả tang và bị đánh chết, người đánh chết kẻ trộm sẽ không mang tội sát nhân. Nhưng nếu sự việc xảy ra sau khi mặt trời đã mọc, người đánh chết kẻ trộm sẽ mang tội làm đổ máu. Kẻ trộm cắp phải bồi thường. Nếu nó không có gì để bồi thường, hãy bán nó làm nô lệ, để lấy tiền bồi thường cho tội trộm cắp của nó.

Khi một con vật, bất kỳ là bò, lừa, hay chiên, được thấy còn sống trong tay kẻ trộm, kẻ trộm phải bồi thường gấp đôi cho chủ của con vật bị trộm.

Khi một người làm thiệt hại ruộng hay vườn nho của người khác, hoặc thả súc vật mình vào phá ruộng người khác, người ấy phải lấy hoa lợi tốt nhất trong ruộng hoặc vườn nho mình mà bồi thường cho chủ ruộng hay chủ vườn bị thiệt hại.

Khi người nào nổi lửa trong ruộng mình, nhưng rủi lửa bốc cháy cỏ gai rồi cháy lan ra, đốt lúa vừa mới gặt, hoặc lúa chưa kịp gặt, hoặc làm cháy đám ruộng của người khác, người nổi lửa phải bồi thường mọi thiệt hại.

Khi ai trao cho người láng giềng giữ tiền hay đồ vật, nếu tiền hay đồ vật ấy bị mất trộm trong nhà người láng giềng, kẻ trộm cắp, nếu bị bắt, phải bồi thường gấp đôi. Nếu kẻ trộm không bị bắt, chủ căn nhà sẽ đem sự việc trình ra trước mặt các quan tòa,[x] để được xác định là mình có nhúng tay vào tiền bạc của người gởi hay không.

Trong mọi sự tranh tụng liên quan đến quyền sở hữu chủ của bò, lừa, chiên, y phục, hay bất cứ vật chi bị mất, nếu một bên nói, “Vật nầy là của tôi,” thì hai bên hãy đến trước mặt các quan tòa; bên nào bị các quan tòa định tội, bên ấy phải bồi thường gấp đôi.

10 Khi ai trao cho người láng giềng mình giữ lừa, bò, chiên, hay bất cứ con vật nào, nếu con vật ấy chết hay bị thương hay bị mất, mà không ai hay biết, 11 thì sự vụ sẽ được giải quyết giữa hai bên bằng lời thề của người giữ trước mặt Chúa rằng người ấy không nhúng tay vào tài sản của người kia. Người chủ con vật sẽ chấp nhận lời thề, và người giữ không phải bồi thường chi cả. 12 Nhưng nếu con vật thật đã bị trộm cắp, người giữ phải bồi thường cho chủ con vật. 13 Nếu con vật bị thú dữ cắn xé, người giữ sẽ đem xác còn lại của con vật ra làm bằng chứng và không phải bồi thường gì cả.

14 Khi ai mượn một con vật của người khác, và con vật sau đó bị thương hay chết mà người chủ con vật không có mặt lúc đó, người mượn phải bồi thường đầy đủ. 15 Nếu người chủ con vật có mặt ở đó, người mượn không phải bồi thường gì. Nếu con vật được chủ cho thuê, người thuê chỉ phải trả tiền thuê mà thôi.

Luật về Các Mối Quan Hệ Xã Hội và Tôn Giáo

16 Khi một người nam dụ dỗ một trinh nữ chưa đính hôn với ai và ăn nằm với nàng, người ấy phải nộp tiền sính lễ và cưới nàng làm vợ. 17 Nhưng nếu cha nàng nhất định không chịu gả nàng cho người ấy, người ấy vẫn phải nộp tiền sính lễ tương đương với tiền cưới một trinh nữ cho gia đình nàng.

18 Ngươi chớ để cho một tên phù thủy nào được sống.

19 Kẻ nào ăn nằm với một con vật sẽ bị xử tử.

20 Kẻ nào dâng tế lễ cho bất cứ thần nào khác không phải là Chúa sẽ bị diệt trừ.

21 Ngươi không được ngược đãi và ức hiếp ngoại kiều, vì các ngươi từng là ngoại kiều trong xứ Ai-cập.

22 Các ngươi không được ức hiếp góa phụ hoặc cô nhi. 23 Nếu các ngươi ức hiếp chúng, chúng sẽ kêu cứu đến Ta, Ta chắc chắn sẽ nghe tiếng kêu cứu của chúng, 24 rồi cơn giận của Ta sẽ nổi phừng lên, Ta sẽ cho gươm giết các ngươi, bấy giờ vợ các ngươi sẽ thành góa phụ và con cái các ngươi sẽ thành cô nhi.

25 Nếu ngươi cho ai trong dân Ta, là những người nghèo khó giữa các ngươi, mượn tiền, chớ đối xử với chúng như chủ nợ và cũng đừng bắt chúng trả tiền lời.

26 Nếu ngươi giữ áo choàng của người lân cận làm đồ cầm, hãy trả lại cho người ấy trước khi mặt trời lặn, 27 vì biết đâu đó là chiếc áo duy nhất người ấy có để che thân; nếu không có nó, người ấy biết lấy gì đắp để ngủ? Nếu người lân cận ngươi kêu van Ta, Ta sẽ nghe, vì Ta hay thương xót.

28 Ngươi chớ xúc phạm Ðức Chúa Trời và cũng đừng nguyền rủa người lãnh đạo của dân ngươi.

29 Ngươi chớ chậm trễ dâng hoa màu đầu mùa và rượu nho ngươi thâu hoạch được.

Ngươi hãy dâng lên Ta con trai đầu lòng của ngươi. 30 Ngươi hãy làm như vậy với bò và chiên của ngươi. Con đầu lòng sẽ ở với mẹ nó bảy ngày; ngày thứ tám ngươi sẽ dâng nó lên Ta.

31 Các ngươi sẽ là một dân được biệt riêng ra thánh cho Ta; vì thế các ngươi sẽ không ăn thịt thú vật đã bị thú dữ cắn xé, nhưng hãy quăng thịt ấy cho chó ăn.

Giữ Gìn Công Lý và Bày Tỏ Lòng Nhân Từ

23 Ngươi chớ phao tin thất thiệt. Ngươi chớ tiếp tay với kẻ ác mà làm chứng dối. Ngươi chớ hùa theo số đông mà làm điều ác. Khi ngươi làm nhân chứng trong một vụ kiện, ngươi chớ hùa theo số đông để bẻ cong công lý. Ngươi không được thiên vị người nghèo trong một vụ kiện.

Khi ngươi gặp bò hay lừa của kẻ thù ngươi đi lạc, hãy dẫn nó về cho chủ nó.

Khi ngươi thấy con lừa của kẻ thù ngươi bị ngã quỵ vì chở nặng, chớ làm ngơ, nhưng phải giúp người ấy đỡ con lừa dậy.

Ngươi chớ làm sai lệch công lý của người nghèo trong vụ kiện.

Hãy tránh xa những lời cáo gian. Ngươi chớ giết người vô tội và ngay lành, vì Ta sẽ không để cho kẻ có tội được trắng án. Ngươi chớ nhận hối lộ, vì của hối lộ làm cho người khôn ngoan trở nên đui mù và làm sai lệch duyên cớ của người ngay lành.

Ngươi chớ áp bức các kiều dân. Các ngươi thấu hiểu tâm trạng của kiều dân là thế nào, vì các ngươi từng là kiều dân trong xứ Ai-cập.

Năm Sa-bát và Ngày Sa-bát

10 Trong sáu năm, ngươi sẽ trồng trọt trong ruộng đất của ngươi và thu hoạch hoa màu, 11 nhưng năm thứ bảy ngươi phải để cho đất nghỉ và không canh tác gì cả. Nhờ vậy những người nghèo trong dân sẽ được hưởng những hoa màu mọc lên trong năm đó. Những gì chúng không dùng, các thú rừng sẽ ăn. Ngươi hãy làm như vậy với vườn nho và vườn ô-liu của ngươi.

12 Trong sáu ngày ngươi sẽ làm công việc mình, nhưng ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ, để bò và lừa của ngươi được nghỉ, các nô lệ sinh ra trong nhà ngươi và những kiều dân làm thuê có thời gian lấy lại sức.

13 Hãy cẩn thận làm theo mọi điều Ta truyền cho các ngươi:

Ngươi chớ kêu tên các thần khác mà cầu khẩn; miệng ngươi chớ nhắc đến tên chúng để cầu xin điều gì.

14 Mỗi năm ba lần ngươi sẽ giữ các ngày lễ để thờ kính Ta. 15 Ngươi sẽ giữ Lễ Bánh Không Men như Ta đã truyền cho ngươi. Ngươi sẽ ăn bánh không men bảy ngày, theo thời gian đã định trong tháng A-bíp,[y] vì trong tháng đó ngươi đã ra khỏi Ai-cập.

Không ai đến ra mắt Ta mà đi tay không.

16 Ngươi sẽ giữ Lễ Mùa Gặt. Ðó là lễ dâng các hoa lợi đầu mùa của sức lao động ngươi, tức hoa lợi do ngươi canh tác trong ruộng đất mình.

Ngươi sẽ giữ Lễ Thu Hoạch vào cuối năm, sau khi ngươi thu hoạch hoa lợi của sức lao động ngươi từ ngoài đồng về.

17 Mỗi năm ba lần, tất cả người nam phải đến ra mắt Chúa Hằng Hữu.[z]

18 Ngươi chớ dâng lên Ta máu của con vật hiến tế với bất cứ món gì có men, và chớ để mỡ của con vật hiến tế đã dâng lên Ta qua đến sáng hôm sau.

19 Ngươi hãy mang những hoa lợi đầu mùa tốt nhất của ruộng đất ngươi vào nhà Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi.

Ngươi chớ nấu thịt dê con trong sữa của mẹ nó.

Chúa Hứa Giúp Dân I-sơ-ra-ên Chinh Phục Ðất Ca-na-an

20 Nầy, Ta sai một thiên sứ đi trước ngươi để bảo vệ ngươi dọc đường, và đem ngươi vào nơi Ta đã sắm sẵn. 21 Hãy cẩn thận và vâng lời người. Ðừng chọc người nổi giận, vì người sẽ không tha sự vi phạm của ngươi đâu, bởi danh Ta ngự trong người. 22 Nhưng nếu ngươi cẩn thận nghe theo tiếng người, và làm mọi điều Ta truyền bảo, Ta sẽ trở thành kẻ thù của các kẻ thù ngươi và kẻ nghịch của các kẻ nghịch ngươi.

23 Thật vậy thiên sứ của Ta sẽ đi trước ngươi, đem ngươi vào xứ của dân A-mô-ri, dân Hít-ti, dân Pê-ri-xi, dân Ca-na-an, dân Hi-vi, và dân Giê-bu-si; và Ta sẽ dẹp sạch chúng.

24 Ngươi chớ sấp mình trước các thần của chúng, chớ thờ lạy các thần ấy, hoặc làm theo các thói tục của chúng, nhưng phải phá hủy hoàn toàn các tượng thần ấy và đập nát các trụ thờ của chúng. 25 Ngươi chỉ thờ lạy một mình Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi, để Ngài sẽ ban phước cho thức ăn và thức uống của ngươi, và Ta sẽ cất bịnh tật ra khỏi các ngươi. 26 Không ai sẽ bị hư thai hoặc hiếm con trong đất ngươi sống. Ta sẽ cho ngươi hưởng trọn tuổi thọ của mình.

27 Ta sẽ sai kinh hoàng đi trước ngươi, làm mọi nước chống nghịch ngươi sinh rối loạn, và khiến tất cả quân thù của ngươi quay lưng chạy trốn khỏi ngươi. 28 Ta sẽ sai ong độc[aa] đi trước ngươi để đuổi dân Hi-vi, dân Ca-na-an, và dân Hít-ti bỏ đi trước khi ngươi đến. 29 Ta sẽ không đuổi chúng đi hết trong một năm, vì như thế đất sẽ trở nên hoang vu, và thú dữ sẽ sinh ra nhiều, gây hại cho ngươi. 30 Ta sẽ đuổi chúng đi khuất mắt ngươi từ từ, cho đến khi ngươi gia tăng đông đúc và chiếm trọn xứ. 31 Ta định biên giới cho ngươi từ Hồng Hải[ab] đến biển của dân Phi-li-tin, từ đồng hoang đến Sông Ơ-phơ-rát, vì Ta sẽ phó các dân trong xứ ấy vào tay ngươi, và ngươi sẽ đuổi chúng đi trước mặt mình. 32 Ngươi chớ lập giao ước với chúng hoặc với các thần của chúng. 33 Chúng sẽ không được sống còn trong đất nước ngươi, nếu không chúng sẽ xui ngươi phạm tội nghịch lại Ta; vì nếu ngươi thờ lạy các thần của chúng, sự thờ lạy thần tượng đó sẽ thành cái bẫy hại ngươi.”

Giao Ước Ðược Thiết Lập

24 Ngài phán với Môi-se, “Hãy đi lên gặp Chúa: ngươi, A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu, và bảy mươi trưởng lão của dân I-sơ-ra-ên. Các ngươi sẽ phủ phục đằng xa.” Chỉ một mình Môi-se được đến gần Chúa, nhưng tất cả những người khác không được đến gần, và dân cũng không được đi lên với ông.

Môi-se đến và nói với dân mọi lời Chúa đã phán và mọi luật lệ. Mọi người đều đồng thanh đáp lại, “Chúng tôi sẽ làm theo mọi lời Chúa phán.”

Môi-se ghi lại mọi lời Chúa đã phán. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ tại chân núi, và dựng mười hai trụ đá, tiêu biểu cho mười hai chi tộc I-sơ-ra-ên. Ông cũng nhờ một số thanh thiếu niên I-sơ-ra-ên phụ giúp giết các con vật hiến tế dâng làm của lễ thiêu, và các con vật hiến tế bằng bò đực làm của lễ cầu an dâng lên Chúa. Môi-se lấy một nửa máu đổ vào các chậu, còn một nửa ông đem rảy trên bàn thờ. Ðoạn ông lấy cuốn sách giao ước và đọc cho dân nghe. Họ đáp, “Chúng tôi sẽ làm theo mọi lời Chúa phán, và chúng tôi sẽ vâng lời Ngài.”

Môi-se lấy máu, rảy trên dân, và nói, “Nầy, máu của giao ước mà Chúa đã lập với anh chị em y theo những lời trong sách nầy.”

Trên Núi với CHÚA

Bấy giờ Môi-se, A-rôn, Na-đáp, và A-bi-hu, cùng bảy mươi vị trưởng lão của dân I-sơ-ra-ên đi lên núi, 10 và họ trông thấy Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. Dưới chân Ngài có vật chi giống như cái bệ bằng lam bảo ngọc, trong suốt như trời xanh. 11 Ngài không ra tay trên những vị lãnh đạo của dân I-sơ-ra-ên dù họ ngắm nhìn Ðức Chúa Trời, và họ đã ăn uống tại đó.

12 Chúa phán với Môi-se, “Hãy lên núi để gặp Ta và đợi ở đó. Ta sẽ ban cho ngươi các bảng đá, có luật pháp và điều răn, mà Ta đã chép để dạy dân.”

13 Vậy Môi-se cùng người phụ tá của ông là Giô-suê đi lên núi, và Môi-se đã đi lên núi của Ðức Chúa Trời. 14 Ông căn dặn các vị trưởng lão, “Xin quý vị hãy ở đây đợi chúng tôi, cho đến khi chúng tôi trở lại với quý vị. Có A-rôn và Hu-rơ ở với quý vị. Nếu có chuyện gì cần giải quyết, xin quý vị cứ đến với hai ông ấy.”

15 Ðoạn Môi-se đi lên núi, và mây bao phủ núi. 16 Vinh quang của Chúa ngự trên Núi Si-nai. Mây bao phủ núi liên tiếp sáu ngày; đến ngày thứ bảy, Ngài từ trong đám mây gọi Môi-se. 17 Bấy giờ vinh quang Chúa hiện ra trên đỉnh núi giống như lửa cháy phừng phừng trước mắt dân I-sơ-ra-ên. 18 Môi-se đi vào trong đám mây và lên trên núi. Môi-se ở trên núi bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.

Các Lễ Vật Dâng Làm Ðền Tạm

(Xuất 35:4-9)

25 Chúa phán với Môi-se, “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên dâng lên Ta một lễ vật. Ai được cảm động mà dâng với lòng thành, ngươi hãy nhận lấy. Ðây là những lễ vật ngươi sẽ nhận từ nơi chúng: vàng, bạc, đồng, chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, vải gai mịn, lông dê, da chiên nhuộm đỏ, da cá heo, gỗ si-tim,[ac] dầu đốt đèn, hương liệu để chế tạo dầu xức và hương thơm, bạch bảo ngọc, và các loại bửu ngọc để gắn vào ê-phót và bảng đeo ngực. Hãy nói với chúng làm cho Ta một Nơi Thánh để Ta ngự giữa chúng. Ngươi cứ làm theo kiểu mẫu của Ðền Tạm và những đồ dùng trong đền ấy mà Ta sẽ chỉ cho ngươi, rồi các ngươi hãy cứ thế mà làm.

Rương Giao Ước

(Xuất 37:1-9)

10 Chúng sẽ làm một cái rương bằng gỗ si-tim. Rương ấy sẽ dài một mét hai mươi lăm, rộng bảy tấc rưỡi, và cao bảy tấc rưỡi.[ad] 11 Ngươi sẽ bọc rương ấy bằng vàng ròng; ngươi sẽ bọc rương bằng vàng cả trong lẫn ngoài; ngươi cũng hãy làm trên rương ấy một đường viền chung quanh bằng vàng. 12 Ngươi hãy đúc bốn khoen bằng vàng và gắn vào bốn chân rương, hai cái bên nầy và hai cái bên kia. 13 Ngươi cũng hãy làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim, rồi bọc vàng các đòn khiêng ấy. 14 Ngươi hãy xỏ các đòn khiêng vào các khoen gắn ở hai bên để khiêng rương. 15 Các đòn khiêng sẽ để luôn trong khoen rương, và không được rút ra. 16 Sau đó ngươi sẽ đặt vào rương các Bảng Giao Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi.

17 Ngươi hãy làm một Nắp Thi Ân[ae] bằng vàng ròng, dài một mét hai mươi lăm, và rộng bảy tấc rưỡi.[af] 18 Ngươi hãy làm hai chê-ru-bim bằng vàng dát mỏng ở hai đầu nắp. 19 Ngươi hãy làm một chê-rúp[ag] ở đầu nầy và một chê-rúp ở đầu kia. Ngươi sẽ làm hai chê-ru-bim dính liền với Nắp Thi Ân trên hai đầu nắp. 20 Các chê-ru-bim sẽ dang cánh ra ở trên nắp, dùng đôi cánh mình che phủ Nắp Thi Ân. Hai chê-ru-bim đó sẽ đối diện nhau, nhưng mặt của hai chê-ru-bim sẽ nhìn vào nắp. 21 Ngươi sẽ đậy Nắp Thi Ân đó trên rương, và ngươi sẽ đặt vào trong rương các Bảng Giao Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi. 22 Ta sẽ gặp ngươi tại đó. Từ trên Nắp Thi Ân, tức từ giữa hai chê-ru-bim ở trên Rương Giao Ước, Ta sẽ truyền cho ngươi mọi mạng lịnh cho dân I-sơ-ra-ên.

Bàn Ðể Bánh Thánh

(Xuất 37:10-16)

23 Ngươi hãy làm một bàn bằng gỗ si-tim, dài một mét, rộng nửa mét, và cao bảy tấc rưỡi.[ah] 24 Ngươi hãy bọc bàn ấy bằng vàng ròng, và làm một đường viền quanh bàn bằng vàng. 25 Ngươi hãy làm một khung quanh bàn, bề ngang thành khung rộng một bàn tay, rồi làm một đường viền quanh khung ấy bằng vàng. 26 Ngươi hãy làm bốn khoen bằng vàng, rồi gắn bốn khoen ấy vào bốn góc ở bốn chân bàn. 27 Bốn khoen ấy ở sát khung bàn, để giữ các đòn khiêng. 28 Ngươi hãy làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim, rồi lấy vàng bọc chúng lại. Các đòn ấy sẽ được dùng để khiêng bàn. 29 Ngươi hãy lấy vàng ròng mà làm các khay, vá, bình, và chén để dùng vào việc dâng lễ quán.[ai] 30 Ngươi phải dâng Bánh Hằng Hiến ở trên bàn trước mặt Ta luôn luôn.

Cây Ðèn

(Xuất 37:17-24)

31 Ngươi sẽ làm một cây đèn bằng vàng ròng. Ðế và thân của cây đèn ấy sẽ được làm bằng vàng dát mỏng. Các đài hoa của đèn, các nụ hoa của đèn, và các cánh hoa của đèn đều dính với nhau thành một khối và dính vào cây đèn. 32 Cây đèn ấy sẽ có sáu nhánh tẻ ra hai bên, ba nhánh tẻ ra bên nầy và ba nhánh tẻ ra bên kia. 33 Trên mỗi nhánh bên nầy sẽ có ba đài hoa giống hình hoa hạnh nhân, với các nụ hoa và các cánh hoa; trên mỗi nhánh bên kia cũng sẽ có ba đài hoa giống hình hoa hạnh nhân, với các nụ hoa và các cánh hoa; như vậy cây đèn ấy có sáu nhánh tẻ ra hai bên. 34 Còn trên chính thân cây đèn sẽ có bốn đài hoa giống hình hoa hạnh nhân, với các nụ hoa và các cánh hoa. 35 Dưới nơi hai nhánh dưới cùng đâu lại với nhau sẽ có một nụ hoa, dưới nơi hai nhánh giữa đâu lại với nhau sẽ có một nụ hoa, và dưới nơi hai nhánh trên cùng đâu lại với nhau sẽ có một nụ hoa; sáu nhánh tẻ ra từ thân cây đèn đều sẽ như thế. 36 Các nụ hoa đèn và nhánh đèn dính liền với thân cây đèn thành một khối. Cả cây đèn sẽ được làm bằng vàng ròng dát mỏng. 37 Sau đó ngươi sẽ làm bảy cái đèn vàng cho cây đèn ấy, rồi đặt chúng trên đầu các nhánh, để chúng tỏa ánh sáng ra trước đèn. 38 Kéo cắt tim đèn và đĩa đựng tàn cũng sẽ làm bằng vàng ròng. 39 Ngươi sẽ dùng ba mươi bốn ký[aj] vàng ròng để làm cây đèn và mọi đồ phụ tùng cho cây đèn ấy. 40 Ngươi hãy để ý và làm đúng theo kiểu mẫu đã chỉ cho ngươi trên núi.

Ðền Tạm - Các Màn và Các Tấm Bạt

(Xuất 36:8-19)

26 Ngoài ra ngươi hãy làm một Ðền Tạm bằng mười tấm màn dệt bằng gải vai mịn, chỉ xanh dương, chỉ tím, và chỉ đỏ thắm. Ngươi sẽ thêu hình các chê-ru-bim thật mỹ thuật trên các màn ấy. Chiều dài mỗi màn sẽ là mười bốn mét; chiều rộng mỗi màn sẽ là hai mét.[ak] Tất cả các màn sẽ đồng kích thước như nhau. Năm tấm màn nầy sẽ kết lại với nhau, và năm tấm màn kia sẽ kết lại với nhau. Ngươi hãy làm những khoen bằng chỉ xanh dương gắn dọc theo mép tấm màn ngoài cùng của bộ màn thứ nhất. Ngươi hãy làm những khoen tương tự gắn dọc theo mép tấm màn ngoài cùng của bộ màn thứ nhì. Ngươi hãy làm năm mươi khoen cho bộ màn nầy, và ngươi hãy làm năm mươi khoen gắn vào mép của bộ màn kia; các khoen của hai bộ màn phải đối nhau cách chính xác. Ngươi hãy làm năm mươi cái móc khóa bằng vàng, rồi dùng các móc khóa ấy kết hai bộ màn lại với nhau. Như thế Ðền Tạm sẽ thành hình do hai bộ màn được kết lại với nhau thành một.

Ngươi hãy làm mười một tấm màn bằng lông dê kết lại với nhau, để thành một mái lều che trên Ðền Tạm. Chiều dài mỗi tấm màn là mười lăm mét; chiều rộng mỗi tấm màn là hai mét.[al] Mười một màn ấy đều có kích thước bằng nhau. Ngươi hãy kết năm tấm màn lại với nhau thành một mái. Ngươi hãy kết sáu tấm màn kia lại với nhau thành một mái, nhưng tấm thứ sáu ngươi hãy gấp đôi lại ở phía trước lều. 10 Ngươi hãy làm năm mươi khoen gắn nơi mép của mái thứ nhất, và cũng hãy làm năm mươi khoen gắn nơi mép của mái thứ nhì.

11 Ngươi hãy làm năm mươi cái móc khóa bằng đồng, rồi móc các khoen lại, để kết hai mái lại với nhau; như vậy ngươi sẽ có một bộ mái lều. 12 Phần còn dư lại của các màn mái lều, tức phân nửa vải dư, sẽ được thả rủ xuống phía sau Ðền Tạm. 13 Nửa mét[am] màn dư phía bên nầy và nửa mét[an] màn dư phía bên kia, dọc theo chiều dài của lều, ngươi sẽ cho rủ xuống hai bên Ðền Tạm, một bên nầy, một bên kia, để che lều. 14 Ngươi hãy làm một tấm bạt bằng da chiên nhuộm đỏ để che lều, rồi phủ bên trên tấm bạt ấy một tấm bạt nữa làm bằng loại da thú thượng hạng.[ao]

Vách Ván của Ðền Tạm

(Xuất 36:20-34)

15 Ngươi hãy dùng những tấm ván bằng gỗ si-tim dựng lên làm vách cho Ðền Tạm. 16 Mỗi tấm sẽ dài năm mét và rộng bảy tấc rưỡi.[ap] 17 Mỗi tấm sẽ có hai cái mộng để gắn các tấm ván lại với nhau. Ngươi sẽ làm các mộng ấy cho tất cả các tấm ván của Ðền Tạm.

18 Ngươi hãy dựng các tấm ván của Ðền Tạm như sau: hai mươi tấm về hướng Nê-ghép, tức hướng nam. 19 Ngươi hãy làm bốn mươi cái đế bằng bạc để dưới hai mươi tấm ván; dưới mỗi tấm ván ngươi đặt hai đế ăn khớp với hai cái mộng, và cứ dưới mỗi tấm phải có hai cái đế ăn khớp với hai cái mộng. 20 Phía bên kia của Ðền Tạm, tức hướng bắc, ngươi hãy dựng hai mươi tấm ván, 21 cùng với bốn mươi cái đế bạc; hai đế dưới mỗi tấm ván; cứ dưới mỗi tấm ván đặt hai cái đế. 22 Ðầu trong cùng của Ðền Tạm, về hướng tây, ngươi hãy làm sáu tấm ván. 23 Ở hai góc trong cùng của Ðền Tạm, ngươi sẽ làm hai tấm ván. 24 Chúng sẽ được ghép lại với nhau thành góc từ dưới lên trên, cho đến khoen thứ nhất.[aq] Các tấm ván ở hai góc đều ghép lại với nhau như thế, để làm thành hai góc. 25 Như vậy sẽ có tám tấm ván với những cái đế bằng bạc, mười sáu cái đế cả thảy. Cứ mỗi tấm ván có hai cái đế; tấm ván nào cũng có hai cái đế.

26 Ngươi hãy làm các thanh ngang bằng gỗ si-tim; năm thanh cho các tấm ván bên nầy của Ðền Tạm, 27 năm thanh cho các tấm ván bên kia của Ðền Tạm, và năm thanh cho các tấm ván cho phía trong cùng của Ðền Tạm, về hướng tây. 28 Thanh ngang giữa, nằm ở giữa độ cao của vách ván, sẽ dài từ đầu nầy đến đầu kia. 29 Ngươi sẽ dát vàng các tấm ván; còn các khoen giữ các thanh ngang, ngươi sẽ làm bằng vàng. Ngươi hãy lấy vàng bọc tất cả các thanh ngang. 30 Sau đó ngươi dựng Ðền Tạm theo như kiểu ngươi đã được chỉ vẽ trên núi.

Bức Màn và Tấm Màn Cửa

(Xuất 36:35-38)

31 Ngươi hãy làm một bức màn bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Ngươi hãy thêu trên đó hình các chê-ru-bim thật mỹ thuật. 32 Ngươi sẽ treo bức màn đó trên bốn trụ gỗ si-tim bọc vàng, có móc vàng, dựng trên bốn đế bạc. 33 Ngươi sẽ treo bức màn đó dưới các móc khóa, rồi đem Rương Giao Ước vào đó, tức vào phía trong bức màn. Ðối với các ngươi, bức màn ấy sẽ phân chia giữa Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh. 34 Ngươi sẽ đậy Nắp Thi Ân trên Rương Giao Ước trong Nơi Chí Thánh. 35 Ngươi sẽ đặt cái bàn để bánh thánh bên ngoài bức màn; cây đèn ngươi sẽ đặt ở phía nam trong Ðền Tạm đối ngang cái bàn, còn cái bàn ngươi sẽ đặt về phía bắc.

36 Ngươi sẽ làm một tấm màn che cửa vào lều bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng những sợi gai mịn. Ngươi hãy nhờ các thợ đan dệt tài khéo làm tấm màn đó. 37 Ngươi sẽ làm năm cây trụ gỗ si-tim, lấy vàng bọc lại, để treo tấm màn đó. Các móc treo màn sẽ được làm bằng vàng. Ngươi hãy đúc năm cái đế bằng đồng để dựng các trụ ấy.

Bàn Thờ Dâng Của Lễ Thiêu

(Xuất 38:1-7)

27 Ngươi hãy làm một bàn thờ bằng gỗ si-tim, chiều dọc hai mét rưỡi, chiều ngang hai mét rưỡi, tức bàn thờ có mặt hình vuông, và chiều cao một mét rưỡi.[ar] Ở bốn góc bàn, ngươi sẽ làm bốn cái sừng. Các sừng của bàn thờ sẽ dính liền một khối với bàn thờ. Sau đó ngươi sẽ lấy đồng bọc bàn thờ ấy lại. Ngươi hãy làm các thùng đựng tro, các xẻng, các thùng nước, các chĩa, và các khay. Ngươi hãy làm tất cả các dụng cụ ấy bằng đồng. Ngươi hãy làm một rá lưới bằng đồng. Ngươi hãy làm ở bốn góc rá lưới ấy bốn chiếc khoen bằng đồng. Ngươi hãy treo rá lưới ấy trong bốn chân bàn thờ, bên dưới đường viền quanh bàn thờ, nằm ở khoảng giữa chiều cao của bàn thờ. Ngươi hãy làm những đòn khiêng bàn thờ bằng gỗ si-tim, rồi lấy đồng bọc lại. Các đòn khiêng sẽ được xỏ vào các khoen, như vậy các đòn khiêng sẽ nằm hai bên bàn thờ khi bàn thờ được khiêng đi. Ngươi hãy làm bàn thờ rỗng bên trong, dùng ván đóng lại. Ngươi[as] sẽ làm bàn thờ ấy theo như kiểu ngươi đã được chỉ vẽ trên núi.

Sân Ðền Tạm

(Xuất 38:9-20)

Ngươi hãy làm một bức tường bằng màn để che chung quanh sân Ðền Tạm.[at] Về phía nam của sân đền, ngươi sẽ treo những tấm màn dệt bằng sợi gai mịn, chiều dài phía đó là năm mươi mét.[au] 10 Hai mươi cây cột treo màn và hai mươi đế cột sẽ làm bằng đồng, nhưng các móc và các thanh ngang làm bằng bạc. 11 Ở phía bắc cũng vậy, các tấm màn nối lại dài năm mươi mét,[av] hai mươi cây cột và hai mươi đế cột đều làm bằng đồng, nhưng các móc và các thanh ngang sẽ làm bằng bạc. 12 Về chiều rộng của sân đền, các tấm màn nối lại ở phía tây sẽ dài hai mươi lăm mét,[aw] với mười cây cột và mười đế cột. 13 Còn chiều rộng của sân đền về phía đông, tức mặt tiền của Ðền Tạm, sẽ là hai mươi lăm mét.[ax] 14 Các màn che bên nầy là bảy mét rưỡi,[ay] với ba cây cột và ba đế cột. 15 Các màn che bên kia cũng bảy mét rưỡi,[az] với ba cây cột và ba đế cột. 16 Còn cổng vào sân đền được làm bằng một tấm màn rộng mười mét;[ba] màn ấy sẽ được làm bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Các thợ đan thêu sẽ làm tấm màn ấy. Màn ấy sẽ được treo trên bốn cây cột dựng trên bốn đế cột. 17 Tất cả các cột chung quanh sân đền sẽ được nối kết với nhau bằng những thanh ngang bằng bạc, có những móc bằng bạc, và các đế cột bằng đồng. 18 Chiều dài của sân đền là năm mươi mét, chiều rộng hai mươi lăm mét, và chiều cao hai mét rưỡi.[bb] Sân đền sẽ được che bằng những tấm màn dệt bằng sợi gai mịn, và được treo trên những cột có đế bằng đồng. 19 Tất cả những vật dụng trong Ðền Tạm, tất cả những cọc dùng để căng Ðền Tạm và những cọc để dựng màn che quanh sân đền đều làm bằng đồng.

Dầu Thắp Ðèn

(Lê 24:1-4)

20 Ngươi hãy truyền cho dân I-sơ-ra-ên mang dầu ép ra từ trái ô-liu đến để làm dầu thắp đèn, hầu giữ đèn được thắp sáng luôn. 21 Trong Lều Hội Kiến,[bc] bên ngoài bức màn treo phía trước Rương[bd] Giao Ước, A-rôn và các con ông có phận sự giữ cho đèn luôn luôn sáng trước mặt Chúa, từ chiều tối cho đến sáng. Ðó là quy luật đời đời mà dân I-sơ-ra-ên phải giữ trải qua các thế hệ.

Lễ Phục của Tư Tế

28 Từ trong dân I-sơ-ra-ên, ngươi hãy chọn A-rôn anh ngươi và các con trai ông đến gần ngươi, để làm tư tế phục vụ Ta – A-rôn và các con trai A-rôn là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-xa, và I-tha-ma. Ngươi hãy làm cho A-rôn anh ngươi một bộ lễ phục thánh thật uy nghi rực rỡ. Ngươi hãy bảo những thợ khéo, tức những người Ta đã ban cho tài mỹ thuật, may bộ lễ phục cho A-rôn, hầu biệt riêng ông ra thánh để thi hành chức vụ tư tế phục vụ Ta. Ðây là các phần của bộ lễ phục chúng sẽ may: một túi đeo ngực, một ê-phót, một áo choàng, một áo lễ dài, một mũ tế, và một đai lưng. Khi chúng may bộ lễ phục cho A-rôn anh ngươi và cho các con trai ông, để làm các tư tế phục vụ Ta, chúng sẽ dùng vàng, chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn để làm.

Ê-phót

(Xuất 39:1-7)

Chúng sẽ dùng tài năng khéo léo làm một cái ê-phót bằng vàng, với chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Nó sẽ có hai cầu vai nối liền với hai thân ê-phót ở hai mép, nhờ hai cầu vai đó, hai thân ê-phót được kết lại với nhau. Ðai để cột nó cũng phải được làm thật khéo như vậy, và cũng dùng các thứ vật liệu là vàng, chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Ngươi hãy lấy hai viên bạch bảo ngọc có vân rồi khắc vào đó tên các con trai của I-sơ-ra-ên, 10 sáu tên trên viên nầy và sáu tên còn lại trên viên kia, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. 11 Theo cách thợ chạm khắc làm con dấu, ngươi hãy cho khắc vào hai viên ngọc tên các con trai của I-sơ-ra-ên như vậy, rồi ngươi cho khảm hai viên ngọc đó vào ổ của hai khuôn vàng. 12 Ngươi hãy gắn hai khuôn vàng có hai viên ngọc đó trên hai cầu vai ê-phót, để làm hai viên ngọc tưởng nhớ các con trai của I-sơ-ra-ên. Như thế A-rôn sẽ mang tên chúng trên hai vai để tưởng nhớ chúng trước mặt Chúa. 13 Ngươi sẽ làm các khuôn vàng 14 và hai dây chuyền bằng vàng ròng, xoắn lại với nhau như kiểu dây thừng, rồi ngươi hãy gắn các sợi dây chuyền ấy vào các khuôn.

Túi Ðeo Ngực

(Xuất 39:8-21)

15 Ngươi hãy bảo các thợ khéo làm một túi đeo ngực để đựng cái thẻ dùng để biết phán quyết của Ta. Ngươi hãy làm túi ấy theo như cách đã làm ê-phót; tức ngươi sẽ làm nó bằng vàng, với chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. 16 Túi ấy hình vuông, có hai lớp, chiều ngang một gang tay và chiều dọc một gang tay. 17 Ngươi hãy gắn vào túi ấy bốn hàng bửu ngọc. Hàng thứ nhất: hồng bửu ngọc, hoàng bích ngọc, và lam bích ngọc; 18 hàng thứ nhì: lam lục ngọc, lam bảo ngọc, và nguyệt quang ngọc; 19 hàng thứ ba: hoàng hồng ngọc, bạch lục ngọc, và tử bửu ngọc; 20 hàng thứ tư: lục bích ngọc, bạch bảo ngọc, và lục bửu ngọc. Các viên ngọc ấy sẽ được khảm vào những ổ của một khuôn vàng. 21 Có cả thảy mười hai viên ngọc cho mười hai tên các con trai của I-sơ-ra-ên, mỗi viên sẽ được khắc như kiểu khắc con dấu, mỗi viên có tên riêng cho mười hai chi tộc. 22 Ngươi hãy làm cho túi đeo ngực những dây chuyền bằng vàng ròng, xoắn lại với nhau như dây thừng. 23 Ngươi hãy làm cho túi đeo ngực hai khoen bằng vàng, rồi gắn hai khoen đó vào hai mép túi đeo ngực. 24 Ngươi hãy gắn hai đầu dây chuyền bằng vàng đó vào hai khoen ở hai mép của túi đeo ngực, 25 còn hai đầu kia của hai dây chuyền bằng vàng, ngươi hãy gắn vào phía trước của hai khuôn trên hai cầu vai của ê-phót. 26 Ngươi cũng hãy làm hai khoen bằng vàng, rồi gắn vào hai mép, bên lớp trong của túi đeo ngực, tức sát với ê-phót. 27 Ngươi hãy làm hai khoen vàng khác, rồi gắn vào mặt dưới phía trước của hai cầu vai ê-phót, chỗ giáp mối, bên trên dải nịt vai của ê-phót. 28 Người ta sẽ lấy một rẻo vải xanh dương buộc các khoen vàng của túi đeo ngực với các khoen vàng của ê-phót lại với nhau, để túi đeo ngực không rời khỏi ê-phót. 29 Như thế A-rôn sẽ mang tên các con trai của I-sơ-ra-ên trên mặt túi đeo ngực có đựng thẻ dùng để biết phán quyết của Ta bên tim mình, để mỗi khi ông vào Nơi Thánh, chúng sẽ được nhớ đến trước mặt Chúa luôn luôn. 30 Ngươi hãy để vào trong túi đeo ngực ấy các thẻ U-rim và Thum-mim, hầu có thể biết phán quyết của Ta. Các thẻ ấy phải ở bên tim A-rôn mỗi khi ông vào chầu trước mặt Chúa. Như thế A-rôn sẽ mang thẻ dùng để biết phán quyết của Ta cho dân I-sơ-ra-ên bên tim mình trước mặt Chúa luôn luôn.

Áo Choàng và Các Món Ðồ Thánh

(Xuất 39:22-26; 30-31)

31 Ngươi hãy may một chiếc áo choàng làm toàn vải xanh dương để mặc bên dưới ê-phót. 32 Ở giữa áo ấy sẽ khoét một lỗ làm cổ để chui đầu vào như áo giáp; xung quanh cổ sẽ được dệt viền lại thật chắc để khỏi rách. 33 Phía dưới lai áo ngươi hãy làm những trái lựu bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, và chỉ đỏ thắm, xen kẽ với những chuông nhỏ bằng vàng gắn quanh lai áo. 34 Cứ một chuông nhỏ bằng vàng thì tới một quả lựu, một chuông nhỏ bằng vàng rồi một quả lựu, cứ thế mà gắn quanh hết lai áo. 35 A-rôn sẽ mặc áo ấy mỗi khi hành lễ. Người ta sẽ nghe tiếng chuông reo mỗi khi ông vào Nơi Thánh trước mặt Chúa, hay khi ông từ nơi ấy đi ra, như thế ông sẽ khỏi phải chết.

36 Ngươi hãy làm một thẻ bằng vàng ròng, rồi khắc trên đó, như kiểu khắc con dấu, những chữ sau đây, “Thánh cho Chúa.” 37 Ngươi hãy buộc thẻ đó trên mũ tế bằng một sợi dây làm bằng chỉ xanh dương; thẻ đó phải được buộc vào phía trước mũ tế. 38 Thẻ đó sẽ ở trên trán A-rôn, và A-rôn sẽ mang tội lỗi liên quan đến của lễ thánh, tức tất cả của lễ dân I-sơ-ra-ên đã biệt riêng ra thánh để đem dâng. Thẻ đó luôn luôn ở trên trán A-rôn, hầu chúng có thể được Chúa đoái nhận.

39 Ngươi hãy dệt một áo lễ dài bằng chỉ gai mịn. Ngươi hãy làm một chiếc mũ tế bằng chỉ gai mịn. Ngươi hãy nhờ thợ thêu đan làm một đai lưng.

Lễ Phục cho Các Con A-rôn

(Xuất 39:27-29)

40 Về các con trai A-rôn, ngươi hãy may các áo lễ dài, các đai lưng, và các mũ tế cho chúng, để chúng cũng được vẻ uy nghi rực rỡ. 41 Ngươi hãy cho A-rôn anh ngươi và các con trai ông mặc các lễ phục ấy. Ngươi hãy xức dầu cho chúng, phong chức cho chúng, và biệt riêng chúng ra thánh để làm các tư tế phục vụ Ta. 42 Ngươi hãy may những quần đùi bằng vải gai để chúng khỏi bị hở hang. Các quần đó sẽ dài từ ngang lưng đến bắp đùi. 43 A-rôn và các con trai ông sẽ mặc các bộ lễ phục đó mỗi khi sắp vào Lều Hội Kiến, hay khi đến gần bàn thờ để hành lễ trong Nơi Thánh, hầu chúng khỏi mắc tội mà phải chết. Ðây là một luật lệ muôn đời cho A-rôn và dòng dõi ông.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang