Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
Bản Dịch 2011 (BD2011)
Version
Nê-hê-mi 13:15 - Gióp 7:21

Áp Dụng Triệt Ðể Luật Ngày Sa-bát

15 Trong những ngày ấy tôi thấy có mấy người Giu-đa đạp nho nơi bồn ép nho trong ngày Sa-bát; có người đã chất những bó lúa trên lưng lừa; có những người khác lại bắt lừa chở các vò rượu, các thùng nho, các thùng trái vả, và những bao sản phẩm nặng nề đem vào Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát. Vì thế tôi cảnh cáo họ trong ngày họ đem lương thực đến bán. 16 Một số người quê ở Ty-rơ đang cư ngụ trong miền đó cũng đem cá và các thứ hàng hóa đến bán cho dân Giu-đa ở Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát. 17 Thấy vậy tôi quở trách các nhà quyền quý của Giu-đa và nói với họ, “Việc tồi tệ này mà các ông đã làm cho ngày Sa-bát phải ra phàm tục là gì vậy? 18 Há chẳng phải vì tổ tiên của các ông đã làm như thế mà Ðức Chúa Trời chúng ta đã đem tất cả các tai họa này giáng xuống trên chúng ta và trên thành này hay sao? Ðã vậy bây giờ các ông còn muốn gia thêm cơn thịnh nộ cho dân I-sơ-ra-ên bằng cách làm cho ngày Sa-bát trở nên phàm tục hay sao?”

19 Kể từ đó tại các cổng thành Giê-ru-sa-lem, mỗi khi trời bắt đầu tối trước ngày Sa-bát, tôi ra lịnh đóng tất cả các cổng thành lại và chỉ mở ra khi ngày Sa-bát đã qua rồi. Tôi cũng đặt các tôi tớ của tôi ở các cổng thành, để không cho ai mang vật gì nặng vào thành trong ngày Sa-bát. 20 Vì thế các thương gia và những người bán đồ tạp hóa đã đôi phen phải qua đêm bên ngoài cổng thành. 21 Thấy vậy tôi cảnh cáo họ và nói, “Tại sao các người đã qua đêm ở bên ngoài cổng thành? Nếu các người còn tiếp tục làm thế, tôi sẽ thẳng tay đấy.” Từ đó trở đi họ không đến trong ngày Sa-bát nữa. 22 Sau đó tôi truyền cho những người Lê-vi hãy thanh tẩy chính họ, rồi đến canh gác ở các cổng thành, để giữ ngày Sa-bát ra thánh.

“Lạy Ðức Chúa Trời của con, xin nhớ đến con trong việc này nữa, và xin ban phước cho con theo tình thương vô lượng của Ngài.”

Phản Ðối Những Cuộc Hôn Nhân Dị Chủng và Dị Giáo

23 Trong những ngày ấy tôi thấy các đàn ông Do-thái cưới các phụ nữ Ách-đốt, Am-môn, và Mô-áp làm vợ. 24 Phân nửa con cái của họ chỉ nói được tiếng Ách-đốt và không nói được tiếng Giu-đa. Chúng chỉ nói được tiếng của mẹ chúng, những người thuộc các giống dân khác không tin thờ Chúa. 25 Vì thế tôi đã tranh luận với họ, nguyền rủa họ, đánh đập một vài người trong bọn họ, và bứt tóc họ. Tôi bắt họ lấy danh Ðức Chúa Trời mà thề sẽ không làm như thế nữa. Tôi nói với họ, “Các ông không được gả con gái của các ông cho con trai của chúng, hay cưới con gái của chúng cho con trai của các ông hoặc cho chính các ông. 26 Há chẳng phải Sa-lô-môn vua I-sơ-ra-ên đã phạm tội vì những phụ nữ như thế sao? Giữa nhiều quốc gia, không một vua nào được như ông ấy. Ông ấy đã được Ðức Chúa Trời của mình yêu thương, và Ðức Chúa Trời đã lập ông ấy làm vua trên cả I-sơ-ra-ên. Nhưng các phụ nữ ngoại quốc không tin thờ Chúa đã làm cho ông ấy phạm tội. 27 Thế thì chúng ta há sẽ hành động bội nghịch chống lại Ðức Chúa Trời chúng ta, mà cưới những người phụ nữ ngoại quốc không tin thờ Ngài hay sao?”

28 Một trong các con trai của Giê-hô-gia-đa, con của Thượng Tế Ê-li-a-síp, đã làm con rể của San-ba-lát người Hô-rô-ni. Vì thế tôi đã đuổi hắn đi khỏi tôi.

29 “Lạy Ðức Chúa Trời của con, xin nhớ đến họ, vì họ đã làm bất khiết chức vụ tư tế; họ đã vi phạm quy luật đặc biệt dành cho các tư tế và những người Lê-vi.”

30 Như vậy tôi đã loại sạch tất cả những ai ngã theo ngoại giáo do mối liên hệ hôn nhân với các dân ngoại không tin thờ Chúa. Tôi thiết lập rõ ràng nhiệm vụ của các tư tế và những người Lê-vi, đúng theo phần việc của mỗi người. 31 Tôi tổ chức việc cung cấp củi theo định kỳ cho việc dâng của lễ, và tái lập việc dâng hiến các trái cây đầu mùa.

“Lạy Ðức Chúa Trời của con, xin nhớ đến con và ban phước cho con.”

Vua A-ha-suê-ru Ðãi Tiệc

Việc này đã xảy ra trong thời của A-ha-suê-ru;[a] A-ha-suê-ru này là người cai trị một trăm hai mươi bảy tỉnh, từ Ấn-độ đến Ê-thi-ô-pi.[b] Thuở ấy Vua A-ha-suê-ru đã ngồi vững trên ngai của ông tại kinh thành Su-sa. Năm thứ ba của triều đại ông, ông mở một đại tiệc thết đãi tất cả quần thần và bầy tôi của ông. Các tướng lãnh[c] chỉ huy quân đội Ba-tư và Mê-đi, các nhà quyền quý, và các tỉnh trưởng ở các tỉnh đều về hiện diện đông đủ. Nhân cơ hội ấy ông biểu dương sự giàu sang phú quý của vương quốc ông và sự huy hoàng uy nghi rực rỡ của ông nhiều ngày – một trăm tám mươi ngày cả thảy.

Khi những ngày ấy qua rồi, vua lại bày một tiệc khác bảy ngày nữa, trong vườn ngự uyển của hoàng cung, để thết đãi mọi người ở kinh thành Su-sa, cả lớn lẫn nhỏ. Trong vườn ngự uyển người ta treo những bức màn bằng vải trắng và vải xanh dương. Người ta dùng các dây vải màu tím để máng các màn ấy vào các vòng bằng bạc và cột chúng vào những trụ đá cẩm thạch. Trong vườn ngự uyển có các băng ghế bằng vàng và bằng bạc, đặt trên những nền đá quý được lát rất mỹ thuật, nào là đá màu đỏ trắng, đá cẩm thạch, đá lam lục, và đá có vân đen. Người ta dùng các ly uống rượu bằng vàng có kiểu rất độc đáo và mỹ thuật để đãi khách. Các thực khách đều được tiếp rượu dồi dào, xứng hợp với cung cách đãi khách giàu sang phú quý của bậc đế vương. Người ta mang rượu ra hàng hũ để đãi khách. Ai muốn uống bao nhiêu tùy ý, vì vua đã truyền cho các quan chức phục vụ ở hoàng cung phải chiều ý mọi người. Ngoài ra Hoàng Hậu Vả-thi cũng mở một tiệc riêng để thết đãi các mệnh phụ phu nhân trong cung điện của Vua A-ha-suê-ru.

Hoàng Hậu Vả-thi Bị Truất Phế

10 Vào ngày thứ bảy khi rượu đã làm cho vua hứng chí, vua truyền lệnh cho Mê-hu-man, Bi-tha, Hạc-bô-na, Bích-tha, A-ba-tha, Xê-tha, và Ca-cách –bảy quan thái giám đang hầu vua– 11 đưa Hoàng Hậu Vả-thi, đội mão triều, đến chầu vua, để dân chúng và triều thần được cơ hội chiêm ngưỡng sắc đẹp của bà, vì bà là một tuyệt sắc giai nhân. 12 Nhưng Hoàng Hậu Vả-thi từ chối vâng theo lệnh vua do các quan thái giám mang đến. Vì thế vua vô cùng tức giận, và lòng vua nổi giận bừng bừng.

13 Bấy giờ vua tham khảo ý kiến của các quân sư, những người am hiểu tình hình chính trị, vì đó là cách vua thường làm đối với những vị am tường luật pháp và việc xử đoán, mỗi khi hữu sự. 14 Những người hầu cận bên vua gồm Cạt-sê-na, Sê-tha, Át-ma-tha, Tạt-si, Mê-rê, Mạc-sê-na, và Mê-mu-can, tức bảy quan thượng thư của Ba-tư và Mê-đi, những người thường đứng chầu trước mặt vua và nắm giữ[d] những chức vụ hàng đầu trong đế quốc. 15 “Theo luật thì chúng ta phải làm sao với Hoàng Hậu Vả-thi, vì bà đã không tuân lệnh Vua A-ha-suê-ru do các quan thái giám mang đến?”

16 Bấy giờ Mê-nu-can tâu với vua trước mặt các quan thượng thư, “Hoàng Hậu Vả-thi không những đã có lỗi với hoàng thượng, nhưng cũng có lỗi với tất cả các quần thần và tất cả các dân sống trong tất cả các tỉnh của Vua A-ha-suê-ru. 17 Vì khi hành động này của hoàng hậu bị đồn ra đến tai toàn thể phụ nữ, họ sẽ nhìn chồng của họ với cặp mắt khinh thường. Họ sẽ bảo, ‘Vua A-ha-suê-ru đã truyền đem Hoàng Hậu Vả-thi đến chầu vua, nhưng bà ấy không đi thì có sao đâu?’ 18 Hôm nay thế nào các mệnh phụ phu nhân của Ba-tư và Mê-đi cũng sẽ về nói cho tất cả các quần thần của hoàng thượng rằng họ đã nghe về thái độ của hoàng hậu. Như thế rồi đây trong vương quốc sẽ có không biết bao nhiêu vấn đề xảy ra do sự khinh thường của vợ và phản ứng tức giận của chồng. 19 Vậy nếu đẹp ý hoàng thượng, xin hoàng thượng ban một sắc chỉ và cho ghi vào trong sách luật của người Ba-tư và Mê-đi để không thể thay đổi được rằng Vả-thi sẽ không bao giờ được diện kiến Vua A-ha-suê-ru nữa, và kính xin hoàng thượng ban chức vụ đó cho người nào xứng đáng hơn bà. 20 Rồi đây khi sắc chỉ của hoàng thượng được công bố trong toàn thể vương quốc bao la rộng lớn này, bấy giờ tất cả phụ nữ sẽ tôn trọng chồng họ, bất kể giàu sang hay nghèo khó.”

21 Lời tâu đó đẹp lòng vua và các triều thần. Vua bèn làm y như lời của Mê-nu-can đã đề nghị. 22 Vua ban sắc chỉ gởi đến tất cả các tỉnh của ông. Tỉnh nào theo chữ viết của tỉnh ấy, dân nào theo ngôn ngữ của dân ấy, và truyền rằng trong mỗi gia đình người đàn ông là chủ gia đình.

Ê-xơ-tê Ðược Chọn Làm Hoàng Hậu

Sau những việc ấy khi cơn giận của Vua A-ha-suê-ru đã nguôi ngoai, vua nhớ đến Vả-thi và những việc bà đã làm; ông cũng nhớ đến sắc lệnh ông đã ban ra để xử tội bà. Bấy giờ các quan hầu cận của vua nói, “Phải tìm cho hoàng thượng những trinh nữ trẻ đẹp. Xin hoàng thượng bổ nhiệm các quan đặc nhiệm ở tất cả các tỉnh trong vương quốc của hoàng thượng, để họ tìm các thiếu nữ trẻ đẹp, đem về hậu cung ở Kinh Ðô Su-sa, và giao cho Hê-gai quan thái giám của hoàng thượng, người trông coi các phụ nữ trong cung; và xin cung cấp cho họ các mỹ phẩm họ cần. Sau đó hễ cô nào đẹp lòng hoàng thượng, xin hoàng thượng lập người ấy làm hoàng hậu thế cho Vả-thi.” Ðề nghị ấy đẹp lòng vua, và vua làm như vậy.

Bấy giờ tại Kinh Ðô Su-sa có một người Do-thái tên là Mạc-đô-chê, con cháu của Giai-rơ, con cháu của Si-mê-i, con cháu của Kích, dòng dõi của Bên-gia-min. Người Bên-gia-min ấy bị bắt phải rời khỏi Giê-ru-sa-lem đi lưu đày cùng một lượt với Giê-cô-ni-a vua Giu-đa, tức vị vua đã bị Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn bắt đi lưu đày. Mạc-đô-chê đã nuôi Ha-đác-sa, cũng gọi là Ê-xơ-tê, con gái của chú ông, bởi vì nàng đã mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Nàng là một thiếu nữ duyên dáng và xinh đẹp. Khi cha mẹ nàng qua đời, ông đã nhận nàng làm con gái của ông. Vì thế khi lệnh vua được ban ra và sắc chỉ của vua được công bố, nhiều thiếu nữ trẻ đẹp đã bị tập họp về Kinh Ðô Su-sa, đặt dưới quyền quản lý của Hê-gai. Ê-xơ-tê cũng bị đem vào hoàng cung và ở dưới quyền quản lý của Hê-gai, người trông coi các phụ nữ trong cung. Người thiếu nữ ấy được cảm tình của ông, nên ông đối xử tốt với nàng. Ông vội vàng cung cấp các mỹ phẩm và lương thực cho nàng. Ông cũng chọn bảy cung nữ đang phục vụ trong hoàng cung để hầu hạ nàng và sắp đặt họ vào ở trong một phòng sang trọng nhất ở hậu cung. 10 Ê-xơ-tê không tiết lộ cho ai biết về gốc tích dân tộc hay dòng họ của nàng, vì Mạc-đô-chê đã dặn nàng không được tiết lộ gì với ai cả. 11 Hằng ngày Mạc-đô-chê đều tới lui trước sân hậu cung để dò la tin tức về Ê-xơ-tê hầu biết tình trạng của nàng ra sao.

12 Bấy giờ đã đến lúc các thiếu nữ lần lượt theo phiên vào hầu Vua A-ha-suê-ru. Số là mỗi người phải trải qua mười hai tháng chuẩn bị trước khi được vào hầu vua, như quy chế dành cho phụ nữ thời bấy giờ. Các cô ấy phải tẩm ướp da thịt mình bằng mộc dược trong sáu tháng, sáu tháng còn lại phải tẩm ướp da thịt mình với nước hoa và các thứ mỹ phẩm dành cho phụ nữ. 13 Khi một thiếu nữ được vào hầu vua, cô gái ấy có quyền xin bất cứ món gì trong hậu cung để mang theo khi ra mắt vua trong hoàng cung. 14 Chiều tối cô gái ấy được đưa vào, sáng hôm sau cô ấy sẽ trở ra và được đưa đến một hậu cung khác, dưới quyền của Sa-ách-ga quan thái giám của vua, người trông coi các cung phi. Cô gái ấy sẽ không được vào hầu vua nữa, nếu vua không sủng ái và cho gọi đích danh.

15 Khi đến phiên Ê-xơ-tê con gái của A-bi-ha-in, chú của Mạc-đô-chê, người nhận Ê-xơ-tê làm con gái của mình, đi vào hầu vua, nàng không yêu cầu món gì đặc biệt, ngoại trừ những gì Hê-gai quan thái giám của vua, người trông coi các phụ nữ trong cung, đề nghị. Lúc ấy tất cả những ai trông thấy nàng đều trầm trồ khen ngợi nàng. 16 Vậy Ê-xơ-tê được đem vào hầu Vua A-ha-suê-ru trong hoàng cung vào tháng mười, tức tháng Tê-bết, nhằm năm thứ bảy của triều đại vua. 17 Vua yêu thương Ê-xơ-tê hơn tất cả các phụ nữ khác. Trong tất cả các trinh nữ, nàng được vua yêu mến và sủng ái nhất. Vì thế vua đội mão triều trên đầu nàng và lập nàng làm hoàng hậu thay cho Vả-thi. 18 Vua mở tiệc linh đình khoản đãi tất cả triều thần và khanh tướng; đó là tiệc mừng tân Hoàng Hậu Ê-xơ-tê. Vua cũng cho các tỉnh được nghỉ lễ một ngày và ban tặng các phẩm vật xứng đáng với sự giàu sang phú quý của bậc đế vương.

Mạc-đô-chê Cứu Mạng Vua

19 Số là khi các trinh nữ được tập họp đợt hai, lúc ấy Mạc-đô-chê đang ngồi ở cổng hoàng cung. 20 Ê-xơ-tê vẫn chưa tiết lộ tông tộc hay dòng giống của bà, y như Mạc-đô-chê đã căn dặn bà, vì Ê-xơ-tê vẫn vâng lời Mạc-đô-chê như lúc bà còn được nuôi dạy. 21 Lúc ấy Mạc-đô-chê đang ngồi ở cổng hoàng cung, Bích-than và Tê-rếch, hai quan thái giám của vua, đã giận vua và lập mưu ám sát Vua A-ha-suê-ru. 22 Nhưng Mạc-đô-chê biết được điều đó. Ông báo tin đó cho Hoàng Hậu Ê-xơ-tê. Ê-xơ-tê liền tâu với vua và nói rằng bà biết được tin đó nhờ Mạc-đô-chê. 23 Sau khi vua cho điều tra và thấy âm mưu đó là thật, vua truyền treo cổ hai quan thái giám ấy trên cây mộc hình. Sự việc đó được ghi vào sách sử ký trước mặt vua.

Ha-man Lập Mưu Diệt Dân Do-thái

Sau các việc đó Vua A-ha-suê-ru thăng chức cho Ha-man con của Ham-mê-đa-tha, người A-ga-ghi. Vua lập ông làm tể tướng, giữ địa vị cao trọng hơn mọi triều thần của vua. Tất cả quần thần của vua ở cổng hoàng cung đều cúi đầu và lạy ông, vì vua đã truyền mọi người phải làm như thế đối với ông. Tuy nhiên Mạc-đô-chê không cúi đầu hoặc lạy ông. Bấy giờ các triều thần của vua ở cổng hoàng cung nói với Mạc-đô-chê, “Tại sao ông không vâng lệnh vua?” Ngày nào họ cũng hỏi ông như thế, nhưng ông chẳng nghe lời họ. Bấy giờ họ tâu với Ha-man để xem ai thắng hơn ai, vì ông đã bảo với họ rằng ông là người Do-thái. Khi Ha-man thấy Mạc-đô-chê không cúi đầu hoặc lạy mình, Ha-man vô cùng tức giận. Nhưng ông nghĩ rằng nếu chỉ ra tay giết một mình Mạc-đô-chê thì quá tầm thường. Vì thế sau khi biết rõ Mạc-đô-chê là người Do-thái, Ha-man quyết định tiêu diệt toàn dân Do-thái đang sống trong đế quốc của Vua A-ha-suê-ru.

Vào tháng giêng tức tháng Ni-san của năm thứ mười hai triều đại Vua A-ha-suê-ru, người ta gieo Pu-rơ, tức gieo thăm, trước mặt Ha-man, để định ngày và tháng. Thăm rơi nhằm ngày mười ba tháng mười hai, tức tháng A-đa. Sau đó Ha-man vào tâu với Vua A-ha-suê-ru, “Có một dân nọ sống rải rác và cách biệt với các dân tộc khác ở khắp các tỉnh trong vương quốc của hoàng thượng. Luật lệ của chúng khác hẳn với luật lệ của các dân tộc khác. Chúng không vâng giữ luật pháp của hoàng thượng. Cứ để chúng như thế thật là bất lợi cho hoàng thượng. Nếu đẹp lòng hoàng thượng, xin hoàng thượng ban một sắc chỉ để tiêu diệt chúng. Hạ thần sẽ cho cân ba trăm bốn chục ngàn ký[e] bạc trao vào tay các quan quản lý ngân khố của hoàng thượng, để họ đưa vào kho của hoàng thượng.” 10 Vua lấy chiếc nhẫn có ấn dấu đeo nơi tay mình mà trao cho Ha-man con của Ham-mê-đa-tha, người A-ga-ghi, kẻ thù của người Do-thái. 11 Vua nói với Ha-man, “Ngươi hãy giữ lại số bạc đó, ta trao dân đó vào tay ngươi, ngươi muốn làm gì chúng thì làm.”

12 Thế là ngày mười ba tháng giêng, các ký lục của vua được triệu đến để ghi sắc chỉ. Toàn thể nội dung của sắc chỉ đều cứ theo lệnh của Ha-man mà chép ra. Sắc chỉ ấy được gởi cho các thống đốc, các tỉnh trưởng cai trị các tỉnh, và các tổng trấn của các dân, tỉnh nào theo chữ viết của tỉnh ấy, dân nào theo ngôn ngữ của dân ấy. Sắc chỉ ấy được nhân danh Vua A-ha-suê-ru viết ra và được đóng bằng ấn dấu của vua.

13 Các sắc chỉ ấy được những người đưa thư mang đến các tỉnh của vua, truyền lệnh phải tiêu diệt, giết chết, và tận diệt mọi người Do-thái, cả trẻ lẫn già, phụ nữ và trẻ thơ, trong một ngày, đó là ngày mười ba tháng mười hai, tức tháng A-đa, và cướp lấy tất cả tài sản của họ. 14 Bản sao của sắc chỉ ấy cũng được ban hành ở mỗi tỉnh dưới hình thức sắc lệnh để công bố và kêu gọi mọi dân tộc trong vương quốc phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày đó.

15 Theo lệnh vua những người đưa thư cấp tốc mang sắc chỉ ra đi. Ngay tại Kinh Ðô Su-sa một chiếu chỉ về việc ấy cũng được ban hành. Sau đó vua và Ha-man ngồi xuống uống rượu trong khi cả Kinh Ðô Su-sa đều bối rối kinh hoàng.

Ê-xơ-tê Nhận Lời Vào Cầu Xin Vua cho Dân Do-thái

Khi Mạc-đô-chê biết mọi điều ấy đã được thực hiện, ông xé rách y phục của ông, mặc bao gai, và rắc tro trên đầu ông, rồi đi ra giữa thành, lớn tiếng khóc lóc đắng cay. Ông cũng đã đến tận cổng của hoàng cung, vì không ai mặc bao gai mà được phép bước vào bên trong cổng của hoàng cung. Trong mỗi tỉnh, nơi nào lệnh vua và sắc chỉ của vua được truyền đến, nơi ấy người Do-thái sầu thảm rất bi thương. Họ kiêng ăn, khóc lóc, và than van. Nhiều người đã mặc lấy bao gai và nằm trong tro.

Khi các cung nữ và các thái giám đến báo tin cho Ê-xơ-tê biết, hoàng hậu rất đỗi buồn rầu. Bà sai người mang áo quần đến cho Mạc-đô-chê để ông mặc mà cởi bỏ bao gai ra, nhưng ông không nhận những quần áo ấy. Bấy giờ Ê-xơ-tê cho mời Hà-thạch, một trong các quan thái giám mà vua đã chỉ định để hầu bà, đến và bảo ông phải ra gặp Mạc-đô-chê để hỏi xem chuyện gì đã xảy ra và nguyên do của sự việc như thế nào. Hà-thạch đi ra gặp Mạc-đô-chê ở quảng trường, phía trước cổng hoàng cung. Mạc-đô-chê nói cho ông tất cả những gì đã xảy ra cho mình và nói luôn cho ông biết số tiền Ha-man đã hứa sẽ nộp vào ngân khố của vua, hầu được phép tiêu diệt người Do-thái. Mạc-đô-chê cũng trao cho ông một bản sao chiếu chỉ đã ban hành tại Su-sa, truyền phải tiêu diệt họ, để ông mang về cho Ê-xơ-tê xem, giải thích ý nghĩa của nó cho bà, và yêu cầu bà đến gặp vua, để cầu xin vua và van nài vua cho dân tộc của bà.

Hà-thạch trở về và thuật lại cho Ê-xơ-tê mọi việc Mạc-đô-chê đã nói. 10 Bấy giờ Ê-xơ-tê nói với Hà-thạch và truyền cho ông ra nói với Mạc-đô-chê, 11 “Tất cả các triều thần của vua và dân trong các tỉnh đều biết rằng, hễ ai, bất kỳ nam hay nữ, tự ý đi vào nội điện của triều cung mà không được triệu mời thì chỉ có một luật là bị xử tử, ngoại trừ vua đưa cây phủ việt bằng vàng ra cho người ấy, người ấy mới được để cho sống. Tuy nhiên đã ba mươi ngày rồi con vẫn chưa được gọi vào để hầu vua.”

12 Khi người ta đã thuật lại cho Mạc-đô-chê những gì Ê-xơ-tê đã nói, 13 Mạc-đô-chê bảo họ trở vào và nói lại với Ê-xơ-tê, “Con đừng tưởng rằng nhờ ở trong hoàng cung con sẽ thoát khỏi những điều mọi người Do-thái khác sẽ phải chịu, 14 vì nếu con yên lặng trong lúc này, dân Do-thái sẽ được tiếp trợ và giải cứu bằng cách khác, nhưng con và nhà cha con sẽ bị diệt mất; và nào ai biết rằng phải chăng vì thời điểm như thế này mà con đã được lập làm hoàng hậu?”

15 Bấy giờ Ê-xơ-tê sai người ra trả lời với Mạc-đô-chê, 16 “Xin cha đi và mời tất cả những người Do-thái ở Su-sa nhóm lại, rồi vì cớ con mà kiêng ăn; xin kiêng ăn cữ uống trong ba ngày đêm. Con và các cung nữ của con cũng sẽ kiêng cữ như vậy. Sau đó con sẽ đi vào chầu vua, đó là một việc trái phép; và nếu con phải chết thì con sẽ chết.” 17 Mạc-đô-chê ra đi và làm theo mọi điều Ê-xơ-tê yêu cầu.

Ê-xơ-tê Ðãi Tiệc

Ngày thứ ba Ê-xơ-tê mặc bộ đồ triều phục và đến đứng chầu tại nội điện của triều cung, đối ngang cung thất của vua. Lúc ấy vua đang ngồi trên ngai trong cung điện đối diện với cung môn. Vừa khi vua thấy Hoàng Hậu Ê-xơ-tê đứng nơi sân chầu, bà liền được ơn trước mặt vua; vua đưa cây phủ việt đang cầm trong tay ra cho bà. Ê-xơ-tê lại gần và rờ vào đầu cây phủ việt. Vua nói với bà, “Hoàng Hậu Ê-xơ-tê, khanh có thỉnh nguyện gì? Khanh muốn xin điều gì? Dù đến phân nửa vương quốc của trẫm, trẫm cũng sẽ ban cho.”

Bấy giờ Ê-xơ-tê đáp, “Nếu đẹp lòng hoàng thượng, kính mời hoàng thượng và Ha-man hôm nay đến dự tiệc do thần thiếp đã chuẩn bị để thết đãi hoàng thượng.”

Vua phán, “Hãy mau mời Ha-man đến, để chúng ta có thể làm theo điều Ê-xơ-tê muốn.”

Vậy vua và Ha-man đến dự tiệc do Ê-xơ-tê đã chuẩn bị. Trong khi họ đang uống rượu, vua nói với Ê-xơ-tê, “Khanh có thỉnh nguyện gì? Trẫm sẽ ban cho. Khanh muốn xin điều gì? Dù đến phân nửa vương quốc của trẫm, trẫm cũng sẽ ban cho.”

Bấy giờ Ê-xơ-tê đáp, “Ðây là thỉnh nguyện và lời cầu xin của thần thiếp: Nếu thần thiếp được ơn của hoàng thượng, và nếu đẹp lòng hoàng thượng để được hoàng thượng ban cho những gì thần thiếp muốn thỉnh nguyện và cầu xin, kính mời hoàng thượng và Ha-man ngày mai trở lại dự tiệc do thần thiếp thết đãi, rồi bấy giờ thần thiếp sẽ làm theo lời hoàng thượng dạy bảo.”

Ha-man Dựng Mộc Hình Ðịnh Treo Cổ Mạc-đô-chê

Ngày hôm ấy Ha-man ra về, tâm thần hớn hở và hân hoan. Nhưng khi Ha-man thấy Mạc-đô-chê ở cổng hoàng cung, và thấy ông ấy không đứng dậy và cũng không run sợ trước mặt ông, Ha-man rất giận Mạc-đô-chê. 10 Tuy nhiên Ha-man cố nén giận và về nhà. Sau đó ông mời các bạn của ông và gọi Xê-rếch vợ ông lại. 11 Ha-man kể cho họ nghe những vinh hoa phú quý của ông, số con cái ông có, những lần thăng quan tiến chức mà vua đã vinh thăng ông, thể nào vua đã cho ông thăng tiến hơn tất cả các triều thần và khanh tướng của vua. 12 Ha-man nói tiếp, “Ngay cả Hoàng Hậu Ê-xơ-tê cũng không mời ai ngoại trừ ta và vua đến dự tiệc do bà khoản đãi. Ngày mai ta cũng được bà mời đến dự tiệc với vua nữa. 13 Tuy nhiên tất cả những điều đó đều chẳng có nghĩa lý gì, nếu ngày nào ta còn thấy tên Do-thái Mạc-đô-chê ngồi ở cổng hoàng cung.”

14 Bấy giờ Xê-rếch vợ ông và các bạn ông nói với ông, “Hãy cho dựng một cây mộc hình cao hai mươi lăm thước,[f] rồi sáng mai ông hãy xin vua cho treo cổ Mạc-đô-chê lên đó. Xong rồi ông hãy vui vẻ đi dự tiệc với vua.” Lời bàn đó đẹp lòng Ha-man, và ông truyền cho dựng ngay cây mộc hình ấy.

Vua Tri Ơn Mạc-đô-chê

Tối hôm đó vua ngủ không được; vua truyền lệnh mang các sách kỷ yếu và sách sử ký đến đọc cho vua nghe. Người ta thấy trong đó có chép thể nào Mạc-đô-chê đã báo cáo âm mưu của Bích-than và Tê-rếch, hai quan thái giám của vua, những người có trách nhiệm canh giữ cung môn, đã âm mưu ám sát Vua A-ha-suê-ru. Vua hỏi, “Mạc-đô-chê có được tưởng thưởng hay tuyên dương gì vì công trạng ấy chăng?”

Các cận thần của vua đáp, “Ông ấy chẳng được gì cả.”

Vua hỏi, “Ai đang ở ngoài nội điện?”

Vả, bấy giờ Ha-man vừa bước vào tiền sảnh của nội điện để đến tâu với vua, xin phép treo cổ Mạc-đô-chê trên mộc hình ông đã dựng. Vì thế các cận thần của vua tâu với vua, “Tâu, có Ha-man ở ngoài đó. Ông ấy đang đứng ở sân chầu.”

Vua phán, “Hãy truyền cho ông ấy vào.”

Vậy Ha-man vào và vua nói với ông, “Người mà trẫm muốn tôn trọng thì phải làm gì cho người ấy?”

Ha-man tự nhủ thầm, “Có ai mà vua muốn tôn trọng hơn ta chứ?” Vì thế Ha-man tâu với vua, “Người mà hoàng thượng muốn tôn trọng thì xin hoàng thượng cho mang lấy bộ triều phục của hoàng thượng mặc, con ngựa hoàng thượng cỡi, và vương miện hoàng thượng đội trên đầu đến. Sau đó xin hoàng thượng truyền cho vị thượng quan được tôn trọng nhất, để vị ấy mặc bộ áo mão đó cho người được hoàng thượng muốn tôn trọng, rồi để vị ấy dắt con ngựa có người được hoàng thượng muốn tôn trọng cỡi, đi dạo khắp quảng trường ở kinh đô, và hô to trước mặt người ấy rằng: ‘Ðây là cách đãi ngộ cho người được vua muốn tôn trọng.’”

10 Bấy giờ vua nói với Ha-man, “Hãy mau mau lấy bộ triều phục và ngựa, y như lời ngươi nói, mặc cho Mạc-đô-chê người Do-thái đang ngồi ở cổng hoàng cung. Tất cả những gì ngươi nói, chớ bỏ sót điều nào.”

11 Vậy Ha-man lãnh lấy bộ triều phục và ngựa. Ông mặc bộ triều phục ấy cho Mạc-đô-chê, rồi dắt con ngựa có Mạc-đô-chê cỡi, đi dạo khắp quảng trường của kinh đô và hô to, “Ðây là cách đãi ngộ cho người được vua muốn tôn trọng.”

12 Sau đó Mạc-đô-chê trở lại cổng hoàng cung, còn Ha-man thì vội vàng đi về nhà ông, lòng đầy sầu thảm và đầu trùm lại. 13 Ha-man thuật lại cho Xê-rếch vợ ông và cho các bạn ông về những gì đã xảy ra cho ông. Các cố vấn của ông và Xê-rếch vợ ông nói với ông, “Nếu đó là Mạc-đô-chê, dòng dõi của dân Do-thái, thì hoạn lộ của ông đã bắt đầu suy bại rồi. Ông sẽ không thắng nổi hắn đâu, nhưng ông chắc chắn sẽ thất bại trước mặt hắn.”

14 Ðang khi họ còn nói chuyện với ông, các quan thái giám của vua đến mời Ha-man phải mau lẹ đến dự tiệc do Ê-xơ-tê đã chuẩn bị.

Ha-man Bị Suy Bại

Vậy vua và Ha-man đến dự tiệc do Hoàng Hậu Ê-xơ-tê thết đãi. Vào ngày thứ hai, đang khi họ uống rượu, vua hỏi Ê-xơ-tê lần nữa, “Hoàng Hậu Ê-xơ-tê, khanh có thỉnh nguyện gì? Trẫm sẽ ban cho. Khanh muốn xin điều gì? Dù đến phân nửa vương quốc của trẫm, trẫm cũng sẽ ban cho.”

Bấy giờ Hoàng Hậu Ê-xơ-tê đáp, “Tâu hoàng thượng, nếu thần thiếp được ơn của hoàng thượng, và nếu đẹp lòng hoàng thượng, kính xin hoàng thượng giữ mạng sống của thần thiếp lại, đó là thỉnh nguyện của thần thiếp, và xin giữ mạng sống của dân tộc thần thiếp lại, đó là điều cầu xin của thần thiếp, vì thần thiếp và dân tộc của thần thiếp đã bị bán để bị tiêu diệt, tàn sát, và tận diệt. Nếu thần thiếp và dân tộc của thần thiếp phải bị bán để làm nam nữ nô lệ, thì thần thiếp chẳng dám nói gì, vì nỗi khổ như thế chẳng đáng để làm bận tâm đến hoàng thượng.”[g]

Bấy giờ Vua A-ha-suê-ru nói với Hoàng Hậu Ê-xơ-tê, “Kẻ đó là ai? Nó ở đâu? Kẻ nào dám cả gan làm như thế?”

Ê-xơ-tê đáp, “Kẻ thù và kẻ nghịch đó chính là ông Ha-man gian ác này.” Bấy giờ Ha-man khiếp sợ trước mặt vua và hoàng hậu. Vua bừng bừng nổi giận, đứng lên, bỏ tiệc rượu, và bước ra vườn ngự uyển, nhưng Ha-man vẫn ở lại để van xin Hoàng Hậu Ê-xơ-tê cứu mạng, vì ông nhận thấy vua đã quyết định tiêu diệt ông.

Khi vua từ vườn ngự uyển trở vào phòng tiệc, vua thấy Ha-man đang ngã mình trên trường kỷ nơi Ê-xơ-tê đang ngồi, vua nói, “Trong cung thất, ngay trước mặt ta, mà nó còn tính hãm hiếp hoàng hậu sao?” Lời vừa ra khỏi miệng vua, người ta liền trùm mặt Ha-man lại.

Bấy giờ Hạc-bô-na, một trong các thái giám đang hầu bên vua, nói, “Kìa, có cây mộc hình cao hai mươi lăm thước[h] mà Ha-man đã dựng để treo cổ Mạc-đô-chê, người đã báo tin để cứu mạng vua, đang đứng sừng sững trong sân nhà Ha-man.”

Vua phán, “Hãy treo cổ nó lên đó.”

10 Vậy người ta treo cổ Ha-man trên mộc hình ông đã dựng để treo cổ Mạc-đô-chê. Sau đó cơn giận của vua nguôi ngoai.

Ê-xơ-tê Cứu Người Do-thái

Trong chính ngày đó Vua A-ha-suê-ru ban cho Hoàng Hậu Ê-xơ-tê ngôi nhà của Ha-man, kẻ thù của người Do-thái; đồng thời Mạc-đô-chê cũng được triệu vào để ra mắt vua, vì Ê-xơ-tê đã tâu với vua về liên hệ giữa bà và ông ấy. Bấy giờ vua cởi chiếc nhẫn có con dấu vua đã lấy lại nơi tay Ha-man và trao cho Mạc-đô-chê. Thế là Ê-xơ-tê lập Mạc-đô-chê làm người quản cai mọi sự trong nhà của Ha-man.

Kế đó Ê-xơ-tê tâu với vua. Bà sấp mình nơi chân vua mà khóc và van nài, xin vua đẩy lui âm mưu thâm độc của Ha-man người A-ga-ghi, và kế hoạch ông ấy đã lập để hại người Do-thái. Vua đưa cây phủ việt bằng vàng ra cho Ê-xơ-tê, Ê-xơ-tê trỗi dậy và đứng trước mặt vua. Bà nói, “Nếu đẹp lòng hoàng thượng, nếu thần thiếp được ơn của hoàng thượng, và nếu việc này được thấy là phải lẽ trước mặt hoàng thượng, kính xin hoàng thượng ban lệnh thu hồi những sắc chỉ mà Ha-man con của Ham-mê-đa-tha, người A-ga-ghi, đã viết ra để truyền lệnh tiêu diệt người Do-thái sống trong các tỉnh của hoàng thượng, vì làm thể nào thần thiếp có thể chịu nổi khi nhìn thấy tai họa xảy đến cho dân tộc mình? Hay làm thể nào thần thiếp có thể chịu nổi khi trông thấy cảnh đồng bào của mình bị tiêu diệt?”

Bấy giờ Vua A-ha-suê-ru nói với Hoàng Hậu Ê-xơ-tê và với Mạc-đô-chê người Do-thái, “Này, trẫm đã ban cho Ê-xơ-tê ngôi nhà của Ha-man, và người ta đã treo hắn trên mộc hình rồi, vì hắn đã lập mưu để tiêu diệt dân Do-thái. Bây giờ các khanh có thể nhân danh trẫm viết về việc dân Do-thái như thế nào tùy ý các khanh, sau đó niêm phong nó lại, rồi dùng chiếc nhẫn có ấn dấu của trẫm đóng vào, vì một khi sắc chỉ được nhân danh trẫm viết ra và dùng chiếc nhẫn có ấn dấu của trẫm đóng vào thì không thể thu hồi được.”

Bấy giờ các ký lục của vua được triệu đến, vào ngày hai mươi ba tháng ba, tức tháng Si-van. Một sắc chỉ theo lệnh của Mạc-đô-chê đã được viết ra, gởi cho người Do-thái và gởi cho các thống đốc, các tổng trấn, và các tỉnh trưởng ở các tỉnh, từ Ấn-độ cho đến Ê-thi-ô-pi, một trăm hai mươi bảy tỉnh, tỉnh nào theo chữ viết của tỉnh ấy, dân nào theo ngôn ngữ của dân ấy, và cũng gởi cho dân Do-thái theo chữ viết và ngôn ngữ của họ. 10 Ông nhân danh Vua A-ha-suê-ru viết các sắc chỉ ấy, rồi dùng ấn dấu của vua đóng vào. Ðoạn những người đưa thư cỡi những ngựa nòi nhanh nhất của vua mang các sắc chỉ ấy cấp tốc ra đi.

11 Nội dung các sắc chỉ ấy truyền rằng vua cho phép người Do-thái trong mỗi thành được quyền tụ họp lại để bảo vệ mạng sống mình; họ được quyền tiêu diệt, giết chết, và tận diệt bất cứ quân đội của dân nào hoặc tỉnh nào đến tấn công họ; họ được quyền đánh giết luôn vợ con và cướp lấy tài sản của những kẻ đó. 12 Lệnh ấy có hiệu lực trong một ngày, đó là ngày mười ba tháng mười hai, tức tháng A-đa, trong khắp các tỉnh của Vua A-ha-suê-ru.

13 Bản sao của sắc chỉ ấy cũng được ban hành ở mỗi tỉnh dưới hình thức sắc lệnh, để công bố cho mọi dân tộc biết và đặc biệt là cho người Do-thái biết, hầu họ chuẩn bị sẵn sàng để báo trả những kẻ thù của họ. 14 Vậy những người đưa thư nhận lệnh vua, cỡi những ngựa nòi nhanh nhất của vua, cấp tốc mang các sắc chỉ ra đi. Ngay tại Kinh Ðô Su-sa một chiếu chỉ về việc ấy cũng được ban hành.

15 Khi Mạc-đô-chê từ trong hoàng cung đi ra, mình mặc triều phục màu tím và trắng, đầu đội mão triều lớn bằng vàng, bên ngoài khoác chiếc áo choàng màu tía làm bằng vải gai mịn, dân thành Su-sa trông thấy ông, họ cất tiếng reo hò và mừng rỡ. 16 Bấy giờ đối với người Do-thái, đó là dấu hiệu của sự sáng sủa và vui mừng, hân hoan và hãnh diện. 17 Trong mỗi tỉnh và mỗi thành, nơi nào lệnh của vua và sắc chỉ của vua đến, nơi đó người Do-thái hân hoan và mừng rỡ. Họ mở tiệc ăn mừng và xem đó là một ngày phước hạnh. Bấy giờ nhiều người trong các xứ tự nhận mình là người Do-thái, bởi vì nỗi sợ hãi người Do-thái đã giáng xuống trên họ.

Những Kẻ Thù của Người Do-thái Bị Diệt

Bấy giờ ngày mười ba tháng mười hai, tức tháng A-đa, đã đến, tức khi lệnh của vua và sắc chỉ của vua được đem ra thi hành. Trong ngày những kẻ thù của người Do-thái chờ đợi để cướp giết họ, sự việc lại diễn biến ngược lại: người Do-thái đã lấn lướt trên những kẻ thù của họ. Ở các thành trong tất cả các tỉnh của Vua A-ha-suê-ru, người Do-thái tụ họp nhau lại và tra tay trên những kẻ toan giết hại họ. Không ai có thể chống cự nổi họ, bởi vì nỗi sợ hãi họ đã giáng xuống trên mọi dân tộc. Tất cả các tỉnh trưởng của các tỉnh, các thống đốc, các tổng trấn, và các quan trong triều đều ủng hộ người Do-thái, bởi vì ai nấy đều nể sợ Mạc-đô-chê, bởi vì Mạc-đô-chê đã trở thành người có quyền lực trong triều đình. Danh tiếng ông được vang lừng khắp các tỉnh, vì Mạc-đô-chê trở thành một người càng ngày càng có thêm quyền lực.

Vậy người Do-thái đã dùng gươm đánh hạ tất cả kẻ thù của họ. Họ giết chết và tiêu diệt chúng. Họ đã đối xử với những kẻ ghét họ theo ý họ muốn. Trong Kinh Ðô Su-sa, người Do-thái đã giết chết và tiêu diệt năm trăm người. Họ đã giết chết Pạc-san-đa-tha, Ðan-phôn, Át-pa-tha, Pô-ra-tha, A-đa-lia, A-ri-đa-tha, Pạc-mách-ta, A-ri-sai, A-ri-đai, và Va-giê-xa-tha, 10 tức mười con trai của Ha-man con trai Ham-mê-đa-tha, người A-ga-ghi, kẻ thù của người Do-thái; nhưng họ không đụng đến tài sản của chúng.

11 Ngày hôm ấy người ta báo cáo cho vua số người bị giết ở Kinh Ðô Su-sa. 12 Vua nói với Hoàng Hậu Ê-xơ-tê, “Trong Kinh Ðô Su-sa người Do-thái đã giết chết năm trăm người và mười con trai của Ha-man. Còn trong các tỉnh của trẫm thì chưa biết họ đã làm gì? Bây giờ khanh còn thỉnh nguyện gì nữa chăng? Trẫm sẽ ban cho khanh. Khanh muốn xin điều gì nữa không? Trẫm sẽ cho khanh được toại nguyện.”

13 Ê-xơ-tê tâu, “Nếu đẹp lòng hoàng thượng, xin hoàng thượng cho phép người Do-thái được làm theo sắc chỉ hôm nay thêm ngày mai nữa tại Kinh Ðô Su-sa, và xin hoàng thượng cho phép họ được treo xác của mười con trai Ha-man trên các mộc hình.” 14 Vua bèn truyền lịnh cho thi hành y như vậy. Một sắc lệnh được ban ra và mười con trai của Ha-man bị treo xác. 15 Người Do-thái ở Su-sa cũng tập họp lại vào ngày mười bốn tháng A-đa và đánh giết thêm ba trăm người nữa tại Su-sa; nhưng họ không đụng đến tài sản của chúng.

16 Lúc ấy những người Do-thái khác ở trong các tỉnh của vua cũng họp nhau lại để bảo vệ mạng sống của họ và được giải cứu khỏi những kẻ thù của họ. Họ giết chết bảy mươi lăm ngàn kẻ ghét họ; nhưng họ không đụng tay đến tài sản của chúng. 17 Họ làm điều ấy vào ngày mười ba tháng A-đa, còn ngày mười bốn họ nghỉ và biến ngày ấy thành một ngày ăn mừng và hoan hỉ.

Lập Lễ Pu-rim

18 Tuy nhiên người Do-thái ở Su-sa đã tập họp nhau vào ngày mười ba và mười bốn, nên họ nghỉ ngày mười lăm và biến ngày ấy thành một ngày ăn mừng và hoan hỉ. 19 Vì thế những người Do-thái sống trong các làng mạc, tức trong những thành không tường bao quanh, đã chọn ngày mười bốn của tháng A-đa làm ngày hoan hỉ và ăn mừng, một ngày gởi các thực phẩm làm quà cho nhau.

20 Mạc-đô-chê ghi lại những điều ấy, rồi gởi thư đến tất cả người Do-thái sống trong các tỉnh của Vua A-ha-suê-ru, cả gần lẫn xa, 21 truyền cho họ phải chọn ngày mười bốn của tháng A-đa và ngày mười lăm của tháng ấy làm ngày lễ hằng năm, 22 tức biến những ngày ấy thành những ngày kỷ niệm người Do-thái được giải thoát khỏi các kẻ thù của họ, đồng thời cũng xem tháng đó là tháng đã biến đổi tình cảnh của họ từ sầu thảm thành vui mừng, từ than khóc thành ngày phước hạnh; và họ phải biến hai ngày ấy thành những ngày ăn mừng và hoan hỉ, những ngày để gởi các thực phẩm làm quà cho nhau và tặng quà cho người nghèo. 23 Vậy người Do-thái ghi nhận điều ấy và biến hai ngày đó thành một thông lệ thường niên, rồi họ khởi sự làm y như Mạc-đô-chê đã viết thư căn dặn họ. 24 Nguyên do là Ha-man con của Ham-mê-đa-tha, người A-ga-ghi, kẻ thù của người Do-thái, đã lập mưu chống người Do-thái, định tiêu diệt họ. Ông ấy đã cho gieo Pu-rơ, tức gieo thăm, để tàn sát và tiêu diệt họ; 25 nhưng khi Ê-xơ-tê ra mắt vua, vua đã truyền chiếu chỉ rằng mưu đồ gian ác của ông ấy phải giáng xuống trên đầu ông ấy, và ông ấy cùng các con trai ông ấy đã bị treo trên mộc hình. 26 Vì thế những ngày ấy được gọi là Pu-rim, ra từ chữ Pu-rơ.

Thế thì vì mọi điều đã viết trong văn thư ấy, vì những gì họ đã chứng kiến, và vì những gì đã xảy đến cho họ, 27 người Do-thái đã thiết lập và chấp nhận một thông lệ thường niên cho họ, cho con cháu họ, và cho tất cả những ai gia nhập vào cộng đồng của họ rằng hằng năm họ không được bỏ qua nhưng phải giữ hai ngày lễ ấy, như đã viết trong văn thư, theo ngày giờ đã ấn định. 28 Những ngày ấy phải được ghi nhớ và phải giữ trải qua mọi thế hệ, trong mỗi gia đình, mỗi tỉnh, và mỗi thành. Người Do-thái không được quên những ngày lễ Pu-rim này, và con cháu họ cũng không được ngưng kỷ niệm những ngày lễ ấy.

29 Hoàng Hậu Ê-xơ-tê con gái của A-bi-ha-in cùng với Mạc-đô-chê người Do-thái đã lấy thẩm quyền của họ xác nhận bức thư thứ hai ấy về Lễ Pu-rim. 30 Bản sao bức thư ấy đã được gởi đến tất cả người Do-thái trong một trăm hai mươi bảy tỉnh của Vua A-ha-suê-ru, cầu chúc họ được hòa bình thịnh vượng và an ninh, 31 và ra lệnh rằng những ngày Lễ Pu-rim này phải được giữ theo ngày giờ đã ấn định, y như Mạc-đô-chê người Do-thái và Hoàng Hậu Ê-xơ-tê đã truyền cho người Do-thái, theo tập quán mà họ đã lập cho họ và cho con cháu họ về việc kiêng ăn và than khóc.

32 Lệnh của Hoàng Hậu Ê-xơ-tê đã biến việc giữ Lễ Pu-rim này thành một lễ cố định, và điều ấy đã được ghi vào sách.

Lời Kết

10 Vua A-ha-suê-ru bắt dân trong các xứ và các hải đảo xa xăm phải nộp thuế. Tất cả các công việc để biểu dương uy quyền và thế lực của vua, cùng mọi điều vua đã làm để khiến cho Mạc-đô-chê được tôn trọng, tức những lần vua thăng chức cho ông, há không phải chúng đã được chép trong các sách Sử Ký của Các Vua Mê-đi và Ba-tư sao? Thật vậy Mạc-đô-chê người Do-thái được ban cho quyền hành đứng hàng thứ nhì sau Vua A-ha-suê-ru. Ông là người có quyền giữa vòng người Do-thái và luôn được đông đảo đồng bào ông thương mến, bởi vì ông luôn làm những gì có lợi cho dân tộc ông, và lên tiếng binh vực cho quyền lợi của đồng bào ông.

Gia Ðình của Gióp

Trong xứ U-xơ có một người tên Gióp. Ông thật là một người trọn vẹn và ngay thẳng, một người kính sợ Ðức Chúa Trời và lánh xa điều ác. Ông sinh được bảy con trai và ba con gái. Ông có bảy ngàn chiên, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò cày, năm trăm lừa cái, và rất nhiều tôi tớ. Do đó ông là người giàu sang quyền thế nhất so với tất cả những người ở phương đông thời bấy giờ. Các con trai ông thường luân phiên nhau đến nhà từng người, tổ chức tiệc, rồi mời ba em gái của họ đến ăn uống với họ. Khi những ngày tiệc tùng như thế xong, Gióp luôn sai người kêu họ đến và làm lễ thanh tẩy cho họ. Ông thức dậy khi trời vẫn còn sớm và dâng các của lễ thiêu cho từng đứa con của ông, vì ông tự nhủ, “Biết đâu các con tôi đã phạm tội, và trong lòng chúng đã có những ý nghĩ xúc phạm đến Ðức Chúa Trời.” Ðó là những gì Gióp thường làm.

Sa-tan Tấn Công Gióp

Một ngày kia các con của Ðức Chúa Trời đến trình diện trước mặt Chúa, và Sa-tan cũng đến giữa họ. Chúa hỏi Sa-tan, “Ngươi ở đâu đến?”

Sa-tan trả lời Chúa, “Tôi đi tới đi lui khắp đất và đi lên đi xuống ở đó.”

Chúa hỏi Sa-tan, “Ngươi có thấy tôi tớ Ta là Gióp chăng? Thật không một người nào trên đất được như nó. Nó quả là một người trọn vẹn và ngay thẳng, một người kính sợ Ðức Chúa Trời và lánh xa điều ác.”

Bấy giờ Sa-tan nói với Chúa, “Gióp há kính sợ Ðức Chúa Trời mà không có lợi gì sao? 10 Há chẳng phải Ngài đã dựng hàng rào bảo vệ quanh ông ấy, quanh nhà ông ấy, và quanh mọi vật ông ấy có hay sao? Ngài quả đã ban phước cho mọi việc tay ông ấy làm và đã khiến cho tài sản của ông ấy gia tăng trên đất. 11 Nhưng bây giờ nếu Ngài đưa tay ra đụng vào tài sản của ông ấy, khiến chúng bị thiệt hại, ông ấy sẽ nguyền rủa vào mặt Ngài ngay.”

12 Chúa phán với Sa-tan, “Ðược, Ta cho phép ngươi được quyền làm gì với những gì nó có thì làm, nhưng ngươi không được đụng tay tới mình nó.” Vậy Sa-tan đi ra khỏi thánh nhan Chúa.

Sa-tan Tấn Công Tài Sản và Con Cái của Gióp

13 Một ngày kia khi các con trai và các con gái của ông đang ăn tiệc và uống rượu trong nhà người anh cả của họ, 14 một sứ giả đến với Gióp và báo, “Các đôi bò đang cày và đàn lừa đang ăn cỏ bên cạnh, 15 bỗng dưng quân Sa-bê-an ở đâu túa ra tấn công và bắt chúng đem đi hết thảy. Chúng đã dùng gươm giết các tôi tớ ông, chỉ một mình tôi thoát được, chạy về báo tin cho ông.”

16 Trong khi người ấy vẫn còn nói, một người khác chạy đến và nói, “Lửa của Ðức Chúa Trời từ trên trời giáng xuống, thiêu rụi tất cả chiên và các tôi tớ ông. Tất cả đều đã bị thiêu rụi, chỉ một mình tôi thoát được, chạy về báo tin cho ông.”

17 Trong khi người ấy vẫn còn nói, một người khác chạy đến và nói, “Quân Canh-đê chia thành ba đạo, bất thần ba mặt tấn công, cướp hết các lạc đà và dẫn chúng đi mất. Chúng đã dùng gươm giết các tôi tớ ông, chỉ một mình tôi thoát được, chạy về báo tin cho ông.”

18 Trong khi người ấy vẫn còn nói, một người khác chạy đến và nói, “Các con trai và các con gái của ông đang ăn tiệc và uống rượu trong nhà anh cả của họ, 19 thình lình một trận cuồng phong từ sa mạc thổi tới, làm sụp bốn góc nhà, khiến nhà đổ xuống trên những người trẻ, và tất cả đều đã qua đời, chỉ một mình tôi thoát được, chạy về báo tin cho ông.”

20 Bấy giờ Gióp đứng dậy, xé rách chiếc áo choàng ông đang mặc, rồi sấp mặt xuống đất, và thờ lạy. 21 Ông nói,

“Tôi trần truồng ra khỏi lòng mẹ;
Tôi sẽ trần truồng mà trở về.
Chúa ban cho, rồi Chúa lại cất đi.
Chúc tụng danh Chúa.”

22 Trong mọi sự đó Gióp không hề phạm tội, và ông không hề cáo buộc Ðức Chúa Trời đã hành động sai lầm.

Sa-tan Tấn Công Sức Khỏe của Gióp

Một ngày kia các con của Ðức Chúa Trời đến trình diện trước mặt Chúa, và Sa-tan cũng đến giữa họ để trình diện trước mặt Chúa. Chúa hỏi Sa-tan, “Ngươi ở đâu đến?”

Sa-tan trả lời với Chúa, “Tôi đi tới đi lui khắp đất và đi lên đi xuống ở đó.”

Chúa hỏi Sa-tan, “Ngươi có thấy tôi tớ Ta là Gióp chăng? Thật không một người nào trên đất được như nó. Nó quả là một người trọn vẹn và ngay thẳng, một người kính sợ Ðức Chúa Trời và lánh xa điều ác. Nó vẫn giữ vững lòng liêm chính của nó, dù ngươi đã giục Ta chống lại nó và gây thiệt hại cho nó một cách vô cớ.”

Bấy giờ Sa-tan trả lời với Chúa, “Da đền da! Tất cả những gì người ta có họ có thể bỏ hết, miễn sao giữ được mạng mình. Nhưng bây giờ nếu Ngài đưa tay ra đụng vào xương vào thịt ông ấy, gây hại đến sức khỏe ông ấy, ông ấy sẽ nguyền rủa vào mặt Ngài ngay.”

Chúa phán với Sa-tan, “Thôi được, Ta cho ngươi được quyền đụng đến thân thể nó, nhưng ngươi không được làm hại đến tính mạng nó.”

Vậy Sa-tan đi ra khỏi thánh nhan Chúa và hành hạ Gióp, khiến ông bị ung độc lở loét từ bàn chân đến đỉnh đầu. Ông phải ngồi giữa đám tro, lấy mảnh sành, và gãi.

Bấy giờ vợ ông nói với ông, “Ðến giờ nầy mà anh vẫn còn giữ lòng liêm chính của anh sao? Anh hãy nguyền rủa Ðức Chúa Trời và chết quách cho rồi!”

10 Nhưng ông trả lời bà, “Sao em nói như một bà điên vậy? Khi Ðức Chúa Trời đưa tay ban phước, chúng ta đã biết đón nhận; bây giờ Ngài giáng họa, chúng ta lại không biết nhận lãnh sao?” Trong mọi sự đó Gióp không để cho lời nói ra từ miệng ông làm cho ông mang tội.

Ba Bạn của Gióp Ðến Thăm

11 Bấy giờ, khi ba bạn của Gióp, Ê-li-pha người Tê-man, Binh-đát người Su-a, và Xô-pha người Na-a-mát, nghe tin về mọi tai họa xảy đến với ông, mỗi người lên đường đến thăm ông. Họ hẹn gặp nhau và cùng đến nhà ông để chia buồn và an ủi ông. 12 Khi thấy ông ở đàng xa, họ không thể nhận ra ông, đến khi biết đúng là ông rồi, họ bật khóc lớn tiếng. Họ xé rách áo choàng họ đang mặc, rồi hốt bụi tung lên trời, và để bụi rơi xuống đầu họ. 13 Họ ngồi xuống đất với ông bảy ngày và bảy đêm. Không ai thốt được một lời nào với ông, vì họ thấy nỗi đau đớn của ông quá lớn.

Gióp Nguyền Rủa Ngày Sinh của Ông

Sau đó Gióp mở miệng và nguyền rủa ngày sinh của ông. Gióp nói:

Ước chi ngày tôi sinh ra biến mất;
Ước chi đêm người ta nói “Bà đã mang thai một cháu trai” triệt tiêu.
Ước chi ngày ấy trở thành tăm tối.
Ước chi Ðức Chúa Trời từ trời cao không đoái đến nó,
Và ánh sáng không tỏa rạng trên nó.
Ước chi bóng tối và màn đen mù mịt cứ bám giữ lấy nó;
Ước chi mây đen bao phủ nó.
Ước chi bóng tối xảy ra giữa ban ngày làm nó kinh hãi.
Ðêm đó ước chi màn đêm cứ giữ chặt lấy nó.
Nguyện nó không được kể vào số những ngày trong năm.
Nguyện nó không được tính vào số các ngày trong tháng.
Phải, ước chi đêm đó chỉ là một đêm tĩnh mịch.
Ước chi trong đêm đó không ai nghe tiếng reo to mừng rỡ, vì đã nghe tiếng trẻ khóc chào đời.
Nguyện những ai hay nguyền rủa hãy nguyền rủa ngày ấy;
Ðó là những người có khả năng chửi rủa đến nỗi quái vật[i] cũng phải nổi khùng.
Nguyện những sao mai của ngày ấy bị khuất đi trong tăm tối;
Nguyện nó mong đợi ánh bình minh nhưng chẳng có gì;
Nguyện mắt nó sẽ không thấy tia hừng đông nào xuất hiện;
10 Bởi vì nó đã không đóng cửa lòng của mẹ tôi lại,
Hầu mắt tôi khỏi phải nhìn thấy cảnh đau đớn như thế nầy.
11 Sao tôi đã không chết đi khi vừa mới chào đời?
Sao lúc tôi ra khỏi lòng mẹ không là lúc tôi vừa tắt thở?
12 Tại sao đã có những đầu gối để nâng niu tôi,
Hay đã có bầu sữa mẹ để cho tôi bú?
13 Vì nếu được chết yểu, bây giờ tôi đã nằm im và nín lặng;
Tôi đã được an giấc và nghỉ ngơi,
14 Với các vị vua và các mưu sĩ trên đất,
Những người đã xây mộ cho mình trong nơi hoang vắng,
15 Hay với những nhà quyền quý có lắm bạc nhiều vàng,
Những người chất chứa trong các nhà họ biết bao tiền bạc.
16 Hay tại sao tôi không được chôn như một bào thai bị sảo,
Như một thai nhi không trông thấy ánh sáng mặt trời?
17 Ở nơi đó kẻ gian ác hết còn cơ hội để gây rối,
Những người mệt mỏi đã được nghỉ ngơi.
18 Ở nơi đó các tù nhân cùng nhau được thoải mái;
Họ không còn phải nghe tiếng quát tháo của cai tù.
19 Ở nơi đó kẻ nhỏ và người lớn đều như nhau;
Ngay cả các nô lệ cũng được tự do khỏi các chủ nhân của họ.
20 Tại sao lại ban ánh sáng cho người đau khổ,
Và ban mạng sống cho linh hồn kẻ sầu khổ bi thương,
21 Những kẻ chỉ mong được chết, nhưng cái chết không đến;
Họ đào bới tìm kiếm nó còn hơn tìm kho báu bị chôn giấu;
22 Những kẻ đã quá đỗi vui mừng,
Và nức lòng mừng rỡ khi tìm được phần mộ cho mình?
23 Sao lại ban ánh sáng cho người không biết mình sẽ đi đâu;
Người đã bị Ðức Chúa Trời dựng hàng rào bao vây bốn phía?
24 Vì tiếng thở dài ảo não đến với tôi đều đặn như cơm bánh,
Và tiếng rên rỉ của tôi cứ tuôn ra như uống nước hằng ngày.
25 Quả thật những gì tôi lo sợ đã xảy đến với tôi;
Những gì tôi kinh hãi đã xảy ra cho tôi.
26 Tôi không được thoải mái, tôi không được bình tịnh,
Tôi không được nghỉ ngơi, vì rắc rối phiền muộn đã ập đến rồi.

Ê-li-pha Cho Rằng Gióp Ðã Phạm Tội

Bấy giờ Ê-li-pha người Tê-man lên tiếng:

Nếu ai nói với anh cảm nghĩ của mình, anh có giận không?
Nhưng ai có thể cứ im lặng mãi mà không lên tiếng?
Này, anh đã dạy bảo nhiều người;
Anh đã giúp cho những cánh tay yếu đuối trở nên mạnh mẽ.
Lời khuyên bảo của anh đã nâng đỡ những người bị vấp ngã;
Anh đã làm cho những đầu gối lỏng lẻo được vững vàng.
Nhưng bây giờ thảm cảnh đến với anh, anh đâm ra thất chí;
Nó đụng đến anh, anh kinh hãi bàng hoàng.
Chẳng lẽ lòng kính sợ Chúa của anh không cho anh ít tự tin,
Ðức liêm chính của anh không cho anh chút hy vọng gì sao?
Xin anh nhớ lại xem, có bao giờ người vô tội mà bị diệt mất chăng?
Có nơi nào người ngay thẳng lại bị tiêu vong chăng?
Nhưng điều tôi thấy là: ai cày để trồng tội ác,
Và ai gieo rắc rối phiền muộn, ắt sẽ gặt những thứ ấy.
Chỉ một cái hắt hơi của Ðức Chúa Trời, chúng liền chết mất,
Chỉ một cái nhảy mũi của Ngài, chúng bị thiêu hủy tức thì.
10 Ðâu còn tiếng gầm của sư tử, tiếng rống của sư tử hung tàn,
Các răng nhọn của sư tử tơ đã bị bẻ gãy cả rồi.
11 Con sư tử chúa đàn cũng phải chết vì không mồi,
Ðàn con nhỏ của sư tử cái ắt phải bị tan lạc.
12 Bây giờ có một lời đã lặng lẽ đến với tôi,
Tai tôi đã nghe tiếng của nó thì thầm.
13 Giữa các tư tưởng xuất hiện qua các khải tượng trong đêm,
Khi giấc ngủ say chụp xuống trên những người phàm.
14 Một cơn sợ hãi đã đến với tôi, tôi run lên cầm cập;
Tất cả các xương tôi đều lẩy bẩy rụng rời.
15 Một thần linh bay lướt qua mặt tôi,
Mình tôi nổi gai ốc, và lông tóc tôi dựng đứng.
16 Vị thần ấy đứng yên ở đó,
Nhưng tôi không thể nhận ra hình dáng của vị thần.
Có một hình dạng ở trước mắt tôi;
Hình dạng ấy cứ đứng yên ở đó, rồi tôi nghe tiếng nói:
17 “Người phàm có thể công chính hơn Ðức Chúa Trời chăng?
Loài người há trong sạch hơn Ðấng Tạo Hóa của mình sao?
18 Ngay cả các tôi tớ của Ngài mà Ngài còn chưa tin cậy;
Các thiên sứ của Ngài mà Ngài còn bắt lỗi,
19 Huống chi những kẻ sống trong căn nhà bằng đất sét, với nền móng bằng bụi đất,
Nó có thể bị nghiền nát như người ta bóp nát một con bướm đêm.
20 Sáng chúng còn đó, chiều chưa tàn chúng đã bị diệt mất rồi;
Chúng đã chết mất vĩnh viễn, và không ai quan tâm đến chúng nữa.
21 Dây căng lều của chúng đã bị nhổ theo chúng cả rồi sao?
Chúng chết mà không biết khôn ngoan nhận thức.”

Ê-li-pha Cho Rằng Ðức Chúa Trời Sửa Phạt Gióp

Bây giờ anh cứ cầu khẩn đi, để xem ai sẽ trả lời anh?
Trong các thần thánh, để xem vị nào sẽ phù hộ anh?
Chắc chắn cơn tức giận của kẻ dại sẽ giết chết nó,
Lòng ganh tỵ của kẻ khờ sẽ hại chết nó.
Tôi đã thấy kẻ điên dại bắt đầu được thành công,[j]
Nhưng ngay lập tức tôi đã nguyền rủa nơi ở của nó.
Các con cái nó không được an toàn,
Chúng bị nghiền nát tại cổng thành và không ai giải cứu.
Kẻ đói quá ăn mất vụ mùa nó sắp thu hoạch,
Nó giựt lấy ăn ngấu nghiến dù bị gai góc cản ngăn;
Kẻ khát quá thèm muốn tiêu xài tài sản của nó.
Vì nỗi đau đớn không phải phát sinh từ đất,
Những rắc rối muộn phiền cũng không phải từ dưới đất chui lên.
Này con người sinh ra để chuốc lấy rắc rối phiền muộn,
Giống như những tàn lửa từ đống lửa bất chợt bắn ra.
Về phần tôi, tôi sẽ tìm kiếm Ðức Chúa Trời,
Tôi sẽ phó thác duyên cớ của tôi cho Ðức Chúa Trời.
Ngài làm những việc lớn lao khôn dò khôn thấu,
Ngài thực hiện những việc lạ lùng vô lượng vô vàn.
10 Ngài ban mưa xuống đất;
Ngài cho nước tưới khắp ruộng đồng;
11 Ngài nâng những kẻ hèn hạ lên chỗ cao sang;
Ngài nhấc những kẻ sầu thảm vào nơi an toàn thoải mái.
12 Ngài làm bại kế hoạch của phường xảo quyệt,
Ðể những việc tay chúng làm không được thành công.
13 Ngài đối phó với bọn ma lanh theo cách tinh ranh của chúng,
Và chước của phường quỷ quyệt phải bị hủy bỏ thình lình.
14 Giữa ban ngày chúng loay hoay như tìm đường trong đêm tối,
Giữa chính ngọ chúng mò mẫm như lần bước giữa đêm đen.
15 Nhưng Ngài cứu kẻ khốn cùng khỏi lưỡi gươm kề bên miệng,
Thoát khỏi tay những kẻ có thế lực quyền hành.
16 Nhờ thế người nghèo khó có niềm hy vọng;
Phường gian ác phải ngậm miệng im hơi.
17 Phước thay cho người được Ðức Chúa Trời khiển trách,
Vậy anh đừng coi thường sự sửa phạt của Ðấng Toàn Năng.
18 Vì Ngài làm cho bị thương, rồi chính Ngài băng bó lại;
Ngài đánh cho bầm đau, rồi Ngài ra tay chữa trị cho lành.
19 Ngài sẽ giải thoát anh khỏi sáu điều phiền muộn,
Ðến lần thứ bảy, tai họa sẽ không thể chạm đến anh.
20 Trong nạn đói, Ngài cứu anh thoát chết,
Trong chiến tranh, Ngài giữ anh thoát khỏi gươm đao.
21 Anh sẽ được che giấu khỏi những lời đả kích hiểm ác,
Anh sẽ không sợ gì khi cơn hủy diệt đến gần.
22 Anh sẽ mỉm cười trước cơn hủy diệt và trước nạn đói,
Anh sẽ không sợ gì các thú dữ trên đất.
23 Vì anh sẽ hòa mình ngay với cả sỏi đá ngoài đồng,
Nên các thú dữ sẽ sống chung hòa bình với anh.
24 Anh sẽ biết rằng trại của anh đều an toàn vô hại;
Anh sẽ kiểm lại ràn chiên và thấy chẳng bị mất con nào.
25 Anh sẽ biết rằng con cháu anh sẽ sinh ra đông đúc,
Và dòng dõi anh sẽ nhiều như cỏ mọc ngoài đồng.
26 Anh sẽ hưởng trọn tuổi cao cho đến khi vào phần mộ,
Như bó lúa đã chín vàng sẵn sàng được đem đập trong sân.
27 Ðó là những gì chúng tôi đã khám phá được, và đó là sự thật.
Mong anh hãy lắng nghe và rút tỉa điều ích lợi cho mình.

Gióp Tin Rằng Sự Than Phiền của Ông Là Hợp Lý

Bấy giờ Gióp trả lời và nói:

Ôi ước chi nỗi buồn của tôi có thể đem cân,
Ước gì nỗi khổ của tôi có thể cân trên bàn cân,
Chắc chắn nó sẽ nặng hơn cát nơi bờ biển;
Vì thế lời tôi có phần thiếu đắn đo suy nghĩ;
Vì các mũi tên của Ðấng Toàn Năng đã ghim thấu vào tôi,
Chất độc của nó đã thấm vào tâm linh tôi;
Nỗi hãi hùng của Ðức Chúa Trời đã dàn trận chống lại tôi;
Có lừa nào kêu la khi ăn không hết cỏ non?
Có bò nào rống khi cỏ khô rơm rạ chất đầy trong máng?
Thức ăn lạt lẽo, ai lại không muốn nêm vào ít muối?
Tròng trắng trứng gà nào có mùi vị gì chăng?
Thấy mấy thứ đó, lòng tôi tự nhiên ngán ngẩm;
Tôi chẳng thấy ngon lành gì khi ăn những thứ ấy đâu.
Ôi, ước chi tôi được dâng lên lời thỉnh nguyện của mình,
Và ước gì Ðức Chúa Trời sẽ ban cho tôi điều tôi mong ước.
Ước chi Ðức Chúa Trời lấy làm vui mà nghiền nát tôi ra;
Ước gì tay Ngài buông tôi ra và giết chết tôi đi.
10 Ðược như thế, tôi sẽ lấy làm an ủi,
Dù đau đớn không nguôi, tôi sẽ chấp nhận cách vui lòng;
Vì dù sao tôi đã không chối bỏ những lời của Ðấng Thánh.
11 Làm sao tôi đủ sức để đợi chờ ơn giải cứu?
Tôi không biết cuối cùng mình sẽ ra sao để có thể kiên nhẫn đợi chờ?
12 Sức lực của tôi nào phải là sức lực của đá?
Da thịt tôi nào phải cứng chắc như đồng?
13 Tôi không còn sức để giúp chính mình đứng vững nữa;
Tôi không nghĩ mình sẽ thành công dù cố gắng thế nào.
14 An ủi bạn trong lúc bạn đau buồn là phải lẽ;
Ai không làm như thế là quên kính sợ Ðấng Toàn Năng.
15 Bà con tôi đã trở mặt với tôi tựa như nước ở dòng suối chảy,
Như nước đã chảy qua rồi, và chẳng ai muốn lưu luyến gì.
16 Ở những nơi đầy tuyết giá, mặt suối bị đóng băng dày đặc;
Nhưng nước vẫn âm thầm chảy bên dưới trong tối tăm.
17 Rồi đến mùa khô hạn, dòng suối ngưng tuôn chảy;
Hơi nóng làm bốc hơi các vũng nước còn đọng lại trên dòng.
18 Các đoàn lữ hành đến bên dòng suối, rồi thất vọng bỏ đi;
Họ tiếp tục cuộc hành trình vào đồng hoang và chết mất.
19 Các đoàn lữ hành từ Tê-ma trông mong rất nhiều ở nó;
Các lữ khách từ Sê-ba cũng kỳ vọng nơi nó rất nhiều.
20 Nhưng họ phải bẽ bàng vì đã quá tin tưởng trông mong;
Họ đến nơi và đã hoàn toàn thất vọng.
21 Vì bây giờ đối với tôi, các anh cũng không ích lợi gì như vậy;
Các anh thấy tôi bị hoạn nạn và các anh đã kinh hoàng.
22 Có bao giờ tôi hỏi, “Xin các anh giúp tôi ít tiền bạc,”
Hay “Xin lấy của cải các anh mà giúp đỡ tôi” chăng?
23 Hoặc “Xin giải cứu tôi khỏi tay kẻ thù của tôi,”
Hay “Xin chuộc giùm tôi khỏi tay kẻ áp bức tôi” chăng?
24 Xin nói ra cho tôi biết, tôi sẽ im không hỏi nữa;
Xin giúp tôi hiểu xem, tôi sai ở chỗ nào?
25 Ðành rằng lời ngay thật có biết bao sức mạnh;
Nhưng lời chỉ trích của các anh chứng tỏ được gì chăng?
26 Các anh nghĩ rằng các anh sẽ bắt bẻ lời nói của tôi,
Và xem lời của người tuyệt vọng như gió thoảng hay sao?
27 Phải, các anh bắt thăm nhau chia chác những trẻ thơ côi cút,
Và ngay cả bạn bè, các anh bán đứng chẳng chạnh lòng.
28 Vậy bây giờ xin các anh hãy nhìn thẳng vào mặt tôi đi;
Các anh thừa biết rằng tôi không bao giờ nói dối với các anh.
29 Tôi xin các anh hãy đổi ý, đừng để việc bất công nầy xảy ra nữa;
Phải, xin hãy đổi ý, vì lẽ công bình của tôi tùy thuộc vào đó.
30 Lưỡi tôi có nói điều gì sai trái chăng?
Miệng tôi không thể nếm biết điều nào là đúng hay sai sao?

Gióp Tin Rằng Nỗi Khổ của Ông Kéo Dài Vô Tận

Chẳng phải người ta sống trên đất là phải tranh đấu hay sao?
Và đời người vất vả khác gì cuộc sống kẻ làm thuê sao?
Giống như người nô lệ mong cho ngày chóng tàn,
Giống như người làm thuê mong sớm nhận được tiền công,
Cũng thế, tôi đã bị định cho những tháng ngày vô nghĩa,
Những đêm của tôi là những đêm đau khổ triền miên.
Mỗi khi nằm xuống ngủ, tôi tự hỏi, “Không biết mình sẽ thức dậy và đêm sẽ qua chăng?”
Rồi tôi trằn trọc và trăn trở mãi cho đến sáng.
Thịt tôi bị bao bọc bằng giòi và vảy ghẻ cùng mình,
Da tôi bị mưng mủ và lở loét khắp nơi.
Những ngày của đời tôi qua nhanh hơn con thoi của thợ dệt,
Và chúng chấm dứt trong vô vọng não nùng.
Ôi, xin nhớ lại, đời con chỉ dài bằng một hơi thở;
Mắt con sẽ không bao giờ thấy phước hạnh nữa sao?
Mắt của Ðấng đã từng thấy con sẽ không còn thấy con đâu nữa,
Ðang khi mắt Ngài nhìn con, con tan biến, chẳng còn gì.
Như mây tan và biến mất thể nào,
Kẻ xuống âm phủ sẽ không trở lên cũng thể ấy.
10 Nó sẽ không trở về nhà nó nữa;
Nơi nó ở sẽ không nhận biết nó nữa.
11 Vì thế con sẽ không kiềm hãm môi miệng con nữa,
Con sẽ nói ra trong lúc tâm linh con thống khổ âu sầu.
Con sẽ phàn nàn trong khi tâm hồn con buồn rầu cay đắng.
12 Con đâu phải là biển cả hay cá sấu dưới biển,
Mà Ngài phải lập kẻ canh chừng con từng phút từng giây?
13 Khi con nói, “Giường của mình sẽ làm cho mình được an ủi,
Nệm của mình sẽ làm cho mình vơi nhẹ bớt buồn đau,”
14 Thì Ngài lại làm cho con sợ hãi vì những cơn ác mộng,
Ngài làm cho con kinh hoàng vì những khải tượng hãi hùng.
15 Vì vậy con thà bị treo cổ và chết phứt cho rồi,
Hơn là cứ sống trong xương thịt mà đau đớn thế nầy.
16 Con chán ghét đời sống của con rồi;
Con không muốn sống cao niên trường thọ nữa.
Xin buông con ra, để mặc cho con sống hay chết,
Vì đời con chỉ dài bằng một hơi thở.
17 Loài người là gì mà Ngài coi trọng như vậy?
Tại sao Ngài phải bận tâm lưu ý đến con người?
18 Tại sao mỗi sáng Ngài phải thăm viếng nó?
Tại sao Ngài phải thử nghiệm nó từng phút từng giây?
19 Ngài sẽ không ngoảnh mặt khỏi con cho đến bao lâu nữa?
Sao không để con yên thân cho đến khi con nuốt xong nước bọt của mình?
20 Nếu con phạm tội thì mặc kệ con, chứ can hệ gì đến Ngài?
Ôi Ðấng Dò Xét Loài Người, tại sao Ngài lại chọn con làm mục tiêu?
Tại sao con lại trở thành một gánh nặng của Ngài?
21 Tại sao Ngài không tha thứ những vi phạm của con và vứt bỏ tội lỗi của con cho rồi?
Vì chẳng mấy chốc nữa con sẽ bị vùi tan trong đất bụi;
Bấy giờ dù Ngài có vất vả tìm kiếm con, con sẽ không còn.

Bản Dịch 2011 (BD2011)

Copyright © 2011 by Bau Dang