Bible in 90 Days
Ranh giới của xứ
13 CHÚA là Thượng Đế phán: “Đây là ranh giới của xứ được chia ra cho mười hai chi tộc của Ít-ra-en. Giô-xép sẽ được hai phần đất. 14 Ngươi phải chia đất cho đồng đều. Ta đã hứa cấp đất đó cho các tổ tiên ngươi cho nên đất nầy sẽ thuộc về ngươi để làm tài sản gia đình.
15 Đây sẽ là ranh giới của xứ: Về phía Bắc từ Địa-trung-hải chạy dài đến Hết-lôn, hướng về Lê-bô Ha-mát và trải dài đến các thị trấn Xê-bát, 16 Bê-rô-tha, và Xíp-ra-im trên ranh giới giữa Đa-mách và Ha-mát. Rồi nó sẽ tiếp tục chạy đến thị trấn Ha-xe Hát-ti-côn trên ranh giới của xứ Hau-ran. 17 Như vậy ranh giới sẽ chạy từ Địa-trung-hải cho đến thị trấn Ha-xa Ê-nan, thuộc Đa-mách và Ha-mát nằm trên phía Bắc. Đó là mạn Bắc của xứ.
18 Về phía Đông ranh giới chạy về phía Nam từ một điểm giữa Hau-ran và Đa-mách. Nó chạy dọc theo sông Giô-đanh giữa Ghi-lê-át và xứ Ít-ra-en rồi tiếp tục chạy đến thị trấn Ta-ma trên Biển Chết. Đó là mạn Đông của xứ.
19 Về phía Nam ranh giới sẽ chạy về hướng Đông từ Ta-ma suốt cho đến các suối nước của Mê-ri-ba Ka-đe. Rồi nó sẽ chạy dọc theo suối Ai-cập đến Địa-trung-hải. Đó sẽ là mạn Nam của xứ.
20 Về phía Tây thì Địa-trung-hải sẽ làm ranh giới cho đến một nơi đối ngang Lê-bô Ha-mát. Đó sẽ là mạn Tây của xứ các ngươi.
21 Ngươi sẽ chia xứ nầy cho các chi tộc Ít-ra-en. 22 Ngươi sẽ chia nó làm tài sản gia đình cho các ngươi và cho các người ngoại quốc sinh sống và có con cái giữa các ngươi. Ngươi phải đối xử với họ như những người sinh trưởng trong Ít-ra-en; họ cũng phải được chia đất cùng với các chi tộc Ít-ra-en. 23 Trong bất cứ vùng đất nào có người ngoại quốc cư ngụ thì ngươi phải cấp phần đất ấy cho họ, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.”
Chia đất cho các chi tộc Ít-ra-en
48 “Đây là các vùng thuộc những chi tộc có tên sau đây: Đan sẽ nhận một phần thuộc ranh giới phía Bắc. Nó sẽ chạy từ biển qua Hết-lôn đến Lê-bô Ha-mát, suốt đến Ha-xa Ê-nan tức phía Bắc Đa-mách. Rồi nó sẽ dừng ở đó kế cận Ha-mát. Đó sẽ là ranh giới phía Bắc của Đan chạy từ Đông sang Tây cho đến Địa-trung-hải.
2 A-se sẽ nhận phần đất mình về phía Nam của ranh giới Đan. Phần đó sẽ chạy từ Đông sang Tây.
3 Phần của Nép-ta-li nằm về phía Nam ranh giới A-se. Phần đó sẽ chạy từ Đông sang Tây.
4 Phần của Ma-na-xe nằm về phía Nam ranh giới Nép-ta-li. Phần đó sẽ chạy từ Đông sang Tây.
5 Phần của Ép-ra-im nằm về phía Nam của ranh giới Ma-na-xe. Phần đó chạy từ Đông sang Tây.
6 Phần của Ru-bên nằm về phía Nam của ranh giới Ép-ra-im. Phần đó chạy từ Đông sang Tây.
7 Phần của Giu-đa nằm về phía Nam của ranh giới Ru-bên. Phần đó chạy từ Đông sang Tây.
Phần đất đặc biệt
8 Phía Nam ranh giới Giu-đa sẽ là khu vực thánh ngươi phải biệt riêng ra. Khu vực đó rộng khoảng mười hai cây số, chiều dài và rộng tương đương với một phần đất của các chi tộc. Nó sẽ chạy từ Đông sang Tây. Đền thờ sẽ nằm chính giữa khu vực đó.
9 Phần đất mà ngươi biệt riêng cho CHÚA sẽ dài khoảng mười hai cây số, ngang năm cây số [a]. 10 Phần đất thánh sẽ được chia cho các người sau đây. Các thầy tế lễ sẽ được miếng đất dài khoảng mười hai cây số chạy theo hướng Bắc Nam, rộng năm cây số theo hướng Đông Tây. Đền thờ sẽ nằm chính giữa khu đất đó. 11 Phần đất ấy dành cho các thầy tế lễ có nhiệm vụ thánh phục vụ CHÚA. Chúng là các con cháu Xa-đốc đã phục vụ và không bỏ ta khi dân Ít-ra-en lầm lạc đi theo người Lê-vi. 12 Chúng sẽ nhận được phần đất mình là phần đất thánh của miếng đất thánh trong xứ. Phần đó nằm kế cận đất của người Lê-vi.
13 Dọc theo vùng đất dành cho các thầy tế lễ thì người Lê-vi sẽ có một phần dài khoảng mười hai cây số [b], rộng năm cây số. Chiều dài nguyên của nó sẽ là mười hai cây số, và chiều ngang nguyên là năm cây số. 14 Người Lê-vi không được bán hay đổi chác đất đó. Họ không được để ai khác làm chủ phần đất tốt nhất đó vốn đã được thánh hóa cho CHÚA.
Tài sản của thành
15 Phần đất còn lại rộng khoảng hai cây số, dài mười hai cây số. Phần nầy không phải là đất thánh nhưng thuộc về thành phố và được dùng để cất nhà và làm đồng cỏ. Thành phố sẽ tọa lạc ngay giữa khu đất đó. 16 Sau đây là kích thước của thành: cạnh Bắc khoảng hai cây số, cạnh Nam khoảng hai cây số, cạnh Đông khoảng hai cây số, và cạnh Tây khoảng hai cây số. 17 Đất của thành dùng làm đồng cỏ sẽ rộng khoảng một trăm hai mươi lăm thước về mặt Bắc, một trăm hai mươi lăm thước về mặt Nam, một trăm hai mươi lăm thước về mặt Đông, và một trăm hai mươi lăm thước về mặt Tây. 18 Dọc theo khu vực thánh phải chừa khoảng trống năm cây số về phía Đông, và năm cây số về phía Tây. Phần đó sẽ dùng làm nơi trồng trọt cung cấp thức ăn cho nhân viên của thành. 19 Nhân viên của thành từ tất cả các chi tộc sẽ trồng tỉa trên đất đó. 20 Toàn vùng đất đó hình vuông, mỗi bề mười hai cây số. Ngươi phải dâng cho CHÚA phần thánh cùng với tài sản của thành.
21 Đất còn lại hai bên của khu vực thánh và tài sản của thành thì thuộc về quan trưởng. Đất đó sẽ chạy dài quá phía Đông của khu vực thánh tới ranh giới phía Đông và Tây của khu vực đó suốt đến Địa-trung-hải. Cả hai khu nầy chạy dọc theo đất của các chi tộc, và thuộc về quan trưởng. Khu đất thánh để xây Nơi Thánh của đền thờ nằm ở giữa khu đất đó. 22 Đất của người Lê-vi và tài sản thành phố sẽ nằm giữa các khu đất thuộc về quan trưởng. Các khu đất đó sẽ nằm giữa ranh giới Giu-đa và Bên-gia-min.
Đất của các chi tộc khác
23 Sau đây là phần các chi tộc còn lại sẽ nhận: Bên-gia-min được một phần. Phần đó chạy từ Đông cho đến Địa-trung-hải về phía Tây.
24 Về phía Nam vùng đất của Bên-gia-min thì Xi-mê-ôn sẽ nhận một phần. Đất đó chạy từ Đông sang Tây.
25 Về phía Nam vùng đất của Xi-mê-ôn thì Y-xa-ca sẽ nhận một phần. Đất đó chạy từ Đông sang Tây.
26 Về phía Nam vùng đất của Y-xa-ca thì Xê-bu-lôn sẽ nhận một phần. Đất đó chạy từ Đông sang Tây.
27 Về phía Nam vùng đất của Xê-bu-lôn thì Gát sẽ nhận một phần. Đất đó chạy từ Đông sang Tây.
28 Ranh giới phía Nam vùng đất của Gát chạy về phía Đông từ Ta-ma trên Biển Chết cho đến các suối Mê-ri-ba Ka-đe. Rồi nó sẽ chạy dọc theo suối Ai-cập cho đến Địa-trung-hải. 29 Đó là đất mà ngươi phải phân chia cho các chi tộc của Ít-ra-en để làm tài sản, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.”
Các cổng thành
30 “Sau đây là ranh giới bên ngoài thành: Cạnh Bắc sẽ dài hai cây số. 31 Sẽ có ba cổng quay về hướng Bắc: Cổng Ru-bên, cổng Giu-đa, và cổng Lê-vi, đặt theo tên các chi tộc Ít-ra-en.
32 Cạnh Đông sẽ dài hai cây số. Sẽ có ba cổng quay về hướng Đông: Cổng Giô-xép, cổng Bên-gia-min, và cổng Đan.
33 Cạnh Nam sẽ dài hai cây số. Sẽ có ba cổng quay về hướng Nam: Cổng Xi-mê-ôn, cổng Y-xa-ca, và cổng Xê-bu-lôn.
34 Cạnh Tây sẽ dài hai cây số. Sẽ có ba cổng quay về hướng Tây: Cổng Gát, cổng A-se, và cổng Nép-ta-li.
35 Chu vi của thành là khoảng mười cây số. Từ đó về sau thành sẽ mang tên là CHÚA Có Ở Đó [c].”
1 Vào năm thứ ba đời Giê-hô-gia-kim [d] vua Giu-đa thì Nê-bu-cát-nết-xa, vua Ba-by-lôn kéo quân đến vây Giê-ru-sa-lem. 2 CHÚA cho phép Nê-bu-cát-nết-xa bắt được Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa. Nê-bu-cát-nết-xa cũng lấy một số đồ dùng trong đền thờ của Thượng Đế mang sang Ba-by-lôn và đặt trong đền thờ của các thần mình.
3 Sau đó vua Nê-bu-cát-nết-xa ra lệnh cho Át-phê-na, tể tướng mình, tuyển lựa một số người Ít-ra-en [e] vào cung. Vua muốn chọn họ từ những gia đình quyền quí, kể cả gia đình hoàng tộc của Giu-đa. 4 Vua Nê-bu-cát-nết-xa chỉ muốn chọn những thanh niên Ít-ra-en tốt tướng, trắng trẻo, học thức, có khả năng hấp thụ kiến thức để có thể phục vụ trong đền vua. Át-phê-na phải dạy họ nói và viết ngôn ngữ Ba-by-lôn. 5 Vua cấp cho các thanh niên ấy lương thực và rượu mỗi ngày là những thứ vua dùng. Họ được huấn luyện trong ba năm rồi sau đó sẽ phục vụ vua Ba-by-lôn. 6 Trong số các thanh niên đó có Đa-niên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria thuộc dân Giu-đa.
7 Át-phê-na, quan tể tướng đặt tên Ba-by-lôn cho họ. Đa-niên mang tên Bên-tơ-sát-xa, Ha-na-nia tên Sa-đơ-rắc, Mi-sa-ên tên Mê-sác, và A-xa-ria tên A-bết-nê-gô.
8 Đa-niên nhất định không để thực phẩm và rượu của vua làm ô uế mình cho nên ông xin Át-phê-na miễn cho ông khỏi dùng các thức ăn ấy.
9 Thượng Đế khiến cho Át-phê-na, quan tể tướng tỏ lòng nhân từ và tử tế đối với Đa-niên. 10 Tuy nhiên Át-phê-na bảo Đa-niên, “Tôi sợ vua, chủ tôi. Ngài ra lệnh cho tôi cấp cho anh phần thức ăn và rượu nầy. Nếu anh bắt đầu trông tiều tụy hơn những thanh niên khác đồng tuổi thì vua sẽ thấy ngay. Như thế hóa ra vì anh mà vua sẽ chém đầu tôi à?”
11 Át-phê-na giao cho một viên sĩ quan trông nom Đa-niên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria. 12 Đa-niên bảo viên sĩ quan trông nom mình rằng, “Xin thử như thế nầy trong mười ngày: Đừng cho chúng tôi thứ gì khác để ăn ngoài rau và nước uống. 13 Sau mười ngày ông sẽ so diện mạo chúng tôi với những thanh niên khác đã dùng thức ăn và đồ uống của vua xem sao. Ông sẽ thấy rồi quyết định phải đối xử với chúng tôi, kẻ tôi tớ ông, như thế nào.”
14 Vì thế viên sĩ quan ấy đồng ý thử họ trong mười ngày. 15 Sau mười ngày thì thấy họ trông khỏe mạnh và tráng kiện hơn những thanh niên ăn đồ của vua. 16 Nên viên sĩ quan dẹp phần thực phẩm và rượu đặc biệt của vua dành cho họ và cho họ ăn rau thôi.
17 Thượng Đế ban cho bốn thanh niên ấy sự khôn ngoan và khả năng học hỏi nhiều điều. Đa-niên còn biết giải những dị tượng và chiêm bao.
18 Cuối thời gian vua ấn định, Át-phê-na đưa tất cả các thanh niên trình diện vua Nê-bu-cát-nết-xa. 19 Vua nói chuyện với họ và nhận thấy trong tất cả các thanh niên không ai xuất sắc bằng Đa-niên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria. Vậy bốn thanh niên đó phục vụ nhà vua. 20 Mỗi khi vua hỏi ý kiến họ về vấn đề gì quan trọng thì họ tỏ ra rất khôn ngoan và thông sáng. Họ giỏi gấp mười lần các nhà tướng số và thuật sĩ trong toàn vương quốc! 21 Đa-niên tiếp tục phục vụ cho nhà vua cho đến năm đầu tiên của triều đại vua Xi-ru [f].
Chiêm bao của Nê-bu-cát-nết-xa
2 Vào năm thứ nhì triều đại Nê-bu-cát-nết-xa, vua thấy một giấc mộng khiến vua bực dọc và thao thức suốt đêm. 2 Nên vua gọi các nhà tướng số, thuật sĩ, phù thủy, và các người thông thái đến giải thích chiêm bao cho mình. Tất cả đến trình diện trước mặt vua.
3 Rồi vua bảo, “Ta có một chiêm bao làm ta băn khoăn lắm. Ta muốn biết ý nghĩa của nó.”
4 Các nhà thông thái thưa với vua bằng tiếng A-ram [g], “Thưa vua vạn tuế! Xin thuật lại cho chúng tôi, kẻ tôi tớ vua điềm chiêm bao đó rồi chúng tôi sẽ giải thích ý nghĩa của nó.”
5 Vua Nê-bu-cát-nết-xa bảo họ, “Ta đã bảo các ngươi rồi. Các ngươi phải thuật lại cho ta điềm chiêm bao đó và giải thích ý nghĩa. Nếu không ta sẽ phanh thây các ngươi và biến nhà cửa các ngươi ra đống gạch vụn. 6 Nhưng nếu các ngươi thuật được chiêm bao và giải thích ý nghĩa thì ta sẽ tưởng thưởng và ban vinh dự cho các ngươi. Vậy bây giờ hãy thuật cho ta chiêm bao đó và giải thích ý nghĩa của nó.”
7 Các người thông thái thưa với vua lần nữa, “Xin vua hãy thuật lại cho các tôi tớ vua chiêm bao rồi chúng tôi sẽ giải thích ý nghĩa của nó.”
8 Vua Nê-bu-cát-nết-xa trả lời, “Ta biết các ngươi tìm cách kéo dài thì giờ vì các ngươi biết ta đã nói là làm. 9 Nếu các ngươi không thuật được chiêm bao đó thì các ngươi sẽ bị hình phạt. Các ngươi đã toa rập để giải thích láo và bịa đặt chuyện gian ác, hi vọng tình thế sẽ thay đổi. Bây giờ hãy cho ta biết chiêm bao thì ta sẽ biết rằng các ngươi có thể giải thích ý nghĩa của chiêm bao ấy cho ta!”
10 Các người thông thái thưa với vua, “Trên trời đất nầy không ai có thể làm được điều vua đòi cả! Không có đại vương hùng cường nào lại bảo đồng bóng, thuật sĩ, nhà thông thái làm chuyện như thế 11 vì điều vua đòi hỏi quá khó. Chỉ có các vị thần không sống giữa con người mới làm được thôi.”
12 Khi vua nghe họ đáp như vậy thì nổi xung thiên. Vua liền ra lệnh xử tử tất cả các nhà thông thái trong toàn nước Ba-by-lôn. 13 Khi lệnh xử tử các nhà thông thái của vua Nê-bu-cát-nết-xa được ban ra thì người ta đi tìm Đa-niên và các bạn hữu ông để giết luôn.
14 A-ri-ốc, viên chỉ huy toán cận vệ vua là người sắp thi hành lệnh xử tử các nhà thông thái nước Ba-by-lôn. Nhưng Đa-niên dùng lời khôn khéo nói chuyện với ông ta. 15 Đa-niên hỏi, “Tại sao vua ra một lệnh tàn ác như thế?”
A-ri-ốc liền thuật lại cho Đa-niên nghe đầu đuôi câu chuyện. 16 Đa-niên liền vào gặp vua Nê-bu-cát-nết-xa và xin thêm một thời gian nữa để ông có thể giải thích chiêm bao của vua.
17 Rồi Đa-niên trở về nhà thuật lại mọi chuyện cho các bạn mình là Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria. 18 Đa-niên yêu cầu các bạn mình cầu nguyện Thượng Đế trên trời tỏ lòng từ bi giúp họ hiểu điều huyền bí nầy để họ khỏi bị chết chung với các nhà thông thái khác của Ba-by-lôn.
19 Đêm đó Thượng Đế giải thích điều huyền bí cho Đa-niên trong một dị tượng. Đa-niên liền ca ngợi Thượng Đế trên trời. 20 Đa-niên nói:
“Đáng ca ngợi Thượng Đế muôn đời,
vì Ngài đầy khôn ngoan và quyền năng.
21 Ngài thay đổi thì giờ và mùa trong năm.
Ngài cất lấy quyền lực vua nầy
và ban quyền đó cho vua khác.
Ngài ban sự khôn ngoan cho người khôn
và hiểu biết cho người thông sáng.
22 Ngài bày tỏ những điều huyền bí thẳm sâu;
Ngài biết những điều ẩn nấp trong bóng tối
và chung quanh Ngài toàn là ánh sáng.
23 Tôi cảm tạ và ca ngợi Ngài là Thượng Đế của tổ tiên tôi
vì Ngài đã ban cho tôi sự khôn ngoan và quyền năng.
Ngài cho tôi điều tôi xin;
và cho chúng tôi biết chiêm bao của vua.”
Đa-niên thuật lại ý nghĩa của chiêm bao
24 Rồi Đa-niên đi đến A-ri-ốc, người mà vua Nê-bu-cát-nết-xa chọn để xử tử các nhà thông thái của Ba-by-lôn, bảo rằng, “Đừng xử tử các nhà thông thái Ba-by-lôn. Đưa tôi vào gặp vua, tôi sẽ thuật cho vua ý nghĩa chiêm bao của vua.”
25 A-ri-ốc vội vàng đưa Đa-niên vào gặp vua và thưa, “Tôi đã tìm được một người trong các tù binh [h] từ Giu-đa. Anh ta có thể giải thích ý nghĩa chiêm bao của vua.”
26 Vua liền hỏi Đa-niên, cũng có tên là Bên-tơ-sát-xa, “Anh có thể thuật lại chiêm bao của ta và giải thích ý nghĩa của nó à?”
27 Đa-niên thưa, “Không có nhà thông thái, thuật sĩ, tướng số nào có thể giải thích cho vua điều huyền bí mà vua hỏi cả. 28 Nhưng có một Thượng Đế trên trời có thể giải thích các điều bí mật và Ngài đã tỏ cho vua thấy sự việc sẽ xảy đến trong tương lai. Sau đây là chiêm bao, và dị tượng vua thấy đang khi nằm trên giường: 29 Thưa vua, đang khi vua nằm thì suy tư về những việc sẽ đến. Thượng Đế, Đấng có thể cho con người biết những điều bí mật, tỏ cho vua việc sẽ xảy đến trong tương lai. 30 Thượng Đế tỏ cho tôi biết điều huyền bí nầy không phải vì tôi khôn ngoan hơn ai nhưng để vua biết ý nghĩa của nó. Do đó vua sẽ hiểu những gì trong trí vua.
31 Thưa vua, trong giấc mộng vua thấy một pho tượng khổng lồ, sáng loáng đáng sợ đứng sừng sững trước mặt vua. 32 Đầu của tượng làm bằng vàng ròng. Ngực và cánh tay bằng bạc. Bụng và bắp vế làm bằng đồng. 33 Bắp chuối làm bằng sắt, còn bàn chân thì một phần làm bằng sắt, một phần bằng đất sét. 34 Trong khi đang mải nhìn pho tượng thì vua thấy một tảng đá không do tay người đục ra. Nó bay đến đập vào hai chân bằng sắt và đất sét, khiến pho tượng ấy bể vụn. 35 Rồi sắt, đất sét, đồng, bạc và vàng đều tan nát cả. Chúng hóa ra như trấu trên sân đập lúa lúc mùa hè; gió thổi bay đi tứ tung, chẳng còn gì sót lại. Còn tảng đá đã đập vào pho tượng đó trở thành một hòn núi lớn bao trùm cả đất.
36 Đó là chiêm bao của vua. Bây giờ tôi sẽ giải thích ý nghĩa. 37 Thưa vua, ngài là vì vua cao cả nhất. Thượng Đế trên trời đã ban cho vua vương quốc, quyền lực, sức mạnh, và vinh quang. 38 Nơi nào có người, muông thú, chim chóc sống thì Thượng Đế giao cho vua quản trị. Thưa vua Nê-bu-cát-nết-xa, vua là cái đầu của pho tượng ấy.
39 Nhưng sẽ có một nước khác đến sau vua, không lớn bằng nước vua. Sau đó có một nước thứ ba, tức phần bằng đồng, sẽ đến cai trị khắp đất. 40 Rồi sẽ có một nước thứ tư, mạnh như sắt. Sắt đè bẹp và nghiền nát mọi vật ra sao thì nước thứ tư cũng nghiền nát và đè bẹp các nước khác như thế.
41 Vua thấy bàn chân của pho tượng một phần làm bằng đất sét, một phần bằng sắt. Như thế nghĩa là nước thứ tư sẽ bị chia ra. Nó vẫn còn đôi chút sức lực của sắt trong đó, như vua thấy sắt trộn lẫn với đất sét. 42 Các ngón chân của pho tượng làm vừa bằng sắt, vừa bằng đất sét. Vương quốc thứ tư cũng vừa mạnh như sắt, cũng vừa dòn như đất sét. 43 Vua thấy sắt trộn với đất sét nhưng sắt và đất sét không thể kết hợp với nhau. Cũng vậy, dân chúng của nước thứ tư sẽ hỗn tạp, không đoàn kết như một dân.
44 Trong thời các vua ấy, Thượng Đế trên trời sẽ lập một nước không bao giờ bị tiêu diệt hay bị trao vào tay một dân khác. Nước ấy sẽ tồn tại mãi mãi sau khi đè bẹp và tiêu diệt các nước khác.
45 Thưa vua Nê-bu-cát-nết-xa, vua thấy một tảng đá đục ra từ núi nhưng không phải do tay người, đập nát pho tượng. Tảng đá đập bể sắt, đồng, đất sét, bạc, và vàng thành từng mảnh. Thượng Đế Tối Cao đã tiết lộ cho vua biết những biến chuyển sẽ xảy ra. Điềm chiêm bao là thật và vua có thể tin vào lời giải thích nầy.”
46 Vua Nê-bu-cát-nết-xa liền sấp mình xuống đất trước mặt Đa-niên tỏ lòng tôn kính ông. Vua ra lệnh dâng của lễ cùng trầm hương cho Đa-niên. 47 Rồi vua bảo Đa-niên, “Thật ta biết Thượng Đế ngươi lớn hơn tất cả các thần, Ngài là CHÚA của các vua. Ngài cho người ta biết những điều họ không thể biết. Ta biết đúng vậy vì ngươi có thể cho ta biết những điều huyền bí nầy.”
48 Sau đó vua ban thưởng cho Đa-niên đồng thời giao cho ông một chức vụ quan trọng trong nước mình. Vua đặt ông cai quản toàn vùng Ba-by-lôn và cắt cử ông đứng đầu mọi nhà thông thái ở Ba-by-lôn. 49 Đa-niên xin vua cử Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô làm quan vùng Ba-by-lôn, nhà vua bằng lòng làm theo điều Đa-niên yêu cầu. Còn Đa-niên thì trở nên một trong những cận thần trong cung vua.
Pho tượng vàng và lò lửa hực
3 Vua Nê-bu-cát-nết-xa đúc một tượng vàng cao sáu mươi thước, ngang sáu thước và dựng trong đồng bằng Đu-ra, thuộc vùng Ba-by-lôn. 2 Rồi vua gọi các lãnh tụ: các tổng đốc, phụ tá tổng đốc, sĩ quan chỉ huy quân đội, các cố vấn hoàng gia, các thủ quỹ ngân khố, thẩm phán, quan cai trị, và tất cả các viên chức trong nước. Vua muốn họ đến tham dự lễ đặc biệt cung hiến pho tượng mà vua đã dựng nên. 3 Tất cả mọi người đều đến dự buổi lễ đặc biệt đó và đứng trước mặt pho tượng vua Nê-bu-cát-nết-xa đã dựng. 4 Rồi viên chức truyền lệnh của vua dõng dạc tuyên bố, “Hỡi các dân, các quốc gia, các thứ tiếng, các ngươi phải làm như sau: 5 Khi các ngươi nghe tiếng loa, sáo, đờn sắt, đờn thập lục [i], đờn cầm, ống quyển, và các nhạc khí khác thì phải quì xuống bái lạy tượng vàng mà vua Nê-bu-cát-nết-xa đã dựng lên. 6 Ai không cúi xuống bái lạy sẽ lập tức bị ném vào lò lửa hừng.”
7 Bấy giờ các dân, các quốc gia, các người nói đủ mọi thứ tiếng có mặt ở đó. Khi nghe tiếng loa, sáo, đờn sắt, đờn thập lục, đờn cầm, ống quyển, và các nhạc khí khác, tất cả đều cúi xuống bái lạy tượng vàng mà vua Nê-bu-cát-nết-xa đã dựng.
8 Tuy nhiên có mấy người Ba-by-lôn đến cùng vua và tố cáo mấy người Giu-đa. 9 Họ tâu cùng vua Nê-bu-cát-nết-xa, “Tâu vua, chúc vua vạn tuế! 10 Thưa vua, ngài đã ra lệnh rằng khi nghe tiếng loa, sáo, đờn sắt, đờn thập lục, đờn cầm, ống quyển, và các nhạc khí khác thì mọi người phải cúi xuống bái lạy tượng vàng. 11 Ai bất tuân sẽ bị ném vào lò lửa hừng. 12 Thưa vua, có mấy người Giu-đa mà vua tiến cử làm quan cai trị vùng Ba-by-lôn không thèm đến xỉa đến lệnh vua. Bọn đó là Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô. Chúng không thờ các thần của vua cũng không bái lạy tượng vàng vua đã dựng.”
13 Vua Nê-bu-cát-nết-xa nổi lôi đình và cho triệu Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô đến. Khi họ bị điệu đến trước mặt vua, 14 thì Nê-bu-cát-nết-xa liền hỏi, “Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô, có đúng là các anh không phục vụ các thần của ta và không chịu bái lạy tượng vàng ta đã dựng không? 15 Lát nữa đây các anh lại sẽ nghe tiếng loa, sáo, đờn sắt, đờn thập lục, đờn cầm, ống quyển, và các nhạc khí khác. Lúc ấy nếu các anh chịu cúi lạy tượng ta dựng thì tốt, bằng không các anh sẽ bị ném ngay vào lò lửa hừng. Rồi xem thử thần nào sẽ cứu các anh khỏi tay ta nhé?”
16 Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô thưa với vua rằng, “Thưa vua Nê-bu-cát-nết-xa, chúng tôi không cần phải tự bênh vực mình trước mặt vua. 17 Nếu vua ném chúng tôi vào lò lửa thì Thượng Đế mà chúng tôi phục vụ sẽ có thể giải cứu chúng tôi khỏi lò lửa hừng. Ngài cũng sẽ cứu chúng tôi khỏi quyền lực của vua. 18 Mà dù cho Thượng Đế không giải cứu chúng tôi đi nữa thì chúng tôi muốn vua biết rằng: Chúng tôi sẽ không phục vụ các thần của vua hay bái lạy tượng vàng vua đã dựng.”
19 Vua Nê-bu-cát-nết-xa nổi trận lôi đình và đổi thái độ đối với Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô. Vua ra lệnh đốt lò lửa nóng gấp bảy lần hơn bình thường. 20 Rồi vua ra lệnh các binh sĩ lực lưỡng nhất của mình trói Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô lại và ném họ vào lò lửa hừng.
21 Vậy Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô bị trói và bị quăng vào lò lửa hừng trong khi vẫn còn mặc áo, quần, khăn vành và các y phục khác. 22 Lệnh vua nghiêm nhặt và lò lửa nóng đến nỗi sức nóng thiêu cháy các binh sĩ lực lưỡng đã ném Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô vào lò. 23 Bị trói chặt, Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô, rơi vào lò lửa hừng.
24 Nhưng vua Nê-bu-cát-nết-xa vô cùng ngạc nhiên đến nỗi vua vùng đứng lên. Vua hỏi mấy cố vấn, “Có phải chúng ta trói ba người ném vào lửa không?”
Họ thưa, “Dạ phải.”
25 Nhà vua bảo, “Xem kìa! Ta thấy bốn người đang đi trong lửa. Họ không bị trói cũng không bị phỏng. Người thứ tư giống như con trai của các thần.”
26 Vua Nê-bu-cát-nết-xa liền tiến đến miệng lò kêu lớn, “Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô ơi, hãy bước ra! Tôi tớ của Thượng Đế Chí Cao, hãy đến đây!”
Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô liền từ đám lửa đi ra. 27 Khi họ bước ra thì các thống đốc, các phụ tá, các viên sĩ quan chỉ huy quân đội, các cố vấn hoàng gia vây quanh họ và thấy rằng lửa không làm gì hại đến thân thể họ. Tóc họ không bị sém, áo quần không bị cháy, và họ cũng chẳng có mùi khói nữa!
28 Vua Nê-bu-cát-nết-xa tuyên bố, “Đáng ca ngợi Thượng Đế của Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô. Ngài đã sai thiên sứ giải cứu tôi tớ Ngài khỏi ngọn lửa! Ba người nầy tin cậy Thượng Đế mình, dám cãi lệnh ta. Họ chẳng thà chịu chết hơn phục vụ hay bái lạy thần nào khác ngoài Thượng Đế của mình. 29 Cho nên ta ra lệnh nầy: Bất cứ ai thuộc dân tộc hay ngôn ngữ nào nói phạm đến Thượng Đế của Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô sẽ bị phanh thây, và nhà nó sẽ biến thành đống gạch vụn. Không có thần nào có thể giải cứu như thế nầy được.” 30 Rồi vua thăng chức cho Sa-đơ-rắc, Mê-sác, và A-bết-nê-gô trong vùng Ba-by-lôn.
Chiêm bao của vua Nê-bu-cát-nết-xa
4 Vua Nê-bu-cát-nết-xa gởi văn thư sau đây cho các dân tộc, quốc gia, các người nói mọi thứ tiếng trên thế giới:
“Ta chúc các ngươi bình yên và thịnh vượng!
2 Thượng Đế Chí Cao đã làm nhiều phép lạ và điều kỳ diệu cho ta mà ta rất vui thuật cho các ngươi biết.
3 Việc làm của Ngài thật lớn lao,
phép lạ Ngài quyền năng.
Nước Ngài còn mãi mãi,
quyền lực Ngài không bao giờ dứt.
4 Ta, Nê-bu-cát-nết-xa, rất vui và thành công trong cung điện ta, 5 nhưng ta có một chiêm bao khiến ta hoang mang. Trong khi ta đang nằm trên giường, ta thấy những hình ảnh và dị tượng trong trí ta làm ta kinh hoảng. 6 Cho nên ta ra lệnh triệu những nhà thông thái của Ba-by-lôn đến để nói cho ta biết ý nghĩa của điềm chiêm bao đó. 7 Các nhà tướng số, thuật sĩ, và thông thái đến, rồi ta thuật cho họ nghe chiêm bao ta nhưng họ không thể giải thích được.
8 Sau cùng có Đa-niên đến gặp ta. Ta gọi người là Bên-tơ-sát-xa để tỏ lòng tôn kính các thần của ta vì linh của các thánh thần ở trong người. Ta thuật cho người nghe điềm chiêm bao ta.
9 Ta bảo, ‘Bên-tơ-sát-xa ơi, anh là nhà tướng số tài giỏi nhất. Ta biết linh của các thần ở trong anh cho nên không có điều huyền bí nào quá khó mà anh không hiểu nổi. Đây là điềm chiêm bao của ta, anh hãy giải thích ý nghĩa của nó. 10 Sau đây là các dị tượng ta thấy trong khi ta đang nằm trên giường: Ta nhìn thì thấy trước mặt ta có một cây đứng sừng sững giữa trời. Cây ấy rất cao lớn. 11 Nó lớn mạnh. Ngọn nó đụng đến trời và bất cứ chỗ nào trên đất đều có thể nhìn thấy ngọn nó được [j]. 12 Lá nó đẹp, trái thì sai và rất ngon, đủ cho mọi người ăn. Muông thú núp duới tàng nó, và chim chóc làm tổ trên các nhánh nó. Tất cả các thú vật đều sống nhờ nó.
13 Đang khi mải nhìn những điều đó trong dị tượng khi ta đang nằm trên giường thì ta thấy một vị canh giữ, một thiên sứ thánh từ trời xuống. 14 Người la lớn: Hãy đốn cây và chặt nhánh nó đi. Hãy tuốt hết lá nó và phân tán trái nó. Hãy để muông thú núp dưới tàng nó chạy thoát đi và các chim chóc trong nhánh nó bay đi chỗ khác. 15 Nhưng hãy chừa lại gốc và rễ nó dưới đất lấy xiềng sắt và đồng buộc quanh gốc nó; hãy để nó ở trong đồng cùng với cỏ mọc xung quanh. Hãy để nó dầm sương và sống chung với muông thú và cây cối trên đất. 16 Đừng cho nó suy nghĩ như con người nữa mà ban cho nó trí óc của loài thú trong bảy năm.
17 Các vị canh giữ ra lệnh đó; các đấng thánh tuyên án. Như thế để cho muôn dân biết rằng Thượng Đế Chí Cao trị vì các nước trên thế giới. Ngài ban nước cho người nào Ngài muốn, và Ngài chọn những người cai trị họ là những người khiêm tốn.
18 Đó là điều ta, vua Nê-bu-cát-nết-xa thấy trong chiêm bao. Bây giờ, Bên-tơ-sát-xa [k], hãy giải thích cho ta biết ý nghĩa chiêm bao đó. Không có học giả nào trong nước ta có thể giải thích cho ta, nhưng anh có thể giải thích được vì linh của các thánh thần ở trong anh.’”
Đa-niên giải thích ý nghĩa chiêm bao
19 Lúc đó Đa-niên, cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa, đứng im lặng khá lâu vì ý nghĩa chiêm bao khiến ông hoảng sợ. Vua liền bảo ông, “Bên-tơ-sát-xa ơi, đừng để chiêm bao hay ý nghĩa của nó làm anh lo sợ.”
Bên-tơ-sát-xa liền thưa, “Thưa ngài, nguyền chiêm bao của ngài xảy đến cho các kẻ thù ngài và ý nghĩa của nó dành cho những kẻ chống nghịch ngài! 20 Trong chiêm bao vua nhìn thấy một cây mọc lên cao lớn. Ngọn nó chấm đến trời, dưới đất nơi nào cũng thấy. 21 Lá nó đẹp, trái thì sai đủ cho mọi người ăn. Nó là nơi trú ẩn cho muông thú, nhánh nó là chỗ cho chim chóc làm tổ. 22 Tâu vua, ngài là cây đó! Ngài trở nên hùng mạnh như cây lớn đó cao vút đến tận trời. Quyền lực của ngài lan đến những nơi xa xăm trên đất.
23 Tâu vua, ngài nhìn thấy một người canh giữ, một thiên sứ thánh từ trời xuống bảo, ‘Hãy đốn cây và tiêu diệt nó đi. Nhưng hãy chừa gốc và rễ nó dưới đất bằng xích sắt và đồng buộc quanh nó; để nó trong đồng với cây cỏ. Hãy để nó dầm sương và sống như muông thú trong bảy năm.’
24 Tâu vua, đây là ý nghĩa của chiêm bao đó. Thượng Đế Chí Cao đã truyền rằng những điều sau đây sẽ xảy ra cho vua, là chủ tôi: 25 Vua sẽ bị đuổi khỏi loài người và sống giữa muông thú. Người ta sẽ cho vua ăn cỏ như bò, vua sẽ dầm sương trời. Sau bảy năm vua sẽ học được bài nầy: Thượng Đế Chí Cao cai trị mọi nước trên đất và Ngài có quyền ban nước cho ai tùy ý Ngài muốn.
26 Vì còn gốc cây và rễ trong đất, nước của vua sẽ phục hồi lại cho vua sau khi vua hiểu ra rằng Đấng ngự trên trời cai quản nước của vua. 27 Cho nên, thưa vua, hãy nghe lời tôi khuyên. Đừng phạm tội và hãy làm điều thiện. Hãy thôi làm điều ác và tỏ ra nhân từ đối với kẻ nghèo thì vua sẽ mãi thành công.”
Điềm chiêm bao của vua thành sự thật
28 Tất cả những lời tiên đoán đó xảy ra cho vua Nê-bu-cát-nết-xa. 29 Mười hai tháng sau đó khi vua đang đi dạo trên nóc [l] cung điện mình ở Ba-by-lôn, 30 vua bảo, “Tay ta đã xây thành lớn Ba-by-lôn nầy để làm nơi ở của ta. Ta đã dùng quyền năng ta xây nên nó để tỏ ra vinh quang và oai nghi ta.”
31 Lời còn đang ở trong miệng vua thì có tiếng từ trời vọng xuống rằng, “Hỡi vua Nê-bu-cát-nết-xa, những điều sau đây sẽ xảy ra cho ngươi: Ngươi đã bị tước hết quyền lực. 32 Ngươi sẽ bị đuổi khỏi loài người. Ngươi sẽ sống chung với muông thú và ăn cỏ như bò. Sau bảy năm ngươi sẽ học được bài sau đây: Thượng Đế Chí Cao cai trị mọi nước trên thế gian. Ngài ban nước cho ai tùy ý Ngài chọn.”
33 Lập tức những lời đó thành sự thật. Vua Nê-bu-cát-nết-xa bị đuổi ra khỏi giữa loài người và bắt đầu ăn cỏ như bò. Thân thể vua dầm sương. Tóc vua mọc dài ra như lông chim ưng, móng tay và móng chân mọc ra như móng chim.
34 “Cuối thời kỳ đó, ta, Nê-bu-cát-nết-xa, ngước lên trời và trí khôn bắt đầu phục hồi lại! Rồi ta ca ngợi Thượng Đế Chí Cao; ta dâng sự tôn trọng và vinh hiển cho Đấng sống đời đời.
Quyền cai trị của Thượng Đế còn mãi mãi,
và nước Ngài kéo dài vô tận.
35 Dân cư trên đất không quan trọng gì.
Thượng Đế tự ý hành động
qua quyền lực của thiên đàng
và con người dưới đất.
Không ai có thể ngăn chận
tay quyền năng Ngài hay hạch hỏi
điều Ngài làm.
36 Lúc đó ta có thể suy nghĩ bình thường trở lại, Thượng Đế phục hồi danh dự và quyền lực cao cả lại cho ta và trả lại vinh hiển cho nước ta. Những cố vấn của ta và các người quí tộc trở lại phục vụ ta như trước. Ta lại làm vua và còn cao trọng quyền uy hơn trước. 37 Bây giờ, ta, Nê-bu-cát-nết-xa, ca ngợi và tôn trọng cùng dâng vinh hiển lên cho Vua trên trời. Mọi việc Ngài làm đều đúng và công bằng, và Ngài có thể hạ kẻ kiêu căng xuống.”
Chữ viết trên tường
5 Vua Bên-sát-xa mở một đại tiệc thết đãi một ngàn quan khách và uống rượu với họ. 2 Trong khi đang uống rượu thì vua Bên-sát-xa ra lệnh mang các ly chén bằng vàng và bạc mà cha ông [m] mình là Nê-bu-cát-nết-xa đã lấy từ đền thờ tại Giê-ru-sa-lem để vua, các quan khách, các bà vợ và các hầu thiếp dùng uống rượu. 3 Cho nên họ mang các ly chén bằng vàng đã lấy từ trong đền thờ Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem. Vua, các quan khách hoàng gia, các bà vợ, và các hầu thiếp dùng các ly chén đó để uống rượu. 4 Trong khi đang uống thì họ ca ngợi các thần của mình là các thần bằng vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ, và đá.
5 Bỗng nhiên có các ngón tay của bàn tay người xuất hiện viết trên vách tường, gần chân đèn trong cung điện. Nhà vua chăm chú nhìn bàn tay đang viết.
6 Vua Bên-sát-xa đâm ra kinh hoàng. Mặt vua tái xanh, các đầu gối chạm vào nhau, vua đứng lên không nổi vì hai chân đã bủn rủn. 7 Vua gọi các thuật sĩ, học giả, các phù thủy của Ba-by-lôn lại bảo, “Ai có thể đọc và giải thích những chữ nầy sẽ được mặc áo vải tím [n] dành cho vua và được mang vòng vàng vào cổ. Ta sẽ phong cho người đó làm quan lớn thứ ba trong nước.”
8 Các nhà thông thái của vua vào nhưng họ không thể đọc được hay giải nghĩa dòng chữ đó. 9 Vua Bên-sát-xa càng đâm ra sợ hãi, mặt vua càng biến sắc. Các quan khách của hoàng gia cũng hoang mang.
10 Lúc đó bà thái hậu tức mẹ vua nghe tiếng của vua và các khách hoàng gia nên bước vào phòng tiệc. Bà bảo, “Vua vạn tuế! Đừng sợ, xin đừng tái mặt vì hoảng hốt! 11 Có một người trong nước vua đầy dẫy linh của các thánh thần. Trong thời cha vua, người nầy tỏ ra thông sáng, hiểu biết, và khôn ngoan như các thần. Cha vua, tức Nê-bu-cát-nết-xa, đã đặt người cai quản các nhà thông thái, tướng số, thuật sĩ, và phù thủy. 12 Người mà tôi nói là Đa-niên mà vua cha đặt cho tên Bên-tơ-sát-xa. Người rất thông minh, đầy hiểu biết và thông sáng. Người có thể giải thích chiêm bao cùng các điều huyền bí đồng thời có thể trả lời những vấn đề giải. Hãy gọi Đa-niên, người sẽ giải thích cho vua ý nghĩa của dòng chữ trên vách.”
13 Vậy người ta đưa Đa-niên vào gặp nhà vua. Vua hỏi, “Ngươi có phải là Đa-niên không? Ngươi có phải là một trong những tù binh mà cha ta mang từ xứ Giu-đa không? 14 Ta đã nghe rằng linh của các thần ở trong ngươi và rằng ngươi rất thông minh, đầy hiểu biết và thông sáng phi thường. 15 Các nhà thông thái và thuật sĩ được đưa vào đây để đọc dòng chữ nầy và giải thích ý nghĩa nhưng họ không giải nghĩa được. 16 Ta nghe rằng ngươi có thể giải nghĩa mọi điều và biết giải pháp cho các vấn đề khó khăn. Hãy đọc dòng chữ nầy và giải nghĩa cho ta. Nếu làm được, ta sẽ ban cho ngươi áo tím dành cho vua, và vòng vàng đeo cổ. Ngươi sẽ trở thành quan lớn thứ ba trong triều.”
17 Đa-niên tâu với vua, “Xin vua hãy giữ các phần thưởng đó cho mình hay cho người khác. Nhưng tôi sẽ đọc và giải nghĩa hàng chữ viết trên tường cho vua biết.
18 Tâu vua, Thượng Đế Chí Cao đã khiến Nê-bu-cát-nết-xa, cha vua thành một hoàng đế cao cả, oai nghi và hùng cường. 19 Vì Thượng Đế đã khiến người cao trọng nên các dân tộc, các quốc gia, các người nói mọi thứ tiếng đều sợ Nê-bu-cát-nết-xa. Người muốn giết ai thì giết, muốn để ai sống thì để. Người muốn tiến cử ai thì tiến cử, muốn hạ bệ ai thì hạ bệ.
20 Nhưng vua Nê-bu-cát-nết-xa đâm ra quá tự phụ và ương ngạnh cho nên người bị tước ngôi báu. Sự vinh hiển của người bị lấy đi. 21 Người bị đuổi khỏi loài người, trí khôn người trở nên như trí loài vật. Người sống giữa các con lừa hoang và ăn cỏ như bò và thân bị dầm sương. Người ở trong trạng thái đó cho đến khi hiểu ra rằng: Thượng Đế Chí Cao cai trị mọi nước trên đất, và Ngài muốn đặt để ai cai trị các nước theo ý mình.
22 Tâu vua Bên-sát-xa, vua đã biết những chuyện ấy vì vua là con cháu [o] Nê-bu-cát-nết-xa nhưng vua không chịu khiêm nhường và hạ mình. 23 Trái lại vua đã chống nghịch CHÚA trên trời. Vua ra lệnh mang các ly chén lấy từ đền thờ của CHÚA đến cho vua. Rồi vua, các quan khách hoàng gia, các bà vợ và các hầu thiếp dùng để uống. Vua ca ngợi các thần bằng bạc, vàng, đồng, sắt, gỗ, và đá là những thần không phải là thần; chúng không thấy, không nghe, không hiểu biết gì cả. Vua không tôn trọng Thượng Đế là Đấng có quyền trên mạng sống và mọi hành động của vua. 24 Cho nên Thượng Đế đã sai bàn tay viết trên vách. 25 Những chữ viết trên vách như sau:
‘ mê-nê, mê-nê, tê-ken, và u-phác-xin.’
26 Ý nghĩa như sau:
Mê-nê [p]: Thượng Đế đã đếm các ngày cho đến điểm kết thúc của nước vua.
27 Tê-ken [q]: Vua được để trên cân và thấy quá nhẹ.
28 U-phác-xin [r]: Nước vua đang bị lấy đi và sẽ bị chia ra và trao cho người Mê-đi và người Ba-tư.”
29 Vua Bên-sát-xa liền ra lệnh mặc áo tím cho Đa-niên, mang vòng vàng vào cổ và tuyên bố rằng Đa-niên được thăng làm quan lớn thứ ba trong triều đình. 30 Đêm ấy Bên-sát-xa, vua Ba-by-lôn bị giết. 31 Đa-ri-út người Mê-đi lên ngôi vua lúc được sáu mươi hai tuổi.
Đa-niên trong hang sư tử
6 Vua Đa-ri-út nghĩ nên chọn một trăm hai mươi thống đốc để cai trị toàn vương quốc mình. 2 Vua chọn ba quan để giám sát các thống đốc, và Đa-niên là một trong ba quan đó. Nhiệm vụ của quan giám sát là để cho các thống đốc không lường gạt nhà vua. 3 Đa-niên chứng tỏ mình có thể làm hơn các quan giám sát và thống đốc cho nên vua dự định đề cử Đa-niên cai quản cả xứ. 4 Vì thế các quan giám sát và thống đốc kia tìm cách tố cáo Đa-niên trong công vụ nhưng họ không tìm được khuyết điểm hay lý do gì để tố cáo ông vì Đa-niên rất đáng tin, không lười biếng hay bất lương. 5 Sau cùng họ bảo nhau, “Chúng ta sẽ không bao giờ tìm được lý do gì để tố cáo Đa-niên ngoại trừ lý do liên quan đến luật lệ của Thượng Đế nó.”
6 Nên các quan giám sát và thống đốc họp nhau đi đến yết kiến vua và tâu: “Chúc vua Đa-ri-út vạn tuế! 7 Các quan giám sát, phụ tá thống đốc, các thống đốc, cố vấn vua, và sĩ quan chỉ huy quân đội đều đồng ý rằng vua nên ra một luật mới cho mọi người tuân theo: Trong vòng ba mươi ngày tới đây không ai được phép cầu nguyện cùng thần nào khác ngoài vua. Ai vi phạm sẽ bị ném vào hang sư tử. 8 Bây giờ xin vua ra luật đó và ký vào để không thể thay đổi được vì là luật của người Mê-đi và Ba-tư, không thể hủy bỏ.” 9 Thế là vua Đa-ri-út ký đạo luật ấy.
10 Sau khi Đa-niên biết rằng luật mới đã ký, ông vẫn lên lầu nhà mình cầu nguyện, các cửa sổ lầu mở về hướng Giê-ru-sa-lem. Mỗi ngày ba lần Đa-niên quì gối xuống cầu nguyện và cảm tạ Thượng Đế như vẫn làm từ trước.
11 Bọn đó thấy Đa-niên cầu nguyện xin Thượng Đế giúp đỡ. 12 Chúng liền đến trình với vua về luật mới mà vua ban hành. Chúng tâu, “Thưa vua, có phải vua ban hành luật qui định rằng không ai được phép cầu nguyện với thần hay người nào khác ngoài vua không? Có phải luật đó nói rằng trong ba mươi ngày sắp đến ai bất tuân sẽ bị ném vào hang sư tử không?”
Vua đáp, “Đúng, đó là luật của người Mê-đi và Ba-tư không thể hủy bỏ được.”
13 Bọn chúng liền tâu với vua, “Thưa vua, Đa-niên, một trong những tù binh Giu-đa, không thèm đếm xỉa đến vua hay luật vua đã ký. Nó vẫn cứ cầu nguyện cùng Thượng Đế mỗi ngày ba lần.” 14 Khi nghe vậy vua rất lấy làm bực dọc. Vua muốn cứu Đa-niên nên cố gắng cho đến chiều tối tìm mọi cách cứu ông.
15 Bọn chúng họp lại cùng đi gặp vua. Chúng bảo, “Xin vua nhớ cho rằng luật của người Mê-đi và Ba-tư qui định rằng một khi luật hay mệnh lệnh vua ban ra thì không thể thay đổi được.”
16 Nên vua Đa-ri-út buộc lòng ra lệnh bắt Đa-niên ném vào hang sư tử. Vua bảo Đa-niên, “Nguyện Thượng Đế mà ngươi hằng phục vụ giải cứu ngươi!” 17 Người ta lấy một tảng đá lớn chận miệng hang. Rồi vua đóng ấn và ấn của các sĩ quan hoàng gia trên tảng đá để không ai có thể dời tảng đá mà mang Đa-niên ra. 18 Sau đó vua Đa-ri-út trở về cung. Đêm đó vua không ăn cũng không cho ban nhạc đến giải trí. Vua cũng không ngủ được.
19 Sáng hôm sau vua Đa-ri-út dậy sớm vội vàng đi đến hang sư tử. 20 Khi đến gần hang, vua rất lo ngại. Vua kêu lớn cùng Đa-niên, “Đa-niên, tôi tớ của Thượng Đế hằng sống ơi! Thượng Đế mà ngươi luôn luôn thờ phụng có giải cứu ngươi khỏi sư tử không?”
21 Đa-niên đáp, “Vua vạn tuế! 22 Thượng Đế tôi đã sai thiên sứ Ngài bịt mồm sư tử cho nên chúng nó không làm hại tôi vì Ngài biết tôi vô tội. Thưa vua, tôi không có làm gì thiệt hại cho vua.”
23 Vua Đa-ri-út vô cùng mừng rỡ và ra lệnh cho các tôi tớ đưa Đa-niên ra khỏi hang. Họ mang ông ra khỏi hang và nhận thấy ông không bị thương tích gì vì Đa-niên tin cậy Thượng Đế mình.
24 Rồi vua liền truyền lệnh ném những kẻ đã tố cáo Đa-niên vào hang sư tử. Bọn đó, vợ con chúng đều bị ném vào hang. Trước khi chúng rơi đến đáy hang thì sư tử vồ lấy xé nát xương chúng.
25 Rồi Đa-ri-út viết một văn thư gởi các dân tộc, các quốc gia, các người nói mọi thứ ngôn ngữ trên thế giới:
“Ta chúc bình an và thịnh vượng cho các ngươi.
26 Ta nay ban hành một luật mới cho các dân sống trong vương quốc ta. Tất cả các ngươi phải kính sợ Thượng Đế của Đa-niên.
Thượng Đế của Đa-niên là Thượng Đế hằng sống;
Ngài sống mãi mãi.
Nước Ngài không bao giờ bị tiêu diệt,
quyền cai trị của Ngài không bao giờ chấm dứt.
27 Ngài giải cứu mọi dân và làm nhiều phép lạ
lớn lao trên trời và dưới đất.
Ngài là Đấng giải cứu Đa-niên
khỏi mãnh lực sư tử.”
28 Đa-niên được trọng vọng suốt triều đại Đa-ri-út và Xi-ru của Ba-tư.
Chiêm bao của Đa-niên về bốn con thú
7 Trong năm đầu tiên của triều đại Bên-sát-xa [s], vua Ba-by-lôn, Đa-niên nằm chiêm bao. Đang khi nằm trên giường ông thấy một dị tượng và ghi lại điều mình thấy.
2 Đa-niên thuật, “Ban đêm tôi thấy một dị tượng. Trong đó tôi thấy gió thổi từ bốn phía khiến biển động mạnh. 3 Tôi thấy bốn con thú khổng lồ từ dưới biển lên, không con nào giống con nào.
4 Con thú thứ nhất giống như sư tử nhưng có cánh như chim ưng. Tôi nhìn nó cho đến khi cánh nó bị rớt ra. Nó được nhấc bổng lên khỏi đất và đứng hai chân như người, rồi nó được ban cho trí óc con người.
5 Rồi tôi thấy con thú thứ hai đứng trước mặt tôi, trông giống như con gấu. Nó được dựng đứng một bên và trong miệng nó, giữa các răng có ba cái xương sườn. Có tiếng bảo nó, ‘Hãy ngồi dậy muốn ăn thịt bao nhiều mặc ý!’
6 Sau đó, tôi nhìn, trước mặt tôi có một con thú khác. Con nầy giống như con beo, có bốn cánh trên lưng như cánh chim. Nó có bốn đầu và được ban cho quyền cai trị.
7 Sau đó, trong dị tượng ban đêm tôi thấy con thú thứ tư trước mặt tôi. Nó trông hung hăng, dữ tợn, và dũng mãnh. Nó có răng bằng sắt rất to. Nó nghiền nát và ăn những gì nó giết được và dẫm lên trên vật gì còn lại. Con thú thứ tư nầy khác hẳn với mấy con thú mà tôi thấy trước, nó có mười sừng.
8 Trong khi tôi đang suy nghĩ về các sừng thì có một sừng khác mọc lên giữa các sừng trước. Sừng mới nầy nhỏ nhưng có con mắt giống mắt người. Nó cũng có miệng khoe khoang khoác lác. Sừng nhỏ đó nhổ ba cái sừng kia.
9 Đang khi tôi nhìn, thì thấy các ngôi
đặt nơi chúng nó đứng,
và Thượng Đế là Đấng Thượng Cổ [t],
ngồi trên ngôi Ngài.
Áo Ngài trắng như tuyết,
tóc trên đầu Ngài trắng như lông chiên.
Ngôi Ngài làm bằng lửa,
và các bánh xe của ngôi có lửa sáng rực.
10 Một dòng sông lửa chảy ra từ trước mặt Ngài.
Hàng ngàn thiên sứ phục vụ Ngài,
hàng triệu thiên sứ khác đứng trước mặt Ngài.
Phiên tòa sắp khai mạc, các sách đều mở ra.
11 Tôi mải nhìn vì cái sừng nhỏ đang khoe khoang. Tôi nhìn cho đến khi con thú thứ tư bị giết. Thân nó bị tiêu hủy và bị ném vào trong lửa cháy bừng. 12 Quyền thế của các con thú kia cũng bị tước đoạt khỏi chúng nhưng chúng được phép sống thêm một thời gian nữa.
13 Trong dị tượng ban đêm tôi thấy trước mặt tôi có ai giống như con người [u] đang từ trên mây đi xuống. Người đó đến gần Thượng Đế là Đấng Thượng Cổ, và được đưa đến cùng Thượng Đế. 14 Người được ban cho quyền thế, vinh hiển, và quyền lực của vua. Dân chúng từ các chi tộc, các quốc gia, các ngôn ngữ sẽ phục vụ người. Quyền cai trị của người sẽ còn đến mãi mãi, nước người không bao giờ bị tiêu diệt.
Ý nghĩa của chiêm bao
15 Tôi, Đa-niên, rất băn khoăn. Sự hiện thấy đi qua trí tôi khiến tôi lo sợ. 16 Tôi đến gần một trong những vị đứng đó và hỏi thăm về ý nghĩa của hiện tượng.
Người liền giải thích cho tôi như sau: 17 ‘Bốn con thú khổng lồ là bốn đế quốc cai trị trên đất. 18 Nhưng những người thánh thuộc về Thượng Đế Chí Cao sẽ nhận quyền cai trị và sẽ trị vì đời đời, từ nay về sau.’
19 Tuy nhiên tôi muốn biết con thú thứ tư có ý nghĩa gì vì nó không giống các con thú khác. Nó trông rất ghê sợ, có răng bằng sắt, móng bằng đồng. Nó là con thú nghiền và ăn những gì nó giết, rồi chà đạp lên những gì còn lại. 20 Tôi cũng muốn biết về mười cái sừng trên đầu nó và về cái sừng nhỏ mọc ở giữa. Sừng nhỏ đó nhổ ba cái sừng kia và trông oai nghi hơn các cái kia. Nó có mắt và miệng nói những lời huênh hoang. 21 Trong khi tôi đang nhìn thì cái sừng nhỏ bắt đầu gây chiến với dân thánh của Thượng Đế và thắng họ 22 cho tới khi Thượng Đế, Đấng sống đời đời đến. Ngài phân xử phần thắng về dân thánh thuộc về Thượng Đế Chí Cao; rồi đến lúc họ nhận quyền cai trị.
23 Người giải thích cho tôi như sau: ‘Con thú thứ tư là nước thứ tư sẽ đến trên đất. Nước nó không giống các nước khác và sẽ tiêu diệt dân cư khắp thế gian. Nó sẽ dẫm lên và chà đạp cả thế gian. 24 Mười cái sừng là mười vua sẽ đến sau nước thứ tư đó. Sau khi mười vua không còn nữa thì một vua khác sẽ đến. Vua nầy khác hẳn các vua cai trị trước mình, và người sẽ đánh bại ba trong số các vua kia. 25 Vua nầy sẽ nói phạm đến Thượng Đế Chí Cao. Người sẽ giết hại dân thánh của Thượng Đế và tìm cách thay đổi thời kỳ cùng luật lệ đã được qui định. Dân thánh thuộc về Thượng Đế sẽ ở dưới quyền vua đó trong ba năm rưỡi [v].
26 Nhưng toà án sẽ quyết định tình thế. Quyền của vua đó sẽ bị tước đoạt, và nước của người cũng hoàn toàn bị tiêu diệt. 27 Rồi dân thánh của Thượng Đế Chí Cao sẽ nhận quyền cai trị. Họ sẽ cai trị trên mọi nước dưới trời bằng quyền uy và oai nghi [w]. Quyền cai trị của họ sẽ còn đời đời. Dân chúng của các nước kia sẽ kính sợ và thần phục họ.’
28 Đến đó là kết thúc chiêm bao. Tôi, Đa-niên, rất lo sợ. Mặt tôi tái nhợt vì sợ, nhưng tôi giữ các điều ấy trong lòng tôi.”
Dị tượng của Đa-niên
8 Trong năm thứ ba triều đại Bên-sát-xa [x], tôi, Đa-niên thấy một hiện tượng khác [y], giống như hiện tượng trước. 2 Trong hiện tượng nầy tôi thấy mình ở trong khu vực lâu đài tại kinh đô Su-sơ [z], thuộc vùng Ê lam. Tôi đang đứng bên kênh đào U-lai. 3 Khi tôi nhìn lên thì thấy một con chiên đực đang đứng cạnh kênh đào. Nó có hai sừng dài, nhưng một sừng thì dài và mới hơn sừng kia. 4 Tôi nhìn con chiên húc sừng về phía Tây, Bắc, và Nam. Không có con thú nào chống lại nó được, và không có ai có thể cứu con thú nào khỏi nó được. Nó muốn làm gì thì làm và trở nên rất dũng mãnh.
5 Trong khi tôi đang nhìn thì thấy một con dê đực từ phương tây đến. Nó có một cái sừng lớn lồ lộ giữa hai mắt. Nó vượt qua khắp đất nhanh đến nỗi chân không chạm đất.
6 Nó hùng hổ húc con chiên có hai sừng mà tôi thấy đứng cạnh kênh đào. 7 Tôi nhìn con dê hùng hổ húc con chiên và bẻ gãy hai sừng của nó. Con chiên không đủ sức chống lại. Con dê húc con chiên té xuống đất rồi dẫm lên. Không ai cứu nổi con chiên khỏi con dê, 8 vì thế con dê trở nên dũng mãnh. Nhưng khi nó trở nên hùng mạnh thì cái sừng lớn của nó rớt ra, rồi bốn cái sừng khác mọc thế chỗ đó. Bốn cái sừng mới chĩa về bốn hướng.
9 Rồi có một cái sừng nhỏ mọc từ bốn cái sừng kia, và trở nên to lớn. Nó mọc về hướng Nam, Tây, và về hướng đất tươi đẹp của Giu-đa. 10 Cái sừng nhỏ tiếp tục mọc cho đến tận trời. Thậm chí cái sừng đó húc một số đạo quân trên trời [aa] xuống đất rồi dẫm lên trên. 11 Cái sừng nhỏ đó sẽ nâng mình lên bằng Thượng Đế, tổng tư lệnh của các đạo quân trên trời. Nó ngăn không cho người ta dâng của lễ hằng ngày cho Thượng Đế, còn đền thờ, nơi người ta thờ phụng Ngài thì bị giật sập xuống. 12 Vì người ta từ bỏ Thượng Đế cho nên họ không dâng của lễ hằng ngày nữa. Chân lý bị chà đạp xuống đất, và sừng đó làm việc gì cũng thành công.
13 Rồi tôi nghe một thiên sứ thánh nói. Có một thiên sứ khác hỏi thiên sứ thứ nhất như sau, “Những điều trong hiện tượng liên quan đến những của lễ hằng ngày, việc lìa bỏ Thượng Đế dẫn đưa đến việc hủy hoại, đền thờ bị giật sập, và đạo quân trên trời bị chà đạp sẽ kéo dài trong bao lâu?”
14 Thiên sứ nói với tôi, “Điều nầy sẽ xảy ra trong hai ngàn ba trăm buổi chiều và buổi mai. Sau đó nơi thánh sẽ được sửa chữa.”
Dị tượng được giải thích cho Đa-niên
15 Tôi, Đa-niên, nhìn thấy dị tượng nầy và cố gắng tìm hiểu ý nghĩa nó. Trong dị tượng đó tôi thấy có ai giống như một người đứng cạnh tôi. 16 Rồi tôi nghe có tiếng người gọi từ kênh U-lai: “Gáp-ri-ên ơi, hãy giải thích ý nghĩa của dị tượng cho người nầy.”
17 Gáp-ri-ên bước đến chỗ tôi đang đứng. Khi người đến gần thì tôi rất run sợ nên quì sấp mặt xuống đất. Nhưng Gáp-ri-ên nói với tôi, “Nầy con người! Dị tượng nầy nói về thời tận thế.”
18 Trong khi Gáp-ri-ên đang nói thì tôi úp mặt xuống đất mê man. Nhưng người đụng đến tôi và đỡ tôi dậy. 19 Người nói, “Bây giờ ta sẽ giải thích cho ngươi biết khi Thượng Đế nổi thịnh nộ thì sẽ ra sao. Hiện tượng ngươi thấy là về thời tận thế đã được ấn định.
20 Ngươi thấy con dê đực có hai sừng, đó là hai vua Mê-đi và Ba-tư. 21 Con dê đực là vua Hi-lạp, và cái sừng giữa hai mắt là vua thứ nhất. 22 Bốn cái sừng mọc vào chỗ cái sừng bị gãy là bốn nước. Bốn nước đó xuất xứ từ nước của vua thứ nhất nhưng họ sẽ không mạnh bằng vua thứ nhất.
23 Khi đến thời kỳ cuối cùng của các nước đó thì một vị vua hùng mạnh và hung tợn, chuyên nói dối sẽ đến. Việc nầy xảy ra khi nhiều người chống nghịch Thượng Đế. 24 Vua nầy sẽ rất hùng mạnh nhưng không phải tự mình có quyền gì [ab]. Người sẽ gây thảm họa. Việc gì người làm cũng thành công. Người sẽ tiêu diệt những kẻ hùng mạnh, thậm chí tiêu diệt cả dân thánh của Thượng Đế nữa. 25 Vua nầy sẽ thành công nhờ dối trá và sức mạnh. Người sẽ tự cao tự đại và bất chợt giết hại nhiều người; người tìm cách chiến đấu với thống lãnh của các thống lãnh! Nhưng vua hung ác đó sẽ bị tiêu diệt, nhưng không phải do quyền lực của loài người.
26 Hiện tượng mà ngươi thấy về buổi chiều và buổi mai là thật. Nhưng hãy niêm phong dị tượng ấy vì còn lâu những điều đó mới xảy ra.”
27 Tôi, Đa-niên, cảm thấy bủn rủn và đau ốm trong nhiều ngày sau khi thấy dị tượng đó. Rồi tôi đứng dậy phục vụ vua nhưng tôi rất bực bội về dị tượng ấy vì tôi không hiểu nó có ý nghĩa gì.
© 2010 Bible League International