Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
II Các Vua 15:27-25:30

Pê-ca Trị Vì I-sơ-ra-ên

27 Năm thứ năm mươi hai của triều đại A-xa-ri-a vua Giu-đa, Pê-ca con của Rê-ma-li-a lên ngôi làm vua I-sơ-ra-ên. Ông trị vì tại Sa-ma-ri hai mươi năm. 28 Ông làm điều tội lỗi trước mặt Chúa. Ông chẳng từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am con của Nê-bát, tức những điều ông ấy đã gây cho I-sơ-ra-ên phạm tội.

29 Trong thời của Pê-ca vua I-sơ-ra-ên, Tích-lát Pi-lê-se vua A-sy-ri đến và chiếm lấy I-giôn, A-bên Bết Ma-a-ca, Gia-nô-a, Kê-đét, Ha-xơ, Ghi-lê-át, Ga-li-lê, và tất cả địa phận của Náp-ta-li. Ông ấy bắt dân ở các nơi đó đem về A-sy-ri lưu đày.

30 Bấy giờ Hô-sê-a con của Ê-la lập mưu làm phản Pê-ca con của Rê-ma-li-a. Ông ấy đánh và giết vua, rồi lên ngôi thế vị, nhằm vào năm thứ hai mươi của triều đại Giô-tham con của U-xi-a.

31 Những việc khác của Pê-ca, tất cả những việc ông làm, đều được chép trong sách Sử Ký của Các Vua I-sơ-ra-ên.

Giô-tham Trị Vì Giu-đa

(2 Sử 27:1-4, 7-9)

32 Năm thứ hai của triều đại Pê-ca con của Rê-ma-li-a vua I-sơ-ra-ên, Giô-tham con của U-xi-a lên ngôi làm vua Giu-đa. 33 Ông được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Giê-ru-sa con gái của Xa-đốc. 34 Ông làm điều tốt trước mặt Chúa như U-xi-a cha ông đã làm. 35 Dầu vậy những tế đàn trên các nơi cao vẫn chưa được trừ bỏ. Dân chúng vẫn còn đến dâng con vật hiến tế và dâng hương trên những tế đàn đó. Ông xây một cổng thượng cho Ðền Thờ Chúa.

36 Những việc khác của Giô-tham, tất cả những việc ông làm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? 37 Trong thời ấy Chúa để cho Rê-xin vua A-ram và Pê-ca con của Rê-ma-li-a đến tấn công Giu-đa. 38 Giô-tham an giấc cùng các tổ tiên ông và được chôn bên cạnh các tổ tiên ông trong Thành Ða-vít, tổ tiên của ông. A-kha con của ông lên ngôi kế vị.

A-kha Trị Vì Giu-đa

(2 Sử 28:1-27)

16 Năm thứ mười bảy của triều đại Pê-ca con của Rê-ma-li-a, A-kha con của Giô-tham lên ngôi làm vua Giu-đa. A-kha được hai mươi tuổi khi bắt đầu trị vì. Ông trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Ông không làm những điều đúng trước mặt Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, không như tổ tiên của ông là Ða-vít đã làm, nhưng ông đi theo đường lối của các vua I-sơ-ra-ên. Thậm chí ông còn thiêu dâng con trai ông trong lửa, theo thói tục gớm ghiếc của các dân mà Chúa đã đuổi đi trước mặt dân I-sơ-ra-ên. Ông dâng con vật hiến tế và dâng hương trên các tế đàn ở những nơi cao, trên núi, và dưới những cây xanh.

Bấy giờ Rê-xin vua A-ram và Pê-ca con của Rê-ma-li-a vua I-sơ-ra-ên kéo đến gây chiến với Giê-ru-sa-lem. Họ bao vây A-kha nhưng không thắng được ông. Thuở ấy vua Ê-đôm cũng lấy lại Ê-la cho Ê-đôm và đuổi người Giu-đa ở Ê-la đi, rồi đem người Ê-đôm đến chiếm ngụ, và họ cứ ở đó cho đến ngày nay.

A-kha sai các sứ giả đến với Tích-lát Pi-lê-se vua A-sy-ri xin rằng, “Tôi là tôi tớ ngài và là con trai của ngài. Xin ngài đến giải cứu tôi khỏi tay vua A-ram và vua I-sơ-ra-ên, vì họ đang vây hãm tôi.”

A-kha lấy những vật dụng bằng bạc và bằng vàng trong Ðền Thờ Chúa và trong các kho của hoàng cung làm quà biếu vua A-sy-ri. Vua A-sy-ri nghe lời yêu cầu của A-kha, nên đã dẫn quân đến tấn công Ða-mách, chiếm thành ấy, bắt dân chúng ở đó đem về Ki-rơ lưu đày, và giết chết Rê-xin.

10 Khi Vua A-kha đến Ða-mách để hội kiến với Tích-lát Pi-lê-se vua A-sy-ri và thấy một bàn thờ ở Ða-mách, Vua A-kha liền gởi về cho Tư Tế U-ri-a mô hình của bàn thờ đó, với kiểu mẫu và kích thước giống hệt bàn thờ ông đã thấy. 11 Tư Tế U-ri-a bèn làm một bàn thờ đúng y như kiểu mẫu mà Vua A-kha khi ở Ða-mách đã gởi về. Tư Tế U-ri-a thực hiện xong việc đó trước khi Vua A-kha ở Ða-mách trở về. 12 Khi Vua A-kha ở Ða-mách trở về, ông đến xem bàn thờ ấy. Vua đến gần bàn thờ mới, bước lên, 13 dâng của lễ thiêu, của lễ chay, đổ của lễ quán, và rảy huyết các con vật hiến tế của lễ cầu an nơi bàn thờ ấy. 14 Ông cho di chuyển bàn thờ bằng đồng vốn ở trước đền thờ, tức ở khoảng giữa bàn thờ ông mới làm và Ðền Thờ Chúa, mà đem đặt ở phía bắc của bàn thờ ông mới làm. 15 Vua A-kha truyền cho Tư Tế U-ri-a, “Từ nay hãy dâng của lễ thiêu buổi sáng và của lễ chay buổi chiều, cùng với của lễ thiêu của vua, của lễ chay của vua, của lễ thiêu của toàn dân trong nước, của lễ chay của họ, của lễ quán của họ, và rảy huyết các con vật hiến tế dâng làm của lễ thiêu trên bàn thờ lớn nầy, còn bàn thờ bằng đồng thì chỉ để dành cho ta cầu vấn.” 16 Tư Tế U-ri-a làm y theo mọi điều Vua A-kha đã truyền cho ông.

17 Kế đó Vua A-kha cho gỡ bỏ những chiếc xe bằng đồng và những bồn nước trên các xe đó xuống. Ông cũng lấy bể nước đặt trên lưng các con bò bằng đồng đem đặt trên một bệ bằng đá. 18 Ông cũng dẹp bỏ lều che nắng dùng trong ngày Sa-bát nơi sân đền thờ; còn lối vào dành đặt biệt cho vua ở phía trước Ðền Thờ Chúa ông cũng dẹp bỏ. Ông làm tất cả những việc ấy để làm vừa lòng vua A-sy-ri.

19 Những việc khác A-kha đã làm há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? 20 A-kha an giấc với các tổ tiên ông và được chôn bên cạnh họ trong Thành Ða-vít. Ê-xê-chia con trai ông lên ngôi kế vị.

Hô-sê-a Trị Vì I-sơ-ra-ên

(2 Sử 18:9-12)

17 Năm thứ mười hai của triều đại A-kha vua Giu-đa, Hô-sê-a con của Ê-la lên ngôi làm vua I-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri. Ông trị vì chín năm. Ông làm điều tội lỗi trước mặt Chúa, nhưng không như các vua I-sơ-ra-ên trước ông. Sanh-ma-nê-se vua A-sy-ri kéo đến đánh ông. Hô-sê-a trở thành một chư hầu của vua ấy và phải nộp triều cống cho vua ấy. Nhưng vua A-sy-ri thấy Hô-sê-a có ý làm phản, vì ông đã sai sứ giả đến cầu xin Sô vua Ai-cập đến giúp đỡ. Ngoài ra ông cũng không nộp triều cống hằng năm cho vua A-sy-ri như thường làm nữa. Vì thế vua A-sy-ri đến bắt ông và giam ông vào ngục.

Dân I-sơ-ra-ên Bị Lưu Ðày

Bấy giờ vua A-sy-ri xâm lăng xứ và tiến đánh Sa-ma-ri. Vua ấy bao vây thành Sa-ma-ri ba năm. Năm thứ chín của triều đại Hô-sê-a, vua A-sy-ri chiếm được thành Sa-ma-ri. Vua ấy bắt dân I-sơ-ra-ên đem về A-sy-ri. Ông cho họ định cư tại Ha-la, bên bờ Sông Ha-bơ, miền Gô-xan, và trong các thành của xứ Mê-đi.

Việc ấy xảy ra vì dân I-sơ-ra-ên đã phạm tội đối với Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, Ðấng đã đem họ ra khỏi đất Ai-cập, tức khỏi tay của Pha-ra-ôn vua Ai-cập. Họ đã thờ phượng các thần khác, sống theo các tập tục của những dân Chúa đã đuổi đi trước mặt dân I-sơ-ra-ên, và làm theo các thói tục do các vua I-sơ-ra-ên bày ra.

Dân I-sơ-ra-ên đã lén lút làm những việc không đẹp lòng Chúa, Ðức Chúa Trời của họ. Họ đã xây dựng cho họ những tế đàn trên các nơi cao trong các thành của họ, từ những tháp canh cho đến những thành trì kiên cố. 10 Họ dựng cho họ những trụ thờ bằng đá và những trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra trên các núi đồi và dưới những cây xanh. 11 Họ thiêu dâng các lễ vật trên các tế đàn ở những nơi cao, giống như các dân Chúa đã đuổi đi trước mặt họ. Họ làm những điều tội lỗi chọc giận Chúa. 12 Họ thờ các thần tượng mà Chúa đã bảo, “Các ngươi chớ thờ chúng.” 13 Tuy Chúa đã sai các đấng tiên tri và các nhà tiên kiến đến cảnh cáo I-sơ-ra-ên và Giu-đa rằng, “Hãy quay khỏi những đường lối tội lỗi của các ngươi, và hãy tuân giữ những điều răn và mạng lịnh của Ta, tức toàn bộ luật pháp mà Ta đã truyền cho tổ tiên các ngươi và mọi điều Ta đã sai các tôi tớ Ta là các tiên tri rao bảo cho các ngươi.” 14 Nhưng họ không nghe và cứ ương ngạnh, giống như tổ tiên của họ đã làm, đó là những người đã không tin vào Chúa, Ðức Chúa Trời của họ. 15 Họ coi thường các mạng lịnh của Ngài và các giao ước Ngài đã lập với tổ tiên họ. Họ cũng coi thường những lời cảnh cáo mà Ngài đã sai các sứ giả của Ngài đến cảnh cáo họ. Họ cứ đi theo các thần tượng giả dối và trở thành những kẻ giả dối. Họ bắt chước các dân tộc chung quanh họ, tức các dân tộc mà Chúa đã căn dặn họ không được làm như các dân tộc ấy. 16 Họ loại bỏ Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, mà đúc cho họ tượng hai con bò con và dựng những trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra lên để thờ lạy. Họ thờ phượng các thiên binh trên trời và thờ lạy Thần Ba-anh. 17 Họ thiêu sống con trai và con gái của họ trong lửa để dâng cho các thần tượng. Họ tin theo các phù thủy và các thầy bói. Họ bán chính mình để làm những tội lỗi gớm ghiếc trước mặt Chúa và chọc giận Ngài. 18 Vì thế Chúa rất giận dân I-sơ-ra-ên, và Ngài đã cất bỏ họ khỏi thánh nhan Ngài, chỉ còn lại chi tộc Giu-đa.

19 Nhưng người Giu-đa cũng không vâng giữ các điều răn của Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, nhưng đi theo các thói tục người I-sơ-ra-ên đã bày ra. 20 Vì thế Chúa đã từ bỏ toàn thể con cháu của I-sơ-ra-ên. Ngài phạt họ và phó họ vào tay những kẻ cướp đoạt họ cho đến khi Ngài loại hẳn họ ra khỏi thánh nhan Ngài.

21 Khi Ngài xé rách dân I-sơ-ra-ên ra khỏi nhà Ða-vít, họ lập Giê-rô-bô-am con của Nê-bát lên làm vua. Giê-rô-bô-am đã lôi kéo dân I-sơ-ra-ên xa cách Chúa và đã xúi họ phạm tội trọng. 22 Dân I-sơ-ra-ên cứ tiếp tục đi theo những tội lỗi Giê-rô-bô-am đã gây ra. Họ không chịu từ bỏ những tội lỗi ấy 23 cho đến khi Chúa cất bỏ họ khỏi thánh nhan Ngài, như Ngài đã bảo trước qua các vị tiên tri, tức các tôi tớ Ngài. Vì thế I-sơ-ra-ên bị lưu đày khỏi xứ sở của họ, phải đến sống ở A-sy-ri cho đến ngày nay.

Dân Ngoại Ðịnh Cư tại Sa-ma-ri

24 Vua A-sy-ri bắt dân từ Ba-by-lôn, Cư-thác, A-va, Ha-mát, và Sê-phạc-va-im đến định cư trong các thành của Sa-ma-ri, thế chỗ của dân I-sơ-ra-ên. Các dân ấy đến chiếm lấy Sa-ma-ri và định cư trong các thành của xứ ấy. 25 Khi mới đến định cư tại đó, họ không thờ phượng Chúa, nên Chúa đã sai các sư tử đến vồ chết một số người của họ. 26 Người ta tâu với vua A-sy-ri rằng, “Các dân tộc mà ngài đã trục xuất và đày đến định cư trong các thành ở Sa-ma-ri không biết cách thức thờ phượng vị thần của xứ ấy. Vì thế vị thần của xứ ấy đã sai các sư tử đến vồ chết một số người của họ, bởi họ không biết cách thức thờ phượng vị thần ấy như thế nào.”

27 Vua A-sy-ri bèn truyền lịnh, “Các ngươi hãy chọn một người trong số những tư tế đã bị bắt đem lưu đày. Hãy đưa người ấy trở về xứ để sống tại đó, hầu người ấy sẽ dạy chúng biết cách thờ phượng vị thần của xứ ấy.” 28 Vậy một tư tế trong số những tư tế bị bắt đem lưu đày khỏi Sa-ma-ri được cho trở về và sống tại Bê-tên. Người ấy dạy cho họ biết phải thờ phượng Chúa như thể nào.

29 Tuy nhiên mỗi dân tộc đều làm những tượng thần riêng của họ, đem đặt những tượng thần ấy vào các khám thờ, rồi mang vào để trong các đền miếu trên các nơi cao mà người Sa-ma-ri đã xây. Dân tộc nào cũng lập những vị thần riêng cho mình trong các thành họ ở. 30 Dân Ba-by-lôn dựng tượng Thần Su-cốt Bê-nốt, dân Cút lập tượng Thần Nẹt-ganh, dân Ha-mát lập tượng Thần A-si-ma, 31 dân A-vi lập tượng Thần Níp-ha và Tạt-tắc, dân Sê-phạc-va-im thiêu con thơ của họ trong lửa cho Thần Át-ram-mê-léc và Thần A-nam-mê-léc, các thần của dân Sê-phạc-va-im. 32 Các dân tộc ấy cũng thờ phượng Chúa và tự chọn trong vòng họ đủ hạng người mà lập làm các tư tế cho các đền miếu ở những nơi cao. Các tư tế ấy thay mặt họ dâng các con vật hiến tế trên các tế đàn ở những nơi cao. 33 Như vậy các dân tộc ấy vừa thờ phượng Chúa nhưng cũng thờ phượng các thần của họ. Họ cứ giữ các phong tục mà dân tộc họ đã có trước khi bị lưu đày. 34 Họ vẫn tiếp tục giữ các phong tục ngày trước của họ cho đến ngày nay. Họ không kính sợ Chúa và cũng không tuân giữ các quy tắc, mạng lịnh, luật pháp, hay điều răn mà Chúa đã truyền cho các con cháu Gia-cốp, người Ngài đã đặt tên là I-sơ-ra-ên. 35 Chúa đã lập giao ước với dân I-sơ-ra-ên và truyền cho họ rằng, “Các ngươi chớ thờ phượng các thần khác, chớ thờ lạy chúng, chớ phục vụ chúng, và cũng chớ dâng các con vật hiến tế cho chúng. 36 Nhưng các ngươi chỉ thờ phượng Chúa, Ðấng đã đưa cánh tay quyền năng của Ngài ra, đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập. Các ngươi chỉ thờ lạy một mình Ngài và chỉ dâng các con vật hiến tế lên Ngài. 37 Những quy tắc, mạng lịnh, luật pháp, và điều răn mà Ngài đã viết ra cho các ngươi, các ngươi phải cẩn thận vâng giữ. Các ngươi chớ thờ phượng các thần khác. 38 Các ngươi chớ quên giao ước Ta đã lập với các ngươi. Các ngươi chớ thờ lạy các thần khác. 39 Nhưng các ngươi chỉ thờ phượng Chúa, Ðức Chúa Trời của các ngươi. Ngài sẽ giải cứu các ngươi khỏi tay mọi kẻ thù của các ngươi.”

40 Các dân tộc mới đến cũng không nghe theo. Họ vẫn cứ tiếp tục thờ phượng các thần riêng của họ theo phong tục trước kia của họ. 41 Vậy các dân tộc đó vừa thờ phượng Chúa và cũng vừa thờ phượng các thần do họ chạm khắc hoặc đúc nên. Sau đó con cháu họ và con cháu của con cháu họ cứ tiếp tục theo truyền thống của tổ tiên họ mà làm như thế cho đến ngày nay.

Ê-xê-chia Trị Vì Giu-đa

(2 Sử 29:1-2; 31:1, 20-21; 2Vua 17:3-7)

18 Năm thứ ba của triều đại Hô-sê-a con của Ê-la vua I-sơ-ra-ên, Ê-xê-chia con của A-kha vua Giu-đa bắt đầu trị vì. Ông được hai mươi lăm tuổi khi bắt đầu làm vua. Ông trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là A-bi con gái của Xê-ca-ri-a. Ông làm điều tốt trước mặt Chúa giống như Ða-vít tổ tiên ông đã làm. Ông dẹp bỏ những nơi cao, đập vỡ các tượng thờ bằng đá, và đốn hạ những trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra. Ông đập nát con rắn bằng đồng Môi-se đã làm, vì cho đến lúc đó dân I-sơ-ra-ên vẫn còn dâng hương cho con rắn bằng đồng ấy. Người ta gọi nó là Nê-hút-tan. Ông tin cậy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. Trong số những vị vua Giu-đa sau ông, không ai được như thế, và trong số các vị vua trước ông, cũng chẳng ai được như vậy, vì ông bám chặt lấy Chúa. Ông chẳng rời bỏ Ngài, nhưng gìn giữ những điều răn mà Chúa đã truyền cho Môi-se. Chúa ở với ông, nên ông làm gì cũng được thành công. Ông nổi lên chống lại vua A-sy-ri và không chịu thần phục vua ấy nữa. Ông tiến đánh dân Phi-li-tin đến tận Ga-xa và những vùng phụ cận, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.

Năm thứ tư của triều đại Ê-xê-chia, tức năm thứ bảy của triều đại Hô-sê-a con của Ê-la vua I-sơ-ra-ên, Sanh-ma-nê-se vua A-sy-ri đến tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành ấy. 10 Cuối ba năm vua ấy chiếm được thành. Năm thứ sáu của triều đại Ê-xê-chia, tức năm thứ chín của triều đại Hô-sê-a vua I-sơ-ra-ên, Sa-ma-ri bị thất thủ. 11 Vua A-sy-ri bắt dân I-sơ-ra-ên đem đi lưu đày ở A-sy-ri. Ông cho họ định cư bên bờ Sông Ha-bơ, miền Gô-xan, và trong các thành của xứ Mê-đi, 12 bởi vì họ không vâng theo tiếng Chúa, Ðức Chúa Trời của họ, nhưng vi phạm giao ước Ngài, tức tất cả những điều Môi-se tôi tớ Chúa đã truyền. Họ không nghe theo và cũng chẳng thi hành những điều ấy.

Sên-na-chê-ríp Xâm Lăng Giu-đa

(2 Sử 32:9-19; Ê-sai 36:1-12)

13 Năm thứ mười bốn của triều đại Vua Ê-xê-chia, Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri đến tấn công các thành kiên cố của Giu-đa và chiếm lấy chúng. 14 Ê-xê-chia vua Giu-đa sai sứ giả đến gặp vua A-sy-ri tại La-kích và tâu rằng, “Tôi có lỗi. Xin ngài lui binh. Ngài muốn điều chi, tôi cũng chịu cả.” Vua A-sy-ri đòi Ê-xê-chia vua Giu-đa phải nộp mười ngàn hai trăm ký bạc và một ngàn hai mươi ký vàng.[a] 15 Vì thế Ê-xê-chia phải lấy tất cả bạc trong Ðền Thờ Chúa và trong các kho tàng của hoàng cung nộp cho vua ấy. 16 Bấy giờ Ê-xê-chia phải gỡ vàng bọc trên những cánh cửa của Ðền Thờ Chúa, tức vàng mà Ê-xê-chia vua Giu-đa đã cẩn trên những cánh cửa ấy, để đem nộp cho vua A-sy-ri.

17 Dầu vậy vua A-sy-ri vẫn sai Tạt-tan, Ráp-sa-ri, và Ráp-sa-kê,[b] cùng một đạo binh rất lớn từ La-kích đến đánh Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Họ tiến lên và hãm áp Giê-ru-sa-lem. Khi đến gần thành, họ tiến vào, rồi dừng lại tại đầu kênh dẫn nước của Thượng Hồ, nơi con đường dẫn đến cánh đồng của thợ nện, 18 và yêu cầu được hội kiến với vua. Ê-li-a-kim con của Hinh-ki-a quan tổng quản hoàng cung, Sép-na quan ký lục, và Giô-a con của A-sáp quan quản lý văn khố đi ra gặp họ.

19 Ráp-sa-kê nói với họ, “Hãy về và bảo Ê-xê-chia: Ðại đế của ta là vua A-sy-ri đã phán như thế nầy: Ngươi dựa vào gì mà tự tin như vậy? 20 Bộ ngươi tưởng rằng trong chiến tranh, lời nói suông có thể thay thế được mưu lược và sức mạnh sao? Ngươi dựa vào gì mà dám chống lại ta? 21 Kìa, ngày nay ngươi dựa vào Ai-cập chăng? Ðó chỉ là một cây sậy gãy. Ai dựa vào nó ắt sẽ bị nó đâm thủng bàn tay. Bất cứ kẻ nào dựa vào Pha-ra-ôn vua Ai-cập sẽ bị như vậy. 22 Còn nếu ngươi bảo ta rằng, ‘Chúng tôi tin cậy Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi,’ thì há chẳng phải Ê-xê-chia đã dẹp bỏ các tế đàn của Ngài trên các nơi cao, rồi bảo dân Giu-đa và dân Giê-ru-sa-lem rằng, ‘Các ngươi chỉ thờ phượng Ngài ở trước bàn thờ tại Giê-ru-sa-lem mà thôi’ sao? 23 Bây giờ hãy đánh cuộc với chủ ta là vua A-sy-ri đi. Ta sẽ cho các ngươi hai ngàn con ngựa, nếu các ngươi có đủ kỵ binh để cỡi. 24 Liệu các ngươi nhờ cậy vào các xe chiến mã và các kỵ binh của Ai-cập mà có thể chống cự nổi một tiểu tướng trong đám đầy tớ của chủ ta chăng? 25 Hơn nữa há chẳng phải là ý Chúa mà ta đến đây để hủy diệt xứ nầy sao? Chúa đã bảo ta rằng: Hãy lên đánh xứ đó và tiêu diệt nó đi.”

26 Bấy giờ Ê-li-a-kim con của Hinh-ki-a, Sép-na, và Giô-a nói với Ráp-sa-kê rằng, “Xin ngài nói với các tôi tớ ngài bằng tiếng A-ram, vì chúng tôi hiểu tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa, kẻo dân ở trên tường thành nghe được.”

27 Nhưng Ráp-sa-kê đáp lại họ, “Há chủ ta đã sai ta đến chỉ để nói những lời nầy với chủ các ngươi và với các ngươi, mà không nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, tức những người đang ăn phân và uống nước tiểu của mình cùng với các ngươi, nữa sao?”

28 Ðoạn Ráp-sa-kê đứng dậy và nói lớn bằng tiếng Giu-đa rằng, “Hãy nghe lời đại đế của ta là vua A-sy-ri. 29 Vua của ta phán như thế nầy: Chớ để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi, vì hắn không thể giải thoát các ngươi khỏi tay ta đâu. 30 Chớ để Ê-xê-chia xúi giục các ngươi nương cậy vào Chúa mà rằng, ‘Chúa chắc chắn sẽ giải cứu chúng ta, và thành nầy sẽ không bị phó vào tay vua A-sy-ri.’ 31 Chớ nghe theo lời của Ê-xê-chia, vì vua A-sy-ri phán thế nầy: Hãy làm hòa với ta và ra đây với ta, thì mỗi người trong các ngươi sẽ được ăn hoa quả của vườn nho và vườn vả của mình và sẽ được uống nước giếng của mình, 32 cho đến khi ta đến đem các ngươi qua một xứ giống như xứ của các ngươi, một xứ có lúa và rượu, một xứ có bánh và vườn nho, một xứ có dầu ô-liu và mật, để các ngươi sống và không chết. Chớ để Ê-xê-chia dẫn dụ các ngươi đi sai lạc khi hắn nói rằng, ‘Chúa sẽ giải cứu chúng ta.’ 33 Có thần của dân tộc nào đã giải cứu xứ sở của họ khỏi tay vua A-sy-ri chưa? 34 Các thần của dân Ha-mát và dân Ạc-pát ở đâu? Các thần của dân Sê-phạc-va-im, dân Hê-na, và dân I-va ở đâu? Các thần ấy có giải cứu Sa-ma-ri khỏi tay ta chăng? 35 Trong tất cả các thần của các nước, có thần nào đã giải cứu được nước của họ khỏi tay ta chăng? Thế thì Chúa há có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta được sao?”

36 Nhưng dân chúng đều im lặng, chẳng ai đáp lại một lời, vì vua đã truyền rằng, “Ðừng trả lời hắn.” 37 Bấy giờ Ê-li-a-kim con của Hinh-ki-a quan tổng quản hoàng cung, Sép-na quan bí thư, và Giô-a con của A-sáp quan quản lý văn khố xé rách áo họ, rồi vào thành gặp vua Ê-xê-chia tâu trình những lời Ráp-sa-kê đã nói.

Ê-xê-chia Tham Vấn Ê-sai

(Ê-sai 37:1-13)

19 Khi Vua Ê-xê-chia nghe những lời đó, ông xé áo ông, mặc vải gai, rồi đi vào Ðền Thờ Chúa. Ông sai Ê-li-a-kim quan tổng quản hoàng cung, Sép-na quan bí thư, và các vị tư tế trưởng thượng mặc vải gai đến gặp Tiên Tri Ê-sai con của A-mô. Họ nói với ông ấy, “Vua Ê-xê-chia nói như thế nầy: Ngày nay là ngày khốn quẫn, ngày bị trách phạt, và ngày tủi nhục. Các thai nhi đã đến ngày chào đời mà mẹ không có sức để sinh ra. Có lẽ Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, đã nghe thấu tất cả những lời của Ráp-sa-kê, kẻ được vua A-sy-ri chủ hắn sai đến để phỉ báng Ðức Chúa Trời hằng sống rồi. Ước gì Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, sẽ quở phạt những kẻ nói những lời Ngài đã nghe. Vậy xin ông dâng lời cầu nguyện cho những người còn sót lại trong nước.”

Khi các tôi tớ của Vua Ê-xê-chia đến với Ê-sai, Tiên Tri Ê-sai nói với họ, “Hãy về nói với chủ các ngươi, Chúa phán thế nầy: ‘Ðừng sợ vì những lời các ngươi đã nghe, tức những lời các tôi tớ của vua A-sy-ri đã xúc phạm đến Ta. Chính Ta sẽ đặt một linh trong nó, để nó sẽ nghe tiếng đồn mà rút về nước của nó. Ta sẽ làm cho nó bị giết bằng gươm trong nước của nó.’”

Khi Ráp-sa-kê được tin vua của ông đã rời khỏi La-kích, ông rút quân về và thấy vua A-sy-ri đang tấn công Líp-na. Bấy giờ vua A-sy-ri nhận được tin về Tia-ha-ca vua Ê-thi-ô-pi rằng, “Kìa, vua ấy đang kéo quân ra chống lại ngài,” ông sai các sứ giả đến nói với Ê-xê-chia một lần nữa, 10 “Hãy nói với Ê-xê-chia vua Giu-đa như thế nầy: Chớ để Ðức Chúa Trời của ngươi, Ðấng ngươi nhờ cậy, gạt ngươi khi bảo rằng Giê-ru-sa-lem sẽ không rơi vào tay vua A-sy-ri. 11 Kìa, hãy xem những gì vua A-sy-ri đã làm cho mọi nước: tiêu diệt tất cả. Còn ngươi, ngươi há có thể thoát khỏi sao? 12 Các thần của các dân mà tổ tiên ta đã tiêu diệt, như thần của dân Gô-xan, thần của dân Ha-ran, thần của dân Rê-xép, và thần của dân Ê-đen ở Tên Át-sa, có giải cứu được họ chăng? 13 Vua Ha-mát, vua Ạc-pát, vua Thành Sê-phạc-va-im, vua Hê-na, và vua I-va bây giờ đâu rồi?”

Ê-xê-chia Cầu Nguyện

(Ê-sai 37:14-20)

14 Khi Ê-xê-chia nhận được thư do tay các sứ giả trao, ông đọc, rồi ông đi lên Ðền Thờ Chúa và mở bức thư ấy ra trước mặt Chúa. 15 Ê-xê-chia cầu nguyện với Chúa rằng, “Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng đang ngự trên các chê-ru-bim. Chỉ một mình Ngài là Ðức Chúa Trời của tất cả các dân các nước trên thế gian. Chính Ngài đã dựng nên trời và đất. 16 Xin nghiêng tai và nghe, Chúa ôi. Xin mở mắt và nhìn, Chúa ôi. Xin nghe những lời của Sên-na-chê-ríp đã gởi đến để nhục mạ Ðức Chúa Trời hằng sống. 17 Lạy Chúa, thật sự Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri đã hủy diệt các nước và xứ sở của các nước ấy, 18 đã ném các thần tượng của họ vô lửa, vì chúng chẳng phải là thần mà chỉ là sản phẩm của bàn tay loài người làm ra; chúng chỉ là gỗ và đá, cho nên chúng đã bị hủy diệt là đúng lắm. 19 Nhưng bây giờ, lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng con, con cầu xin Ngài: xin cứu chúng con khỏi tay của vua ấy, để mọi nước trên đất biết rằng chỉ một mình Ngài là Ðức Chúa Trời mà thôi, Chúa ôi.”

Lời Tiên Tri về Sự Thất Bại của Sên-na-chê-ríp

(2 Sử 32:20-21; Ê-sai 37:21-38)

20 Bấy giờ Ê-sai con của A-mô gởi lời đến nói với Ê-xê-chia rằng, “Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế nầy: ‘Ta đã nghe lời cầu nguyện của ngươi về việc Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri.’ 21 Ðây là lời của Chúa đã phán về hắn,

Trinh nữ ở Si-ôn sẽ khinh bỉ ngươi và nhạo cười ngươi;
Sau lưng ngươi, con gái ở Giê-ru-sa-lem sẽ lắc đầu.
22 Ngươi đã nhục mạ và khinh bỉ ai?
Ngươi đã lên giọng và giương mắt kiêu căng với ai?
Ngươi đang chống lại Ðấng Thánh của I-sơ-ra-ên đấy!
23 Ngươi đã dùng các sứ giả để phỉ báng Chúa,
Ngươi nói rằng, ‘Với nhiều xe chiến mã,
Ta đã lên những đỉnh cao các núi,
Ta đã lên tận những nơi chót vót của Núi Li-băng;
Ta đã đốn ngã những cây bá hương cao nhất và những cây tùng tốt nhất;
Ta đã vào những miền xa xăm của nó, vào tận rừng rậm thâm u.
24 Ta đã đào giếng và uống nước nơi xứ lạ.
Ta đã làm khô cạn các sông suối ở Ai-cập bằng gót chân ta.’
25 Ngươi há không nghe rằng Ta đã định từ lâu rồi sao?
Những gì Ta đã định từ thời thái cổ, bây giờ Ta cho thực hiện,
Ðó là ngươi phải biến những thành trì kiên cố ấy thành những đống đổ nát hoang tàn.
26 Dân cư ở những nơi đó đều yếu nhược, khiếp sợ, và bối rối;
Chúng đã trở nên như cây cối ngoài đồng, như cỏ non mới mọc, như cỏ mọc trên mái nhà, héo khô trước khi chưa kịp lớn.

27 Nhưng Ta biết ngươi,
Ta biết lúc ngươi đứng dậy và khi ngươi ngồi xuống,
Ta biết lúc ngươi đi ra và khi ngươi đi vào,
Ta cũng biết ngươi lúc ngươi nổi giận chống lại Ta.
28 Vì ngươi đã cả gan nổi giận chống lại Ta,
Những lời ngạo mạn của ngươi đã thấu đến tai Ta,
Nên Ta sẽ xỏ khoen vào lỗ mũi ngươi,
Tra hàm thiếc vào miệng ngươi;
Ta sẽ bắt ngươi phải trở về bằng con đường ngươi đã ra đi.
29 Hỡi Ê-xê-chia,[c] đây sẽ là một dấu hiệu cho ngươi,
Năm nay ngươi sẽ ăn hoa màu tự mọc;
Năm thứ hai ngươi sẽ ăn những gì mọc lên từ các hoa màu ấy;
Năm thứ ba ngươi sẽ gieo, gặt, trồng vườn nho, và ăn trái.
30 Những gì còn sót lại của nhà Giu-đa thì dưới sẽ đâm rễ, trên sẽ ra trái.
31 Vì từ Giê-ru-sa-lem những người sống sót sẽ tràn ra,
Từ núi Si-ôn sẽ tuôn ra một dòng dõi của những người sống sót.
Lòng nóng cháy của Chúa các đạo quân sẽ làm thành việc ấy.

32 Vậy Chúa phán về vua A-sy-ri như thế nầy:

Nó sẽ không vào được thành nầy;
Nó sẽ không bắn một mũi tên vào thành;
Nó sẽ không núp sau thuẫn khiên mà xông tới;
Nó sẽ không đắp lũy tấn công thành.
33 Nó đã dùng đường nào đi tới, nó sẽ theo đường đó trở về;
Nó sẽ không vào được thành nầy,” Chúa phán vậy.
34 “Ta sẽ bảo vệ thành nầy và giải cứu nó,
Vì cớ Ta và vì cớ Ða-vít tôi tớ Ta.”

Sên-na-chê-ríp Thất Bại và Bị Giết

35 Ngay trong đêm đó một thiên sứ của Chúa đi ra và giết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân A-sy-ri. Ðến sáng người ta thức dậy thì chỉ thấy toàn xác chết.

36 Sên-na-chê-ríp vua A-sy-ri rút quân về và ở tại Ni-ni-ve. 37 Một ngày kia, khi ông đang quỳ lạy trong đền thờ của Thần Nít-róc thần của ông, Át-ram-mê-léc và Sa-rê-xê, hai con trai ông, đã dùng gươm đâm ông chết, rồi bỏ trốn sang xứ A-ra-rát. Ê-sạc-hát-đôn con trai ông lên ngôi kế vị.

Ê-xê-chia Bị Bịnh

(2 Sử 32:24-26; Ê-sai 38:1-8)

20 Trong những ngày ấy Ê-xê-chia bị bịnh và gần chết. Tiên Tri Ê-sai con của A-mô đến thăm ông và nói, “Chúa phán rằng: Hãy sắp đặt việc nhà của ngươi, vì ngươi sẽ qua đời. Ngươi sẽ không qua khỏi cơn bịnh nầy.”

Bấy giờ Ê-xê-chia xây mặt vào tường và cầu nguyện với Chúa, “Lạy Chúa, con cầu xin Ngài, xin nhớ đến con, thể nào con đã bước đi cách trung tín và hết lòng trước mặt Ngài, và con đã làm những điều đẹp lòng Ngài.” Rồi Ê-xê-chia bật khóc thảm thiết.

Khi Ê-sai ra đi chưa tới giữa sân, có lời của Chúa đến với ông, “Hãy trở lại và nói với Ê-xê-chia thủ lãnh của dân Ta: Chúa, Ðức Chúa Trời của Ða-vít tổ tiên ngươi, phán rằng: Ta đã nghe lời cầu nguyện của ngươi. Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Ta chắc chắn sẽ chữa lành ngươi. Ngày thứ ba ngươi sẽ đi lên Ðền Thờ Chúa. Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa. Ta sẽ giải cứu ngươi và thành nầy khỏi tay vua A-sy-ri. Ta sẽ bảo vệ thành nầy vì cớ Ta và vì cớ Ða-vít tôi tớ Ta.” Kế đó Ê-sai bảo, “Hãy đem cho tôi một cái bánh làm bằng trái vả. Hãy đắp nó lên chỗ ung độc thì vua sẽ được lành.”

Ê-xê-chia nói với Ê-sai, “Nhờ dấu hiệu nào tôi biết rằng Chúa sẽ chữa lành tôi, và ngày thứ ba tôi có thể đi lên Ðền Thờ Chúa?”

Ê-sai đáp, “Ðây là dấu hiệu của Chúa ban cho ngài, để xác nhận rằng Chúa sẽ làm điều Ngài đã hứa. Ngài muốn thấy bóng mặt trời ngã tới thêm mười độ hay ngã lui mười độ?”

10 Ê-xê-chia đáp, “Bóng ngã tới thêm mười độ là chuyện thường; vậy xin hãy cho bóng ngã lui mười độ.” 11 Tiên Tri Ê-sai cầu xin Chúa, và Ngài khiến bóng mặt trời chiếu trên các bậc thang đo giờ do A-kha xây ngã lui mười độ.

Ê-xê-chia Tiếp Các Sứ Giả Ba-by-lôn

(2 Sử 32:32-33; Ê-sai 39:1-8)

12 Khi ấy Mê-rô-đác Ba-la-đan con của Ba-la-đan vua Ba-by-lôn sai các sứ giả đem thư và quà đến biếu Ê-xê-chia, vì ông ấy có nghe tin Ê-xê-chia bị bịnh. 13 Sau khi Ê-xê-chia nghe các sứ giả tâu xong, ông dẫn họ đi xem tất cả các kho tàng của ông – nào bạc, nào vàng, nào các hương liệu, dầu quý, kho vũ khí, và tất cả những gì chứa trong các kho tàng của ông. Chẳng có vật gì trong cung điện hoặc trong vương quốc của ông mà Ê-xê-chia không cho họ xem.

14 Bấy giờ Tiên Tri Ê-sai đến gặp Vua Ê-xê-chia và hỏi, “Những người ấy nói gì? Và họ từ đâu đến?”

Ê-xê-chia đáp, “Họ đến từ một nước rất xa, từ Ba-by-lôn.”

15 Tiên tri hỏi, “Họ đã thấy những gì trong cung điện của ngài?”

Ê-xê-chia đáp, “Họ đã thấy tất cả những gì trong cung điện của tôi. Chẳng có vật gì trong các kho tàng của tôi mà tôi không cho họ xem.”

16 Bấy giờ Ê-sai nói với Ê-xê-chia, “Xin ngài hãy nghe lời của Chúa: 17 Trong những ngày đến, tất cả những gì có trong cung điện của ngài và tất cả những gì tổ tiên ngài đã tích trữ cho đến ngày nay sẽ bị mang qua Ba-by-lôn; chẳng còn chừa lại vật chi. Chúa phán vậy. 18 Một số con cái của ngài do chính ngài sinh ra cũng sẽ bị bắt đi. Chúng sẽ trở thành các hoạn quan trong cung điện của vua Ba-by-lôn.”

19 Ê-xê-chia nói với Ê-sai, “Lời của Chúa do ông truyền cũng tốt thôi,” bởi vì Ê-xê-chia nghĩ, “Miễn là trong đời của mình có hòa bình và an ninh là được rồi; vậy tại sao là không tốt?”

Ê-xê-chia Băng Hà

20 Những việc khác của Ê-xê-chia, tất cả quyền thế của ông, thể nào ông đã xây hồ nước, làm hệ thống dẫn nước, và dẫn nước vào kinh thành, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? 21 Ê-xê-chia an giấc với các tổ tiên ông. Ma-na-se con trai ông lên ngôi kế vị.

Ma-na-se Trị Vì Giu-đa

(2 Sử 33:1-10, 18-20)

21 Ma-na-se được mười hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Hếp-xi-ba. Ông làm điều tội lỗi trước mặt Chúa, theo những cách gớm ghiếc của các dân Chúa đã đuổi đi trước mặt dân I-sơ-ra-ên. Ông xây lại các tế đàn trên những nơi cao mà Ê-xê-chia cha ông đã phá hủy. Ông xây dựng các bàn thờ cho Thần Ba-anh, làm một trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra giống như A-háp vua I-sơ-ra-ên đã làm. Ông thờ tất cả các thần linh trên không trung và cúng tế chúng. Ông xây các bàn thờ cho các tà thần trong Ðền Thờ Chúa, nơi Chúa đã phán, “Ta sẽ đặt danh Ta tại Giê-ru-sa-lem.” Ông xây bàn thờ cho các thần linh trên không trung ngay trong hai sân của Ðền Thờ Chúa. Ông thiêu con trai ông trong lửa để dâng nó cho thần tượng. Ông thực hành phép phù thủy và chiêm tinh. Ông cậy vào các đồng bóng và các thầy bói. Ông làm nhiều điều tội lỗi trước mặt Chúa và chọc giận Ngài. Ông tạc tượng Nữ Thần A-sê-ra, rồi đem để nó trong đền thờ là nơi Chúa đã bảo Ða-vít và Sa-lô-môn con trai vua ấy rằng, “Ta sẽ đặt danh Ta ngự mãi trong đền thờ nầy và trong Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn trong các chi tộc của I-sơ-ra-ên. Nếu chúng cẩn thận làm theo mọi điều Ta đã truyền cho chúng và vâng theo tất cả luật pháp mà Môi-se tôi tớ Ta đã truyền cho chúng, Ta sẽ không để cho chân của dân I-sơ-ra-ên phải đi lang thang ra khỏi xứ mà Ta đã ban cho tổ tiên của chúng.” Nhưng họ không nghe. Ma-na-se đã dẫn dắt họ đi sai lạc, khiến họ phạm nhiều tội lỗi hơn tất cả các nước mà Chúa đã hủy diệt trước mặt dân I-sơ-ra-ên.

10 Chúa đã dùng các tôi tớ Ngài, tức các tiên tri, nói với họ, 11 “Bởi vì Ma-na-se vua Giu-đa đã làm những việc gớm ghiếc ấy –Ông đã làm những việc gian tà hơn tất cả các dân A-mô-ri đã làm trước ông. Ông đã gây cho Giu-đa phạm tội thờ các thần tượng do ông làm ra– 12 nên Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế nầy: Ta sẽ giáng những tai họa xuống trên Giê-ru-sa-lem và Giu-đa đến nỗi ai nghe đến sẽ lùng bùng lỗ tai. 13 Ta sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem thước dây đã dùng để đo Sa-ma-ri và sẽ dùng dây dọi đã áp dụng cho nhà A-háp. Ta sẽ chùi sạch Giê-ru-sa-lem như người ta chùi một cái dĩa, chùi sạch nó rồi úp nó xuống. 14 Ta sẽ vứt bỏ những gì còn lại của cơ nghiệp Ta. Ta sẽ phó chúng vào tay quân thù của chúng. Chúng sẽ trở thành một miếng mồi, một chiến lợi phẩm cho quân thù của chúng. 15 Bởi vì chúng đã làm những việc tội lỗi trước mặt Ta, chọc giận Ta, từ khi tổ tiên chúng ra khỏi Ai-cập cho đến ngày nay.”

16 Ngoài ra Ma-na-se còn làm đổ máu của nhiều người vô tội cho đến khi ông làm ngập Giê-ru-sa-lem với máu vô tội từ đầu nầy đến đầu kia, ngoài những tội ông đã làm để gây cho Giu-đa phạm tội, tức khiến họ làm những điều tội lỗi trước mặt Chúa.

17 Những việc khác của Ma-na-se, tất cả những việc ông làm, những tội lỗi ông phạm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? 18 Ma-na-se an giấc với các tổ tiên ông và được chôn trong vườn ngự uyển ở hoàng cung, tức trong Vườn U-xa. A-môn con trai ông lên ngôi kế vị.

A-môn Trị Vì Giu-đa

(2 Sử 33:21-25)

19 A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Mê-su-lê-mết con gái của Ha-ru cháu của Giọt-ba. 20 Ông làm điều tội lỗi trước mặt Chúa như Ma-na-se cha ông đã làm. 21 Ông đi theo mọi đường lối cha ông đã đi. Ông phục vụ các thần tượng cha ông đã phục vụ, và ông thờ phượng chúng. 22 Ông lìa bỏ Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên ông và không đi theo các đường lối Chúa. 23 Các tôi tớ của A-môn lập mưu làm phản và hạ sát ông ngay trong cung điện. 24 Nhưng dân trong nước xử tử tất cả những kẻ đã âm mưu và giết Vua A-môn; rồi dân trong nước lập Giô-si-a con trai ông lên ngôi kế vị.

25 Tất cả những việc khác của A-môn làm há chẳng được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? 26 Ông được chôn trong mộ của ông trong Vườn U-xa. Sau đó Giô-si-a con trai ông lên ngôi kế vị.

Giô-si-a Trị Vì Giu-đa

(2 Sử 34:1-2)

22 Giô-si-a được tám tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Giê-đi-đa con gái của A-đai-a cháu của Bô-cát. Ông làm điều tốt trước mặt Chúa và bước đi trong mọi đường lối của Ða-vít tổ tiên ông. Ông chẳng xây qua bên phải hoặc bên trái.

Thượng Tế Hinh-ki-a Tìm Ðược Sách Luật Pháp

(2 Sử 34:8-28)

Năm thứ mười tám của triều đại Giô-si-a, vua sai Sa-phan con của A-xa-li-a cháu của Mê-su-lam, quan bí thư của vua, đến Ðền Thờ Chúa và dặn rằng, “Hãy đi gặp Thượng Tế Hinh-ki-a và nói với ông ấy: Hãy đếm tất cả số tiền những người giữ cổng đã nhận của dân khi họ vào Ðền Thờ Chúa. Hãy trao số tiền đó cho những người có trách nhiệm bảo trì Ðền Thờ Chúa, để họ sửa sang những chỗ hư hỏng của Ðền Thờ, tức giao nó cho những thợ mộc, thợ xây cất, và thợ nề, để họ mua gỗ và đá cắt sẵn mà tu bổ Ðền Thờ. Nhưng không nên bắt họ phải khai báo về số tiền đã giao vào tay họ, vì họ làm việc chân thật.”

Thượng Tế Hinh-ki-a nói với Sa-phan quan bí thư rằng, “Tôi có tìm được cuốn sách luật pháp trong Ðền Thờ Chúa.” Ðoạn Hinh-ki-a trao cuốn sách đó cho Sa-phan. Ông ta lấy và đọc. Sau đó Sa-phan quan bí thư đến gặp vua và tâu, “Bầy tôi của hoàng thượng đã đến lấy tất cả số tiền trong Ðền Thờ và trao cho những người có trách nhiệm sửa sang Ðền Thờ Chúa rồi.” 10 Sa-phan quan bí thư tâu tiếp, “Tư Tế Hinh-ki-a có trao cho hạ thần một cuốn sách.” Rồi Sa-phan đọc lớn tiếng trước mặt vua cho vua nghe.

Nữ Tiên Tri Hun-đa

11 Khi vua nghe xong những lời trong sách luật pháp, vua xé áo của ông, 12 rồi vua ra lịnh cho Tư Tế Hinh-ki-a, A-hi-cam con của Sa-phan, Ách-bơ con của Mi-cai-a, Sa-phan quan bí thư, và A-sa-gia cận thần của vua rằng, 13 “Hãy đi, cầu vấn Chúa cho ta, cho dân, và cho cả Giu-đa, theo như lời trong sách mới tìm được, vì cơn thịnh nộ của Chúa đang nhen nhúm nghịch lại chúng ta thật lớn thay, bởi tổ tiên chúng ta đã không vâng theo những lời trong sách nầy mà làm theo những điều đã viết cho chúng ta.”

14 Vậy Tư Tế Hinh-ki-a, A-hi-cam, Ách-bơ, Sa-phan, và A-sa-gia đi gặp Nữ Tiên Tri Hun-đa vợ của Sanh-lum con của Tích-va, cháu của Hạc-ha. Sanh-lum là người quản lý các áo lễ. Bà ấy sống ở Giê-ru-sa-lem, trong Quận Nhì. Họ đến tham khảo ý kiến của bà. 15 Bà nói với họ, “Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán rằng: Hãy về nói với người đã sai các ông đến gặp tôi như thế nầy: 16 Chúa phán, ‘Ta chắc chắn sẽ giáng tai họa trên nơi nầy và trên dân cư của nó y như những lời trong sách mà vua Giu-đa đã nghe đọc, 17 bởi vì chúng đã lìa bỏ Ta mà thiêu dâng các lễ vật cho các thần khác. Chúng đã chọc giận Ta bằng những công việc của tay chúng. Vì vậy cơn thịnh nộ của Ta đã nhen nhúm nghịch lại chốn nầy, và nó sẽ không thể bị dập tắt được nữa.’ 18 Còn về vua Giu-đa, người đã sai các ông đi cầu vấn Chúa, xin hãy về nói với người ấy: Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán rằng, ‘Về những lời mà ngươi đã nghe 19 thì vì lòng ngươi đã ăn năn, ngươi biết hạ mình xuống trước mặt Chúa khi ngươi nghe Ta nói nghịch lại chốn nầy và nghịch lại dân nầy rằng chúng sẽ bị hoang vu và sẽ thành nơi nguyền rủa, và vì ngươi đã xé áo ngươi và khóc lóc trước mặt Ta, Ta đã nghe ngươi,’ Chúa phán vậy. 20 ‘Vì thế Ta sẽ cho ngươi được về với các tổ tiên ngươi. Ngươi sẽ được an giấc bình an trong mộ. Mắt ngươi sẽ không thấy những tai họa mà Ta sẽ giáng xuống trên chốn nầy.’” Họ trở về tâu lại cho vua sứ điệp ấy.

Giô-si-a Cải Cách

(2 Sử 34:3-7, 29-33; 35:1-26)

23 Bấy giờ vua cho mời tất cả các vị trưởng lão của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đến gặp ông. Vua đi lên Ðền Thờ Chúa; đi theo vua có mọi người Giu-đa, toàn dân Giê-ru-sa-lem, các tư tế, các vị tiên tri, và mọi người, cả nhỏ lẫn lớn. Vua đọc cho họ nghe mọi lời trong Sách Giao Ước đã tìm được trong Ðền Thờ Chúa. Vua đứng bên cây trụ và lập một giao ước trước mặt Chúa, quyết tâm bước theo Chúa, gìn giữ các điều răn, quy tắc, và luật lệ của Ngài cách hết lòng và hết linh hồn mình. Vua cam kết sẽ thực hiện những điều khoản của giao ước đã ghi trong sách ấy. Toàn dân đồng tuyên thệ sẽ thực hiện giao ước ấy.

Vua ra lịnh cho Thượng Tế Hinh-ki-a, những vị tư tế bậc nhì, và những người canh cửa Ðền Thờ phải đem ra khỏi Ðền Thờ tất cả những vật dụng đã làm cho Thần Ba-anh, cho Nữ Thần A-sê-ra, và cho tất cả các thần linh trên không trung. Ông đốt tất cả những thứ đó trong một cánh đồng ở Thung Lũng Kít-rôn, bên ngoài Thành Giê-ru-sa-lem, rồi cho đem tro của chúng đến Bê-tên.

Ông cách chức và đuổi tất cả các tư tế lo việc thờ lạy thần tượng mà các tiên vương của Giu-đa đã phong chức để dâng hương trên các tế đàn ở những nơi cao trong các thành của Giu-đa hoặc ở chung quanh Giê-ru-sa-lem. Ông cũng cách chức và đuổi đi tất cả các tư tế lo việc cúng tế Thần Ba-anh, cúng tế mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, và các thiên binh trên trời.

Ông cất khỏi Ðền Thờ Chúa trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra. Ông đem nó ra ngoài Thành Giê-ru-sa-lem, đến Khe Kít-rôn, đốt nó tại Khe Kít-rôn, nghiền nát nó thành bụi, rồi ném bụi nó trên mồ mả của thường dân.

Ông cũng phá hủy tất cả nhà cửa của bọn đàn ông làm điếm trong Ðền Thờ Chúa, nơi các phụ nữ dệt vải cho Nữ Thần A-sê-ra.

Ông trục xuất tất cả các tư tế ra khỏi các thành ở Giu-đa, rồi làm ra ô uế tất cả các tế đàn ở những nơi cao, nơi các tư tế ấy đã dâng hương, từ Ghê-ba cho đến Bê-e Sê-ba. Ông phá hủy tất cả các tế đàn ở những nơi cao bên ngoài cổng thành, gần bên cổng Giô-suê quan thị trưởng. Các tế đàn ấy ở bên trái cổng thành. Vậy các tư tế của các tế đàn ở những nơi cao không được phép đến phục vụ tại bàn thờ Chúa ở Giê-ru-sa-lem, mà chỉ được ăn bánh không men giữa anh em của họ.

10 Ông cũng làm ô uế tế đàn của Tô-phết trong Thung Lũng Bên Hin-nôm, để từ đó về sau không ai sẽ dùng nó thiêu dâng con trai hay con gái của họ trong lửa cho Thần Mô-lếch nữa.

11 Ông dẹp bỏ khỏi cổng Ðền Thờ Chúa những tượng ngựa mà các tiên vương của Giu-đa đã dâng cho mặt trời. Những tượng ngựa ấy ở kề bên dinh của Na-than Mê-léc, một quan thái giám của triều đình. Ông cũng đốt các xe chiến mã dâng cho mặt trời trong lửa.

12 Ông phá hủy các bàn thờ trên sân thượng của tầng lầu A-kha, mà các tiên vương của Giu-đa đã xây dựng. Còn các bàn thờ Ma-na-se đã xây trong hai sân của Ðền Thờ Chúa, ông cho kéo đổ xuống, đập nát ra thành những mảnh vụn, rồi đem quăng các mảnh vụn đó xuống Khe Kít-rôn.

13 Ông làm cho ô uế các tế đàn trên những nơi cao ở phía đông của Giê-ru-sa-lem, phía nam của Núi Hủy Diệt, mà Sa-lô-môn vua I-sơ-ra-ên đã xây cho Ách-tô-rét[d] nữ thần gớm ghiếc của dân Si-đôn, cho Kê-mốt thần gớm ghiếc của dân Mô-áp, và cho Minh-côm thần gớm ghiếc của dân Am-môn. 14 Ông đập nát các tượng thờ bằng đá ra thành từng mảnh, đốn ngã các trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra, và chất đầy xương người vào những nơi đó.

15 Ngoài ra bàn thờ ở Bê-tên và tế đàn ở nơi cao do Giê-rô-bô-am con của Nê-bát đã xây, khiến cho dân I-sơ-ra-ên phạm tội, ông phá hủy bàn thờ ấy và tế đàn ở đó. Ông thiêu hủy tế đàn ở nơi cao đó và nghiền nó ra thành bụi. Ông cũng đốt trụ thờ Nữ Thần A-sê-ra.

16 Khi Giô-si-a nhìn quanh, ông thấy các ngôi mộ trên núi. Ông cho người đến lấy những hài cốt ra khỏi các ngôi mộ ấy, rồi đem đốt chúng trên bàn thờ để làm ô uế bàn thờ, y như lời của Chúa mà người của Ðức Chúa Trời đã tuyên bố khi Giê-rô-bô-am đứng bên bàn thờ trong kỳ lễ. Ông quay nhìn và thấy lăng mộ của người Ðức Chúa Trời, người đã báo trước về những điều ấy, 17 ông hỏi, “Lăng mộ ta thấy đó là của ai?”

Dân trong thành đáp, “Thưa đó là lăng mộ của người Ðức Chúa Trời từ Giu-đa đến để nói trước những điều nầy, những điều mà hoàng thượng đang làm để chống lại bàn thờ ở Bê-tên.”

18 Ông nói, “Hãy để ông ấy an nghỉ ở đó. Không ai được lấy hài cốt của ông ấy đi.” Vậy họ để yên hài cốt của vị tiên tri ấy ở đó với hài cốt của cụ tiên tri ở Sa-ma-ri.

19 Ngoài ra Giô-si-a cũng phá dỡ tất cả các đền miếu trên những nơi cao trong Thành Sa-ma-ri mà các vua I-sơ-ra-ên đã xây dựng để chọc giận Chúa. Ông làm cho những nơi ấy giống như những gì ông đã làm tại Bê-tên. 20 Ông bắt tất cả tư tế của các tế đàn trên những nơi cao ở đó và giết hết trên các bàn thờ họ dùng để cúng tế, rồi đốt xương người ta trên các bàn thờ ấy. Sau đó ông trở về Giê-ru-sa-lem.

Giữ Lễ Vượt Qua

21 Vua truyền cho toàn dân, “Hãy tổ chức Lễ Vượt Qua để nhớ ơn Chúa, Ðức Chúa Trời chúng ta, như đã ghi trong Sách Giao Ước.” 22 Từ thời các thủ lãnh xét xử trên I-sơ-ra-ên hay trong thời các vua I-sơ-ra-ên hay trong thời các vua Giu-đa người ta chưa hề thấy một Lễ Vượt Qua nào được tổ chức trọng thể như vậy. 23 Vào năm thứ mười tám của triều đại Giô-si-a, Lễ Vượt Qua ấy đã được tổ chức trọng thể để nhớ ơn Chúa tại Giê-ru-sa-lem.

24 Ngoài ra Giô-si-a cũng diệt trừ những đồng bóng, những thầy bói, những gia thần của mỗi nhà, những hình tượng, và mọi điều gớm ghiếc đã thấy trong xứ Giu-đa và tại Giê-ru-sa-lem. Ông làm như vậy để thực hiện đúng theo những lời đã viết trong sách luật pháp mà Tư Tế Hinh-ki-a đã tìm được trong Ðền Thờ Chúa. 25 Trước ông không có vua nào hướng về Chúa một cách hết lòng, hết linh hồn, và hết sức vâng theo mọi điều trong Luật Pháp của Môi-se như ông. Sau ông cũng chẳng có vua nào được như vậy.

26 Dầu vậy Chúa vẫn không nguôi cơn thịnh nộ của Ngài, tức cơn giận Ngài đã nhen lên nghịch lại Giu-đa, vì tất cả những việc khiêu khích mà Ma-na-se đã làm. 27 Chúa phán, “Ta sẽ dẹp bỏ Giu-đa khỏi mặt Ta, như Ta đã dẹp bỏ I-sơ-ra-ên. Ta sẽ loại bỏ Thành Giê-ru-sa-lem nầy mà Ta đã chọn, cùng loại bỏ Ðền Thờ nầy mà Ta đã nói: ‘Danh Ta sẽ ngự tại đó.’”

Giô-si-a Tử Trận

28 Những việc khác của Giô-si-a, tất cả những việc ông làm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao?

29 Trong thời của ông, Pha-ra-ôn Nê-cô vua Ai-cập đem quân đến Sông Ơ-phơ-rát để giúp đỡ vua A-sy-ri. Giô-si-a kéo quân ra ngăn chận, nhưng khi quân hai bên gặp nhau tại Mê-ghi-đô, Pha-ra-ôn Nê-cô đã đánh Giô-si-a tử trận. 30 Các tôi tớ của ông mang xác ông từ Mê-ghi-đô về Giê-ru-sa-lem trên một xe chiến mã, và người ta đã đem chôn ông trong mộ của ông. Dân trong nước lập Giê-hô-a-ha con của Giô-si-a lên làm vua. Họ xức dầu cho ông ấy và tôn ông ấy lên ngôi kế vị cha ông.

Giê-hô-a-ha Trị Vì và Bị Lưu Ðày

(2 Sử 36:2-4)

31 Giê-hô-a-ha được hai mươi ba tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Ha-mu-tan con gái của Giê-rê-mi-a ở Líp-na. 32 Ông làm điều tội lỗi trước mặt Chúa như các tổ tiên ông đã làm. 33 Pha-ra-ôn Nê-cô bắt giam ông vào ngục tại Ríp-la trong xứ Ha-mát để ông không thể trị vì tại Giê-ru-sa-lem được nữa. Ngoài ra vua ấy còn bắt cả nước phải nộp triều cống, gồm ba ngàn bốn trăm ký bạc và ba mươi bốn ký vàng.[e]

34 Pha-ra-ôn Nê-cô lập Ê-li-a-kim con của Giô-si-a lên làm vua, kế vị Giô-si-a cha ông, và bắt ông ấy đổi tên thành Giê-hô-gia-kim. Còn Giê-hô-a-ha thì bị bắt đem lưu đày ở Ai-cập và qua đời tại đó. 35 Giê-hô-gia-kim nộp cho Pha-ra-ôn số bạc và số vàng vua ấy yêu cầu, nhưng ông phải đánh thuế dân trong nước để có số bạc và số vàng Pha-ra-ôn đòi hỏi. Ông bắt dân phải đóng thuế bằng bạc và vàng tùy theo tài sản của mỗi người, rồi ông lấy bạc và vàng đó nộp cho Pha-ra-ôn Nê-cô.

Giê-hô-gia-kim Trị Vì Giu-đa

(2 Sử 36:5)

36 Giê-hô-gia-kim được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Xê-bi-đa con gái của Pê-đai-a ở Ru-ma. 37 Ông làm điều tội lỗi trước mặt Chúa như tổ tiên ông đã làm.

Giu-đa Bị Ngoại Xâm

(2 Sử 36:6-8)

24 Trong thời của Giê-hô-gia-kim trị vì, Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn đi lên đánh bại họ, và Giê-hô-gia-kim phải thần phục ông ấy trong ba năm; nhưng sau đó ông đổi ý và chống lại vua Ba-by-lôn.

Chúa sai các đạo quân của dân Canh-đê, dân A-ram, dân Mô-áp, và dân Am-môn đến cướp bóc và hủy diệt Giu-đa theo như lời của Chúa mà các tôi tớ Ngài, tức các vị tiên tri, đã nói trước. Việc ấy xảy đến cho Giu-đa là do lịnh của Chúa, để cất bỏ họ khỏi thánh nhan Ngài, vì cớ những tội lỗi của Ma-na-se và mọi điều ông ấy đã làm, và cũng vì máu vô tội của nhiều người đã đổ ra, bởi ông ấy đã làm cho Giê-ru-sa-lem đầy tràn máu vô tội, và Chúa không thể bỏ qua việc đó.

Những việc khác của Giê-hô-gia-kim, tất cả những việc ông làm, há không được chép trong sách Sử Ký của Các Vua Giu-đa sao? Giê-hô-gia-kim an giấc với tổ tiên ông. Giê-hô-gia-kin con trai ông lên ngôi kế vị. Vua Ai-cập không dám ra khỏi xứ của ông ấy nữa, vì vua Ba-by-lôn đã chiếm tất cả lãnh thổ thuộc về vua Ai-cập từ Khe Ai-cập cho đến Sông Ơ-phơ-rát.

Giê-hô-gia-kin Trị Vì Giu-đa

(2 Sử 36:9-10)

Giê-hô-gia-kin được mười tám tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Nê-hút-ta con gái của Ên-na-than ở Giê-ru-sa-lem. Ông làm điều tội lỗi trước mặt Chúa như các tổ tiên ông đã làm.

10 Vào thuở đó các tôi tớ của Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn kéo lên bao vây Giê-ru-sa-lem. 11 Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn đến tận cổng thành trong khi quân đội của ông bao vây thành. 12 Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa ra đầu hàng vua Ba-by-lôn, ông, mẹ ông, bầy tôi của ông, các tướng lãnh của ông, và triều thần của ông. Vua Ba-by-lôn bắt Giê-hô-gia-kin giam vào ngục vào năm thứ tám của triều đại ông ấy.

Giê-ru-sa-lem Thất Thủ

13 Vua Ba-by-lôn mang đi mọi vật trong các kho tàng của Ðền Thờ Chúa và các kho tàng của hoàng cung. Ông cho cắt mọi khí cụ bằng vàng mà Sa-lô-môn vua I-sơ-ra-ên đã làm cho Ðền Thờ Chúa ra thành những mảnh vụn, y như mọi lời Chúa đã bảo trước. 14 Ông bắt đem lưu đày mọi người ở Giê-ru-sa-lem: tất cả các tướng lãnh, tất cả các chiến sĩ dũng mãnh, tất cả các chuyên viên, và tất cả các thợ rèn, mười ngàn người cả thảy. Ông không chừa lại ai, ngoại trừ những người nghèo khó cùng cực nhất trong xứ.

15 Vậy ông bắt Giê-hô-gia-kin đem về Ba-by-lôn cùng với mẹ của vua, các vợ của vua, triều thần, và những người quyền quý trong xứ. Ông đem họ từ Giê-ru-sa-lem qua Ba-by-lôn để lưu đày. 16 Ông bắt về Ba-by-lôn bảy ngàn chiến sĩ dũng mãnh, cùng một ngàn chuyên viên và thợ rèn. Tất cả đều là những người có khả năng sẵn sàng ra chiến trường để chiến đấu. 17 Sau đó vua Ba-by-lôn lập Mát-ta-ni-a chú của Giê-hô-gia-kin lên làm vua thế vị và bắt ông ấy đổi tên là Xê-đê-ki-a.

Xê-đê-ki-a Trị Vì

(2 Sử 36:11-16; Giê 52:1-3)

18 Xê-đê-ki-a được hai mươi mốt tuổi khi lên ngôi làm vua. Ông trị vì mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Ha-mu-tan con gái của Giê-rê-mi-a ở Líp-na. 19 Ông làm điều tội lỗi trước mặt Chúa giống như Giê-hô-gia-kim đã làm. 20 Thật vậy Giê-ru-sa-lem và Giu-đa đã chọc giận Chúa đến độ Ngài phải loại bỏ chúng khỏi thánh nhan Ngài. Lúc ấy Xê-đê-ki-a chủ trương chống lại vua Ba-by-lôn.

Giê-ru-sa-lem Bị Sụp Ðổ

(2 Sử 36:17-20; Giê 39:1-10; 40:7-9; 41:1-3, 16-18; 52:4-27)

25 Năm thứ chín của triều đại Xê-đê-ki-a, ngày mồng mười tháng mười,[f] Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn đem toàn thể quân lực của ông đến bao vây Giê-ru-sa-lem và tấn công thành. Ông đóng trại bên ngoài và đắp lũy bao vây thành. Vậy thành bị vây cho đến năm thứ mười một của triều đại Xê-đê-ki-a. Ðến ngày mồng chín tháng tư, nạn đói hoành hành trong thành rất khốc liệt. Dân chúng không còn thực phẩm để ăn. Bấy giờ vách thành bị phá thủng một lỗ. Ban đêm vua và tất cả quân lính bỏ thành chạy trốn. Họ trốn qua cổng nằm giữa hai bức tường, gần vườn ngự uyển. Mặc dù họ biết có quân Canh-đê đang bao vây thành, họ vẫn nhắm hướng A-ra-ba mà chạy. Nhưng quân của dân Canh-đê rượt theo vua và bắt sống được ông trong đồng bằng ở Giê-ri-cô. Toàn thể quân đội của ông liền bị tan rã. Họ bỏ ông và mạnh ai nấy đào thoát. Vậy vua bị bắt sống và đem về nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la; tại đó chúng tuyên án ông. Chúng giết các con trai Xê-đê-ki-a trước mắt ông. Ðoạn chúng móc mắt Xê-đê-ki-a, lấy xích đồng xiềng ông lại, rồi dẫn ông qua Ba-by-lôn.

Ngày bảy tháng năm, năm thứ mười chín của triều đại Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn, Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ, tôi tớ của vua Ba-by-lôn, vào Giê-ru-sa-lem. Ông phóng hỏa đốt Ðền Thờ Chúa, cung điện hoàng gia, và tất cả nhà cửa trong Giê-ru-sa-lem. Ông cũng đốt tất cả dinh thự của các nhà quyền quý trong thành. 10 Sau đó toàn quân Canh-đê, theo lệnh của quan chỉ huy quân thị vệ, đập phá các tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem. 11 Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ bắt tất cả những người còn lại trong thành, tức những người đã đào ngũ theo vua Ba-by-lôn và những người còn sót lại trong dân, đem lưu đày. 12 Tuy nhiên quan chỉ huy quân thị vệ cũng chừa lại một ít người nghèo khổ nhất trong xứ để trồng nho và làm ruộng.

13 Các trụ đồng trong Ðền Thờ Chúa, các giàn xe đồng, và chiếc bể đồng nơi Ðền Thờ Chúa đều bị quân Canh-đê cắt ra từng mảnh, rồi chở cả thảy số đồng đó về Ba-by-lôn. 14 Chúng cũng lấy đi những nồi đồng, vá đồng, dao, kéo, bát hương, và mọi vật dụng bằng đồng để dùng vào việc tế lễ trong Ðền Thờ. 15 Quan chỉ huy quân thị vệ cũng lấy đi các lư hương, các chậu, và tất cả các dụng cụ bằng vàng và bằng bạc, để lấy vàng và bạc của những món đó. 16 Còn hai trụ đồng, cái bể đồng, và các giàn xe đồng Sa-lô-môn đã làm cho Ðền Thờ Chúa, thì số đồng ấy quá nhiều, không thể cân được. 17 Mỗi trụ cao chín mét,[g] bên trên đầu trụ có cái táng bằng đồng, cao một mét rưỡi;[h] xung quanh táng được bao bằng lưới đồng và những trái lựu bằng đồng. Trụ đồng thứ nhì cũng thế, và cũng có lưới đồng như vậy.

18 Quan chỉ huy quân thị vệ bắt được Thượng Tế Sê-ra-gia, Phó Thượng Tế Sô-phô-ni-a, và ba viên chức canh cửa đền thờ. 19 Ông cũng bắt được một tướng chỉ huy quân đội, năm cố vấn của vua còn lại trong thành, quan bí thư, người đặc trách việc chiêu mộ quân binh trong nước, và sáu mươi người gan dạ trong xứ còn trốn trong thành. 20 Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ bắt họ và dẫn họ đến nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-la. 21 Vua Ba-by-lôn ra lịnh giết họ tại Ríp-la trong xứ Ha-mát. Thế là dân Giu-đa đã bị bắt đi lưu đày khỏi xứ sở của họ.

Ghê-đa-li-a Làm Thống Ðốc Giu-đa

22 Sau đó Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn lập Ghê-đa-li-a con của A-hi-cam con của Sa-phan lên làm thống đốc trên dân còn lại trong xứ Giu-đa, tức những người ông chừa lại.

23 Khi các thủ lãnh của các lực lượng kháng chiến và các đội quân của họ hay rằng Ghê-đa-li-a đã được vua Ba-by-lôn bổ nhiệm làm thống đốc, họ kéo nhau đến gặp Ghê-đa-li-a tại Mích-pa; đó là Ích-ma-ên con của Nê-tha-ni-a, Giô-ha-nan con của Ca-rê-a, Sê-ra-gia con của Tan-hu-mết thuộc dòng dõi Nê-tô-pha, và Gia-a-xa-ni-a thuộc dòng dõi của Ma-a-ca.

24 Ghê-đa-li-a thề với họ và thuộc hạ của họ rằng, “Ðừng sợ các quan lại người Canh-đê. Cứ ở trong xứ và thần phục vua Ba-by-lôn thì các ông sẽ được bình an.”

25 Nhưng đến tháng bảy, Ích-ma-ên con của Nê-tha-ni-a con của Ê-li-sa-ma, thuộc dòng dõi hoàng tộc, dẫn mười người đi với ông đến Mích-pa. Họ vào hạ sát Ghê-đa-li-a, các vệ sĩ người Giu-đa, và những người Canh-đê đang ở với ông ấy.

26 Sau đó toàn dân, từ nhỏ đến lớn, và các thủ lãnh của các lực lượng kháng chiến đứng dậy và đi xuống Ai-cập, vì họ sợ người Canh-đê đến báo thù.

Giê-hô-gia-kin Ðược Ân Xá

(Giê 52:31-34)

27 Ngày hai mươi bảy tháng mười hai, năm thứ ba mươi bảy, kể từ khi Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa bị lưu đày, tức năm thứ nhất của triều đại Ê-vin Mê-rô-đác vua Ba-by-lôn, vào năm vua ấy bắt đầu trị vì, ông phóng thích Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa ra khỏi ngục.

28 Ông dùng lời tử tế nói với Giê-hô-gia-kin và ban cho ông ấy địa vị cao hơn các vua cùng bị quản thúc tại Ba-by-lôn.

29 Ông cũng cho Giê-hô-gia-kin được cởi bỏ áo tù và hằng ngày được ngồi ăn đồng bàn với ông trọn đời còn lại của ông ấy.

30 Về việc cấp dưỡng cho Giê-hô-gia-kin, vua đã cấp dưỡng đều đặn, mỗi ngày một phần, cho đến khi ông ấy hưởng trọn tuổi thọ của ông.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang