Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Version
Ai Ca 2:1 - Ê-xê-ki-ên 12:20

Chúa tiêu diệt Giê-ru-sa-lem

Hãy xem Chúa đã làm nhục Giê-ru-sa-lem [a]
    trong cơn thịnh nộ Ngài.
Ngài đã ném sự cao trọng của Ít-ra-en
    từ trời xuống đất;
Ngài không nhớ lại đền thờ là bệ chân [b] Ngài nữa,
    trong ngày CHÚA nổi thịnh nộ.

Chúa đã tiêu diệt các nhà cửa của Gia-cốp,
    không thương tiếc;
trong cơn giận, Ngài giật sập những nơi vững chắc của Giu-đa [c].
Ngài ném quốc gia và các quan cai trị nó xuống đất để làm nhục nó.

Trong cơn giận Ngài đã phá hủy nhà cửa của Ít-ra-en,
    không chút thương tiếc.
Trong cơn thịnh nộ Ngài ném nước Giu-đa và các lãnh tụ nó xuống đất.

Ngài nhắm cung tên như kẻ thù,
    tay Ngài nghịch lại chúng ta.
Giống như kẻ thù,
    Ngài giết tất cả những trai tráng khoẻ mạnh;
Ngài trút cơn giận ra như lửa đổ trên các lều trại của Giê-ru-sa-lem.

Chúa giống như kẻ thù;
    Ngài nuốt sống Ít-ra-en.
Ngài tiêu diệt các cung điện nó
    và tiêu diệt các đồn lũy nó.
Ngài gây ra thêm tiếng kêu than trong đất Giu-đa.

Ngài chặt đền thờ [d] ra như mảnh vườn;
    Ngài dẹp phá nơi hội họp.
CHÚA đã làm cho Giê-ru-sa-lem
    quên những ngày lễ định sẵn và ngày Sa-bát.
Trong cơn thịnh nộ,
    Ngài gạt bỏ vua và thầy tế lễ.

Chúa cũng đã gạt bỏ bàn thờ
    và bỏ phế đền thờ Ngài.
Ngài đã giao vách của các cung điện trong Giê-ru-sa-lem cho kẻ thù.
Tiếng huyên náo trong đền thờ CHÚA
    nghe như tiếng liên hoan ăn mừng lễ lộc.

CHÚA dự định phá sập vách thành bao quanh Giê-ru-sa-lem.
Ngài đã đo vách
    và nhất quyết phá sập nó.
Ngài khiến các vách và hàng rào phòng thủ buồn thảm;
    tất cả đều ngã sập.

Các cổng thành Giê-ru-sa-lem sập xuống đất;
    Ngài đã tiêu diệt và bẻ gãy các thanh gài cổng nó.
Vua và các hoàng tử nó lưu vong giữa các dân.
    Lời giáo huấn của CHÚA đã ngưng,
và các tiên tri cũng không còn thấy dị tượng từ CHÚA nữa.

10 Các bô lão trong Giê-ru-sa-lem ngồi im lặng dưới đất.
    Họ phủ bụi trên đầu,
và mặc quần áo bằng vải sô
    để chứng tỏ lòng buồn thảm.
Các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem
    đi cúi gầm mặt xuống đất rầu rĩ.

11 Mắt tôi không còn rơi lụy nữa,
    tôi đã ngấy lắm rồi.
Tôi cảm thấy lòng trống rỗng,
    vì dân tôi đã bị tiêu diệt.
Các trẻ thơ và hài nhi ngất xỉu trong đường phố.

12 Chúng hỏi mẹ chúng,
    “Cơm gạo và rượu đâu hả mẹ?”
Chúng ngất xỉu như những binh sĩ bị thương
    trong các đường phố,
rồi chết trong tay mẹ mình.

13 Hỡi Giê-ru-sa-lem, ta sẽ nói gì về ngươi?
    Ta sẽ so sánh ngươi với cái gì?
Ngươi giống ai?
    Hỡi Giê-ru-sa-lem, làm sao ta an ủi ngươi được?
Sự điêu tàn ngươi thật sâu hơn biển cả.
    Không ai chữa lành ngươi nổi.

14 Các nhà tiên tri ngươi đã thấy dị tượng,
    nhưng là dị tượng giả, không có giá trị gì.
Các dị tượng đó không phơi bày tội lỗi ngươi, để giúp ngươi khỏi bị bắt.
Mà chỉ là những điều giả dối
    hướng dẫn ngươi đi lầm lạc.

15 Ai đi qua lại trên đường
    đều vỗ tay trêu chọc ngươi;
Chúng chế giễu Giê-ru-sa-lem và lắc đầu.
Chúng hỏi nhau,
“Đây có phải là nơi mà người ta gọi là thành phố đẹp nhất,
    nơi phúc hạnh nhất trên đất không?”

16 Tất cả các kẻ thù ngươi mở miệng chống nghịch ngươi.
    Chúng chế giễu và nghiến răng giận dữ.
Chúng bảo, “Chúng ta đã nuốt sống ngươi.
    Đây là ngày chúng ta mong đợi!
Rốt cuộc chúng ta thấy nó đã đến.”

17 CHÚA đã làm điều Ngài dự định;
    Ngài đã giữ lời hứa Ngài đã phán từ xưa.
Ngài đã hủy phá không thương tiếc,
    Ngài đã để kẻ thù cười nhạo ngươi.
Ngài thêm sức mạnh cho kẻ thù.

18 Dân chúng kêu la [e] cùng CHÚA.
    Hỡi vách thành Giê-ru-sa-lem,
Hãy để nước mắt ngươi chảy đầm đìa như sông cả ngày lẫn đêm.
Đừng ngưng chảy cũng đừng cho mắt ngươi nghỉ ngơi.

19 Hãy đứng dậy, kêu la giữa đêm,
    ngay cả lúc màn đêm buông xuống.
Hãy đổ lòng ra như nước mà khẩn cầu cùng CHÚA.
Hãy giơ tay lên van xin Ngài
    cứu mạng sống con cái ngươi.
Chúng đang ngất xỉu nơi mỗi góc phố vì đói.

20 Giê-ru-sa-lem nói, “Xin CHÚA hãy đoái nhìn,
    xem thử Ngài đã làm điều nầy cho ai.
Mẹ ăn thịt con cái mình,
    tức những đứa bé mà chính mình chăm sóc.
Các thầy tế lễ và nhà tiên tri bị giết
    trong đền thờ CHÚA.

21 Người trẻ và già đều nằm la liệt ngoài đường.
Các thanh niên thiếu nữ của tôi
    đã bị gươm giết.
Ngài giết chúng nó trong ngày CHÚA nổi giận;
    Ngài giết sạch không nương tay.

22 Ngài mang sự kinh hoàng
    vây tôi khắp bốn bên,
    giống như mời chúng đến dự tiệc.
Không ai thoát khỏi hay sống sót
    trong ngày CHÚA nổi thịnh nộ.
Kẻ thù tôi đã giết
    những kẻ tôi chăm sóc và nuôi nấng.”

Ý nghĩa của sự đau khổ

Tôi là người đã nhìn thấy sự khốn khổ
    do cây roi thịnh nộ của CHÚA mang lại.
Ngài dẫn tôi vào bóng tối,
    không phải ánh sáng.
Ngài trở tay nghịch tôi,
    hết lần nầy đến lần khác,
    suốt ngày như vậy.
Ngài làm cho da thịt tôi mòn mỏi
    và bẻ gãy các xương cốt tôi.
Ngài lấy sự buồn thảm vây phủ tôi
    và lấy sầu não tấn công tôi.
Ngài khiến tôi ngồi trong bóng tối,
    giống như kẻ đã qua đời từ lâu.

Ngài nhốt tôi lại,
    không cho tôi thoát ra;
    lấy xiềng trói tôi lại.
Tôi kêu cứu,
    nhưng Ngài không đếm xỉa đến lời khẩn cầu tôi.
Ngài lấy vách đá chận đường tôi,
    khiến tôi đi lạc lối.

10 Ngài giống như con gấu
    sẵn sàng tấn công tôi, giống như sư tử rình rập.
11 Ngài dẫn tôi đi lạc rồi bỏ mặc tôi.
12 Ngài giương cung và chực bắn,
    dùng tôi làm đích cho các mũi tên Ngài.

13 Ngài bắn vào trái cật tôi
    bằng mũi tên trong bao Ngài.
14 Tôi trở thành trò cười cho dân tộc tôi,
    chúng ca hát chế giễu tôi suốt ngày.
15 CHÚA bắt tôi chịu khốn khổ trăm bề;
    Ngài cho tôi say sưa với đau khổ.

16 Ngài lấy sỏi bẻ gãy răng tôi
    và chà đạp tôi trong bụi đất.
17 Tôi không còn được an nghỉ nữa.
    Tôi không còn biết hạnh phúc là gì.
18 Tôi nói, “Sức mạnh tôi tiêu tan rồi,
    tôi không còn hi vọng gì nơi CHÚA nữa.”
19 Lạy CHÚA, xin hãy nhớ sự khốn khổ và cực nhọc của tôi,
    cùng sự buồn thảm và hoạn nạn tôi.
20 Xin hãy nhớ lại tôi
    và suy nghĩ đến tôi.
21 Nhưng tôi nuôi hi vọng
    khi tôi suy nghĩ về điều nầy:

22 Tình yêu CHÚA không bao giờ dứt;
    lòng nhân ái Ngài không hề ngưng.
23 Mỗi sáng chúng đều mới nguyên;
    Lạy CHÚA, sự thành tín Ngài rất lớn.
24 Tôi tự nhủ, “CHÚA thuộc về tôi,
    cho nên tôi tin cậy nơi Ngài.”

25 CHÚA rất nhân từ cùng những ai đặt hi vọng nơi Ngài,
    và những người tìm kiếm Ngài.
26 Nên im lặng chờ đợi CHÚA giải cứu.
27 Trong khi còn trẻ
    hãy cố gắng làm việc.

28 Hãy nên tịnh tâm và im lặng;
    CHÚA đã giao công việc cực nhọc cho người làm.
29 Người nên cúi xuống sát đất;
    vì may ra còn hi vọng.
30 Người nên để kẻ khác vả má mình;
    và nên biết liêm sỉ.

31 Đừng quên rằng CHÚA sẽ không vĩnh viễn gạt bỏ dân Ngài.
32 Dù Ngài mang sầu não đến,
    nhưng Ngài đầy lòng nhân ái và yêu thương lớn lao.
33 Ngài không thích trừng phạt con người
    hay khiến họ buồn rầu.

34 Ngài không muốn tù nhân nào trên đất bị đè bẹp;
35 Ngài cũng thấy kẻ bị đối xử bất công
    trước mặt Thượng Đế Tối Cao;
36 CHÚA nhìn thấy
    kẻ bị lường gạt trong vụ thưa kiện trước tòa.

37 Không ai có thể buông ra lời nào hay thực hiện nổi điều gì
    nếu CHÚA không cho phép.
38 Cả điều xấu lẫn điều tốt
    đều đến do mệnh lệnh của Thượng Đế Tối Cao.
39 Không ai nên phàn nàn
    khi bị trừng phạt vì tội lỗi mình.

40 Hãy tự xét mình xem đã làm gì
    và trở lại cùng CHÚA.
41 Chúng ta hãy giơ tay lên và cầu nguyện từ trong đáy lòng
    cùng Thượng Đế trên trời rằng:
42 Chúng tôi đã phạm tội và chống nghịch Ngài,
    và Ngài không tha thứ chúng tôi.

43 Ngài phủ mình bằng cơn giận và rượt đuổi chúng tôi;
    Ngài giết chúng tôi không thương xót.
44 Ngài phủ mình bằng đám mây,
    cho nên không có lời cầu nguyện nào thấu đến tai Ngài.
45 Ngài làm cho chúng tôi như cặn bã
    và rơm rác giữa các dân.

46 Tất cả các kẻ thù của chúng tôi
    mở miệng nói nghịch cùng chúng tôi.
47 Chúng tôi bị kinh hoàng và sợ sệt,
    bị điêu tàn và tiêu diệt.
48 Dòng lệ tuôn chảy từ mắt tôi,
    vì dân tôi đã bị tiêu diệt.
49 Nước mắt tôi hằng tuôn chảy, không ngưng,
50 cho đến khi CHÚA nhìn xuống
    và từ trời trông thấy.
51 Tôi buồn rầu khi nhìn thấy
    những việc xảy ra cho các phụ nữ trong thành tôi.

52 Những kẻ thù nghịch tôi vô cớ
    săn đuổi tôi như chim.
53 Chúng tìm cách giết tôi trong hố;
    chúng ném đá vào tôi.
54 Nước dâng lên ngập đầu tôi,
    và tôi thốt lên, “Tôi sắp chết rồi.”
55 Lạy CHÚA, tôi kêu cầu Ngài từ đáy hố.
56 Ngài nghe tôi kêu rằng, “Xin CHÚA đừng bịt tai
    và làm ngơ đối với lời nghẹn ngào
    và tiếng la hét tôi.”
57 Ngài đến gần khi tôi kêu;
    Ngài phán, “Đừng sợ.”
58 Lạy CHÚA, Ngài đã nhìn đến hoàn cảnh tôi
    và phục hồi sự sống cho tôi.
59 Lạy CHÚA, Ngài đã thấy tôi bị đối xử bất công ra sao.
    Xin hãy xét xử trường hợp tôi.
60 Ngài đã thấy kẻ nghịch tôi trả thù tôi
    và lập mưu ác chống tôi.
61 Lạy CHÚA, Ngài đã nghe lời sỉ nhục của chúng nó
    cùng những mưu ác chúng nghịch tôi.
62 Lời lẽ và ý tưởng của kẻ thù tôi
    luôn luôn chống nghịch tôi.
63 Kìa! Trong mọi điều chúng làm,
    chúng lấy bài ca chế giễu tôi.

64 Lạy CHÚA, xin hãy báo trả chúng nó
    về những điều chúng làm.
65 Xin hãy khiến chúng ngoan cố,
    và hãy nguyền rủa chúng.
66 Lạy CHÚA, xin đuổi theo chúng trong cơn giận Ngài,
    và diệt chúng khỏi dưới trời.

Cuộc tấn công vào Giê-ru-sa-lem

Hãy nhìn vàng đã mất vẻ bóng loáng,
    vàng ròng trở thành lu mờ!
Các vật quí [f] trong đền thờ đã bị phân tán ở mỗi góc phố.

Dân cư quí báu ở Giê-ru-sa-lem
    đáng giá hơn vàng,
nhưng nay họ như bình đất sét
    do tay thợ gốm nặn ra.
Chó rừng còn biết cho con mình bú,
    nhưng dân ta [g] hung dữ
    như chim đà điểu trong sa mạc.

Các trẻ thơ bị khát nước
    lưỡi chúng dính nơi vòm họng.
Trẻ con đi xin bánh,
    nhưng chẳng ai cho.

Những kẻ trước đây ăn ngon
    nay chết đói nơi phố chợ.
Những kẻ lớn lên ăn mặc sang trọng
    nay phải đi moi rác.

Dân ta đã bị trừng phạt
    nặng hơn Xô-đôm.
Thành Xô-đôm bị tiêu hủy bất thần,
    không ai giơ tay ra cứu giúp [h].

Các nhà lãnh đạo của chúng ta tinh sạch hơn tuyết, và trắng hơn sữa.
Thân thể họ đỏ hơn hồng ngọc;
    râu họ trông giống như bích ngọc.

Nhưng nay họ đen hơn than,
    không ai còn nhận ra họ ngoài đường nữa.
Họ chỉ còn da bọc xương;
    khô queo như que củi.

Những kẻ bị giết trong chiến tranh
còn may hơn những kẻ bị chết đói.
Họ chết đói trong đau khổ,
    vì ruộng nương không sản xuất ra thực phẩm nữa.

10 Những người đàn bà nấu con cái mình.
Chúng trở thành thức ăn
    khi dân ta bị tiêu diệt.

11 CHÚA đã đổ hết thịnh nộ Ngài;
    trút cơn giận lớn của Ngài ra.
Ngài phóng hỏa Giê-ru-sa-lem,
    thiêu rụi nó đến tận nền.

12 Các vua trên đất và dân cư trên thế giới không tin rằng
các kẻ thù nghịch có thể đặt chân vào cổng thành Giê-ru-sa-lem.

13 Điều đó xảy ra vì các nhà tiên tri phạm tội
    và các thầy tế lễ làm điều ác.
Họ chém giết những người làm điều thiện trong thành.

14 Họ lang thang trong đường phố
    như thể bị mù lòa.
Mình mẩy họ vấy máu,
    không ai dám đụng đến quần áo họ.

15 Dân chúng quát, “Hỡi những kẻ dơ bẩn, hãy đi chỗ khác!”
    “Đi nơi khác, đi đi! Đừng đụng đến chúng ta!”
Vì thế họ chạy đi và lang thang.
    Thậm chí các dân khác cũng nói, “Không được ở đây.”

16 Chính CHÚA đã phân tán họ
    không còn lo cho họ nữa.
Không ai tôn trọng các thầy tế lễ,
    hay kính nể các bô lão.

17 Ngoài ra, mắt chúng ta đã mòn mỏi,
    trông chờ vào một sự cứu giúp không bao giờ đến.
Từ các vọng canh chúng ta trông chừng,
    mong có dân nào đến cứu chúng ta.

18 Các kẻ thù săn lùng chúng ta,
    nên chúng ta không thể đi trong đường phố.
Kết cục của chúng ta đã gần kề.
    Thời gian của chúng ta hết rồi.
Thời kỳ cuối cùng của chúng ta đã đến.

19 Những kẻ rượt đuổi chúng ta
    nhanh hơn chim ưng trên trời.
Chúng đuổi chúng ta vào trong núi
    và phục kích chúng ta trong sa mạc.

20 Vua được CHÚA bổ nhiệm của chúng ta,
    tức hơi thở chúng ta,
    bị rơi vào bẫy của chúng.
Chúng ta nói về vua ấy như sau,
    “Vua sẽ bảo vệ chúng ta, giữa các dân tộc.

21 Hỡi dân Ê-đôm và dân sống trong đất Út-xơ,
    hãy vui vẻ mừng rỡ,
Chén thịnh nộ của Thượng Đế sẽ đến trên các ngươi;
    Rồi các ngươi sẽ say sưa và trần truồng.

22 Hỡi Giê-ru-sa-lem, sự trừng phạt ngươi đã xong rồi.
    Ngươi sẽ không bị bắt làm tù binh nữa.
Nhưng CHÚA sẽ trừng phạt tội lỗi của ngươi, hỡi Ê-đôm;
    Ngài sẽ phơi bày điều ác ngươi ra.”

Lời cầu nguyện cùng Chúa

Lạy Chúa, xin hãy nhớ lại những điều chúng tôi đã gánh chịu.
    Xin hãy đoái nhìn sự sỉ nhục chúng tôi.
Xứ chúng tôi đã bị trao vào tay kẻ lạ;
    nhà cửa chúng tôi bị giao vào tay người ngoại quốc.
Chúng tôi như trẻ mồ côi không cha;
    mẹ chúng tôi như đàn bà góa.
Chúng tôi phải mua nước uống;
    phải trả tiền mua củi.
Những kẻ rượt đuổi chúng tôi muốn túm cổ chúng tôi.
    Chúng tôi mệt mỏi, không được nghỉ ngơi chút nào.
Chúng tôi lập ước với Ai-cập
    và với A-xy-ri để kiếm thức ăn.
Tổ tiên chúng tôi đã phạm tội cùng Ngài,
    nhưng họ không còn nữa;
    nay chúng tôi phải chịu khổ vì tội lỗi họ.
Kẻ tôi mọi đã trở thành chủ nhân chúng tôi,
    không ai cứu tôi khỏi tay chúng.
Chúng tôi liều mạng để kiếm thức ăn;
    chúng tôi đối đầu với cái chết trong sa mạc.
10 Da thịt chúng tôi nóng như lò lửa;
    chúng tôi cháy vì chết đói.
11 Kẻ thù ngược đãi phụ nữ Giê-ru-sa-lem
    và các cô gái trong những thành phố Giu-đa.
12 Kẻ thù treo các quan trưởng chúng tôi trên cây.
    Chúng không kính nể các bô lão chúng tôi.
13 Chúng bắt các thanh niên chúng tôi xay bột bằng cối,
    còn các chàng trai ngã quỵ dưới các gánh củi nặng.
14 Các bô lão không còn ngồi nơi cửa thành;
    các thanh niên không còn ca hát nữa.
15 Lòng chúng tôi không còn niềm vui nào;
    điệu nhảy múa của chúng tôi trở thành buồn thảm.
16 Mão triều đã rơi khỏi đầu chúng tôi.
    Vì chúng tôi phạm tội nên hậu quả thật gớm ghê.
17 Vì lý do đó mà chúng tôi sợ hãi,
    mắt chúng tôi mờ.
18 Núi Xi-ôn hoang vắng,
    chỉ có chó rừng đi rông quanh nó.
19 Nhưng Lạy CHÚA, Ngài trị vì đời đời.
    Từ nay cho đến đời đời Ngài là Vua.
20 Sao Ngài quên chúng tôi lâu vậy?
    Ngài bỏ chúng tôi luôn sao?
21 Lạy CHÚA, xin hãy mang chúng tôi trở về cùng Ngài, thì chúng tôi sẽ trở về.
    Xin hãy làm cho chúng tôi được như ngày trước,
22 hay là Ngài đã từ bỏ chúng tôi đời đời rồi?
    Ngài vẫn còn giận dữ với chúng tôi sao?

Sự hiện thấy của Ê-xê-chiên về các con thú

Năm thứ ba mươi, ngày năm, tháng tư trong thời gian bị lưu đày, tôi đang ngồi bên mé sông Kê-ba ở giữa những người bị lưu đày thì trời mở ra, tôi thấy dị tượng về Thượng Đế. Đó là vào ngày năm tháng tư, năm thứ năm [i] sau khi vua Giê-hô-gia-kin bị lưu đày. CHÚA phán cùng Ê-xê-chiên, thầy tế lễ, con Bu-xi trong xứ Ba-by-lôn bên bờ sông Kê-ba. Ông cảm biết quyền năng của CHÚA tại đó.

Khi nhìn thì tôi thấy một cơn bão thổi đến từ phương Bắc. Có một đám mây lớn xung quanh viền sáng có lửa lóe ra từ đám mây. Có vật gì giống như kim loại cháy đỏ [j] nằm giữa đám lửa. Bên trong đám mây có cái gì trông như bốn con thú, hình dạng giống như người ta, nhưng mỗi con có bốn mặt và bốn cánh. Các chân chúng nó thẳng đứng. Bàn chân chúng giống như móng bò và lóng lánh như đồng đánh bóng. Ở dưới cánh các con thú có bàn tay người. Mỗi con thú đều có bốn mặt và bốn cánh, các cánh chạm nhau. Khi các con thú đi thì không quay qua hướng nào cả mà cứ đi thẳng tới.

10 Mỗi con thú có bốn mặt: mặt người phía trước, mặt sư tử bên phải, và mặt bò đực bên trái. Mỗi con có một mặt giống như mặt chim ưng. 11 Mặt chúng giống như vậy. Cánh chúng nó xoè ra phía trên. Mỗi con có hai cánh tiếp xúc với một trong các con thú kia và hai cánh che thân. 12 Mỗi con đều đi thẳng trước mặt. Hễ nơi nào thần linh [k] đi thì các con thú đi, không quay sang bên nào cả. 13 Các con thú giống như than cháy lửa đỏ hay đuốc sáng. Lửa loè tới lui giữa các con thú. Lửa đó rất sáng và có chớp lòe ra nữa. 14 Các con thú chạy đi chạy lại nhanh như tia chớp [l].

15 Khi tôi đang nhìn các con thú thì tôi thấy có một bánh xe trên đất bên cạnh các con thú có bốn mặt. 16 Các bánh xe và cách kiến trúc như sau: Chúng giống như bích ngọc lóng lánh. Bốn bánh xe đều giống nhau như bánh xe lồng trong bánh xe khác. 17 Khi di chuyển thì chúng đi theo một trong bốn hướng, không quay qua bên nào [m]. 18 Viền của bánh xe rất cao, trông ghê sợ và xung quanh viền đều đầy những con mắt.

19 Khi các con thú di chuyển thì các bánh xe đi kề bên. Khi các con thú được nhấc lên khỏi đất thì các bánh xe cũng nhấc lên. 20 Nơi nào thần linh đi thì các con thú cũng đi. Các bánh xe đi kèm theo bên chúng vì thần của các con thú nằm trong các bánh xe. 21 Lúc các con thú di chuyển thì các bánh xe cũng lăn. Khi chúng dừng thì các bánh xe cũng dừng. Khi các con thú được nhấc lên khỏi đất thì các bánh xe cũng được nhấc lên kề bên chúng, vì thần của các con thú ở trong các bánh xe.

22 Phía trên đầu của các con thú có cái gì giống như cái vòm [n] tròn lóng lánh như nước đá trông rất khủng khiếp. 23 Dưới cái vòm tròn thì các cánh của các con thú xoè ra thẳng với nhau. Mỗi con thú cũng có hai cánh che thân. 24 Tôi nghe tiếng cánh chúng giống như tiếng gầm của biển cả khi chúng vỗ cánh. Nghe giống như tiếng của Thượng Đế Toàn Năng, tiếng vang rền như tiếng của đạo quân ồn ào. Khi các con thú dừng lại thì các cánh rũ xuống.

25 Có tiếng từ vòm phía trên đầu các con thú. Khi các con thú dừng lại, thì các cánh rũ xuống. 26 Phía trên vòm có cái gì giống như cái ngai. Ngai đó như bích ngọc. Và trên ngai có ai giống như con người. 27 Rồi tôi nhận thấy từ hông trở lên hình dạng giống như kim loại cháy đỏ bên trong. Từ hông trở xuống giống như lửa, và xung quanh có ánh sáng bao phủ. 28 Ánh sáng chung quanh giống như cái mống trong mây vào một ngày mưa. Người giống như vinh quang của CHÚA. Khi thấy người thì tôi cúi sấp mặt xuống và nghe có tiếng phán.

Chúa phán cùng Ê-xê-chiên

Ngài phán cùng tôi, “Hỡi con người [o], hãy đứng thẳng lên để ta có thể nói chuyện với ngươi.” Trong khi Ngài đang nói với tôi thì Thần Linh nhập vào tôi [p], khiến tôi đứng thẳng lên. Rồi tôi nghe tiếng CHÚA nói cùng tôi.

Ngài phán, “Hỡi con người, ta sai ngươi đến cùng dân Ít-ra-en. Dân đó đã chống nghịch ta và quay khỏi ta. Chúng và tổ tiên chúng đã phản loạn cùng ta cho đến ngày nay. Ta sai ngươi đến cùng một thế hệ ương ngạnh, bất vâng phục. Ngươi sẽ nói cùng chúng, ‘Đây là lời phán của CHÚA, là Thượng Đế.’ Chúng có thể sẽ nghe hay không nghe ngươi vì chúng là một dân chống nghịch ta. Nhưng ít ra chúng cũng biết là có một nhà tiên tri ở giữa chúng.

Hỡi con người, ngươi chớ sợ chúng cũng như lời nói của chúng. Dù chúng giống như cành gai gốc quanh ngươi, dù cho ngươi cảm thấy như sống giữa các con bọ cạp, đừng sợ hãi. Đừng sợ lời chúng nói hay cái nhìn của chúng vì chúng là một dân chống nghịch ta. Hãy thuật lại lời ta nói cùng chúng. Chúng có thể nghe hay không nghe vì chúng đã chống nghịch ta. Nhưng ngươi, hỡi con người, hãy chú ý nghe lời ta phán cùng ngươi. Đừng chống nghịch ta như chúng nó. Hãy mở miệng ra và ăn nuốt điều ta sắp cho ngươi.”

Rồi tôi nhìn thì thấy có một bàn tay xoè ra cho tôi, trong đó có một cuộn giấy. 10 Người mở cuộn giấy trước mặt tôi. Trong đó có các bài ai ca, nhạc buồn, và những lời mô tả các điều khốn khổ ghi đầy từ mặt trước đến mặt sau.

Rồi CHÚA phán cùng tôi, “Hỡi con người [q], hãy ăn vật ngươi thấy; hãy ăn cuộn sách nầy. Rồi hãy đi ra nói cùng dân Ít-ra-en.” Vậy tôi mở miệng và Ngài trao cho tôi cuộn sách để ăn.

Ngài bảo tôi, “Hỡi con người, hãy ăn cuộn sách mà ta trao cho ngươi, cho thật đầy bụng. Vậy tôi ăn cuộn sách đó thì tôi thấy thật ngọt như mật ong trong miệng.”

Rồi Ngài bảo tôi, “Hỡi con người, hãy đi đến cùng dân Ít-ra-en và thuật lại lời ta cho chúng. Ta không sai ngươi đến cùng một dân nói thứ tiếng mà ngươi không hiểu. Ngươi được sai đến cùng dân Ít-ra-en. Ta không sai ngươi đến nhiều dân tộc nói thứ tiếng mà ngươi không hiểu, chữ nghĩa ngươi không biết. Nếu ta sai ngươi đến các dân ấy, chắc chúng nó sẽ nghe ngươi. Nhưng dân Ít-ra-en sẽ không chịu nghe ngươi vì chúng không chịu nghe ta. Thật vậy, tất cả dân Ít-ra-en đều ương ngạnh không vâng lời. Thấy không, nay ta khiến ngươi trở nên ương ngạnh như chúng vậy. Ta làm cho ngươi cứng như kim cương, cứng hơn đá. Đừng sợ cũng đừng kinh hãi chúng dù chúng là dân chống nghịch ta.”

10 Ngài cũng phán cùng tôi, “Hỡi con người, hãy tin mọi lời ta phán cùng ngươi, nghe cho thật cẩn thận. 11 Rồi hãy đi đến dân bị tù đày, tức dân tộc ngươi, bảo chúng rằng, ‘CHÚA là Thượng Đế phán thế nầy. Dù chúng nghe hay không, cứ bảo cho chúng biết.’”

12 Sau đó Thần Linh [r] nhấc tôi lên, tôi nghe có tiếng vang động phía sau tôi và sự vinh hiển của CHÚA cất lên từ nơi ấy. [s] 13 Tôi nghe tiếng đập cánh của các con thú và tiếng bánh xe chạy kế bên chúng. Đó là tiếng vang động. 14 Rồi thần linh nhấc tôi lên mang tôi đi. Tôi buồn bực trong lòng, rồi tôi cảm biết quyền lực lớn lao của CHÚA. 15 Tôi đi đến chỗ các tù binh bị đày của Giu-đa đang sống bên bờ sông Kê-ba ở Tên-A-bíp [t]. Tôi ngồi ở đó với họ bảy ngày, trong lòng hoang mang.

Lời cảnh cáo Ít-ra-en

16 Sau bảy ngày CHÚA lại phán cùng tôi như sau: 17 “Hỡi con người, nay ta đặt ngươi làm lính tuần canh cho Ít-ra-en. Hễ khi ngươi nghe lời nào từ miệng ta thì hãy cảnh cáo chúng nó. 18 Khi ta bảo kẻ ác rằng, ‘Ngươi chắc sẽ chết,’ thì ngươi phải cảnh cáo chúng để chúng sống. Còn nếu ngươi không cảnh cáo kẻ ác để chúng bỏ lối ác thì chúng sẽ chết trong tội lỗi mình nhưng ta sẽ bắt ngươi chịu trách nhiệm về cái chết của chúng. 19 Nhưng nếu ngươi cảnh cáo kẻ ác mà chúng không từ bỏ điều ác hay lối ác của chúng thì chúng sẽ chết trong tội lỗi chúng nhưng ngươi cứu được mạng mình.

20 Ngoài ra, kẻ làm điều phải có thể lìa bỏ lẽ phải và làm điều ác. Nếu ta giáng điều chẳng lành đến cho chúng, chúng sẽ chết. Vì ngươi không cảnh cáo chúng, chúng sẽ chết trong tội lỗi mình, những điều lành mà chúng làm sẽ không được nhớ đến nữa. Nhưng ta bắt ngươi chịu trách nhiệm về cái chết của chúng. 21 Nhưng nếu ngươi đã cảnh cáo những người tốt ấy đừng phạm tội, rồi họ không phạm tội, thì họ được sống vì tin lời cảnh cáo của ngươi. Như thế ngươi sẽ cứu được mạng mình.”

22 Rồi tôi cảm biết quyền năng của CHÚA tại đó. Ngài phán cùng tôi, “Hãy đứng dậy đi ra thung lũng [u]. Ta sẽ phán cùng ngươi ở đó.” 23 Vậy tôi đứng dậy đi ra đồng trống. Tôi thấy vinh quang CHÚA ở đó, giống như vinh quang tôi đã thấy bên bờ sông Kê-ba. Tôi liền sấp mặt xuống đất.

24 Rồi Thần Linh nhập vào tôi, khiến tôi đứng lên. Ngài phán cùng tôi, “Hãy đi giam mình trong nhà ngươi. 25 Về phần ngươi, hỡi con người, họ sẽ lấy dây thừng trói ngươi lại để ngươi không có thể đi ra cùng chúng được. 26 Ngoài ra ta sẽ khiến cho lưỡi ngươi dính nơi vòm họng để ngươi không nói được. Ngươi sẽ không thể biện bác với chúng, mặc dù chúng chống nghịch ta. 27 Nhưng khi ta phán cùng ngươi, ta sẽ mở miệng ngươi ra, rồi ngươi sẽ bảo chúng rằng, ‘CHÚA là Thượng Đế phán thế nầy.’ Ai muốn nghe thì nghe. Ai không nghe thì mặc kệ vì chúng là dân chống nghịch ta.”

Bản đồ thành Giê-ru-sa-lem

“Bây giờ, hỡi con người, hãy lấy một viên gạch đặt trước mặt ngươi và vẽ bản đồ Giê-ru-sa-lem lên đó. Rồi dùng một đạo quân vây nó. Hãy xây hào lũy chống nó và đắp một con đường đất lên đến chóp vách thành. Hãy dựng trại quân quanh nó và đặt các khúc cây phá vách [v] để phá sập các vách nó. Rồi ngươi hãy lấy một miếng sắt dựng đứng lên như một vách giữa ngươi và thành. Hãy quay mặt ngươi về hướng thành phố làm như thể sắp tấn công xong rồi tấn công thật. Đó sẽ là dấu hiệu cho dân Ít-ra-en.

Rồi hãy nằm nghiêng bên trái và chất tội lỗi Ít-ra-en trên mình. Ngươi nằm bao lâu thì sẽ mang tội của chúng trên mình ngươi bấy lâu. Ta ban cho ngươi số ngày bằng với số năm phạm tội của dân chúng. Vậy ngươi sẽ mang tội lỗi của Ít-ra-en trong 390 ngày [w].

Mãn 390 ngày thì hãy nằm xuống nghiêng bên phải. Ngươi sẽ mang tội lỗi của Giu-đa. Ta sẽ cho ngươi 40 ngày, mỗi ngày bằng một năm cho tội lỗi chúng. Rồi ngươi sẽ hướng về Giê-ru-sa-lem là thành đang bị tấn công. Ngươi sẽ để trần tay áo và nói tiên tri nghịch cùng Giê-ru-sa-lem. Ta sẽ buộc dây thừng quanh ngươi để ngươi không quay sang phía kia được cho đến khi ngươi đã hoàn tất xong số ngày ngươi tấn công Giê-ru-sa-lem [x].

Hãy lấy lúa mì, lúa mạch, đậu trái, đậu hột, và lúa đại mạch bỏ trong cối giã thành bột làm bánh mì cho ngươi. Ngươi sẽ ăn như thế trong ba trăm chín mươi ngày tức là thời gian mà ngươi phải nằm nghiêng một bên. 10 Ngươi sẽ ăn nửa cân [y] thực phẩm mỗi ngày theo giờ định sẵn. 11 Ngươi sẽ uống khoảng nửa lít [z] nước mỗi ngày vào giờ định sẵn. 12 Ăn thức đó như ăn bánh lúa mạch, nướng trên phân người để cho dân chúng đều thấy.” 13 Rồi CHÚA bảo, “Cũng vậy, dân Ít-ra-en sẽ ăn thức ăn không tinh sạch [aa] giữa các dân tức những nơi ta đày chúng đến.”

14 Nhưng tôi phản đối, “Không được, thưa CHÚA! Tôi chưa bao giờ tự làm cho mình ô dơ. Từ lúc tôi còn trẻ đến nay tôi chưa hề ăn món gì chết tự nhiên hay bị thú xé. Chưa hề có món ăn nào không sạch vào miệng tôi.”

15 CHÚA đáp, “Thôi được. Ta cho phép ngươi dùng phân bò thay vì phân người để làm lửa nướng bánh.”

16 Ngài cũng bảo tôi, “Hỡi con người, ta sẽ cắt đứt nguồn thực phẩm của Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ ăn bánh mì được người ta lường cho và sẽ vừa ăn vừa lo lắng. Chúng cũng sẽ lường nước mà uống và sẽ kinh hoàng khi uống. 17 Vì bánh và nước sẽ rất hiếm hoi. Dân chúng sẽ kinh hoàng khi nhìn nhau và sẽ trở nên yếu ớt vì tội lỗi mình.”

Ê-xê-chiên cạo đầu

“Bây giờ, hỡi con người, hãy lấy một lưỡi gươm bén và dùng nó như lưỡi dao cạo của thợ hớt tóc cạo đầu và râu ngươi. Rồi lấy cân mà cân chúng và chia tóc ra. Hãy đốt một phần ba tóc ở giữa thành sau khi những ngày tấn công Giê-ru-sa-lem kết thúc [ab]. Rồi lấy dao cắt một phần ba còn lại quanh thành. Và rải một phần ba theo gió. Ta sẽ dùng gươm đuổi theo chúng như thế. Ngoài ra lấy một vài sợi tóc buộc trong chéo áo ngươi. Lấy một vài sợi, ném vào lửa, đốt cháy. Từ đó lửa sẽ lan ra khắp nhà Ít-ra-en [ac].”

CHÚA phán như sau: “Đây là Giê-ru-sa-lem. Ta đã đặt nó ở giữa các dân, xung quanh có các nước khác. Nhưng nó đã không vâng giữ luật lệ ta và làm ác hơn các dân tộc khác. Nó không vâng theo các qui tắc ta, còn tệ hơn các dân tộc quanh nó. Dân cư Giê-ru-sa-lem đã gạt bỏ các luật lệ ta, không sống theo các qui tắc ta.

Vì thế CHÚA là Thượng Đế phán: Ta làm như thế nầy vì ngươi đã không vâng giữ qui tắc và luật lệ ta. Ngươi cũng không tuân theo luật lệ của các dân tộc quanh ngươi. Vì thế CHÚA là Thượng Đế phán: Chính ta sẽ nghịch lại ngươi và sẽ trừng phạt ngươi trước mắt các dân tộc khác. Ta sẽ làm cho các ngươi những điều mà ta chưa hề làm bao giờ và cũng sẽ không bao giờ làm nữa vì ngươi đã làm những điều ta ghét. 10 Cha mẹ sẽ ăn thịt con cái, và con cái sẽ ăn thịt cha mẹ. Ta sẽ trừng phạt ngươi và phân tán những kẻ còn sống sót khắp tứ phương. 11 CHÚA là Thượng Đế phán: Ngươi đã dùng những thần tượng gian ác và các hành vi gớm ghiếc làm ô dơ đền thờ ta. Cho nên ta nhân danh ta là Đấng hằng sống rằng ta sẽ tiêu diệt ngươi, không thương tiếc. 12 Một phần ba trong các ngươi sẽ chết vì dịch lệ hay chết đói bên trong vách thành ngươi. Một phần ba sẽ ngã chết vì gươm bên ngoài vách thành và một phần ba sẽ bị ta phân tán khắp tứ phương khi ta dùng gươm rượt đuổi. 13 Rồi ta sẽ nguôi giận. Ta sẽ trút đổ hết cơn giận ta, lúc đó ta mới mãn nguyện. Rồi chúng sẽ biết rằng ta, CHÚA, đã phán những điều đó. Sau khi ta trút cơn giận ta trên chúng thì chúng sẽ biết ta tức giận đến mức nào.

14 Ta sẽ khiến ngươi bị tàn hại và trở thành một điều sỉ nhục giữa các dân quanh ngươi để cho ai nấy qua lại đều thấy. 15 Các dân tộc quanh ngươi sẽ sỉ nhục và chế giễu ngươi. Ngươi sẽ là một lời cảnh cáo khiến chúng kinh hoàng. Việc đó sẽ xảy ra khi ta đổ cơn thịnh nộ và trừng phạt ngươi. Ta, CHÚA, đã phán. 16 Ta sẽ sai thời kỳ đói kém đến để tiêu diệt ngươi, rồi ta sẽ bắn mũi tên đói kém bằng cách cắt đứt nguồn thực phẩm của ngươi. 17 Ta sẽ sai thời kỳ đói kém và thú dữ đến cùng ngươi, chúng sẽ giết các con cái ngươi. Dịch lệ và chết chóc sẽ càn quét ngươi và ta sẽ mang gươm giáo đến giết ngươi. Ta, CHÚA đã phán như vậy.”

Lời tiên tri nghịch cùng Ít-ra-en

CHÚA lại phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, hãy nhìn về các núi non Ít-ra-en và nói tiên tri nghịch cùng chúng. Hãy nói, Hỡi các núi non Ít-ra-en, hãy nghe lời CHÚA phán. CHÚA là Thượng Đế phán cùng các núi, đồi, hố sâu, và thung lũng rằng: Ta sẽ sai gươm đến cùng ngươi, ta sẽ hủy phá những nơi thờ tà thần của ngươi. Các bàn thờ ngươi sẽ bị tiêu diệt và các bàn thờ dâng hương của ngươi sẽ bị phá sập. Dân chúng ngươi sẽ bị giết trước mặt các hình tượng ngươi. Ta sẽ phơi bày những xác chết của dân Ít-ra-en trước mặt các thần tượng chúng và sẽ rải xương cốt ngươi quanh các bàn thờ ngươi. Trong tất cả những nơi ngươi ở, các thành phố sẽ bị bỏ hoang. Các nơi thờ thần tượng sẽ bị điêu tàn; các bàn thờ ngươi sẽ thành đống gạch vụn trơ trọi. Các thần tượng ngươi sẽ bị phá sập không còn gì. Các bàn thờ xông hương ngươi sẽ bị phá sập, và những gì ngươi làm sẽ bị tiêu hủy. Dân chúng ngươi sẽ bị giết và ngã chết ở giữa ngươi. Rồi ngươi sẽ biết rằng ta là CHÚA.

Nhưng ta sẽ chừa lại một số người sống sót; một số sẽ không bị các dân khác giết khi ngươi bị phân tán giữa các xứ ngoại quốc. Rồi những kẻ sống sót sẽ nhớ lại ta, khi chúng sống giữa các dân mà chúng bị làm tù binh. Chúng sẽ nhớ lại ta đau lòng ra sao khi chúng bất trung với ta và quay lưng khỏi ta mà chỉ muốn thờ lạy các thần tượng mình. Chúng sẽ tự ghét mình vì đã làm những điều ta ghét. 10 Rồi chúng sẽ biết rằng ta là CHÚA. Không phải ta chỉ dọa suông khi ta bảo rằng ta sẽ mang những thảm họa nầy đến trên chúng [ad].

11 CHÚA phán như sau: ‘Hãy vỗ tay, dậm chân, và rên rỉ vì những điều gớm ghiếc và gian ác mà dân Ít-ra-en đã làm. Chúng sẽ chết vì chiến tranh, đói kém, và bệnh tật. 12 Người ở xa sẽ chết vì bệnh tật. Kẻ ở gần sẽ chết vì chiến tranh. Ai còn sống sót, thoát khỏi các điều đó sẽ chết vì đói kém. Ta sẽ trút cơn giận ta trên chúng như vậy. 13 Dân nó sẽ chết la liệt ở giữa các thần tượng và quanh các bàn thờ chúng, trên các đồi cao [ae], các đỉnh núi, dưới mỗi cây xanh, và cây sồi rậm lá tất cả những nơi chúng đã dâng hương cho thần tượng mình. Rồi chúng sẽ biết ta là CHÚA. 14 Ta sẽ dùng quyền năng ta mà nghịch lại chúng để biến xứ nầy ra hoang vu hơn sa mạc Đíp-la [af], hay bất cứ nơi nào chúng sống. Rồi chúng sẽ biết ta là CHÚA.’”

Thảm hoạ sắp đến trên Giê-ru-sa-lem

CHÚA lại phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, CHÚA là Thượng Đế phán như sau về xứ Ít-ra-en:

Xong rồi! Cuối cùng đã đến khắp bốn phía.
Bây giờ cuối cùng đã đến trên ngươi!
    Ta sẽ tỏ ra cơn thịnh nộ ta.
Ta sẽ xử phạt ngươi vì điều ác ngươi làm,
    và ta sẽ khiến ngươi trả giá
về những điều kinh khủng mà ngươi làm.
Ta sẽ không thương hại hoặc tội nghiệp ngươi;
    Ta sẽ xử phạt ngươi vì điều ác ngươi làm.
Ngươi đã làm những điều kinh khủng.
    Rồi ngươi sẽ biết ta là CHÚA.”

CHÚA là Thượng Đế phán: “Thảm họa nầy chồng lên thảm họa khác. Cuối cùng đã đến! Cuối cùng đã đến! Nó đã nổi lên nghịch ngươi! Kìa, nó đến rồi! Thảm họa đến trên các ngươi là những kẻ sống trong xứ! Thời điểm đã đến; ngày hỗn loạn đã gần kề. Sẽ không còn có tiếng reo vui trên núi. Ta sắp trút cơn thịnh nộ ta trên ngươi; ta sẽ trút cơn giận ta nghịch cùng ngươi. Ta sẽ xử phạt ngươi theo lối sống ngươi và khiến ngươi trả giá cho các việc ngươi làm mà ta ghét.

Ta sẽ không thương tiếc, không kiềm hãm sự trừng phạt ta. Ta sẽ trả cho ngươi theo lối sống ngươi và những hành động ngươi làm mà ta ghét. Rồi ngươi sẽ biết ta là CHÚA, Đấng trừng phạt.

10 Nầy, ngày đó đến rồi. Nó đến rồi. Thảm họa đã đến, sự bạo tàn đã nẩy nở, và sự kiêu căng nhiều hơn bao giờ hết. 11 Sự bạo tàn đã biến thành cái roi độc ác. Không ai trong dân chúng sống sót, sẽ không còn ai trong đám quần chúng đông đảo, không còn của cải, không còn vật có giá trị gì.

12 Thời giờ đã đến; ngày đã đến. Kẻ bán không nên vui, người mua cũng không nên tiếc vì cơn giận phừng của ta nghịch cùng toàn dân. 13 Những người đã bán tài sản [ag] sẽ không trở về đất mà họ đã bán trong khi họ còn sống vì viễn tượng nghịch dân chúng sẽ không thay đổi. Vì tội lỗi chúng, sẽ không một ai có thể bảo toàn mạng sống mình được.

14 Chúng đã thổi kèn, mọi việc đều sẵn sàng nhưng không ai ra trận vì cơn giận ta nghịch cùng toàn dân. 15 Gươm giáo bên ngoài, bệnh tật và đói kém bên trong. Ai ở ngoài đồng sẽ bị gươm giết. Ai ở trong thành sẽ bị tiêu diệt vì đói kém và dịch lệ.

16 Ai còn sống sót hay thoát được lên núi sẽ rên rỉ về tội lỗi mình như cu đất trong thung lũng. 17 Mọi tay đều run rẩy, mọi đầu gối đều bủn rủn như nước. 18 Chúng sẽ mặc áo quần bằng vải sô để tỏ sự buồn rầu. Chúng sẽ run rẩy vì sợ. Nét mặt chúng sẽ tỏ ra sự nhục nhã, và mọi đầu đều cạo trọc. 19 Dân chúng sẽ ném bạc ngoài đường phố, và vàng của chúng sẽ như rơm rác. Bạc và vàng của chúng sẽ không thể cứu chúng khỏi cơn thịnh nộ của CHÚA. Nó sẽ không làm cho chúng khỏi đói hay làm cho no bụng, vì nó sẽ khiến chúng rơi vào tội lỗi.

20 Chúng hãnh diện về những đồ trang sức đẹp đẽ của mình, dùng nó để tạc các thần và các tượng chạm độc ác mà ta ghét cho nên ta sẽ biến của cải chúng nó ra rơm rác. 21 Ta sẽ ban nó cho những dân ngoại quốc làm chiến lợi phẩm và cho những kẻ độc ác nhất trên thế giới làm của báu và chúng sẽ xem thường nó. 22 Ta cũng sẽ quay mặt khỏi dân Ít-ra-en, và chúng sẽ làm dơ bẩn kho báu của ta. Rồi bọn trộm cướp sẽ xông vào đất ta và giày xéo nó.

23 Hãy chuẩn bị xiềng cho tù binh vì xứ đầy dẫy tội ác đổ máu và thành đầy những vụ bạo động. 24 Cho nên ta sẽ mang những kẻ xấu xa nhất của các quốc gia đến để chiếm đoạt nhà cửa của dân chúng. Ta cũng sẽ dẹp sự tự phụ của kẻ mạnh bạo, còn các nơi thánh của nó sẽ bị sỉ nhục.

25 Khi dân chúng đang lâm khốn khổ thì họ sẽ tìm hòa bình, nhưng chẳng thấy đâu. 26 Thảm họa chồng lên thảm họa, tiếng đồn nầy thêm vào tin đồn khác. Rồi họ sẽ tìm sự hiện thấy từ nhà tiên tri; còn những lời dạy dỗ của Thượng Đế qua thầy tế lễ và lời khuyên bảo của các bô lão cũng không thấy đâu. 27 Vua sẽ khóc lóc cay đắng, quan trưởng tuyệt vọng, và tay chân của thường dân sẽ run rẩy vì sợ. Ta sẽ trừng phạt chúng vì lối sống của chúng. Ta sẽ phân xử chúng giống như cách chúng phân xử người khác. Rồi chúng sẽ biết ta là CHÚA.”

Tội lỗi diễn ra ở đền thờ

Ngày năm, tháng sáu, năm thứ sáu [ah] của thời kỳ chúng tôi bị lưu đày, tôi đang ngồi trong nhà có các bô lão Giu-đa khác đang ngồi trước mặt tôi thì tôi cảm biết quyền năng của Chúa là Thượng Đế. Tôi thấy có vật gì giống thân người. Từ hông trở xuống giống như lửa, từ hông trở lên sáng như sắt nung đỏ [ai]. Nó giơ ra vật gì giống như bàn tay và nắm lấy tóc tôi. Thần Linh [aj] nhấc bổng tôi lên giữa trời và đất. Qua sự hiện thấy của Thượng Đế, người đưa tôi đến Giê-ru-sa-lem, vào cổng phía Bắc nơi sân trong của đền thờ. Trong sân đó có một hình tượng khiến Thượng Đế ganh tức. Tôi thấy vinh quang của Thượng Đế của Ít-ra-en ở đó giống như tôi đã thấy trong đồng trống.

Rồi người bảo tôi, “Hỡi con người [ak], bây giờ hãy nhìn về phía Bắc.” Cho nên tôi nhìn về phía Bắc và nơi cổng Bắc của bàn thờ có một pho tượng khiến Thượng Đế ganh tức.

Người hỏi tôi, “Hỡi con người, ngươi có thấy chúng đang làm gì không? Ngươi có thấy bao nhiêu điều gớm ghiếc mà dân Ít-ra-en đang làm ở đây để xua đuổi ta đi xa khỏi đền thờ ta không? Nhưng ngươi sẽ còn thấy nhiều điều gớm ghiếc hơn thế nầy nữa.”

Rồi người mang tôi vào nơi lối vào của sân. Tôi nhìn thì thấy một lỗ hổng nơi vách. Người bảo tôi, “Nầy con người, hãy đào qua vách.” Vậy tôi đào qua vách thì thấy một lỗ trống.

Người tiếp, “Hãy đi vào xem những điều gớm ghiếc mà chúng đang làm ở đây.” 10 Vậy tôi đi vào và nhìn thì thấy đủ loài bò sát [al] và súc vật gớm ghiếc cùng mọi hình tượng của dân Ít-ra-en khắc tứ phía trên vách. 11 Đứng trước mặt các hình khắc và thần tượng đó là bảy mươi bô lão của Ít-ra-en cùng với Gia-a-xa-nia, con Sa-phan. Mỗi người cầm lư hương trong tay và khói thơm của trầm hương bay tỏa lên nghi ngút. 12 Rồi người bảo tôi, “Con người, ngươi thấy các bô lão Ít-ra-en đã làm gì trong bóng tối chưa? Ngươi có thấy mỗi người ở trong phòng riêng với thần tượng mình không? Chúng nói, ‘CHÚA không thấy chúng ta. CHÚA đã lìa bỏ xứ này rồi.’” 13 Người cũng bảo tôi, “Ngươi sẽ còn thấy nhiều điều gớm ghiếc hơn những điều chúng đang làm nữa.” 14 Rồi người mang tôi vào cổng Bắc của đền thờ CHÚA, ở đó tôi thấy các người đàn bà ngồi than khóc cho Tam-mu [am].

15 Người bảo tôi, “Hỡi con người, ngươi có thấy không? Ngươi sẽ còn thấy nhiều điều gớm ghiếc hơn thế nầy nữa.”

16 Rồi người mang tôi vào sân trong của đền thờ. Ở đó tôi thấy khoảng hai mươi lăm người đàn ông đang ngồi nơi cửa vào đền thờ CHÚA, ở giữa vòm cung và bàn thờ. Họ xây lưng vào đền thờ, mặt hướng về phía Đông và đang bái lạy mặt trời phía Đông.

17 Người hỏi tôi, “Hỡi con người, ngươi thấy chưa? Những điều gớm ghiếc mà dân Giu-đa đang làm so với điều chúng làm ở đây mà không quan trọng sao? Chúng làm cho xứ tràn ngập cảnh bạo động và cứ chọc giận ta. Xem đó, chúng tìm mọi cách để chọc giận ta [an]. 18 Cho nên ta sẽ ra tay trong cơn thịnh nộ ta. Ta sẽ không thương tiếc. Cho dù chúng la lớn trước mặt ta, ta cũng chẳng thèm để ý.”

Các sứ giả của Thượng Đế trừng phạt Giê-ru-sa-lem

Rồi người hét vào lỗ tai tôi, “Hỡi các ngươi là người đã được chọn để trừng phạt thành nầy, hãy mang vũ khí đến gần đây.” [ao] Liền có sáu người từ phía cổng trên, hướng về phía Bắc đi đến, tay mỗi người cầm vũ khí bén nhọn. Trong đám họ có một người mặc áo quần bằng vải gai mịn [ap], bên hông đeo bộ bảng viết [aq]. Các người đó vào và đứng bên cạnh bàn thờ bằng đồng.

Rồi vinh quang của Thượng Đế Ít-ra-en cất lên phía trên các con thú có cánh, đến chỗ trong đền thờ nơi cửa mở ra. Người gọi người mặc áo quần bằng vải gai mịn có bộ bảng viết bên hông. Người bảo người đó, “Hãy đi qua Giê-ru-sa-lem và đánh dấu lên trán những người đã than khóc về những điều gớm ghiếc đang diễn ra giữa chúng.”

Khi tôi đang nghe thì người bảo các người kia, “Hãy đi qua khắp thành sau lưng người mặc áo quần bằng vải gai mịn và chém giết. Đừng tội nghiệp hay thương hại ai cả. Hãy giết và tiêu diệt ông già, bà cả, thanh niên, thiếu nữ, trẻ con, nhưng đừng đụng đến ai có dấu trên trán. Hãy bắt đầu từ đền thờ ta.” Vậy họ bắt đầu từ các bô lão đang đứng trước mặt đền thờ.

Rồi người bảo các người đó, “Hãy làm ô uế đền thờ và chất các xác chết đầy sân. Hãy ra đi!” Vậy họ ra đi và sát hại dân chúng trong thành. Trong khi họ đang chém giết dân chúng thì tôi còn lại một mình. Tôi cúi sấp mặt xuống đất và kêu lên, “Ôi, CHÚA là Thượng Đế ôi! Ngài sẽ tiêu diệt hết mọi người còn sống sót trong Ít-ra-en khi Ngài đổ cơn thịnh nộ mình trên Giê-ru-sa-lem sao?” Rồi người bảo tôi, “Tội lỗi của dân Ít-ra-en và Giu-đa lớn lắm. Đất đầy dẫy bọn sát nhân, thành đầy dẫy việc bất công. Dân chúng nói, ‘CHÚA đã lìa khỏi xứ nầy rồi, Ngài không còn thấy gì nữa cả.’ 10 Nhưng ta sẽ không thương tiếc, không tỏ lòng tội nghiệp. Ta sẽ báo trả điều ác lên trên đầu chúng.”

11 Rồi người mặc quần áo bằng vải gai mịn có đeo bộ bảng viết bên hông báo cáo, “Tôi đã thi hành xong mệnh lệnh của ông.”

Than lửa đỏ

10 Rồi tôi nhìn thì thấy có một cái vòm [ar] trên đầu các con thú giống như bích ngọc tựa như một cái ngai. CHÚA phán cùng người đang mặc áo vải gai mịn [as] rằng, “Hãy đi đến khu giữa các bánh xe [at] dưới các con thú, bụm tay đầy than lửa giữa các con thú và rải than lên khắp thành.”

Trong khi tôi nhìn thì người mặc áo vải gai mịn đi vào. Bấy giờ các con thú đang đứng ở phía Nam [au] của thành khi người đó bước vào. Có một đám mây bao phủ sân trong của đền thờ. Rồi vinh quang của CHÚA cất lên từ các con thú và dừng trên cửa đền thờ. Đền thờ đầy mây, còn sân cũng sáng rực vinh quang của CHÚA. Tiếng đập cánh của các con thú vang xa tận bên sân ngoài. Âm thanh ấy giống như tiếng phán của Thượng Đế Toàn Năng.

Rồi CHÚA truyền cho người mặc áo gai mịn như sau, “Hãy lấy lửa từ giữa các bánh xe, giữa các con thú,” thì người đó đi vào đứng bên một trong các bánh xe. Một con thú thò tay ra trên lửa ở giữa các con thú, lấy một ít và trao cho người mặc áo vải gai mịn. Người đó lấy lửa xong rồi đi ra.

Các bánh xe và các con thú

Bên dưới cánh của các con thú có vật gì giống cánh tay người thò ra. Tôi thấy bốn bánh xe bên cạnh các con thú, mỗi bánh bên cạnh mỗi con thú. Bánh xe sáng chói như hoàng ngọc. 10 Bốn bánh xe đều giống nhau: Mỗi bánh giống như bánh lồng vào trong bánh khác. 11 Khi các bánh xe di chuyển thì chúng đi theo hướng mà bốn con thú quay mặt. Các bánh xe không quay qua quay lại, và bốn con thú khi di chuyển cũng không quay mình. 12 Toàn thân, lưng, tay, cánh và các bánh xe đều đầy con mắt. Mỗi con thú có một bánh xe. 13 Tôi nghe các bánh xe đó gọi là “bánh xe quay tít.”

14 Mỗi con thú có bốn mặt. Mặt đầu tiên là mặt con thú có cánh [av]. Mặt thứ nhì là mặt người, mặt thứ ba là mặt sư tử, và mặt thứ tư là mặt chim ưng. 15 Rồi các con thú bay lên. Đó chính là các con thú mà tôi thấy bên bờ sông Kê-ba [aw].

16 Khi các con thú di chuyển thì các bánh xe cũng lăn kề bên. Khi các con thú cất cánh để bay lên khỏi đất thì các bánh xe cũng đi kề bên. 17 Khi các con thú dừng lại thì các bánh xe cũng dừng. Khi các con thú bay lên, thì các bánh xe cũng cất lên vì thần linh [ax] của các con thú ở trong các bánh xe.

18 Rồi vinh quang của CHÚA rời khỏi cửa đền thờ và dừng lại trên các con thú. 19 Trong khi tôi nhìn thì các con thú giương cánh bay lên khỏi đất, có các bánh xe kề bên. Chúng dừng nơi cổng Đông của đền thờ mở ra, và vinh hiển của Thượng Đế của Ít-ra-en ngự trên chúng.

20 Đó là các con thú mà tôi nhìn thấy bên dưới Thượng Đế của Ít-ra-en nơi bờ sông Kê-ba. Tôi biết các con thú đó gọi là chê-ru-bim. 21 Mỗi con có bốn mặt và bốn cánh, và dưới cánh của chúng có vật gì giống các bàn tay người thò ra. 22 Mặt của chúng giống như mặt tôi đã thấy bên bờ sông Kê-ba. Mỗi con thú đi thẳng trước mặt.

Lời tiên tri nghịch cùng các lãnh tụ gian ác

11 Thần Linh [ay] nhấc tôi lên và mang tôi đến cổng trước của đền thờ CHÚA, quay về hướng Đông. Tôi thấy hai mươi lăm người đứng nơi cổng vào, trong số đó có Gia-a-xa-nia, con A-xua, và Bê-la-tia, con Bê-nai-gia, là các lãnh tụ của dân chúng. Rồi CHÚA phán cùng tôi, “Hỡi con người [az], đây là những người manh tâm chuyện ác và đưa ra những ý kiến gian ác trong thành Giê-ru-sa-lem nầy. Chúng nói, ‘Chưa đến lúc chúng ta cất nhà. Thành nầy giống như nồi nấu, còn chúng ta như thịt ngon nhất.’ Cho nên hãy nói tiên tri nghịch cùng chúng, hỡi con người, hãy nói tiên tri.”

Rồi Thần linh của CHÚA nhập vào tôi và bảo tôi nói như sau: “CHÚA phán: Hỡi dân Ít-ra-en, các ngươi đã nói những điều đó nên ta biết ý nghĩ các ngươi. Các ngươi đã giết nhiều người trong thành nầy, quăng xác chết la liệt trên đường phố.”

Cho nên CHÚA là Thượng Đế phán như sau: “Những người mà các ngươi đã giết và bỏ giữa thành phố như thịt ngon nhất, còn thành nầy như nồi nấu. Nhưng ta sẽ đuổi các ngươi ra khỏi thành nầy. Các ngươi đã sợ gươm nhưng ta sẽ mang gươm đến cùng ngươi, CHÚA là Thượng Đế phán vậy. Ta sẽ đuổi các ngươi ra khỏi thành và trao các ngươi vào tay kẻ lạ và trừng phạt các ngươi. 10 Các ngươi sẽ chết vì gươm. Ta sẽ trừng phạt các ngươi nơi biên giới Ít-ra-en để các ngươi biết ta là CHÚA. 11 Thành nầy sẽ không phải là nồi nấu của ngươi, và các ngươi sẽ không phải là miếng thịt ngon nhất nằm trong đó. Ta sẽ trừng phạt các ngươi nơi biên giới Ít-ra-en. 12 Rồi các ngươi sẽ biết rằng ta là CHÚA. Các ngươi không sống theo qui tắc hay tuân theo luật lệ ta. Ngược lại, các ngươi làm y như các dân tộc xung quanh ngươi.”

13 Trong khi tôi đang nói tiên tri thì Bê-la-tia, con Bê-nai-gia chết. Tôi liền cúi sấp mặt xuống đất và kêu lớn, “Ôi, lạy CHÚA là Thượng Đế! Ngài sẽ hoàn toàn tiêu diệt những người Ít-ra-en còn sống sót sao?”

Lời hứa cho những kẻ còn lại

14 CHÚA phán cùng tôi, 15 “Hỡi con người, dân cư còn ở Giê-ru-sa-lem đã nói về thân nhân ngươi và những tù binh Ít-ra-en đang ở với ngươi như sau, ‘Chúng hiện quá xa CHÚA. Xứ nầy bây giờ đã được trao cho chúng ta làm tài sản.’

16 Cho nên hãy bảo, ‘CHÚA là Thượng Đế phán: Ta đã đày dân chúng đến các dân ở thật xa và phân tán chúng giữa các nước. Nhưng lâu nay ta là đền thờ cho chúng nó trong thời gian chúng bị đày ra các nước khác.’

17 Cho nên hãy nói: ‘CHÚA là Thượng Đế phán: Ta sẽ gom các ngươi lại từ các dân và mang ngươi về từ các nước mà các ngươi bị phân tán. Rồi ta sẽ trả lại đất Ít-ra-en cho các ngươi.’

18 Khi chúng đến xứ nầy, chúng sẽ tháo bỏ các tượng chạm gian ác và các hình ảnh gớm ghiếc. 19 Ta sẽ ban cho chúng tấm lòng tôn kính ta hoàn toàn, và ta sẽ đặt vào lòng chúng tinh thần mới. Ta sẽ lấy lòng ương ngạnh bằng đá ra khỏi chúng mà ban cho chúng tấm lòng biết vâng phục bằng thịt. 20 Rồi chúng sẽ sống theo qui tắc và vâng giữ luật lệ ta. Chúng sẽ làm dân ta, ta sẽ làm Thượng Đế chúng.

21 Nhưng những ai muốn phục vụ các hình tượng gian ác và các tượng chạm đáng ghê tởm thì ta sẽ báo trả chúng xứng với lối ác của chúng, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.”

Vinh quang của Thượng Đế rời bỏ Giê-ru-sa-lem

22 Rồi các con thú nhấc cánh cùng với các bánh xe bên cạnh chúng. Vinh quang của Thượng Đế của Ít-ra-en ngự trên chúng. 23 Vinh quang của CHÚA cất lên từ bên trong Giê-ru-sa-lem và dừng lại trên ngọn đồi nằm về phía Đông của thành [ba]. 24 Thần linh nhấc tôi lên và mang tôi đến cùng các tù binh đã bị đày từ Giu-đa sang Ba-by-lôn. Việc đó xảy ra trong sự hiện thấy do Thần Linh [bb] của Thượng Đế, rồi sự hiện thấy mà tôi mục kích chấm dứt. 25 Tôi thuật lại cho các tù binh Giu-đa mọi điều CHÚA cho tôi thấy.

Ê-xê-chiên dọn ra ngoài

12 CHÚA lại phán cùng tôi rằng: “Hỡi con người, ngươi đang sống giữa một dân bất vâng phục. Chúng có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe vì chúng là dân bất vâng phục. Cho nên, hỡi con người, hãy gói ghém hành trang như thể ngươi sắp bị lưu đày, và ra đi giữa thanh thiên bạch nhật như người bị lưu đày để cho mọi người đều thấy. Hãy dọn từ chỗ ngươi ở đến một nơi khác trước sự chứng kiến của mọi người. Rất có thể chúng sẽ hiểu, dù rằng chúng là dân bất vâng phục.

Ban ngày trong khi mọi người đang nhìn thì hãy mang hành lý ra như thể bị đi đày. Đến chiều, khi mọi người đang nhìn thì rời khỏi chỗ ngươi ở như thể đang bị lưu đày khỏi xứ mình. Trong khi chúng đang nhìn thì đào một cái lỗ qua vách rồi mang các hành trang ngươi qua đó. Vác chúng lên vai trong khi dân chúng đang nhìn và mang chúng vào bóng tối. Hãy che mặt để ngươi không nhìn thấy đất vì ta đã dùng ngươi làm một dấu hiệu cho dân Ít-ra-en.”

Tôi làm y theo điều tôi được dặn bảo. Ban ngày tôi mang các thứ tôi đã gói ghém như thể sắp bị lưu đày. Rồi đến chiều tôi lấy tay khoét một lỗ qua vách. Tôi mang các món đồ đó trong bóng tối và vác lên vai trong khi dân chúng đang nhìn.

Đến buổi sáng CHÚA bảo tôi rằng: “Hỡi con người, nếu dân Ít-ra-en, vốn bất vâng phục, hỏi ngươi, ‘Ông làm gì vậy?’

10 Thì hãy bảo chúng rằng, ‘CHÚA là Thượng Đế phán như sau: Lời tiên tri nầy là về vua ở Giê-ru-sa-lem và toàn dân Ít-ra-en đang sống ở đó.’ 11 Bảo chúng, Ta là dấu hiệu cho các ngươi. Những điều ta đã làm sẽ được làm cho dân chúng ở Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ bị bắt làm tù binh bị lưu đày khỏi xứ mình. 12 Vua của họ sẽ phải vác hành trang trên lưng mình trong bóng tối và lên đường ra đi. Dân chúng sẽ đào một cái lỗ để mang vua ra. Người sẽ che mặt mình để không nhìn thấy đất. 13 Nhưng ta sẽ bủa lưới ra trên người và bắt người trong bẫy ta. Rồi ta sẽ mang người đến Ba-by-lôn, trong xứ người Canh-đê. Người sẽ không nhìn thấy xứ đó nhưng sẽ qua đời tại đó [bc]. 14 Ta sẽ phân tán dân chúng của vua ra khắp các nước lân cận quanh Ít-ra-en. Ta sẽ phân tán quân đội người khắp các hướng gió. Quân thù sẽ đuổi theo họ.

15 Chúng sẽ biết ta là CHÚA khi ta phân tán chúng giữa các dân và trải chúng ra giữa các nước. 16 Nhưng ta sẽ cứu một số người trong vòng chúng khỏi lưỡi gươm, đói kém và dịch lệ. Rồi chúng sẽ kể lại những hành động đáng gớm ghiếc của mình nơi chúng đến. Rồi chúng sẽ biết ta là CHÚA.”

Bài học về việc Ê-xê-chiên run rẩy

17 CHÚA phán cùng tôi rằng: 18 “Hỡi con người, hãy run rẩy khi ăn và run sợ khi ngươi uống nước. 19 Rồi hãy bảo dân chúng trong xứ rằng: ‘CHÚA phán như sau về dân cư Giê-ru-sa-lem trong xứ Ít-ra-en: Chúng nó sẽ ăn trong run sợ và uống trong kinh khiếp vì xứ chúng sẽ bị cướp lột trần trụi do sự hung bạo của dân sống trong xứ. 20 Các thành phố có dân cư sống sẽ trở thành hoang tàn, xứ sẽ hoang vu. Rồi chúng sẽ biết ta là CHÚA.’”

Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)

© 2010 Bible League International