Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Ê-xê-chi-ên 47:13 - Ða-ni-ên 8:27

Biên Giới Mới của Xứ Thánh

13 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Ðây là những đường biên giới của xứ mà các ngươi sẽ chia nhau để nhận làm sản nghiệp cho mười hai chi tộc I-sơ-ra-ên, với hai phần cho Giô-sép. 14 Các ngươi sẽ thừa hưởng xứ với nhau. Số là Ta đã đưa tay lên thề với tổ tiên các ngươi để ban nó cho các ngươi; bây giờ xứ ấy sẽ là sản nghiệp của các ngươi. 15 Ðây là các đường biên giới của xứ:

Về phía bắc, từ bờ Ðịa Trung Hải chạy dọc theo đường về hướng Hết-lôn, rồi đi qua Lê-bô Ha-mát đến Xê-đát, 16 Bê-rô-tha, Síp-ra-im, địa danh nằm giữa biên giới của Ða-mách và Ha-mát, và tiếp tục đến Ha-xa Ha-ti-côn, địa danh nằm ở ranh giới của Hau-ran. 17 Như vậy biên giới phía bắc bắt đầu từ Biển chạy đến Ha-xa Ê-nan, nằm về phía bắc biên giới của Ða-mách, với biên giới của Ha-mát ở phía bắc. Ðó sẽ là biên giới ở phía bắc.

18 Về biên giới phía đông, các ngươi sẽ bắt đầu từ ranh giới giữa Hau-ran và Ða-mách, rồi chạy dọc theo Sông Giô-đanh, qua giữa vùng Ghi-lê-át và lãnh thổ của I-sơ-ra-ên cho đến bờ phía đông của Biển Chết và tiếp tục về hướng nam đến Ta-ma. Ðó sẽ là biên giới ở phía đông.

19 Về biên giới phía nam, nó sẽ bắt đầu từ Ta-ma đi về các nguồn nước ở Mê-ri-ba trong vùng Ca-đe, rồi từ đó tiếp tục đi dọc theo Suối Ai-cập ra đến Ðịa Trung Hải. Ðó sẽ là biên giới ở phía nam.

20 Về biên giới phía tây, Ðịa Trung Hải sẽ là biên giới. Nó bắt đầu từ địa điểm nơi bờ biển của biên giới phía nam cho đến địa điểm nơi bờ biển của biên giới phía bắc, nơi đối ngang với Lê-bô Ha-mát. Ðó sẽ là biên giới ở phía tây.

21 Các ngươi sẽ chia xứ đó cho các chi tộc của I-sơ-ra-ên. 22 Các ngươi hãy bắt thăm mà chia sản nghiệp cho nhau và cho những người ngoại quốc đã định cư sống giữa các ngươi, tức cho những người đã sinh con đẻ cái sống giữa các ngươi. Các ngươi phải đối xử với những người ấy như những người cùng bổn quốc giữa dân I-sơ-ra-ên. Chúng sẽ được hưởng sản nghiệp chung với các ngươi giữa các chi tộc của I-sơ-ra-ên. 23 Những người ngoại quốc ấy sống giữa chi tộc nào, các ngươi phải chia cho chúng phần sản nghiệp giữa chi tộc ấy,” Chúa Hằng Hữu phán.

Phần Ðất của Các Chi Tộc

48 “Ðây là tên các chi tộc và phần đất của chúng: Từ địa đầu biên giới ở phía bắc, phần đất nằm dọc theo con đường đến Hết-lôn, từ Lê-bô Ha-mát cho đến Ha-xa Ê-nan, nằm nơi biên giới của Ða-mách với Ha-mát ở về phía bắc, chạy dài từ đông sang tây, đó là phần của Ðan. Phần của A-se sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Ðan và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. Phần của Náp-ta-li sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của A-se và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. Phần của Ma-na-se sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Náp-ta-li và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. Phần của Ép-ra-im sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Ma-na-se và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. Phần của Ru-bên sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Ép-ra-im và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. Phần của Giu-đa sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Ru-bên và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây.

Phía nam lãnh thổ của Giu-đa, từ đông sang tây, sẽ là khu vực các ngươi biệt riêng ra thánh, chiều rộng sẽ là mười bốn ký-lô mét rưỡi,[a] còn chiều dài từ đông sang tây sẽ bằng chiều dài ranh giới của các chi tộc giáp giới, còn đền thánh sẽ nằm ở trung tâm. Khu vực đặc biệt các ngươi biệt riêng ra cho Chúa sẽ dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[b] và rộng gần sáu ký-lô mét.[c] 10 Ðây là khu vực thánh, dành cho các tư tế ở. Phía bắc dài mười bốn ký-lô mét rưỡi,[d] phía tây rộng gần sáu ký-lô mét,[e] phía đông rộng gần sáu ký-lô mét,[f] và phía nam dài mười bốn ký-lô mét rưỡi.[g] Khu đền thánh của Chúa nằm ở trung tâm. 11 Ðây sẽ là phần dành cho các tư tế thuộc dòng dõi của Xa-đốc, những kẻ đã được biệt riêng ra thánh, những kẻ đã trung thành vâng giữ trách nhiệm Ta giao phó, chúng đã không lìa bỏ Ta để đi sai lạc như người Lê-vi đã làm khi dân I-sơ-ra-ên lìa bỏ Ta mà đi sai lạc. 12 Ðó sẽ là phần đặc biệt được ban cho chúng trong khu vực thánh, trong phần đất cực thánh của cả nước. Phần đất của chúng sẽ giáp giới với lãnh thổ của người Lê-vi. 13 Dọc theo lãnh thổ của các tư tế, người Lê-vi sẽ có một phần dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[h] và rộng gần sáu ký-lô mét.[i] Toàn thể phần đất dành cho chúng sẽ dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[j] và rộng gần sáu ký-lô mét.[k] 14 Chúng sẽ không được bán hoặc trao đổi hoặc chuyển nhượng phần đất cực kỳ quý báu đó, vì nó đã thành đất thánh thuộc về Chúa.

15 Phần còn lại với chiều rộng gần ba ký-lô mét[l] và chiều dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[m] sẽ được dùng vào việc công của thành phố, như các dinh thự và các công viên. Kinh thành sẽ tọa lạc ở trung tâm. 16 Ðây sẽ là địa phận của kinh thành: phía bắc hai ký-lô mét sáu,[n] phía nam hai ký-lô mét sáu,[o] phía đông hai ký-lô mét sáu,[p] và phía tây hai ký-lô mét sáu.[q] 17 Vùng đất trống làm công viên chung quanh kinh thành, phía bắc rộng một trăm bốn mươi lăm mét,[r] phía nam rộng một trăm bốn mươi lăm mét,[s] phía đông rộng một trăm bốn mươi lăm mét,[t] phía tây rộng một trăm bốn mươi lăm mét.[u] 18 Phần đất còn lại, giáp giới với khu vực thánh, dọc theo chiều dài của vùng đất thánh, dài gần sáu ký-lô mét[v] phía đông và gần sáu ký-lô mét[w] phía tây. Vùng đất đó sẽ được dùng làm ruộng rẫy để cung cấp lương thực cho những người làm việc trong kinh thành. 19 Những người từ mọi chi tộc của I-sơ-ra-ên đến làm việc tại kinh thành sẽ canh tác đất ấy. 20 Toàn thể vùng ấy có hình vuông, mười bốn ký-lô mét rưỡi[x] chiều ngang và mười bốn ký-lô mét rưỡi[y] chiều dọc, trong đó bao gồm khu vực thánh và khu vực kinh thành.

21 Phần đất còn lại ở hai bên, ngoại trừ khu vực thánh và khu vực kinh thành, sẽ thuộc về người cầm quyền trong nước. Bên phía đông sẽ dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[z] kể từ ranh giới của khu vực thánh chạy về hướng đông cho đến ranh giới của chi tộc kế cận. Bên phía tây sẽ dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[aa] kể từ ranh giới của khu vực thánh chạy về hướng tây cho đến ranh giới của chi tộc kế cận. Ðó là hai phần đất thuộc về người cầm quyền trong nước, với khu vực thánh và khu đền thánh ở chính giữa. 22 Như vậy phần đất của người Lê-vi và của kinh thành nằm giữa hai phần đất thuộc về người cầm quyền trong nước. Phần đất của người cầm quyền trong nước sẽ nằm giữa lãnh thổ của Giu-đa và lãnh thổ của Bên-gia-min.

23 Về các chi tộc còn lại: Phần của Bên-gia-min sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của người cầm quyền trong nước và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. 24 Phần của Si-mê-ôn sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Bên-gia-min và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. 25 Phần của I-sa-ca sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Si-mê-ôn và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. 26 Phần của Xê-bu-lun sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của I-sa-ca và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. 27 Phần của Gát sẽ nằm về phía nam lãnh thổ của Xê-bu-lun và chạy dọc theo ranh giới ấy từ đông sang tây. 28 Ranh giới phía nam của Gát sẽ là biên giới ở miền nam. Biên giới ấy chạy từ Ta-ma đến các nguồn nước ở Mê-ri-ba trong vùng Ca-đe, rồi từ đó tiếp tục chạy dọc theo Suối Ai-cập ra đến Ðịa Trung Hải. 29 Ðó là xứ sở các ngươi sẽ bắt thăm chia nhau làm sản nghiệp cho các chi tộc của I-sơ-ra-ên, và đó sẽ là các phần của chúng,” Chúa Hằng Hữu phán.

Các Cổng của Kinh Thành

30 “Ðây là các cổng ra vào của kinh thành: Về phía bắc, tường thành dài hai ký-lô mét sáu[ab] 31 –các cổng của thành sẽ được đặt tên theo tên các chi tộc của I-sơ-ra-ên– ba cổng ở phía bắc: Cổng Ru-bên, Cổng Giu-đa, và Cổng Lê-vi. 32 Về phía đông, tường thành dài hai ký-lô mét sáu,[ac] với ba cổng: Cổng Giô-sép, Cổng Bên-gia-min, và Cổng Ðan. 33 Về phía nam, tường thành dài hai ký-lô mét sáu,[ad] với ba cổng: Cổng Si-mê-ôn, Cổng I-sa-ca, và Cổng Xê-bu-lun. 34 Về phía tây, tường thành dài hai ký-lô mét sáu,[ae] với ba cổng: Cổng Gát, Cổng A-se, và Cổng Náp-ta-li.

35 Chu vi của thành gần mười ký-lô mét rưỡi.[af] Tên của thành từ ngày đó trở đi sẽ là ‘Chúa Ở Ðó.’”

Bốn Thanh Niên I-sơ-ra-ên tại Kinh Ðô Ba-by-lôn

Năm thứ ba của triều đại Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa, Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn đến Giê-ru-sa-lem và bao vây thành ấy. Chúa phó Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa và một số vật dụng trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời vào tay ông ấy. Ông đem các vật dụng ấy về xứ Si-na và để các vật dụng ấy trong kho của đền thờ các thần của ông.

Bấy giờ vua truyền cho Ách-pê-na quan chỉ huy các thái giám chọn trong hoàng tộc và hàng quý tộc của người I-sơ-ra-ên và đem đến một số thanh niên, những người không tật nguyền, khôi ngô tuấn tú, có năng khiếu học mọi ngành, trí tuệ minh mẫn, thông minh sáng suốt, và có khả năng phục vụ nơi triều đình, để dạy họ ngôn ngữ và văn chương của người Canh-đê.

Vua truyền nuôi họ hằng ngày bằng các thức ăn giống như trong thực đơn vua ăn và uống cùng thứ rượu vua uống. Họ phải được huấn luyện trong ba năm. Cuối ba năm đó họ sẽ được đứng hầu vua trong triều đình.

Trong số những thanh niên ở Giu-đa có Ða-ni-ên, Ha-na-ni-a, Mi-sa-ên, và A-xa-ri-a. Quan chỉ huy các thái giám đặt cho họ các tên mới. Ông đặt tên cho Ða-ni-ên là Bên-tê-sác-xa, cho Ha-na-ni-a là Sa-đơ-rắc, cho Mi-sa-ên là Mê-sách, và cho A-xa-ri-a là A-bết-nê-gô. Nhưng Ða-ni-ên quyết định trong lòng rằng chàng sẽ không để cho mình bị ô uế vì các thức ăn vua ban và các loại rượu vua uống; vì thế chàng xin quan chỉ huy các thái giám cho chàng được khỏi làm cho mình bị ô uế qua việc ăn uống các thức đó. Bấy giờ Ðức Chúa Trời cho Ða-ni-ên được ơn và được thương mến trước mặt vị quan chỉ huy các thái giám. 10 Tuy nhiên vị quan chỉ huy các thái giám nói với Ða-ni-ên, “Ta sợ vua, chúa thượng của ta, đã chỉ định ta chăm sóc việc ăn uống của các ngươi. Lẽ nào vua sẽ thấy mặt mày các ngươi tiều tụy hơn những người trẻ cùng trang lứa với các ngươi sao? Ta không muốn bị mất đầu vì các ngươi.”

11 Vậy Ða-ni-ên nói với người giám thị do quan chỉ huy các thái giám chỉ định để trông coi Ða-ni-ên, Ha-na-ni-a, Mi-sa-ên, và A-xa-ri-a, 12 “Xin ngài cho thử các tôi tớ ngài mười ngày. Xin ngài truyền họ cho phép các tôi tớ ngài chỉ ăn rau và uống nước. 13 Sau đó xin ngài xem mặt mày chúng tôi và mặt mày các bạn trẻ đã ăn uống thực phẩm của vua ban, rồi xin ngài quyết định theo những gì ngài thấy.”

14 Người ấy đồng ý như thế và cho thử họ trong mười ngày. 15 Cuối mười ngày, mặt mày họ trông hồng hào và đầy đặn hơn tất cả những người trẻ đã ăn uống thực phẩm của vua ban. 16 Vậy người giám thị ấy cất đi phần thức ăn và phần rượu họ sẽ uống và thay thế vào đó bằng rau. 17 Ðức Chúa Trời ban cho bốn thanh niên đó tri thức và thông sáng trong mọi lãnh vực văn chương và khoa học. Ða-ni-ên được ban cho khả năng thấu hiểu mọi khải tượng và giấc mơ.

18 Khi đến thời hạn vua đã định đem các thanh niên ấy ra trình diện, quan chỉ huy các thái giám đem họ ra trình diện Nê-bu-cát-nê-xa. 19 Vua nói chuyện với họ, và ông thấy chẳng ai có thể sánh bằng Ða-ni-ên, Ha-na-ni-a, Mi-sa-ên, và A-xa-ri-a; vì thế họ được phục vụ trước mặt vua. 20 Mỗi khi vua cần hỏi họ về bất cứ điều gì liên quan đến khôn ngoan và thông sáng, ông thấy họ giỏi gấp mười lần so với tất cả các pháp sư và các bốc sư trong toàn đế quốc. 21 Vậy Ða-ni-ên cứ ở đó cho đến năm đầu của triều đại Vua Ða-ri-út.

Ðiềm Chiêm Bao của Vua Nê-bu-cát-nê-xa

Trong năm thứ nhì của triều đại Nê-bu-cát-nê-xa, Nê-bu-cát-nê-xa nằm mơ và thấy các điềm chiêm bao. Các điềm chiêm bao ấy đã làm cho tâm thần vua rối loạn, và vua bị mất ngủ. Vì thế vua truyền triệu tập các pháp sư, các bốc sư, các phù thủy, và các chiêm tinh gia đến để giải nghĩa điềm chiêm bao cho vua. Vậy những người ấy đến và đứng chầu trước mặt vua. Vua phán với họ, “Ta đã thấy một điềm chiêm bao, và tâm thần ta bối rối vì muốn biết ý nghĩa của điềm chiêm bao ấy.”

Các chiêm tinh gia tâu với vua bằng tiếng A-ram, “Tâu hoàng thượng, kính chúc hoàng thượng sống vạn tuế. Xin hoàng thượng kể lại cho chúng thần điềm chiêm bao hoàng thượng đã thấy, chúng thần sẽ giải thích ý nghĩa của nó cho hoàng thượng.”

Vua trả lời với các chiêm tinh gia, “Ðây là quyết định của ta: nếu các ngươi không nói cho ta biết trong giấc chiêm bao ta đã thấy gì và giải nghĩa điềm chiêm bao ấy cho ta, ta sẽ phân thây các ngươi ra từng mảnh và nhà các ngươi sẽ thành một đống đổ nát hoang tàn. Còn nếu các ngươi nói cho ta biết ta đã nằm chiêm bao và thấy gì, rồi giải thích ý nghĩa của nó cho ta, thì các ngươi sẽ được ban thưởng các tặng vật, các phần thưởng, và quyền cao chức trọng. Vậy hãy nói cho ta biết ta đã nằm chiêm bao và thấy gì, rồi giải thích ý nghĩa của nó cho ta.”

Họ tâu lại với vua, “Xin hoàng thượng nói cho các tôi tớ của hoàng thượng biết hoàng thượng đã thấy gì trong điềm chiêm bao ấy, rồi chúng thần sẽ giải thích ý nghĩa của nó cho hoàng thượng.”

Bấy giờ vua nói, “Ta biết các ngươi chỉ muốn kéo dài thời gian thôi, vì các ngươi đã nhận thấy lệnh đã ra khỏi miệng ta rồi. Nếu các ngươi không nói cho ta biết điềm chiêm bao ta đã thấy là gì, thì sẽ chỉ có một lệnh dành cho các ngươi mà thôi. Lâu nay các ngươi đã âm mưu với nhau và dùng những lời dối trá để gạt ta, với hy vọng rằng thời gian sẽ làm cho tình thế thay đổi. Vậy bây giờ hãy nói cho ta biết điềm chiêm bao ta đã thấy là gì; bấy giờ ta sẽ biết các ngươi có thể giải thích ý nghĩa của nó hay không.”

10 Các chiêm tinh gia tâu với vua, “Không người nào trên thế gian nầy có thể bày tỏ cho hoàng thượng điều hoàng thượng đòi hỏi. Thật vậy, xưa nay chưa hề có vua, chúa, hay lãnh tụ nào đòi hỏi bất cứ pháp sư, bốc sư, hay chiêm tinh gia nào của họ những điều như thế. 11 Những gì hoàng thượng đòi hỏi thật khó quá. Không ai có thể bày tỏ cho hoàng thượng được điều đó, ngoại trừ các thần, những đấng không ở giữa người phàm.”

12 Ðiều đó làm cho vua tức giận và nổi trận lôi đình; vua truyền lịnh xử tử tất cả các nhà thông thái ở Ba-by-lôn. 13 Thế là lịnh được truyền ra, và người ta bắt đầu đi bắt giết các nhà thông thái. Họ cũng đi tìm Ða-ni-ên và các bạn ông để giết họ. 14 Bấy giờ Ða-ni-ên nói một cách khôn ngoan và sáng suốt với A-ri-ốt quan phụ trách việc hành quyết, người đã ra đi để thi hành lệnh giết các nhà thông thái ở Ba-by-lôn. 15 Ông nói và hỏi A-ri-ốt, vị quan do vua sai đến, “Tại sao lệnh vua ban ra buộc phải thi hành cấp bách như vậy?” Bấy giờ A-ri-ốt mới kể sự việc cho Ða-ni-ên hay. 16 Vì thế Ða-ni-ên xin vào chầu vua và xin vua gia hạn cho một thời gian để ông giải đoán ý nghĩa điềm chiêm bao cho vua.

Ðức Chúa Trời Tỏ Cho Ða-ni-ên Biết Ðiềm Chiêm Bao

17 Sau đó Ða-ni-ên về nhà và trình bày sự việc cho các bạn ông là Ha-na-ni-a, Mi-sa-ên, và A-xa-ri-a. 18 Ông giục họ hãy khẩn thiết cầu xin ơn thương xót của Ðức Chúa Trời trên trời về bí mật nầy, để Ða-ni-ên và các bạn ông không bị giết chung với các nhà thông thái khác của Ba-by-lôn. 19 Vậy bí mật ấy đã được mặc khải cho Ða-ni-ên qua một khải tượng trong ban đêm. Do đó Ða-ni-ên ca ngợi Ðức Chúa Trời trên trời 20 và nói, “Chúc tụng danh Ðức Chúa Trời đời đời vô cùng, vì sự khôn ngoan và quyền năng đều thuộc về Ngài. 21 Ngài thay đổi thời tiết và mùa; Ngài phế và lập các vua; Ngài ban khôn ngoan cho những người khôn sáng và ban kiến thức cho những người trí thức. 22 Ngài mặc khải những việc sâu nhiệm và bí mật. Ngài biết rõ những gì ở trong tối tăm, và ánh sáng hằng ở với Ngài. 23 Lạy Ðức Chúa Trời của tổ tiên chúng con, con xin cảm tạ Ngài và tôn ngợi Ngài. Ngài đã ban cho con khôn ngoan và năng lực, và bây giờ Ngài lại bày tỏ cho con những điều chúng con cầu xin Ngài, vì Ngài quả đã cho chúng con biết những gì nhà vua đòi hỏi.”

Ða-ni-ên Giải Nghĩa Chiêm Bao

24 Vậy Ða-ni-ên đến gặp A-ri-ốt, vị quan được vua chỉ định thi hành lệnh hành quyết các nhà thông thái của Ba-by-lôn, và nói với ông ấy, “Xin ngài đừng giết các nhà thông thái của Ba-by-lôn. Xin ngài đưa tôi vào gặp vua. Tôi sẽ giải nghĩa điềm chiêm bao cho vua.”

25 A-ri-ốt lập tức đưa Ða-ni-ên vào chầu vua và nói, “Hạ thần đã tìm được một người trong đám người bị lưu đày từ Giu-đa; người ấy có thể giải thích ý nghĩa của điềm chiêm bao cho chúa thượng.”

26 Vua hỏi Ða-ni-ên cũng có tên là Bên-tê-sác-xa, “Ngươi có thể nói cho ta biết những gì ta đã thấy trong giấc chiêm bao và giải thích ý nghĩa của nó hay sao?”

27 Ða-ni-ên trả lời với vua, “Không nhà thông thái nào, bốc sư nào, pháp sư nào, hoặc thầy bói nào có thể bày tỏ cho hoàng thượng biết bí mật hoàng thượng đã hỏi, 28 nhưng có một Ðức Chúa Trời trên trời, Ðấng mặc khải các bí mật. Ngài đã bày tỏ cho Vua Nê-bu-cát-nê-xa biết những gì sẽ xảy đến trong những ngày tới. Ðiềm chiêm bao của hoàng thượng và các khải tượng hiện ra trong đầu hoàng thượng khi hoàng thượng nằm trên giường là thế nầy:

29 Tâu hoàng thượng, khi hoàng thượng nằm trên giường, tâm trí của hoàng thượng suy nghĩ đến những việc sẽ xảy ra sau nầy. Ðấng bày tỏ những huyền bí đã bày tỏ cho hoàng thượng biết những gì sẽ xảy đến về sau. 30 Về phần hạ thần, huyền bí nầy được mặc khải cho hạ thần không phải vì hạ thần thông minh khôn sáng hơn người nào trên đời nầy, nhưng vì để hạ thần có thể giải nghĩa cho hoàng thượng, hầu hoàng thượng có thể hiểu rõ những suy nghĩ trong lòng mình.

31 Tâu hoàng thượng, khi hoàng thượng đang nhìn, kìa, một pho tượng to lớn xuất hiện. Pho tượng rực rỡ và uy nghi ấy đứng trước mặt hoàng thượng. Hình dáng của pho tượng ấy thật kinh khiếp. 32 Ðầu của pho tượng làm bằng vàng ròng, ngực và hai tay bằng bạc, bụng và hai đùi bằng đồng, 33 và hai chân bằng sắt. Hai bàn chân làm bằng một phần sắt và một phần đất sét. 34 Trong khi hoàng thượng nhìn nó, một tảng đá không do bàn tay loài người đục ra đã tông vào pho tượng ấy ngay chỗ hai bàn chân làm bằng sắt và đất sét, khiến pho tượng ấy vỡ nát thành những mảnh vụn. 35 Sau đó đất sét, sắt, đồng, bạc, và vàng đều rã vụn ra như bụi trấu nơi sân đập lúa mùa hè. Gió thổi chúng bay đi tất cả, không chừa lại một vết tích nào. Còn vầng đá đã tông vào pho tượng thì biến thành một núi lớn tràn đầy khắp mặt đất. 36 Ðó là điềm chiêm bao, và bây giờ chúng thần xin giải thích ý nghĩa của điềm chiêm bao ấy cho hoàng thượng.

37 Tâu hoàng thượng, hoàng thượng là vua của các vua. Ðức Chúa Trời trên trời đã ban cho hoàng thượng vương quốc, quyền thế, sức mạnh, và vinh hiển. 38 Ngài đã trao vào tay hoàng thượng loài người, thú đồng, và chim trời, bất kể chúng ở đâu, để lập hoàng thượng trị vì trên tất cả. Hoàng thượng là cái đầu bằng vàng. 39 Sau hoàng thượng, một vương quốc khác sẽ trỗi lên, thấp kém hơn vương quốc của hoàng thượng. Kế đó là một vương quốc nữa, vương quốc thứ ba làm bằng đồng; vương quốc ấy sẽ trị vì trên khắp mặt đất. 40 Tiếp theo là vương quốc thứ tư, nó cứng như sắt, vì sắt làm bể vụn và tan nát mọi thứ. Giống như sắt, vương quốc ấy sẽ đập đổ và nghiền nát mọi vương quốc khác. 41 Tuy nhiên như hoàng thượng đã thấy hai bàn chân và các ngón chân, một phần làm bằng đất sét và một phần làm bằng sắt, vương quốc ấy sẽ gồm hai phần tử không hòa hợp với nhau; một ít sức mạnh của sắt vẫn ở trong đó, giống như hoàng thượng đã thấy sắt lẫn lộn với đất sét. 42 Giống như các ngón chân của hai bàn chân, một phần làm bằng sắt và một phần làm bằng đất sét; vương quốc ấy sẽ gồm một phần cứng mạnh và một phần yếu dòn. 43 Như hoàng thượng đã thấy sắt trộn lẫn với đất sét nung, dân trong vương quốc ấy sẽ là một tập thể hỗn hợp nhưng không đoàn kết với nhau, cũng giống như sắt không hòa hợp với đất sét vậy.

44 Trong thời các vua đó, Ðức Chúa Trời trên trời sẽ lập nên một vương quốc không bao giờ bị hủy diệt, và không ai sẽ được nắm quyền của vương quốc ấy. Vương quốc ấy sẽ nghiền nát và diệt trừ tất cả các vương quốc khác; còn nó sẽ cứ đứng vững đời đời. 45 Giống như hoàng thượng đã thấy, vầng đá được đục ra từ hòn núi nhưng không phải do tay loài người đục ra, vầng đá ấy sẽ đập nát sắt, đồng, đất sét, bạc, và vàng thành những mảnh vụn. Ðức Chúa Trời vĩ đại trên trời đã bày tỏ cho hoàng thượng những gì sẽ xảy đến về sau nầy. Ðiềm chiêm bao của hoàng thượng đã thấy là thật, và ý nghĩa của nó là chắc chắn.”

Ða-ni-ên và Các Bạn Ông Ðược Thăng Thưởng

46 Bấy giờ Vua Nê-bu-cát-nê-xa sấp mình xuống trước mặt Ða-ni-ên và lạy ông. Vua truyền dâng một của lễ chay và dâng hương cho ông. 47 Vua nói với Ða-ni-ên, “Quả thật, Ðức Chúa Trời của ngươi đúng là Ðức Chúa Trời của các thần, Chúa của các vua, và Ðấng mặc khải những huyền bí, vì ngươi đã có thể bày tỏ huyền bí nầy.”

48 Vua thăng chức cho Ða-ni-ên và ban cho ông nhiều món quà lớn. Vua lập ông làm quan cai trị cả tỉnh Ba-by-lôn và làm lãnh tụ tất cả các nhà thông thái của Ba-by-lôn. 49 Ngoài ra theo lời tiến cử của Ða-ni-ên, vua bổ nhiệm Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô làm các quan điều hành trong tỉnh Ba-by-lôn, trong khi Ða-ni-ên phục vụ trong triều đình.

Pho Tượng Bằng Vàng

Vua Nê-bu-cát-nê-xa cho làm một pho tượng bằng vàng, cao ba mươi mét và rộng ba mét.[ag] Ông dựng pho tượng ấy lên trong đồng bằng Ðu-ra, trong tỉnh Ba-by-lôn. Vua Nê-bu-cát-nê-xa truyền triệu tập các thống đốc, các tỉnh trưởng, các tổng trấn, các mưu sĩ, các tổng giám đốc ngân khố, các thẩm phán, các chánh án, và tất cả các quan chức trong các tỉnh đến để dự lễ khánh thành pho tượng Vua Nê-bu-cát-nê-xa đã dựng lên.

Vậy các thống đốc, các tỉnh trưởng, các tổng trấn, các mưu sĩ, các tổng giám đốc ngân khố, các thẩm phán, các chánh án, và tất cả các quan chức trong các tỉnh đều tề tựu đông đủ để tham dự lễ khánh thành pho tượng Vua Nê-bu-cát-nê-xa đã dựng lên, và họ đều đứng trước pho tượng Nê-bu-cát-nê-xa đã dựng lên. Bấy giờ vị quan điều khiển buổi lễ hô to, “Ðây là lịnh truyền cho các ngươi phải làm, hỡi tất cả các dân, các nước, và các ngữ tộc: Hễ khi nào các ngươi nghe tiếng kèn, tiếng sáo, tiếng hạc cầm, tiếng đàn lia, tiếng trống, và mọi thứ nhạc khí khác cùng trỗi lên, các ngươi phải sấp mình xuống và thờ lạy pho tượng vàng Vua Nê-bu-cát-nê-xa đã dựng lên. Kẻ nào không sấp mình xuống thờ lạy pho tượng vàng sẽ lập tức bị quăng vào giữa lò lửa hừng.”

Vì thế khi mọi người nghe tiếng kèn, tiếng sáo, tiếng hạc cầm, tiếng đàn lia, cùng với mọi thứ nhạc khí khác trỗi lên, mọi dân, mọi nước, và mọi ngữ tộc có mặt lúc đó đều sấp mình xuống và thờ lạy pho tượng vàng Vua Nê-bu-cát-nê-xa đã dựng lên.

Khi ấy có mấy chiêm tinh gia người Canh-đê bước đến tố cáo những người Giu-đa. Họ tâu với Vua Nê-bu-cát-nê-xa, “Tâu hoàng thượng, chúc hoàng thượng sống vạn tuế. 10 Tâu hoàng thượng, hoàng thượng đã ban một sắc lịnh rằng bất cứ người nào khi nghe tiếng kèn, tiếng sáo, tiếng hạc cầm, tiếng đàn lia, tiếng trống, và mọi thứ nhạc khí khác cùng trỗi lên thì phải sấp mình xuống và thờ lạy pho tượng vàng. 11 Còn kẻ nào không sấp mình xuống thờ lạy pho tượng ấy sẽ lập tức bị quăng vào giữa lò lửa hừng. 12 Thế nhưng có mấy người Giu-đa hoàng thượng đã lập lên làm quan điều hành công việc trong tỉnh Ba-by-lôn là Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô, tâu hoàng thượng, mấy người ấy chẳng coi lịnh của hoàng thượng ra gì. Họ chẳng phục vụ các thần của hoàng thượng hay thờ lạy pho tượng vàng hoàng thượng đã dựng lên.”

13 Bấy giờ Nê-bu-cát-nê-xa đùng đùng nổi giận. Ông truyền đem Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô đến ngay. Vậy họ dẫn những người ấy đến trước mặt vua. 14 Nê-bu-cát-nê-xa hỏi họ, “Hỡi Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô, có thật là các ngươi không phục vụ các thần của ta, hay không thờ lạy pho tượng vàng ta đã dựng lên chăng? 15 Bây giờ các ngươi khá sẵn sàng, hễ khi các ngươi nghe tiếng kèn, tiếng sáo, tiếng hạc cầm, tiếng đàn lia, tiếng trống, và mọi thứ nhạc khí khác cùng trỗi lên, nếu các ngươi sấp mình xuống và thờ lạy pho tượng vàng ta đã làm thì tốt. Nhưng nếu các ngươi không thờ lạy, các ngươi sẽ lập tức bị quăng vào giữa lò lửa hừng. Rồi để xem thần nào có thể cứu các ngươi khỏi tay ta chăng?”

16 Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô trả lời với vua, “Tâu Vua Nê-bu-cát-nê-xa, về việc nầy chúng thần không cần phải binh vực cho chúng thần trước mặt hoàng thượng đâu. 17 Nếu hoàng thượng nhất định quăng chúng thần vào giữa lò lửa hừng thì Ðức Chúa Trời chúng thần thờ phượng sẽ giải cứu chúng thần khỏi lò lửa ấy, và Ngài sẽ giải cứu chúng thần khỏi tay hoàng thượng, tâu hoàng thượng. 18 Nhưng nếu Ngài không giải cứu chúng thần, thì tâu hoàng thượng, chúng thần xin hoàng thượng biết rằng chúng thần sẽ không phục vụ các thần của hoàng thượng hay thờ lạy pho tượng vàng mà hoàng thượng đã dựng lên đâu.”

Lò Lửa Hừng

19 Bấy giờ Nê-bu-cát-nê-xa cực kỳ tức giận. Da mặt ông đổi màu nghịch lại Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô. Ông truyền lịnh đốt lò lửa nóng gấp bảy lần mức bình thường. 20 đoạn ông truyền cho các dũng sĩ lực lưỡng nhất trong quân đội của ông trói Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô lại, rồi ném họ vào lò lửa đang cháy hừng hực. 21 Vậy những người ấy bị trói lại và bị quăng vào giữa lò lửa hực. Họ vẫn còn mặc áo choàng, quần dài, khăn trùm đầu, và quần áo lót bên trong. 22 Số là lịnh vua truyền quá cấp bách, và lò lửa lại nóng gấp nhiều lần hơn mức bình thường, nên các dũng sĩ có nhiệm vụ quăng Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô vào lò lửa đã bị ngọn lửa quá nóng làm chết. 23 Còn ba người đó, Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô, tay chân bị trói chặt, đã rơi vào giữa lò lửa hực.

24 Bấy giờ Vua Nê-bu-cát-nê-xa lấy làm cực kỳ kinh ngạc và bật đứng dậy. Ông hỏi các mưu sĩ của ông, “Chẳng phải chúng ta đã trói ba người và quăng vào lò lửa hay sao?”

Họ đáp với ông, “Tâu hoàng thượng, đúng vậy.”

25 Ông nói, “Hãy nhìn kìa! Ta thấy bốn người không bị trói đang đi giữa lò lửa, và họ chẳng bị hại gì; và hình dáng của người thứ tư giống như Con của Ðức Chúa Trời.[ah]

26 Bấy giờ Nê-bu-cát-nê-xa đến gần miệng lò lửa đang cháy hừng hực và kêu lớn, “Hỡi Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô, các đầy tớ của Ðức Chúa Trời Tối Cao, hãy đi ra, và hãy đến đây.” Vậy Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô bước ra khỏi lò lửa. 27 Khi ấy các thống đốc, các tỉnh trưởng, các tổng trấn, và các mưu sĩ của vua tụ lại quanh ba người ấy; họ thấy lửa không làm hại gì đến thân thể ba người ấy. Không sợi tóc nào trên đầu họ bị cháy sém, quần áo họ không bị một chút hư hại gì, và mùi lửa cũng không ngửi thấy trên người họ.

28 Bấy giờ Nê-bu-cát-nê-xa nói, “Nguyện sự chúc tụng thuộc về Ðức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô, Ðấng đã sai thiên sứ của Ngài đến giải cứu các đầy tớ Ngài, những người tin cậy Ngài. Họ đã bất tuân lịnh vua, và thà chịu chết hơn là thờ phượng bất cứ thần nào khác ngoại trừ Ðức Chúa Trời của họ. 29 Vì thế ta truyền lịnh rằng bất cứ dân nào, nước nào, hay ngữ tộc nào nói điều gì xúc phạm đến Ðức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô sẽ bị phân thây ra từng mảnh, và nhà của chúng sẽ bị biến thành một đống tro, vì không thần nào khác có thể giải cứu được như thế nầy.” 30 Sau đó vua thăng chức cho Sa-đơ-rắc, Mê-sách, và A-bết-nê-gô trong tỉnh Ba-by-lôn.

Ðiềm Chiêm Bao Thứ Hai của Nê-bu-cát-nê-xa

“Vua Nê-bu-cát-nê-xa gởi đến tất cả các dân, các nước, các ngữ tộc sống trong khắp đất: Cầu mong các ngươi được bình an thịnh vượng bội phần.

Ta lấy làm vui công bố cho các ngươi biết rằng Ðức Chúa Trời Tối Cao đã làm những dấu kỳ và phép lạ cho ta. Các dấu kỳ của Ngài thật lớn lao! Các phép lạ của Ngài thật diệu kỳ! Vương quốc của Ngài là vương quốc đời đời! Quyền tể trị của Ngài tồn tại từ đời nọ đến đời kia!

Ta, Nê-bu-cát-nê-xa, đang sống nhàn hạ trong nhà ta và hưởng phúc lộc trong cung điện ta. Ta thấy một điềm chiêm bao, và điềm chiêm bao ấy đã làm cho ta sợ. Trong khi ta nằm trên giường, những tư tưởng cứ nảy ra trong trí, và những khải tượng cứ hiện ra trong đầu, đã làm ta lo sợ. Vì thế ta truyền đem tất cả các nhà thông thái ở Ba-by-lôn đến để họ giải nghĩa điềm chiêm bao cho ta. Vậy các pháp sư, các bốc sư, các chiêm tinh gia, và các thầy bói vào chầu ta. Ta thuật lại cho họ điềm chiêm bao ấy, nhưng họ không thể giải thích ý nghĩa của nó được. Sau cùng Ða-ni-ên vào chầu ta. Người nầy cũng có tên là Bên-tê-sác-xa, theo danh thần của ta; trong người ấy có Thần của Ðức Chúa Trời Thánh. Ta thuật lại cho người ấy điềm chiêm bao của ta như sau:

“Hỡi Bên-tê-sác-xa, thủ lãnh của các pháp sư. Ta biết Thần của Ðức Chúa Trời Thánh ở trong ngươi, nên không có huyền bí nào là khó quá cho ngươi. Hãy nói cho ta khải tượng trong giấc chiêm bao của ta và hãy giải thích ý nghĩa nó.

10 Ðây là những hình ảnh hiện ra trong đầu ta khi ta đang nằm trên giường: Ta đang nhìn, và kìa, có một cây ở giữa mặt đất; cây ấy cao lớn lạ thường. 11 Cây ấy cứ tiếp tục lớn mạnh, và ngọn cây cao đến tận trời. Nó cao to đến nỗi người ta ở những nơi tận cùng trái đất có thể trông thấy nó. 12 Lá nó tươi đẹp, và trái nó rất nhiều. Nó cung cấp thức ăn cho mọi loài. Các thú đồng trú ngụ dưới bóng mát nó. Các chim trời sống giữa các cành nó. Mọi loài xác thịt nhờ nó mà được no nê.

13 Ta nằm trên giường và đã thấy các khải tượng đó trong đầu, và kìa, một vị thần canh giữ xuất hiện, tức một đấng thánh từ trời xuống. 14 Vị ấy kêu lớn tiếng và nói, ‘Hãy đốn cây ấy xuống và chặt trụi các cành nó đi. Hãy tuốt sạch các lá nó và quăng hết các trái nó. Hãy để các thú đồng chạy trốn khỏi bóng mát nó, và các chim trời lìa xa các cành nó. 15 Tuy nhiên hãy chừa gốc nó và các rễ nó lại trong lòng đất; nhưng hãy dùng xích sắt và niền đồng xiềng nó lại giữa cỏ non trong đồng. Hãy để nó bị đẫm ướt sương trời, và hãy để nó sống với các thú vật giữa cây cỏ ngoài đồng. 16 Hãy để tâm trí của nó bị biến đổi từ tâm trí của loài người ra tâm trí của một con thú, và hãy để nó phải trải qua bảy kỳ như vậy. 17 Án lệnh đó được các vị thần canh giữ thi hành, theo lệnh mà các đấng thánh đã nhận, để mọi người đang sống nhận biết rằng Ðấng Tối Cao đang trị vì trên thế giới loài người. Ngài ban quyền cai trị cho ai tùy ý Ngài muốn, ngay cả lập một người hèn mọn nhất lên cầm đầu cũng được.’

18 Ðó là điềm chiêm bao mà ta, Vua Nê-bu-cát-nê-xa, đã thấy. Bây giờ, ngươi, hỡi Bên-tê-sác-xa, hãy giải thích ý nghĩa nó cho ta, vì tất cả các nhà thông thái trong vương quốc ta đã không thể giải thích ý nghĩa nó cho ta được, nhưng ngươi thì có thể, vì Thần của Ðức Chúa Trời Thánh ở trong ngươi.”

Ða-ni-ên Giải Nghĩa Ðiềm Chiêm Bao Thứ Hai

19 Bấy giờ Ða-ni-ên, cũng có tên là Bên-tê-sác-xa, lặng người đi một lúc. Do đó vua lên tiếng và nói, “Hỡi Bên-tê-sác-xa, chớ để điềm chiêm bao hay ý nghĩa của nó làm cho ngươi bối rối.”

Bên-tê-sác-xa đáp, “Tâu chúa thượng, nguyện điềm chiêm bao ấy dành cho những kẻ ghét chúa thượng và ý nghĩa nó dành cho những kẻ thù của chúa thượng!

20 Cái cây mà chúa thượng đã thấy là một cây trở nên lớn và mạnh, ngọn cây đụng đến trời xanh, khắp đất đều có thể trông thấy nó, 21 lá nó xanh tươi tốt đẹp, trái nó sinh ra rất nhiều và được dùng làm thức ăn cho mọi loài, bóng mát nó làm chỗ ở cho thú đồng, và các chim trời làm tổ giữa các cành nó; 22 tâu hoàng thượng, hoàng thượng chính là cây đó. Hoàng thượng đã trở nên vĩ đại và hùng cường. Sự vĩ đại của hoàng thượng đã lẫy lừng và cao ngất trời xanh. Quyền trị vì của hoàng thượng đã lan rộng đến những nơi tận cùng trái đất.

23 Sau đó hoàng thượng thấy một vị thần canh giữ từ trời xuống và nói, ‘Hãy đốn cây ấy xuống và tiêu diệt nó đi, nhưng hãy chừa gốc nó và các rễ nó lại trong lòng đất, rồi hãy dùng xích sắt và niền đồng xiềng nó lại ở giữa cỏ non trong đồng, hãy để nó bị đẫm ướt sương trời, hãy để nó sống với các thú vật giữa cây cỏ ngoài đồng, và hãy để nó phải trải qua bảy kỳ như vậy.’

24 Tâu hoàng thượng, đây là ý nghĩa của những điều đó: Ðấng Tối Cao đã ban lịnh phải áp dụng những biện pháp sau đây đối với hoàng thượng, chúa thượng của hạ thần:

25 Hoàng thượng sẽ bị đuổi ra khỏi xã hội của loài người, và hoàng thượng sẽ sống giữa các thú đồng. Hoàng thượng sẽ bị bắt phải ăn cỏ như bò, và hoàng thượng sẽ bị đẫm ướt sương trời. Bảy kỳ sẽ trải qua trên hoàng thượng như vậy cho đến khi hoàng thượng thấu hiểu được rằng Ðấng Tối Cao cầm quyền tể trị trên vương quốc loài người, và Ngài ban cho ai tùy ý Ngài muốn. 26 Còn như lịnh đã truyền phải chừa gốc nó và các rễ nó lại có nghĩa là khi nào hoàng thượng thấu hiểu được rằng Trời đang cầm quyền tể trị, bấy giờ vương quốc của hoàng thượng sẽ được tái lập cho hoàng thượng.

27 Vì vậy tâu hoàng thượng, nguyện lời khuyên của hạ thần sẽ được hoàng thượng chấp nhận: Xin hoàng thượng sớm chuộc các tội lỗi mình bằng những việc ngay lành đạo đức và chuộc những tội ác của mình bằng lòng thương xót đối với những người bị áp bức oan khiên, may ra thời kỳ bình an thịnh vượng của hoàng thượng sẽ kéo dài ra.”

Ðiềm Chiêm Bao Ðược Ứng Nghiệm

28 Tất cả các điều ấy đều ứng nghiệm trên Vua Nê-bu-cát-nê-xa. 29 Cuối mười hai tháng sau, khi ông đang đi dạo trên sân thượng của hoàng cung tại Ba-by-lôn, 30 ông vọt miệng nói, “Ðây chẳng phải là Ba-by-lôn huy hoàng tráng lệ mà ta đã dùng quyền lực vô song của ta dựng lên để làm kinh đô và để làm cho ta được uy nghi vinh hiển sao?”

31 Trong khi những lời ấy còn ở nơi miệng vua, có tiếng từ trời phán xuống rằng, “Hỡi Vua Nê-bu-cát-nê-xa, đây là lịnh phải thi hành đối với ngươi: Vương quyền đã lìa khỏi ngươi. 32 Ngươi sẽ bị đuổi khỏi xã hội loài người; ngươi sẽ sống giữa các thú đồng; ngươi sẽ bị bắt phải ăn cỏ như bò. Bảy kỳ sẽ trải qua trên ngươi, cho đến khi ngươi thấu hiểu được rằng Ðấng Tối Cao đang cầm quyền tể trị trên vương quốc loài người, và Ngài ban cho ai tùy ý Ngài muốn.”

33 Ngay lúc đó án lịnh được ứng nghiệm trên Nê-bu-cát-nê-xa. Ông bị đuổi ra khỏi xã hội loài người. Ông ăn cỏ như bò. Thân thể ông bị đẫm ướt sương trời cho đến khi tóc ông mọc dài ra như lông phượng hoàng, và các móng của ông trở thành như các móng chim.

Nê-bu-cát-nê-xa Ca Ngợi Ðức Chúa Trời

34 “Khi thời kỳ ấy đã mãn, ta, Nê-bu-cát-nê-xa, ngước mắt lên trời, trí tuệ của ta phục hồi trong ta. Ta chúc tụng Ðấng Tối Cao. Ta ca ngợi và tôn vinh Ðấng sống đời đời; vì quyền tể trị của Ngài là quyền tể trị đời đời, vương quốc Ngài tồn tại từ đời nọ đến đời kia. 35 Mọi dân trên đất đều chẳng có quyền gì đối với Ngài. Ngài làm bất cứ điều gì Ngài muốn giữa các cơ binh trên trời và giữa các dân trên đất. Không ai có thể nắm giữ tay Ngài lại hoặc dám hỏi Ngài, “Ngài đang làm gì vậy?”

36 Lúc đó trí tuệ ta đã phục hồi trong ta, sự uy nghi và huy hoàng của ta được trả lại cho ta, vì vinh hiển của vương quốc ta. Các mưu sĩ của ta và các đại thần của ta tìm đến ta. Ta được tái lập địa vị cầm quyền trên vương quốc ta, và quyền thế ta càng lớn hơn khi trước. 37 Bây giờ ta, Nê-bu-cát-nê-xa, ca ngợi, tán dương, và tôn vinh Vua trên trời, vì mọi công việc của Ngài đều chân thật, các đường lối của Ngài đều công chính, và Ngài có thể hạ bệ những kẻ nào hống hách kiêu căng.”

Ðại Tiệc của Vua Bên-sác-xa

Vua Bên-sác-xa đãi một đại tiệc cho một ngàn đại thần của ông và uống rượu với một ngàn đại thần ấy. Ðang khi Bên-sác-xa uống rượu và cao hứng, ông truyền lịnh lấy các khí dụng bằng vàng và bằng bạc mà tổ phụ ông, Nê-bu-cát-nê-xa, đã lấy trong Ðền Thờ ở Giê-ru-sa-lem đem đến để vua, các đại thần của ông, các vợ của ông, và các cung phi của ông dùng uống rượu. Vậy người ta đem các khí dụng bằng vàng đã lấy trong Ðền Thờ, nhà của Ðức Chúa Trời ở Giê-ru-sa-lem, đến để vua, các đại thần của ông, các vợ của ông, và các cung phi của ông dùng uống rượu. Trong khi uống rượu, họ ca tụng các thần của họ, đó là các thần tượng làm bằng vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ, và đá.

Bàn Tay Viết Trên Tường

Ngay chính giờ đó những ngón tay của một bàn tay người xuất hiện, và bàn tay ấy viết chữ trên tường vôi của hoàng cung, đối ngang cột đèn. Nhà vua trông thấy bàn tay ấy khi bàn tay ấy viết. Bấy giờ mặt vua tái mét, tâm trí ông kinh hoàng, hai chân ông bủn rủn, và hai gối ông run cầm cập. Vua lớn tiếng truyền lịnh đem ngay các bốc sư, các chiêm tinh gia, và các thầy bói đến.

Vua nói với các nhà thông thái của Ba-by-lôn, “Người nào đọc được những chữ nầy và giải thích ý nghĩa của chúng cho ta sẽ được mặc áo choàng màu tía, được đeo vòng vàng vào cổ, và sẽ đứng hàng thứ ba trong việc triều chính của vương quốc.”[ai]

Tất cả các nhà thông thái đều vào triều kiến, nhưng không ai có thể đọc được những chữ đó và không thể giải thích được ý nghĩa của chúng. Bấy giờ Vua Bên-sác-xa càng thêm sợ hãi; mặt ông tái xanh, và các đại thần của ông đều bối rối.

10 Khi hoàng hậu nghe những lời của vua và các đại thần, bà đi vào phòng tiệc. Hoàng hậu cất tiếng nói, “Hoàng thượng vạn tuế! Xin hoàng thượng đừng để những lo nghĩ làm hoàng thượng bất an, và xin hoàng thượng đừng sợ hãi mà biến sắc. 11 Trong vương quốc của hoàng thượng có một người được Thần của Ðức Chúa Trời Thánh ở cùng. Trong thời tổ phụ của hoàng thượng, người ấy là một người sáng suốt, thông minh, và khôn ngoan; có thể nói người ấy khôn ngoan như các thần. Vì thế Vua Nê-bu-cát-nê-xa tổ phụ hoàng thượng đã lập người ấy làm đầu các pháp sư, các bốc sư, các chiêm tinh gia, và các phù thủy. Quả thật tiên vương của hoàng thượng đã làm điều ấy. 12 Người ta đã tìm thấy nơi người ấy một thần trí phi phàm, trí thức, thông minh, khả năng giải mộng, giải đáp những điều huyền bí, tháo gỡ các vấn đề rắc rối khó khăn; người đó chính là Ða-ni-ên mà tiên vương đã đặt tên là Bên-tê-sác-xa. Bây giờ xin hoàng thượng cho triệu Ða-ni-ên vào để ông ấy giải nghĩa những chữ ấy cho hoàng thượng.”

Ý Nghĩa Những Chữ Trên Tường

13 Vậy người ta đem Ða-ni-ên đến ra mắt vua. Vua phán hỏi Ða-ni-ên, “Ngươi có phải là Ða-ni-ên, một trong những kẻ bị lưu đày từ Giu-đa mà tiên vương ta đã mang từ Giu-đa về không? 14 Ta có nghe rằng ngươi được Thần của Ðức Chúa Trời ở cùng, và ngươi là người sáng suốt, thông minh, và khôn ngoan xuất chúng. 15 Các nhà thông thái và các bốc sư đã được đem đến đây để đọc và giải nghĩa những chữ nầy cho ta, nhưng họ không giải nghĩa được. 16 Ta nghe nói rằng ngươi có thể giải nghĩa những điều huyền bí và tháo gỡ các vấn đề rắc rối khó khăn. Bây giờ nếu ngươi có thể đọc được những chữ nầy và giải thích ý nghĩa những chữ ấy cho ta, ngươi sẽ được mặc áo choàng màu tía, được đeo vòng vàng vào cổ, và sẽ đứng hàng thứ ba trong việc triều chính của vương quốc.”

17 Bấy giờ Ða-ni-ên trả lời trước mặt vua, “Xin hoàng thượng giữ các món quà ấy lại cho mình, và xin ban các phần thưởng ấy cho người khác. Dầu vậy hạ thần sẽ đọc những chữ ấy cho hoàng thượng và giải thích ý nghĩa của chúng cho hoàng thượng. 18 Tâu hoàng thượng: Ðức Chúa Trời Tối Cao đã ban cho Nê-bu-cát-nê-xa tổ phụ của hoàng thượng vương quốc, quyền bính, vinh hiển, và tôn trọng. 19 Vì quyền lực lớn lao Ngài đã ban cho người nên mọi dân, các nước, và các ngữ tộc đều run rẩy và sợ hãi trước mặt người. Người muốn ai chết, kẻ ấy phải chết; người muốn để ai sống, kẻ ấy được sống; người muốn cho ai thăng chức, kẻ ấy được thăng chức; người muốn cất chức ai, kẻ ấy bị cất chức. 20 Nhưng khi lòng người trở nên tự cao tự đại, và trí người trở nên cứng cỏi vì kiêu căng, người đã bị truất khỏi ngôi vua và bị tước hết vinh hiển. 21 Người đã bị đuổi khỏi xã hội loài người; lòng dạ người đã bị biến ra lòng dạ của loài thú; người đã phải sống chung lộn với các lừa hoang. Người ta đã cho người ăn cỏ như bò; thân thể người phải đẫm ướt sương trời cho đến khi người nhận biết rằng Ðức Chúa Trời Tối Cao cầm quyền tể trị trên các vương quốc loài người, và Ngài lập ai lên cầm quyền tùy ý Ngài muốn. 22 Nhưng hoàng thượng, Bên-sác-xa, con cháu của người, dù rằng hoàng thượng đã biết rõ mọi điều ấy, hoàng thượng vẫn không hạ mình. 23 Ngược lại hoàng thượng đã lên mình kiêu ngạo và dám chống cả Chúa trên trời. Hoàng thượng đã cho đem các ly chén trong nhà của Ðức Chúa Trời đến trước mặt hoàng thượng để hoàng thượng, các đại thần của hoàng thượng, các vợ của hoàng thượng, và các cung phi của hoàng thượng dùng uống rượu. Hoàng thượng ca ngợi các thần tượng làm bằng bạc và vàng, đồng và sắt, gỗ và đá, là các thần tượng không thấy, không nghe, và không biết; còn Ðức Chúa Trời, Ðấng nắm trong tay hơi thở của hoàng thượng và mọi đường lối của hoàng thượng, hoàng thượng lại không tôn vinh Ngài. 24 Vì thế Ngài đã sai bàn tay ấy viết ra những chữ nầy. 25 Ðây là những chữ đã được viết, ‘Mê-nê, Mê-nê, Tê-kên, Pạc-sin.’ 26 Ðây là ý nghĩa những chữ ấy: ‘Mê-nê’ nghĩa là ‘bị đếm.’ Ðức Chúa Trời đã đếm các ngày của triều đại hoàng thượng và quyết định nó phải chấm dứt. 27 ‘Tê-kên’ nghĩa là ‘cân.’ Hoàng thượng được đem đặt trên một cái cân để cân và phía bên hoàng thượng bị thiếu. 28 ‘Pạc-sin’ nghĩa là ‘bị chia ra.’ Vương quốc của hoàng thượng sẽ bị chia ra và được ban cho người Mê-đi và người Ba-tư.”

29 Bấy giờ Bên-sác-xa truyền lịnh cho người ta mặc áo choàng màu tía cho ông, đeo vòng vàng vào cổ ông, và rao báo cho mọi người biết rằng ông đứng hàng thứ ba trong việc triều chính của vương quốc. 30 Chính trong đêm đó, Bên-sác-xa vua Ba-by-lôn bị giết. 31 Ða-ri-út người Mê-đi lên ngôi thế vị lúc sáu mươi hai tuổi.

Âm Mưu Hại Ða-ni-ên

Ða-ri-út lấy làm hài lòng bổ nhiệm một trăm hai mươi thống đốc cai trị trên cả vương quốc của ông. Các thống đốc ấy ở dưới quyền của ba quan đại thần, và Ða-ni-ên là một trong ba vị đó. Các thống đốc phải chịu trách nhiệm với ba quan đại thần đó để vua không bị thiệt hại gì. Lúc ấy Ða-ni-ên nổi bật hơn hai vị đại thần kia và các vị thống đốc, vì thần trí phi phàm ở trong ông; do đó vua có ý muốn lập ông làm tể tướng để trị vì trên cả vương quốc. Vì thế các đại thần và các thống đốc tìm mọi cớ để bắt lỗi Ða-ni-ên về công việc triều chính, nhưng họ chẳng tìm được một lý cớ nào, vì ông là một người trung thành, không tham nhũng, và không có lỗi lầm gì. Cuối cùng những người ấy nói với nhau, “Chúng ta không thể tìm ra lỗi lầm nào của ông Ða-ni-ên nầy hầu tố cáo ông ấy cả, trừ phi chúng ta đi tìm những sơ hở của ông ấy trong việc giữ luật Ðức Chúa Trời của ông ấy.”

Vậy các quan đại thần và các thống đốc hẹn nhau cùng đến ra mắt vua, và họ tâu với vua, “Tâu Vua Ða-ri-út! Kính chúc hoàng thượng sống vạn tuế! Tất cả các đại thần, các triều thần, các thống đốc, các mưu sĩ, và các tổng trấn đã đồng ý xin hoàng thượng ban hành một sắc lịnh và lập nó thành một sắc luật bất di bất dịch rằng: Trong vòng ba mươi ngày, hễ ai cầu nguyện với bất cứ thần nào hoặc người nào khác hơn hoàng thượng, tâu hoàng thượng, kẻ ấy sẽ bị quăng vào hang sư tử. Tâu hoàng thượng, bây giờ xin hoàng thượng lập nó thành một sắc luật và ký tên vào văn bản, để nó không bị thay đổi theo như luật của người Mê-đi và người Ba-tư, và nó không bị thu hồi.” Thế là Vua Ða-ri-út ký tên vào văn bản của sắc luật ấy.

Ða-ni-ên Bị Quăng Vào Hang Sư Tử

10 Lúc đó sau khi Ða-ni-ên biết văn bản của sắc luật đã được vua ký, ông về nhà, lên phòng trên lầu, nơi có các cửa sổ mở hướng về Giê-ru-sa-lem, mỗi ngày ba lần, ông quỳ xuống, cầu nguyện, và ca ngợi Ðức Chúa Trời của ông, như ông vẫn thường làm từ trước đến giờ. 11 Bấy giờ những người ấy kéo nhau đến nhà ông. Họ thấy Ða-ni-ên đang cầu nguyện và kêu xin trước mặt Ðức Chúa Trời của ông. 12 Thế là họ vào chầu vua và tâu với vua về sắc luật vua đã ban hành, “Tâu hoàng thượng, chẳng phải hoàng thượng đã ban hành một sắc luật rằng trong vòng ba mươi ngày không ai được cầu nguyện với bất cứ thần nào hoặc người nào khác hơn hoàng thượng, bằng không, kẻ ấy sẽ bị quăng vào hang sư tử sao?”

Vua đáp, “Sắc luật ấy đã ban hành, và theo luật của người Mê-đi và người Ba-tư, sắc luật ấy không thể bị thu hồi.”

13 Bấy giờ họ tâu với vua, “Ða-ni-ên, một trong những kẻ bị lưu đày của dân Giu-đa, đã chẳng coi hoàng thượng ra gì, tâu hoàng thượng. Ông ấy cũng chẳng coi sắc lịnh của hoàng thượng đã ký ra gì, vì ngày nào ông ấy cũng cầu nguyện ba lần.”

14 Khi vua nghe những lời ấy, ông rất đau buồn, và ông vận dụng tâm trí để tìm cách cứu Ða-ni-ên. Ông vật vã suy nghĩ mãi cho đến khi mặt trời lặn để tìm cách cứu Ða-ni-ên. 15 Bấy giờ những người đó họp lại với nhau và đến nói với vua, “Tâu hoàng thượng, chắc hẳn hoàng thượng biết rằng theo luật của người Mê-đi và người Ba-tư, mỗi khi sắc lịnh hay sắc luật đã được nhà vua ban hành thì nó không thể thay đổi được.”

16 Vậy vua ban lịnh. Họ liền đem Ða-ni-ên và quăng ông vào hang sư tử. Vua cất tiếng và nói với Ða-ni-ên, “Cầu xin Ðức Chúa Trời, Ðấng ngươi hằng thờ phượng, giải cứu ngươi.” 17 Sau đó người ta mang một tảng đá lớn đến chận miệng hang. Vua đóng ấn tín của ông trên đó, và các đại thần cũng đóng ấn dấu của họ trên đó, để xác nhận rằng vụ Ða-ni-ên không còn gì thay đổi nữa. 18 Sau đó vua trở về cung điện mình. Tối hôm đó ông không thiết ăn uống gì cả, ông cũng không muốn đem ban nhạc đến giải khuây, và suốt đêm đó ông không ngủ được.

Ða-ni-ên Ðược Cứu Khỏi Hang Sư Tử

19 Sáng hôm sau vua thức dậy thật sớm và vội vàng đi đến hang sư tử. 20 Khi đến gần hang, ông cất tiếng gọi Ða-ni-ên với giọng rất bi thương. Vua cất tiếng và nói với Ða-ni-ên, “Hỡi Ða-ni-ên tôi tớ của Ðức Chúa Trời hằng sống, Ðức Chúa Trời, Ðấng ngươi hằng thờ phượng, có thể giải cứu ngươi khỏi các sư tử chăng?”

21 Bấy giờ Ða-ni-ên trả lời với vua, “Tâu hoàng thượng, kính chúc hoàng thượng sống vạn tuế! 22 Ðức Chúa Trời của hạ thần đã sai thiên sứ của Ngài bịt mồm các sư tử; vì thế chúng không làm gì hại đến hạ thần, vì Ngài thấy hạ thần vô tội trước mặt Ngài, và hạ thần cũng chẳng làm điều gì sai trước mặt hoàng thượng, tâu hoàng thượng.”

23 Bấy giờ vua rất đỗi vui mừng và truyền lịnh đem Ða-ni-ên lên khỏi hang. Vậy Ða-ni-ên được đem lên khỏi hang sư tử. Người ta thấy ông không bị hại một chút gì, vì ông đã tin cậy Ðức Chúa Trời của ông. 24 Kế đó vua truyền lịnh đem những kẻ đã tố cáo Ða-ni-ên đến. Người ta quăng chúng cùng với vợ con chúng vào hang sư tử. Trước khi chúng rơi tới đáy hang, các sư tử đã nhảy lên vồ lấy chúng và xé thây chúng ra từng mảnh.

25 Sau đó Vua Ða-ri-út viết, “Gởi đến các dân, các nước, và các ngữ tộc sống trên khắp đất. Cầu mong các ngươi được bình an thịnh vượng bội phần. 26 Ta ban hành chiếu chỉ nầy để truyền cho mọi người trong vương quốc phải run rẩy và kính sợ trước mặt Ðức Chúa Trời của Ða-ni-ên, vì Ngài là Ðức Chúa Trời hằng sống và tồn tại đời đời. Vương quốc Ngài sẽ không bao giờ bị diệt mất, và quyền bính Ngài sẽ không bao giờ tận cùng. 27 Ngài giải thoát và giải cứu. Ngài làm các dấu kỳ và các phép lạ trên trời và dưới đất. Ngài đã giải thoát Ða-ni-ên khỏi các nanh vuốt của sư tử.”

28 Vậy Ða-ni-ên được thịnh vượng trong triều đại của Ða-ri-út và trong triều đại của Sy-ru người Ba-tư.

Khải Tượng về Bốn Sinh Vật

Trong năm thứ nhất của triều đại Bên-sác-xa vua Ba-by-lôn, Ða-ni-ên nằm trên giường và thấy chiêm bao. Ông thấy các khải tượng trong đầu ông. Ông ghi lại tất cả những gì ông đã thấy trong giấc chiêm bao ấy và nói, “Tôi, Ða-ni-ên, xin thuật lại như sau: Ban đêm, trong một khải tượng, tôi thấy, kìa, bốn hướng gió trên trời đang vần vũ dữ dội trên mặt đại dương. Từ dưới biển có bốn con thú đi lên; mỗi con đều khác với các con khác.

Con thứ nhất giống như sư tử và có cánh như đại bàng. Khi tôi đang mải mê nhìn tôi thấy đôi cánh nó bị nhổ đi, rồi nó được nhấc lên khỏi mặt đất và bắt phải đứng trên hai chân như người ta, và nó được ban cho tâm trí của một người.

Nầy, một con thú khác xuất hiện, con thú thứ nhì, giống như một con gấu. Nó đứng trườn lên một bên; trong miệng nó, giữa hai hàm răng, nhô ra ba xương sườn, và nó được bảo, “Hãy đứng dậy và ăn nuốt nhiều thịt.”

Kế đó tôi nhìn, và kìa, một con thú nữa xuất hiện, giống như con beo. Trên lưng nó có bốn cánh như cánh chim. Con thú ấy có bốn đầu, và nó được ban cho quyền cai trị.

Sau đó, ban đêm tôi thấy trong khải tượng, và kìa, con thú thứ tư. Nó trông thật đáng sợ, kinh khủng, và rất mạnh. Nó có các răng lớn bằng sắt. Nó cắn xé, nghiền nát, và chà đạp dưới chân những gì còn sót lại. Nó khác hẳn tất cả con thú trước nó; nó có mười sừng. Ðang khi tôi nhìn các sừng của nó, kìa, một sừng khác, một sừng nhỏ, mọc lên giữa các sừng ấy; và trước nó thì ba sừng có trước nó lại bị nhổ tận gốc; và kìa, sừng ấy có các mắt như mắt của người ta, và có miệng nói những lời cao ngạo trịch thượng.

Ðấng Thái Cổ Phán Xét

Khi tôi đang nhìn tôi thấy các ngai được đặt vào chỗ;
Ðấng Thái Cổ ngồi vào ngai Ngài.
Y phục Ngài trắng như tuyết;
Tóc trên đầu Ngài tựa lông chiên tinh khiết;
Chiếc ngai Ngài rực cháy với lửa hừng;
Các bánh xe của ngai thảy đều rực lửa.
10 Từ thánh nhan Ngài lửa cuồn cuộn phát ra.
Ngàn ngàn hầu hạ Ngài,
Vạn vạn túc trực trước mặt Ngài.
Phiên tòa bắt đầu xử,
Và các sách được mở ra.

11 Bấy giờ tôi tiếp tục nhìn vì tiếng của những lời cao ngạo trịch thượng từ cái sừng ấy vang ra. Tôi cứ nhìn cho đến khi con thú ấy bị giết; thân xác nó bị tiêu hủy và bị thiêu trong lửa. 12 Các con thú còn lại đều bị tước hết quyền cai trị; tuy nhiên chúng được cho sống thêm một mùa và một kỳ.

13 Ban đêm tôi thấy trong các khải tượng,
Kìa, một Ðấng giống như Con Người ngự trên mây trời đến.
Ngài đến trước mặt Ðấng Thái Cổ,
Và được đưa ra trình diện trước Ðấng ấy.
14 Ngài được ban cho quyền trị vì, vinh hiển, và vương quyền,
Ðể mọi dân tộc, mọi quốc gia, và mọi ngữ tộc phải phục vụ Ngài.
Quyền trị vì của Ngài là quyền trị vì đời đời, không bao giờ dứt;
Vương quyền của Ngài không bao giờ bị hủy diệt.

Khải Tượng Ðược Giải Nghĩa

15 Về phần tôi, Ða-ni-ên, tâm trí trong tôi bối rối, và những khải tượng trong đầu làm tôi hoang mang. 16 Tôi tiến gần một trong những vị đang đứng đó và hỏi vị ấy sự thật về mọi điều ấy là gì. Vị ấy trả lời và giải thích cho tôi biết những điều ấy như sau:

17 “Bốn con thú to lớn chỉ về bốn vua sẽ trỗi lên trên đất. 18 Nhưng các thánh đồ của Ðấng Tối Cao sẽ nhận lấy vương quốc và chiếm hữu vương quốc đời đời, vô cùng, và vĩnh viễn.”

19 Bấy giờ tôi muốn biết sự thật về con thú thứ tư, con thú khác hơn tất cả con thú khác, một con thú cực kỳ đáng sợ; các răng nó bằng sắt, và các móng vuốt nó bằng đồng. Nó cắn xé, nghiền nát, và chà đạp dưới chân những gì còn sót lại. 20 Tôi cũng muốn biết về mười cái sừng trên đầu nó, và về cái sừng kia mọc lên sau, mà trước nó ba sừng khác phải rụng đi. Cái sừng đó có các mắt và miệng nói những lời cao ngạo trịch thượng. Ngoài ra nó trông có vẻ lớn hơn các sừng khác. 21 Trong khi tôi đang nhìn, cái sừng ấy giao chiến với các thánh đồ và thắng hơn họ 22 cho đến khi Ðấng Thái Cổ đến, và cuộc phán xét ban sự đắc thắng cho các thánh đồ của Ðấng Tối Cao; và thời điểm đã đến cho các thánh đồ chiếm hữu vương quốc. 23 Vị ấy nói thế này:

“Về con thú thứ tư,
Sẽ có một đế quốc thứ tư trên đất;
Ðế quốc ấy sẽ khác hơn tất cả đế quốc khác;
Nó sẽ ăn nuốt cả thế giới;
Nó sẽ giày đạp và nghiền nát thế giới dưới chân nó.
24 Còn về mười cái sừng,
Từ đế quốc ấy mười vua sẽ nổi lên;
Nhưng sẽ có một vua khác nổi lên sau mười vua đó;
Vua mới nổi lên ấy khác hơn các vua trước;
Vua mới ấy sẽ đè bẹp ba vua.
25 Vua ấy sẽ nói những lời chống lại Ðấng Tối Cao;
Vua ấy sẽ làm hại các thánh đồ của Ðấng Tối Cao;
Vua ấy sẽ cố thay đổi thì giờ và luật pháp.
Người ta sẽ trao quyền cho vua ấy một kỳ, các kỳ, và nửa kỳ.
26 Sau đó tòa phán xét sẽ ngồi lại xét xử;
Quyền bính của vua ấy bị tước đoạt, giải thể, và tiêu diệt hoàn toàn.
27 Bấy giờ vương quốc, quyền bính, và sự vĩ đại của các vương quốc dưới trời sẽ được ban cho dân thánh, tức các thánh đồ của Ðấng Tối Cao;
Vương quốc Ngài sẽ là vương quốc đời đời;
Và mọi quyền bính sẽ phục vụ Ngài và vâng lời Ngài.”

28 Những lời giải nghĩa về các khải tượng đến đây là chấm dứt. Nhưng về phần tôi, Ða-ni-ên, những tư tưởng trong tôi làm tôi quá đỗi sợ hãi, đến nỗi mặt tôi biến sắc, nhưng tôi giữ kín việc ấy trong lòng.

Khải Tượng về Chiên Ðực và Dê Ðực

Trong năm thứ ba của triều đại Vua Bên-sác-xa, một khải tượng đã hiện ra cho tôi, Ða-ni-ên, sau khi khải tượng kia đã hiện ra cho tôi lần trước. Trong khi tôi đang nhìn khải tượng, bổng nhiên tôi thấy tôi đang ở Kinh Thành Su-sa, trong Tỉnh Ê-lam. Tôi cũng thấy trong khải tượng rằng tôi đang ở bên bờ Sông U-lai.

Tôi ngước mắt lên nhìn và thấy, kìa, một con chiên đực có hai sừng đang đứng cạnh bờ sông. Cả hai sừng đều dài, nhưng một sừng dài hơn sừng kia, và sừng dài hơn lại mọc lên sau sừng kia. Tôi thấy con chiên đực ấy xông về hướng tây, hướng bắc, và hướng nam. Không thú vật nào có thể chống cự nó nổi, và cũng không con vật nào có thể thoát khỏi sức mạnh của nó. Nó muốn làm gì thì làm, và nó trở nên lớn mạnh.

Ðang khi tôi suy nghĩ về việc ấy, kìa, một con dê đực từ hướng tây vụt đến. Nó phóng nhanh trên khắp mặt đất, nhanh đến nỗi như chân không chấm đất. Con dê đực ấy có một sừng nổi bật ở giữa hai mắt. Con dê đực ấy nhắm vào con chiên đực có hai sừng đang đứng bên bờ sông mà phóng tới với tất cả cơn giận của nó. Tôi thấy nó hung hăng xông vào con chiên đực. Nó tấn công con chiên đực và húc gãy cả hai sừng của con chiên đực. Con chiên đực không đủ sức chống cự nó. Nó húc con chiên đực ngã nhào xuống đất và giày đạp con chiên đực dưới chân. Không ai có thể cứu con chiên đực thoát khỏi sức mạnh của nó. Con dê đực trở nên rất mạnh mẽ. Nhưng đang khi nó ở đỉnh cao của quyền lực, cái sừng to lớn của nó đột nhiên bị gãy. Nơi cái sừng bị gãy, bốn cái sừng khác mọc lên quay về bốn hướng gió trên trời. Trong bốn cái sừng ấy, một cái sừng nhỏ lớn lên rất nhanh về hướng nam, hướng đông, và hướng của miền Ðất Vinh Hiển. 10 Nó lớn mãi cho đến khi nó đụng đến đạo binh thiên thượng. Nó quăng một số trong đạo binh thiên thượng và một số trong các tinh tú xuống đất, và nó giày đạp họ. 11 Nó tự tôn tự đại đối với Ðấng Thủ Lãnh của đạo binh thiên thượng, qua việc dẹp bỏ sự dâng tế lễ hằng ngày lên Ngài và lật đổ nơi thánh của Ngài. 12 Sự bội nghịch ấy có vẻ như thành công vì đạo binh thiên thượng bị kiềm hãm, nhờ thế nó có thể dẹp bỏ sự dâng tế lễ hằng ngày, đạp đổ chân lý xuống đất, và làm gì cũng thành đạt.

13 Bấy giờ tôi nghe một vị thánh lên tiếng, và tôi lại nghe một vị thánh khác nói với vị thánh ấy, “Cho đến bao giờ những gì trông thấy trong khải tượng ấy, tức sự bội nghịch khiến cho sự dâng tế lễ hằng ngày bị bỏ phế và nơi thánh cùng đạo binh thiên thượng bị giày đạp dưới chân, mới chấm dứt?”

14 Vị ấy nói với tôi, “Nó sẽ kéo dài đến hai ngàn ba trăm buổi chiều và buổi sáng; sau đó nơi thánh sẽ được thanh tẩy.”

Gáp-ri-ên Giải Thích Khải Tượng

15 Ðang khi tôi, Ða-ni-ên, thấy khải tượng và suy nghĩ để hiểu ý nghĩa của khải tượng ấy, thình lình có ai như một người đàn ông xuất hiện và đứng trước mặt tôi. 16 Tôi nghe tiếng của một người từ giữa hai bờ Sông U-lai kêu lên, “Gáp-ri-ên, hãy nói cho người ấy hiểu ý nghĩa của khải tượng đó.”

17 Người ấy bèn tiến gần chỗ tôi đang đứng. Tôi sợ hãi quá đỗi và nằm sấp mặt xuống đất. Người ấy bảo tôi, “Hỡi con người, ngươi phải hiểu rằng những gì ngươi thấy trong khải tượng đó đều liên quan đến thời kỳ cuối cùng.” 18 Khi người ấy nói với tôi, tôi như người ngất xỉu nằm sấp mặt xuống đất; nhưng người ấy chạm vào tôi và làm cho tôi đứng dậy trên chân tôi.

19 Người ấy nói, “Này, ta sẽ cho ngươi biết những gì sẽ xảy ra trong thời kỳ của cơn thịnh nộ về sau, vì nó liên quan đến thời kỳ đã định cho sự cuối cùng: 20 Con chiên đực có hai sừng ngươi đã thấy tiêu biểu cho các vua Mê-đi và Ba-tư. 21 Con dê đực có bờm tiêu biểu cho vua Hy-lạp. Cái sừng to lớn ở giữa hai mắt của nó tiêu biểu cho vua đầu tiên của đế quốc đó. 22 Bốn cái sừng mọc lên ở chỗ nó tiêu biểu cho bốn vương quốc sẽ ra từ đế quốc đó, nhưng không vương quốc nào mạnh bằng đế quốc đó. 23 Ðến gần cuối thời kỳ của các vương quốc đó, khi tội lỗi của họ đã đầy, một vua dữ tợn sẽ dấy lên; đó là một kẻ đầy mưu mô xảo quyệt. 24 Nó sẽ trở nên rất mạnh, nhưng chẳng phải nhờ thực lực của nó. Nó sẽ tiêu diệt các đối thủ của nó một cách tàn bạo. Nó sẽ thành công trong mọi việc nó làm. Nó sẽ tiêu diệt những người dũng mãnh và luôn cả dân thánh. 25 Nhờ xảo quyệt nó làm cho sự dối gạt trở nên thịnh hành dưới quyền của nó. Trong thâm tâm nó, nó tự cho nó là một kẻ vĩ đại. Trong khi người ta an hưởng thái bình, nó sẽ bất thần giết hại nhiều người. Nó cả gan đứng dậy chống lại Chúa của các chúa, nhưng nó sẽ bị đập nát tan tành dù chẳng phải bởi tay của người phàm. 26 Khải tượng về các buổi chiều và các buổi sáng đã báo cho ngươi là thật; nhưng ngươi hãy giữ kín khải tượng đó, vì nó liên quan đến những gì sẽ xảy ra vào những ngày xa lắm trong tương lai.”

27 Tôi, Ða-ni-ên, bị kiệt lực và bị bịnh luôn mấy ngày. Sau đó tôi trỗi dậy và lo việc của vua, nhưng tôi cứ bần thần dã dượi mãi sau khi trông thấy khải tượng đó, vì tôi không hiểu thấu được ý nghĩa của nó.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang