Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

The Daily Audio Bible

This reading plan is provided by Brian Hardin from Daily Audio Bible.
Duration: 731 days

Today's audio is from the NIV. Switch to the NIV to read along with the audio.

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
Giê-rê-mi-a 12:1-14:10

Lời phàn nàn đầu tiên của Giê-rê-mi

12 Lạy CHÚA, khi tôi trình bày trường hợp của tôi cùng Ngài,
    thì Ngài luôn luôn đúng.
Nhưng tôi muốn hỏi Ngài về công lý Ngài ban phát.
    Tại sao kẻ ác thành công?
Tại sao những kẻ bất lương sống thoải mái?
Ngài đặt những kẻ ác ở đây
    như cây có rễ vững chắc.
Chúng mọc lên và sinh trái.
Môi miệng chúng nói ngon ngọt về Ngài,
    nhưng lòng chúng cách xa Ngài.
Nhưng lạy CHÚA, Ngài biết lòng tôi.
    Ngài thấy tôi và thử tư tưởng tôi đối với Ngài.
Xin hãy lôi kẻ ác đi như chiên sắp bị làm thịt.
    Xin để chúng riêng ra cho ngày giết chóc.
Xứ sẽ bị khô cằn
    và cỏ trong đồng bị héo úa trong bao lâu nữa?
Súc vật và chim chóc trong xứ đều đã chết,
    vì dân cư quá độc ác.
Thật vậy, thậm chí họ nói,
    “Thượng Đế không thấy số phận của chúng ta.”

Chúa trả lời cho Giê-rê-mi

“Nếu ngươi chạy đua với người mà còn thấy mỏi mệt,
    thì làm sao đua được với ngựa?
Nếu trong đồng trống mà ngươi còn vấp ngã,
    thì khi gặp những bụi rậm dọc theo bờ sông Giô-đanh
    ngươi sẽ làm sao?
Thậm chí đến anh em và thân nhân
    trong chính gia đình ngươi
    cũng âm mưu hại ngươi.
Chúng kêu la nghịch cùng ngươi.
    Đừng tin vào chúng,
    dù cho chúng nói ngon ngọt cùng ngươi!

Ta đã lìa bỏ Ít-ra-en;
    Ta đã lìa bỏ dân ta [a].
Ta đã trao dân mà ta yêu dấu
    vào tay kẻ thù chúng.
Dân ta đối với ta như sư tử trong rừng.
    Chúng gầm thét cùng ta,
    cho nên ta ghét chúng.
Dân ta đối với ta như chim,
    bị chim ưng vây tứ phía,
Hãy đi gom muông thú trong xứ lại.
    Hãy cho chúng nó ăn.
10 Vô số kẻ chăn chiên đã làm hư vườn nho ta
    và dẫm lên các cây non trong ruộng.
Chúng đã biến ruộng nương xinh đẹp của ta
    ra sa mạc hoang vu.
11 Chúng đã biến đồng ruộng ta ra sa mạc khô cằn và chết chóc.
Cả xứ đã trở thành sa mạc hoang vu,
    vì chẳng ai sống ở đó lo đến nó nữa.
12 Vô số chiến sĩ đã dẫm lên các đồi trọc.
CHÚA dùng các đạo quân để trừng phạt đất
    từ đầu nầy đến đầu kia.
Chẳng ai được an ninh cả.
13 Dân chúng đã trồng lúa mì,
    nhưng chỉ gặt được gai gốc.
Họ ra sức làm việc đến mệt lả,
    nhưng rốt cuộc không thu kết quả gì.
Họ xấu hổ về mùa gặt nghèo nàn
    của mình vì cơn thịnh nộ CHÚA đã gây ra tình trạng đó.”

Lời Chúa hứa cho các nước lân bang của Ít-ra-en

14 CHÚA phán cùng tôi như sau: “Ta sẽ làm thế nầy cho những láng giềng độc ác đã chiếm đất mà ta giao cho dân Ít-ra-en ta. Còn dân Giu-đa, ta sẽ nhổ chúng lên. 15 Nhưng sau khi ta đã nhổ chúng lên thì ta sẽ lại tội nghiệp cho chúng. Ta sẽ mang từng người trở về với sản nghiệp và đất đai mình. 16 Ta muốn chúng học bài học của mình thật thuộc. Trước kia chúng dạy cho dân ta thề thốt trong danh Ba-anh. Nhưng nếu nay chúng học thề trong danh ta rằng, ‘Thật như CHÚA hằng sống …’ Ta sẽ cho chúng quay về trong vòng dân ta. 17 Nhưng nếu dân tộc nào không chịu nghe lời ta thì ta sẽ nhổ bỏ hoàn toàn và tiêu diệt chúng,” CHÚA phán vậy.

Thắt lưng vải của Giê-rê-mi

13 CHÚA phán cùng tôi như sau: “Hãy đi mua một cái khố [b] bằng vải rồi mặc vào. Đừng làm ướt cái khố đó.”

Vậy tôi đi mua một thắt lưng vải theo như CHÚA dặn bảo và buộc quanh hông tôi. Rồi CHÚA phán cho tôi lần thứ nhì: “Hãy lấy thắt lưng mà ngươi đã mua và đang quấn đi đến Bê-rát [c]. Hãy giấu thắt lưng đó trong kẽ đá.”

Vậy tôi đi đến Bê-rát và giấu thắt lưng ở đó như CHÚA dặn bảo. Sau nhiều ngày CHÚA bảo tôi, “Bây giờ hãy đi đến Bê-rát lấy thắt lưng mà ta bảo ngươi giấu ở đó.”

Vậy tôi đi đến Bê-rát đào thắt lưng lên khỏi nơi tôi đã giấu. Nhưng nó đã bị mục nát hết, không dùng được việc gì.

Rồi CHÚA phán cùng tôi. CHÚA phán: “Cũng vậy, ta sẽ hủy hoại lòng kiêu căng của dân Giu-đa và lòng tự phụ quá đáng của Giê-ru-sa-lem. 10 Các dân gian ác đó không chịu nghe lời cảnh cáo của ta. Chúng ương ngạnh chỉ làm theo ý riêng mình, đi theo các thần khác để phục vụ và bái lạy. Nên chúng sẽ như thắt lưng vải mục nát nầy, hoàn toàn vô dụng. 11 Như thắt lưng được dùng để quấn quanh hông người, ta đã quấn các gia đình Ít-ra-en và Giu-đa quanh ta,” CHÚA phán vậy. “Ta đã làm như vậy để họ làm dân ta, để mang danh tiếng, sự tán dương, và tôn trọng đến cho ta nhưng chúng không nghe.”

Lời cảnh cáo Giu-đa

12 “Hãy bảo chúng: ‘CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en phán: Tất cả các bầu da phải đầy rượu.’ Dân chúng sẽ nói cùng ngươi: ‘Dĩ nhiên, chúng tôi biết các bầu da phải đầy rượu.’ 13 Vậy ngươi phải bảo chúng rằng, ‘CHÚA phán như sau: Ta sẽ biến tất cả mọi người trong xứ nầy say sưa, từ các vua ngồi trên ngôi Đa-vít, thầy tế lễ, nhà tiên tri, cho đến tất cả mọi người sống trong Giê-ru-sa-lem. 14 Ta sẽ khiến người nầy xô đẩy người kia, ngã té vào nhau, cha cũng như con, CHÚA phán vậy. Ta sẽ không tội nghiệp hay thương hại chúng mà nương tay không tiêu diệt chúng.’”

Lời đe dọa về nạn tôi mọi

15 Hãy nghe và để ý điều nầy.
    Đừng quá hợm hĩnh,
    vì CHÚA phán cùng các ngươi.
16 Hãy dâng vinh hiển cho CHÚA là Thượng Đế các ngươi,
    trước khi Ngài mang tăm tối đến,
    trước khi các ngươi té ngã trên núi đồi tối tăm.
Các ngươi sẽ mong có ánh sáng,
    nhưng Ngài sẽ biến nó ra bóng tối mịt mù;
Ngài sẽ khiến nó thành ra màn đêm ảm đạm.
17 Nếu các ngươi không vâng lời Ngài,
    thì ta sẽ khóc thầm về lòng tự phụ các ngươi.
Ta sẽ khóc lóc cay đắng,
    mắt ta sẽ đẫm nước mắt,
    vì bầy chiên của CHÚA [d] sẽ bị bắt cầm tù.
18 Hãy rao điều nầy cho vua và thái hậu:
    “Hãy bước xuống khỏi ngôi báu,
    vì mão triều rực rỡ của ngươi
    đã rơi khỏi đầu các ngươi rồi.”
19 Các thành phố miền Nam Giu-đa đã bị khóa chặt,
    không ai mở được.
Tất cả Giu-đa sẽ bị bắt làm tù binh
    sang một xứ ngoại quốc;
    toàn thể dân cư đều sẽ bị bắt đi lưu đày.

20 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy ngước lên mà nhìn
    kẻ thù tràn đến từ phương Bắc [e].
Bầy [f] chiên mà Thượng Đế giao cho các ngươi chăn giữ đâu rồi,
    bầy mà ngươi vẫn hãnh diện đó?
21 Các ngươi sẽ nói gì khi chúng cắt cử
    những người mà ngươi nghĩ là bạn hữu mình
    lên chỉ huy ngươi?
Chẳng lẽ ngươi không đau đớn khổ sở, như đàn bà đang sinh đẻ sao?
22 Ngươi có thể tự hỏi,
    “Tại sao chuyện nầy lại xảy đến cho tôi?”
Nó xảy đến là vì ngươi phạm quá nhiều tội.
Vì tội lỗi ngươi mà váy ngươi đã bị xé rách
    và thân thể ngươi bị bầm dập.
23 Có người Cút nào đổi được màu da mình không?
    Con beo có đổi được đốm của nó không?
Cũng vậy, hỡi Giê-ru-sa-lem,
    ngươi sẽ không thể nào thay đổi lòng được,
    để làm điều lành,
    vì ngươi đã quen làm ác rồi.

24 “Ta sẽ phân tán các ngươi ra
    như trấu bị gió sa mạc thổi bay tứ phía.
25 Đó là điều sẽ xảy đến cho các ngươi;
    vì vai trò của các ngươi
    trong chương trình của ta là như vậy,” CHÚA phán,
    “Vì các ngươi quên ta mà tin theo các điều dối trá,
26 Ta sẽ kéo váy ngươi lên trùm mặt ngươi
    để mọi người thấy sự xấu hổ ngươi.
27 Ta đã thấy những điều gớm ghiếc ngươi làm [g]:
    hành vi dâm ô và tiếng khịt mũi của ngươi,
    nếp sống điếm đàng của ngươi,
    các hành vi ghê tởm của ngươi
    trên các đồi và trong đồng ruộng.
Hỡi Giê-ru-sa-lem, thật khốn nạn cho ngươi.
    Ngươi sẽ mãi nhơ nhớp cho đến bao giờ?”

Thời kỳ hạn hán

14 Lời của CHÚA phán cùng Giê-rê-mi về nạn hạn hán:

“Dân Giu-đa than khóc như có ai chết,
    các thành phố nó buồn thảm.
Chúng đau buồn về xứ sở mình.
    Có tiếng khóc than từ Giê-ru-sa-lem lên đến Thượng Đế.
Những kẻ quyền quí sai các tôi tớ mình đi tìm nước.
    Chúng đi đến các giếng,
    nhưng không tìm ra nước.
Nên chúng xách bình không đi về.
    Chúng cảm thấy xấu hổ ngượng ngùng, trùm đầu lại để che dấu.
Không ai cày bừa đất đai để trồng trọt [h].
    Đất khô cằn và nứt nẻ,
    vì không có mưa trong xứ.
Nông gia buồn bực lo lắng,
    nên trùm đầu để che dấu.
Thật vậy, đến nỗi nai cái trong đồng,
    cũng phải bỏ nai con lại cho chết,
    vì không có cỏ cho nó ăn.
Các con lừa hoang đứng trên các đồi trọc
    đánh hơi gió như chó rừng.
Nhưng mắt chúng bị mù lòa
    vì không có thức ăn.”

Chúng tôi biết vì tội lỗi mình
    mà chúng tôi phải chịu khổ sở.
Lạy CHÚA, xin hãy vì danh tốt Ngài mà cứu giúp chúng tôi.
Bao lần chúng tôi đã lìa bỏ Ngài;
    chúng tôi đã phạm tội cùng Ngài.
Lạy Thượng Đế, là nguồn Hi vọng của Ít-ra-en,
    Ngài đã giải cứu Ít-ra-en trong những lúc khốn khó.
Tại sao Ngài làm như khách lạ trong xứ,
    hay như lữ khách qua đêm?
Tại sao Ngài như kẻ bị tấn công bất thần,
    như chiến sĩ chẳng giải cứu được ai?
Nhưng lạy CHÚA, Ngài ở giữa chúng tôi,
    chúng tôi được gọi bằng danh Ngài
    xin đừng để chúng tôi tuyệt vọng!

10 CHÚA phán như sau về dân Giu-đa:

“Chúng muốn lìa xa ta; không ngần ngại lìa bỏ ta. Nên bây giờ CHÚA sẽ không chấp nhận chúng nó nữa. Ngài sẽ nhớ lại điều ác chúng làm và sẽ trừng phạt chúng vì tội lỗi chúng.”

I Thê-sa-lô-ni-ca 1:1-2:8

Phao-lô, Xi-la và Ti-mô-thê, kính gởi hội thánh tại Tê-sa-lô-ni-ca là hội thánh của Thượng Đế, Cha chúng ta, và của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Nguyền xin ân phúc và bình an ở cùng anh chị em.

Đức tin của người Tê-sa-lô-ni-ca

Tôi luôn luôn vì anh chị em mà cảm tạ Thượng Đế và thường nhắc đến anh chị em mỗi khi cầu nguyện. Chúng tôi luôn luôn nhớ đến anh chị em mỗi khi chúng tôi đến cùng Thượng Đế, Cha chúng ta, về những việc làm do đức tin và tình yêu thương của anh chị em đã chứng tỏ bằng việc làm. Chúng tôi cũng tạ ơn Ngài vì anh chị em luôn vững mạnh trong hi vọng nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta. Thưa anh chị em, chúng tôi biết Thượng Đế yêu thương anh chị em nên Ngài đã chọn lựa anh chị em. Vì Tin Mừng mà chúng tôi mang đến cho anh chị em không những bằng lời nói mà còn bằng năng lực cùng với Thánh Linh và niềm tin chắc rằng đó là Tin Mừng thật. Anh chị em cũng biết chúng tôi đã sống giữa anh chị em như thế nào để giúp đỡ anh chị em. Anh chị em giống như chúng tôi, đồng thời cũng giống như Chúa. Anh chị em đã chịu khổ nhiều nhưng vẫn chấp nhận lời dạy dỗ với niềm vui mừng do Thánh Linh mang đến. Vì thế anh chị em đã nêu gương sáng cho các tín hữu ở Ma-xê-đoan và miền Nam Hi-lạp. Và lời dạy dỗ của Chúa từ anh chị em không những đã truyền ra khắp miền Ma-xê-đoan và miền Nam Hi-lạp mà đức tin của anh chị em cũng đã vang ra khắp nơi cho nên chúng tôi không cần phải nói thêm gì nữa. Ở mọi nơi ai nấy đều khen ngợi cách anh chị em tiếp đãi khi chúng tôi đến. Họ cũng nói đến việc anh chị em từ bỏ sự thờ cúng thần tượng và trở về phục vụ Chúa chân thật và hằng sống. 10 Anh chị em cũng chờ đợi Con Thượng Đế, Đấng mà Ngài đã khiến sống lại từ kẻ chết và sẽ từ thiên đàng trở lại. Ngài là Giê-xu, Đấng cứu chúng ta khỏi cơn trừng phạt giận dữ của Thượng Đế chắc chắn sẽ đến.

Công tác của Phao-lô ở Tê-sa-lô-ni-ca

Thưa anh chị em, anh chị em biết rằng cuộc viếng thăm anh chị em của chúng tôi không phải là thất bại. Trước khi đến thăm anh chị em, chúng tôi đã phải chịu khổ nhiều ở thành Phi-líp. Như anh chị em biết, nhiều người phỉ nhổ và chống đối chúng tôi. Nhưng Thượng Đế giúp chúng tôi can đảm vững lòng rao truyền Tin Mừng cho anh chị em. Khi kêu gọi anh chị em, không phải chúng tôi muốn lừa dối, mưu mô hoặc gạt gẫm anh chị em. Nhưng chúng tôi giảng Tin Mừng vì chúng tôi đã được Thượng Đế thử nghiệm và giao cho nhiệm vụ ấy. Khi rao giảng, chúng tôi không tìm cách làm vừa lòng người mà vừa lòng Thượng Đế là Đấng thử nghiệm lòng chúng tôi. Anh chị em biết rằng chúng tôi không tìm cách khuyến dụ anh chị em bằng những lời ca tụng. Chúng tôi cũng không tìm cách lạc quyên tiền bạc của anh chị em vì chúng tôi không hề có động lực ích kỷ nào phải dấu giếm. Thượng Đế biết rằng lời chúng tôi nói đây là thật. Chúng tôi không tìm lời ca ngợi của loài người, dù của anh chị em hay của bất cứ ai khác.

Dù rằng với tư cách là sứ đồ của Chúa Cứu Thế chúng tôi có thể dùng quyền của mình đối với anh chị em nhưng chúng tôi đã tỏ ra rất mềm mại [a] như mẹ lo cho con mình vậy. Vì quá yêu mến anh chị em nên chúng tôi vui mừng san sẻ không những Tin Mừng của Thượng Đế mà còn san sẻ chính mình chúng tôi nữa. Anh chị em đã trở nên thân thiết với chúng tôi.

Thánh Thi 79

Quốc gia than khóc về Giê-ru-sa-lem

Bài ca của A-sáp.

79 Thượng Đế ôi, các dân đã chống nghịch lại dân được chọn lựa của Ngài.
    Chúng đã làm dơ bẩn đền thánh Ngài,
    biến Giê-ru-sa-lem ra nơi hoang tàn.
Chúng đã ném xác các đầy tớ Ngài làm thức ăn cho chim trời;
    quăng thây kẻ thờ phụng Ngài làm mồi cho dã thú.
Chúng đổ huyết chảy lênh láng như nước quanh Giê-ru-sa-lem.
    Không còn ai để chôn kẻ chết.
Chúng tôi trở thành lời giễu cợt cho các dân tộc khác;
    chúng cười đùa và chế giễu chúng tôi.
Chúa ôi, việc nầy kéo dài đến bao lâu?
Ngài sẽ tức giận mãi sao?
    Cơn thịnh nộ của Ngài sẽ tiếp tục cháy phừng mãi sao?
Xin hãy nổi giận cùng các quốc gia không biết Ngài
    và các vương quốc không kêu cầu Ngài.
Chúng ăn nuốt dân cư Gia-cốp
    và tiêu hủy đất đai họ.
Xin đừng phạt chúng tôi vì tội lỗi xưa kia của chúng tôi.
    Xin sớm tỏ lòng thương xót Ngài đối với chúng tôi vì chúng tôi kiệt quệ.
Lạy Thượng Đế là Đấng Cứu Rỗi chúng tôi,
    vì sự vinh hiển của danh Ngài, xin cứu giúp chúng tôi;
    vì uy danh Ngài xin cứu giúp
    và tha tội chúng tôi.
10 Đừng để các dân có cớ để hỏi,
    “Thượng Đế chúng đâu rồi?”
Trước mặt Ngài xin hãy cho các dân khác và chúng tôi thấy rằng,
    Ngài sẽ trừng phạt những kẻ giết hại các đầy tớ Ngài.
11 Xin hãy nghe lời rên rỉ của các tù nhân.
    Xin dùng quyền năng vĩ đại của Ngài giải cứu kẻ bị án tử hình.
12 Chúa ôi, xin báo trả bảy lần những điều chúng sỉ nhục Ngài.
13 Chúng tôi là dân Ngài, bầy chiên của Ngài.
Chúng tôi sẽ luôn luôn cảm tạ Chúa;
    muôn đời chúng tôi sẽ ca ngợi Ngài!

Châm Ngôn 24:30-34

30 Ta đi ngang ruộng của kẻ biếng nhác
    và đi qua vườn nho của kẻ thiếu hiểu biết.
31 Ta thấy gai gốc mọc khắp nơi.
    Cỏ dại phủ kín đất, còn vách đá thì đổ nhào.
32 Ta suy nghĩ điều ta thấy;
    và học được bài nầy.
33 Ngủ một chút, chợp mắt chốc lát.
    Khoanh tay nằm xuống nghỉ giây lát.
34 Thì cái nghèo sẽ đến với con như chiến sĩ mang vũ khí;
    con sẽ thiếu thốn như bị cướp.

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

© 2010 Bible League International