Bible in 90 Days
Các Ban Thầy Tế Lễ
24 Các phân ban trong con cháu A-rôn: Các con trai của A-rôn là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. 2 Nhưng Na-đáp và A-bi-hu chết trước cha chúng và không có con; Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma trở nên thầy tế lễ. 3 Vua Đa-vít cùng với Xa-đốc, thuộc dòng dõi Ê-lê-a-sa, và A-hi-mê-léc thuộc dòng dõi Y-tha-ma, phân chia các thầy tế lễ thành các ban phục vụ. 4 Giữa vòng con cháu Ê-lê-a-sa có nhiều trưởng tộc hơn là con cháu Y-tha-ma nên người ta phân chia như sau: Mười sáu trưởng tộc thuộc dòng dõi Ê-lê-a-sa và tám trưởng tộc thuộc dòng dõi Y-tha-ma. 5 Những người này được phân chia theo ban bằng cách rút thăm vì họ đều là những viên chức đền thánh, viên chức của Đức Chúa Trời, thuộc con cháu Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma.
6 Sê-ma-gia là thư ký, con của Na-tha-na-ên, thuộc bộ tộc Lê-vi, ghi chép tên của họ trước mặt vua, các quan, thầy tế lễ Xa-đốc, A-hi-mê-léc, con trai A-bia-tha, và các trưởng tộc của thầy tế lễ và người Lê-vi: Cứ mỗi gia tộc thuộc Ê-lê-a-sa thì một gia tộc thuộc Y-tha-ma lại được rút thăm.
7 Thăm thứ nhất trúng Giê-hô-gia-ríp;
thăm thứ nhì vào Giê-đa-ê-gia;
8 thăm thứ ba trúng Ha-rim,
thứ tư vào Sê-ô-rim,
9 thứ năm trúng Manh-ki-gia,
thứ sáu vào Mia-min,
10 thứ bảy trúng Cốt,
thứ tám vào A-bi-gia,
11 thứ chín trúng Giê-sua,
thứ mười vào Sê-ca-nia,
12 thứ mười một trúng Ê-li-a-síp,
thứ mười hai vào Gia-kim,
13 thứ mười ba trúng Húp-ba,
thứ mười bốn vào Giê-sê-báp,
14 thứ mười lăm trúng Binh-ga,
thứ mười sáu vào Y-mê,
15 thứ mười bảy trúng Hê-xia,
thứ mười tám vào Phi-xết,
16 thứ mười chín trúng Phê-ta-hia,
thứ hai mươi vào Ê-xê-chi-ên,
17 thứ hai mươi mốt trúng Gia-kin,
thứ hai mươi hai vào Ga-mun,
18 thứ hai mươi ba trúng Đê-la-gia,
thứ hai mươi bốn vào Ma-a-xia.
19 Đây là các ban phục vụ trong đền thờ CHÚA theo những luật lệ mà tổ phụ họ là A-rôn thiết lập như CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã truyền.
20 Những con cháu còn lại của Lê-vi:
Trong con cháu Am-ram có Su-ba-ên,
trong con cháu Su-ba-ên có Giê-đia.
21 Còn về con cháu Rê-ha-bia,
Di-si-gia là trưởng.
22 Trong con cháu Dít-sê-ha có Sê-lô-mốt;
trong con cháu Sê-lô-hốt có Gia-hát.
23 Trong con cháu Hếp-rôn có Giê-ri-gia, con trưởng, A-ma-ria thứ nhì, Gia-ha-xi-ên thứ ba, và Gia-ca-mê-am thứ tư.
24 Trong con cháu U-xi-ên có Mi-ca;
trong con cháu Mi-ca có Sa-mia.
25 Anh em của Mi-ca là Dít-hi-gia;
trong con cháu Dít-hi-gia có Xa-cha-ri.
26 Trong con cháu Mê-ra-ri có Mách-li và Mu-si;
trong con cháu của Gia-a-xi-gia có Bê-nô.
27 Các con trai của Mê-ra-ri là
Bê-nô, Sô-ham, Xác-cua và Y-bê-ri.
28 Về dòng Mách-li có Ê-lê-a-sa, người không có con trai.
29 Trong con cháu Kích có
Giê-rác-mê-ên.
30 Các con trai của Mu-si là Mách-li, Ê-đe và Giê-ri-mốt.
Đó là con cháu Lê-vi theo tông tộc của chúng. 31 Họ cũng bắt thăm như những anh em của họ thuộc dòng dõi A-rôn đã làm trước mặt vua Đa-vít, Xa-đốc, A-bi-mê-léc cùng trước mặt các trưởng tộc của những thầy tế lễ và người Lê-vi. Những trưởng tộc cũng bắt thăm như những người em của mình.
Các Ca Nhạc Sĩ Trong Đền Thờ
25 Vua Đa-vít cùng với những người chỉ huy quân đội cũng tách riêng một số con cháu A-sáp, Hê-man và Giê-đu-thun cho công việc phục dịch; những người này nói tiên tri với tiếng đàn hạc, đàn lia và chập chỏa phụ họa. Danh sách những người phục dịch như sau:
2 Các con trai của A-sáp:
Xác-cua, Giô-sép, Nê-tha-nia, và A-sa-rê-la. Các con trai A-sáp phục vụ dưới quyền của ông, còn chính A-sáp thì nói tiên tri dưới quyền vua.
3 Các con trai của Giê-đu-thun:
Ghê-đa-lia, Xê-ri, I-sa, Ha-sa-bia, Ma-ti-thia, và Si-mê-i, sáu người tất cả phục vụ dưới quyền cha mình. Giê-đu-thun nói tiên tri với đàn hạc phụ họa để cảm tạ, ca ngợi CHÚA.
4 Các con trai của Hê-man:
Búc-ki-gia, Ma-tha-nia, U-xi-ên, Sê-bu-ên, Giê-ri-mốt, Ha-na-nia, Ha-na-ni, Ê-li-a-tha, Ghi-đanh-thi, Rô-mam-ti-Ê-xe, Giốt-bê-ca-sa, Ma-lô-thi, Hô-thia, và Ma-ha-xi-ốt. 5 Tất cả những người này là con của Hê-man, vị tiên kiến của vua, theo lời Đức Chúa Trời hứa để tôn vinh quyền năng Ngài. Đức Chúa Trời ban cho Hê-man 14 con trai và 3 con gái.
6 Tất cả những người trên đều ở dưới quyền cha mình lo về âm nhạc trong đền thờ CHÚA. Họ sử dụng chập chỏa, đàn lia, đàn hạc dưới quyền A-sáp, Giê-đu-thun và Hê-man theo lệnh vua để phục vụ nhà Đức Chúa Trời. 7 Cùng với dòng họ mình, chúng là những người có khả năng, được huấn luyện về âm nhạc để phục vụ CHÚA; số người là 288 người. 8 Họ bắt thăm để nhận nhiệm vụ, lớn cũng như nhỏ, thầy cũng như trò.
9 Thăm thứ nhất rơi nhằm Giô-sép thuộc dòng A-sáp; thăm thứ nhì trúng Ghê-đa-lia, những người họ hàng và các con người, tất cả 12 người.
10 Thăm thứ ba nhằm Xác-cua, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
11 Thăm thứ tư trúng Dít-sê-ri, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
12 Thăm thứ năm nhằm Nê-tha-nia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
13 Thăm thứ sáu trúng Búc-ki-gia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
14 Thăm thứ bảy nhằm Giê-sa-rê-la, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
15 Thăm thứ tám trúng I-sa, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
16 Thăm thứ chín nhằm Ma-tha-nia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
17 Thăm thứ mười trúng Si-mê-i, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
18 Thăm thứ mười một nhằm A-xa-rên, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
19 Thăm thứ mười hai trúng Ha-sa-bia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
20 Thăm thứ mười ba nhằm Su-ba-ên, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
21 Thăm thứ mười bốn trúng Ma-ti-thia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
22 Thăm thứ mười lăm nhằm Giê-rê-mốt, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
23 Thăm thứ mười sáu trúng Ha-na-nia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
24 Thăm thứ mười bảy nhằm Giốt-bê-ca-sa, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
25 Thăm thứ mười tám trúng Ha-na-ni, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
26 Thăm thứ mười chín nhằm Ma-lô-thi, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
27 Thăm thứ hai mươi trúng Ê-li-gia-ta, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
28 Thăm thứ hai mươi mốt nhằm Hô-thia, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
29 Thăm thứ hai mươi hai trúng Ghi-đanh-thi, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
30 Thăm thứ hai mươi ba nhằm Ma-ha-xi-ốt, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
31 Thăm thứ hai mươi bốn trúng Rô-mam-ti-Ê-xe, các con trai và họ hàng người, tất cả 12 người.
Những Người Giữ Cổng Đền Thờ
26 Các ban của những người giữ cổng như sau:
Về dòng Kô-rê có Mê-sê-lê-mi, con trai của Kô-rê, một trong những con cháu của A-sáp.
2 Mê-sê-lê-mi có các con trai là:
Xa-cha-ri, con trưởng nam,
Giê-đi-a-ên, con thứ nhì,
Xê-ba-đia thứ ba
Giát-ni-ên thứ tư,
3 Ê-lam thứ năm,
Giô-ha-nan thứ sáu,
và Ê-li-ô-ê-nai thứ bảy.
4 Các con trai của Ô-bết-Ê-đôm là
Sê-ma-gia, con trưởng nam,
Giê-hô-sa-bát thứ nhì,
Giô-a thứ ba,
Sa-ca thứ tư,
Nê-tha-nên thứ năm,
5 A-mi-ên thứ sáu,
Y-sa-ca thứ bảy,
và Phê-u-lê-tai thứ tám;
vì Đức Chúa Trời ban phước cho Ô-bết-Ê-đôm.
6 Con người là Sê-ma-gia cũng có các con trai lãnh đạo các tộc mình vì chúng là những người dũng mãnh. 7 Các con trai của Sê-ma-gia là Ốt-ni, Rê-pha-ên, Ô-bết, Ên-xa-bát; các anh em họ là Ê-li-hu và Sê-ma-kia đều là những người dũng mãnh. 8 Tất cả những người này đều là con cháu Ô-bết-Ê-đôm; họ, con cái và họ hàng đều là những người dũng mãnh, có khả năng làm việc; có 62 người thuộc dòng dõi Ô-bết-ê-đôm.
9 Mê-sê-lê-mi có các con trai và những người họ hàng, cả thảy là 18 người, đều là những người dũng mãnh.
10 Hô-sa thuộc dòng Mê-ra-ri có các con trai: Sim-ri là trưởng dù người không phải là con đầu nhưng cha người lập người làm con trưởng. 11 Hinh-kia thứ nhì, Tê-ba-lia thứ ba, Xa-cha-ri thứ tư. Tất cả các con trai và họ hàng của Hô-sa là 13 người.
12 Đây là các ban giữ cổng cùng những người trưởng ban; họ cũng như các anh em mình có nhiệm vụ phục vụ đền thờ CHÚA. 13 Họ theo từng tộc, trẻ cũng như già đều bắt thăm nhận cổng.
14 Thăm cho cổng Đông trúng nhằm Sê-lê-mia; thăm về cổng Bắc trúng vào Xa-cha-ri, con Sê-lê-mia, một cố vấn khôn ngoan. 15 Thăm cho cổng Nam trúng vào Ô-bết-Ê-đôm còn thăm về nhà kho nhằm các con trai ông. 16 Súp-bim và Hô-sa được cổng Tây với cửa Sa-lê-kết ở trên con đường dốc. Trạm canh này liền với trạm canh kia: 17 Mỗi ngày có 6 người Lê-vi canh cổng Đông, 4 người canh cổng Bắc, 4 người canh cổng Nam và các nhà kho, 2 người mỗi nhà kho. 18 Về khu phụ thuộc[a] phía tây, 4 người canh ngoài đường và 2 người ở trong khu vực.
19 Đó là những ban canh cổng theo dòng dõi Kô-rê và Mê-ra-ri.
Những Người Quản Lý Nhà Kho Và Thẩm Phán
20 Trong vòng người Lê-vi, A-hi-gia lo việc quản lý các nhà kho đền thờ Đức Chúa Trời và kho chứa các vật thánh.
21 Các con cháu của La-đan thuộc tộc Ghẹt-sôn; trưởng tộc họ La-đan, thuộc tộc Ghẹt-sôn là Giê-hi-ên. 22 Các con trai của Giê-hi-ên là Xê-tham và Giô-ên, em người, quản lý các kho tàng đền thờ CHÚA.
23 Trong các dòng Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên,
24 có Sê-bu-ên, con cháu Ghẹt-sôn, thuộc dòng dõi Môi-se là viên chức quản lý kho tàng. 25 Các họ hàng của người theo tộc Ê-li-ê-se: Rê-ha-bia, con người, I-sa, con người, Giô-ram, con người, Xiếc-ri, con người, Sê-lô-mi, con người. 26 Sê-lô-mi và các anh em người quản lý các nhà kho chứa đồ thánh mà vua Đa-vít, các trưởng tộc, các người chỉ huy ngàn quân và trăm quân cùng các người chỉ huy quân đội dâng hiến. 27 Người ta cũng lấy các chiến lợi phẩm trong chiến trận sung vào kho để tu bổ đền thờ CHÚA. 28 Tất cả những vật mà Sa-mu-ên, vị tiên kiến, vua Sau-lơ con trai của Kích, Áp-ne con trai của Nê-rơ, Giô-áp con trai của Xê-ru-gia và mọi người khác dâng hiến đều do Sê-lô-mi và anh em người quản lý.
29 Trong dòng Dít-sê-ha có Kê-na-nia và các con trai người được lập lên làm viên chức và thẩm phán trên Y-sơ-ra-ên, có nhiệm vụ cai quản những việc bên ngoài đền thờ.
30 Trong dòng Hếp-rôn có Ha-sa-bia và họ hàng người, là những người có khả năng, con số lên đến 1,700 người; họ cai quản Y-sơ-ra-ên về phía tây sông Giô-đanh trong mọi công việc của CHÚA cũng như phục dịch vua. 31 Về dòng Hếp-rôn, Giê-ri-gia là trưởng tộc theo gia phả của gia đình. Vào năm thứ bốn mươi dưới triều vua Đa-vít, người ta tra cứu và thấy giữa vòng dòng họ Hếp-rôn có những người có khả năng tại Gia-ê-xe trong vùng Ga-la-át. 32 Những người họ hàng của Giê-ri-gia gồm 2,700 người có khả năng, là trưởng tộc, được vua Đa-vít lập lên cai quản người Ru-bên, người Gát và một nửa bộ tộc Ma-na-se trong mọi công việc của Đức Chúa Trời lẫn của vua.
Tổ Chức Quân Đội Của Vua Đa-vít
27 Dân Y-sơ-ra-ên được liệt kê như sau: Các trưởng tộc, những người chỉ huy ngàn quân, chỉ huy trăm quân và các viên chức phục vụ vua về mọi vấn đề trong các đoàn quân; đoàn quân hoạt động cũng như đoàn quân nghỉ hằng tháng cho suốt năm. Mỗi đoàn quân có hai mươi bốn ngàn người.
2 Trưởng đoàn thứ nhất cho tháng thứ nhất là Gia-sô-bê-am, con trai Giáp-đi-ên; đoàn này có 24,000 người.
3 Người thuộc dòng dõi Phê-rết, đứng đầu trên hết các quan trong đoàn quân hoạt động vào tháng thứ nhất.
4 Trưởng đoàn quân cho tháng hai là Đô-đai, người A-hô-ha; Mích-lô là người chỉ huy trong đoàn quân này; đoàn quân có 24,000 người.
5 Trưởng đoàn quân thứ ba cho tháng ba là Bê-na-gia, con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, trưởng tế; đoàn quân của người có 24,000 người.
6 Bê-na-gia là một dũng sĩ trong nhóm ba mươi dũng sĩ mà ông là trưởng; Am-mi-xa-đáp, con trai người cũng ở trong đoàn quân của ông.
7 Trưởng đoàn quân thứ tư cho tháng tư là A-sa-ên, em Giô-áp; con trai người là Xê-ba-đia kế vị người; đoàn quân của người có 24,000 người.
8 Trưởng đoàn quân thứ năm cho tháng năm là Sê-mê-hút, người Ghít-ra; đoàn quân người có 24,000 người.
9 Trưởng đoàn quân thứ sáu cho tháng sáu là Y-ra, con trai Y-ke người Thê-cô-a; đoàn quân người có 24,000 người.
10 Trưởng đoàn quân thứ bảy cho tháng bảy là Hê-lết, người thuộc bộ tộc Ép-ra-im ở Pha-lôn; đoàn quân người có 24,000 người.
11 Trưởng đoàn quân thứ tám cho tháng tám là Si-bê-cai thuộc họ Xê-rách ở Hu-sa; đoàn quân người có 24,000 người.
12 Trưởng đoàn quân thứ chín cho tháng chín là A-bi-ê-xe, người ở A-na-tốt thuộc bộ tộc Bên-gia-min; đoàn quân người có 24,000 người.
13 Trưởng đoàn quân thứ mười cho tháng mười là Ma-ha-rai thuộc họ Xê-rách ở Nê-tô-pha; đoàn quân người có 24,000 người.
14 Trưởng đoàn quân thứ mười một cho tháng mười một là Bê-na-gia thuộc bộ tộc Ép-ra-im ở Phi-ra-thôn; đoàn quân người có 24,000 người.
15 Trưởng đoàn quân thứ mười hai cho tháng mười hai là Hiên-đai thuộc họ Ốt-ni-ên ở Nê-tô-pha; đoàn quân người có 24,000 người.
Những Người Lãnh Đạo Các Chi Tộc
16 Những người lãnh đạo các bộ tộc Y-sơ-ra-ên gồm có:
Ê-li-ê-se, con trai Xiếc-ri lãnh đạo bộ tộc Ru-bên;
Sê-pha-tia, con trai Ma-a-ca lãnh đạo bộ tộc Si-mê-ôn;
17 Ha-sa-bia, con trai Kê-mu-ên lãnh đạo bộ tộc Lê-vi;
Xa-đốc lãnh đạo con cháu A-rôn.
18 Ê-li-hu, anh của Đa-vít lãnh đạo bộ tộc Giu-đa;
Ôm-ri, con trai của Mi-ca-ên lãnh đạo bộ tộc Y-sa-ca.
19 Dít-ma-hia, con trai Ô-ba-đia lãnh đạo bộ tộc Sa-bu-luân;
Giê-ri-mốt, con trai A-ri-ên lãnh đạo Nép-ta-li;
20 Ô-sê, con trai A-xa-xia lãnh đạo bộ tộc Ép-ra-im;
Giô-ên, con trai Phê-đa-gia lãnh đạo nửa bộ tộc Ma-na-se;
21 Ghi-đô, con trai Xa-cha-ri lãnh đạo nửa bộ tộc Ma-na-se tại Ga-la-át;
Gia-a-xi-ên, con trai Áp-ne lãnh đạo bộ tộc Bên-gia-min. 22 A-xa-rên, con trai Giê-rô-ham lãnh đạo bộ tộc Đan.
Đó là những người lãnh đạo các bộ tộc Y-sơ-ra-ên.
23 Vua Đa-vít không lấy số người từ hai mươi tuổi trở xuống vì CHÚA hứa rằng Ngài sẽ làm cho dân Y-sơ-ra-ên đông như sao trên trời. 24 Giô-áp, con trai Xê-ru-gia bắt đầu kiểm kê nhưng không hoàn tất được; vì việc này mà cơn thịnh nộ giáng xuống Y-sơ-ra-ên và người không ghi con số đó vào sử biên niên của vua Đa-vít.
25 Ách-ma-vết, con trai A-đi-ên coi sóc các kho của vua; Giô-na-than, con trai U-xi-gia coi sóc các kho ở đồng ruộng, ở các thành, ở các thôn làng và đồn lũy. 26 Ết-ri, con trai Kê-lúp cai quản những nông dân canh tác đất đai. 27 Sim-ri, người Ra-ma cai quản những vườn nho; Xáp-đi, người Xê-pham cai quản những sản phẩm từ vườn nho và dự trữ rượu nho. 28 Ba-anh-Ha-nan, người Ghê-đe, cai quản những cây ô liu và cây vả trong vùng Sơ-phê-la. Giô-ách cai quản các kho dầu ô liu. 29 Sít-trai, người Sa-rôn coi sóc các bày bò nuôi ở Sa-rôn; Sa-phát, con trai Át-lai, coi sóc các đàn bò nuôi nơi các thung lũng. 30 Ô-binh, người Ích-ma-ên, coi sóc lạc đà; Giê-đia, người Mê-rô-nốt coi sóc các lừa; 31 Gia-xít, người Ha-ga-rít coi sóc các bầy chiên. Tất cả những người này là viên chức quản lý sản nghiệp của vua Đa-vít. 32 Giô-na-than, cậu của Đa-vít làm cố vấn, một người sáng suốt và thông thái; Giê-hi-ên, con trai Hác-mô-ni chăm sóc các hoàng tử. 33 A-hi-tô-phen là cố vấn của vua; Hu-sai, người Ạt-kít, là bạn của vua. 34 Sau A-hi-tô-phen là Giê-hô-gia-đa, con trai Bê-na-gia, rồi đến A-bia-tha. Giô-áp là thống tướng quân đội hoàng gia.
Vua Đa-vít Chỉ Dẫn Về Việc Xây Đền Thờ
28 Vua Đa-vít triệu tập tất cả những viên chức Y-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem: Các người lãnh đạo các bộ tộc, những người chỉ huy ngàn quân, chỉ huy trăm quân, những người quản lý các tài sản và súc vật của vua, các hoàng tử, các triều thần, anh hùng và tất cả dũng sĩ.
2 Vua Đa-vít đứng dậy và nói: “Hỡi anh em và dân ta, hãy nghe đây: Ta đã định trong lòng sẽ xây một đền để đặt Rương Giao Ước của CHÚA và cho bệ chân Đức Chúa Trời chúng ta và ta đã chuẩn bị để xây cất; 3 nhưng Đức Chúa Trời phán với ta, ngươi sẽ không xây cất nhà cho danh ta vì ngươi là một chiến sĩ đã gây đổ máu. 4 CHÚA, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã chọn ta từ nhà cha ta để làm vua Y-sơ-ra-ên đời đời. Thật vậy, Ngài đã chọn bộ tộc Giu-đa lên lãnh đạo, từ Giu-đa Ngài đã chọn gia đình cha ta và từ các con trai của cha ta, Ngài đã vui lòng chọn ta làm vua trên toàn thể Y-sơ-ra-ên. 5 Trong số tất cả các con trai ta, thật CHÚA có cho ta nhiều con trai, Ngài chọn Sa-lô-môn, con trai ta, đặt ngồi trên ngai của vương quốc CHÚA để cai trị Y-sơ-ra-ên. 6 Ngài phán với ta: ‘Sa-lô-môn, con trai ngươi sẽ xây đền thờ và khuôn viên cho ta vì Ta đã chọn nó làm con và Ta sẽ là cha nó. 7 Ta sẽ lập vương quốc người đời đời nếu người bền lòng gìn giữ các điều răn và luật pháp Ta như ngày nay.’
8 Vậy, giờ đây, trước mắt toàn thể Y-sơ-ra-ên, là hội chúng của CHÚA và có Đức Chúa Trời chúng ta nghe thấy, hãy gìn giữ và thi hành mọi điều răn của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, như thế các ngươi mới sở hữu đất nước tốt đẹp này và truyền lại cho con cháu mai sau làm cơ nghiệp đời đời.
9 Còn con, hỡi Sa-lô-môn, con ta, hãy nhận biết Đức Chúa Trời của cha con, hãy hết lòng và hết linh hồn mà phục vụ Ngài vì CHÚA dò xét mọi tấm lòng và biết mọi ý định, tư tưởng. Nếu con tìm kiếm Ngài, con sẽ gặp được; nhưng nếu con từ bỏ Ngài thì Ngài sẽ loại bỏ con đời đời. 10 Giờ đây, hãy xem, vì CHÚA đã chọn con để xây một đền làm thánh điện; hãy mạnh dạn lên mà làm.”
11 Vua Đa-vít trao cho Sa-lô-môn, con trai vua, họa đồ về tiền đường, đền thờ, các nhà kho, phòng lầu, phòng trong và phòng xá tội[b] 12 Vua cũng trao họa đồ mà Linh trong vua[c] bày tỏ về các sân đền CHÚA, về tất cả các phòng chung quanh, về các kho trong đền Đức Chúa Trời và các kho chứa vật thánh; 13 về các ban thầy tế lễ và người Lê-vi, về mọi công việc phục dịch đền thờ CHÚA, về các vật dụng phục dịch trong đền CHÚA. 14 Vua ấn định số lượng vàng cho tất cả các vật dụng bằng vàng dùng trong mỗi công việc; số lượng bạc cho tất cả các vật dụng bằng bạc dùng trong mỗi công việc; 15 số lượng vàng cho các chân đèn vàng và đèn; số lượng vàng cho mỗi chân đèn và đèn; số lượng bạc cho mỗi chân đèn và đèn tùy cách sử dụng của chúng. 16 Người cũng ấn định số lượng vàng cho các bàn và mỗi bàn để bánh thánh, và bạc cho các bàn bằng bạc; 17 vàng ròng cho các chỉa, chậu rảy, bình; cho các đĩa, số lượng vàng cho mỗi đĩa vàng; cho các đĩa bạc và số lượng bạc cho mỗi đĩa. 18 Người cũng ấn định số lượng vàng tinh luyện cho bàn thờ dâng hương và họa đồ xe có chê-ru-bim bằng vàng xòe cánh che trên Rương Giao Ước của CHÚA.
19 Vua Đa-vít nói: “Tất cả đều ở trong một văn bản do tay CHÚA ở trên ta mà viết ra;[d] Ngài cho ta hiểu tất cả mọi chi tiết của họa đồ.”
20 Vua Đa-vít bảo Sa-lô-môn, con trai vua: “Hãy mạnh mẽ và can đảm lên để làm việc, đừng sợ hãi và chán nản vì CHÚA, là Đức Chúa Trời của cha sẽ ở cùng con. Ngài sẽ không để con thất bại và sẽ không từ bỏ con cho đến khi mọi công trình để phục dịch đền thờ CHÚA được hoàn tất. 21 Này, có các ban thầy tế lễ và người Lê-vi sẵn sàng cho mọi công việc phục dịch đền thờ Đức Chúa Trời; và trong mọi công việc con đều có người vui lòng, người có khả năng về mọi ngành giúp đỡ. Tất cả viên chức và toàn dân đang chờ lệnh con.”
Những Lễ Vật Dâng Hiến Để Xây Đền Thờ
29 Vua Đa-vít nói với toàn hội chúng: “Sa-lô-môn, con trai ta, người mà Đức Chúa Trời đã chọn, hãy còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, còn công việc thì lớn lao vì đền này không phải xây cho người phàm nhưng cho CHÚA, là Đức Chúa Trời. 2 Ta đã hết sức cung cấp các vật liệu để xây đền Đức Chúa Trời ta; vàng cho những vật bằng vàng, bạc cho những vật bằng bạc, đồng cho những vật bằng đồng, sắt cho những vật bằng sắt, gỗ cho những vật bằng gỗ, ngọc mã não, ngọc để khảm, lam ngọc, ngọc nhiều màu và đủ loại đá quí và rất nhiều đá cẩm thạch. 3 Hơn nữa vì lòng yêu mến đền Đức Chúa Trời ta, nên ngoài số vật liệu đã sắm sẵn cho đền thánh, ta cũng dâng hiến vàng bạc từ kho riêng của ta cho đền Đức Chúa Trời ta. 4 Ta đã dâng hiến ba ngàn ta-lâng vàng Ô-phia[e] bảy ngàn ta-lâng bạc[f] tinh luyện để dát tường đền thờ; 5 vàng cho những vật bằng vàng, bạc cho các vật bằng bạc và cho tất cả những vật dụng thợ phải làm. Vậy, hôm nay ai là người muốn dâng hiến rộng rãi cho CHÚA?”
6 Bấy giờ lãnh đạo các họ, lãnh đạo các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên, những vị chỉ huy ngàn quân, chỉ huy trăm quân, những viên chức quản lý của vua đều vui lòng dâng hiến. 7 Họ dâng cho công việc xây đền Đức Chúa Trời: năm ngàn ta-lâng vàng[g] mười ngàn đồng tiền vàng đa-riếc, mười ngàn ta-lâng bạc[h] mười tám ngàn ta-lâng đồng[i] và một trăm ngàn ta-lâng sắt [j] 8 Người có đá quí cũng dâng vào kho đền thờ CHÚA do Gia-hi-ên, người họ Ghẹt-sôn quản lý. 9 Dân chúng vui mừng trong sự tự nguyện dâng hiến, vì họ đã hết lòng dâng hiến cho CHÚA; vua Đa-vít cũng vô cùng vui mừng.
10 Trước mặt toàn thể hội chúng, vua Đa-vít ca ngợi CHÚA:
“Lạy CHÚA, là Đức Chúa Trời
Của tổ phụ Y-sơ-ra-ên chúng con,
Con xin ca ngợi Ngài đến muôn đời.
11 Lạy CHÚA, Ngài thật vĩ đại, quyền năng,
Vinh quang, uy nghi và rực rỡ;
Lạy CHÚA, vì tất cả trời đất đều thuộc về Ngài;
Vương quốc thuộc về Ngài
Và Ngài được tôn cao đứng đầu mọi sự.
12 Phú quí vinh hoa đều đến từ Ngài;
Ngài cai quản mọi sự;
Sức mạnh và quyền năng ở trong tay Ngài;
Ngài có quyền làm cho vĩ đại và ban sức lực cho mọi người.
13 Giờ đây, lạy Đức Chúa Trời chúng con,
Chúng con cảm tạ Ngài và ca ngợi danh vinh hiển Ngài.
14 Thật vậy, con là ai? Và dân của con là gì mà có thể dâng hiến rộng rãi thế này? Vì tất cả đều đến từ Ngài; những gì chúng con dâng hiến cho Ngài đều do tay Ngài mà ra. 15 Vì trước mặt Ngài, chúng con cũng như tổ tiên chúng con chỉ là những người kiều cư, khách lạ; cuộc đời chúng con trên đất như những chiếc bóng, không nơi nương tựa. 16 Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng con, tất cả tài vật phong phú chúng con dâng để xây đền cho danh thánh Ngài đều do tay Ngài mà ra và đều thuộc về Ngài. 17 Lạy Đức Chúa Trời của con, con biết rằng Ngài xét lòng người và vui về điều ngay thẳng. Chính con đã tự nguyện và với lòng ngay thẳng dâng hiến tất cả những vật này. Giờ đây con vui mừng thấy dân Ngài tại đây cũng vui vẻ tự nguyện dâng hiến cho Ngài. 18 Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Y-sơ-ra-ên, tổ phụ chúng con, xin gìn giữ ý nguyện, tư tưởng ấy trong lòng dân Ngài mãi mãi và xin giữ lòng họ hướng về Ngài. 19 Xin Chúa ban cho Sa-lô-môn, con trai con, hết lòng gìn giữ điều răn, sắc luật và đạo luật của Ngài; cùng làm mọi sự để xây cất đền thờ mà con đã chuẩn bị cho.” 20 Bấy giờ vua Đa-vít nói với toàn thể hội chúng: “Giờ đây, hãy ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi.” Vậy, cả hội chúng chúc tụng CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ; chúng cúi đầu, quì lạy CHÚA và vua.
21 Ngày hôm sau, chúng dâng sinh tế và tế lễ thiêu cho CHÚA: một ngàn bò đực, một ngàn chiên đực, một ngàn chiên con cùng rất nhiều rượu tế và sinh tế cho toàn thể Y-sơ-ra-ên. 22 Ngày hôm ấy họ ăn uống rất vui vẻ trước mặt CHÚA.
Bấy giờ, một lần nữa họ tôn Sa-lô-môn, con vua Đa-vít lên làm vua; họ xức dầu cho ông trước mặt CHÚA để cai trị và xức dầu cho ông Xa-đốc làm thầy tế lễ. 23 Sa-lô-môn được lên ngôi CHÚA ban, làm vua thế cho vua cha Đa-vít; người được thịnh vượng và toàn dân Y-sơ-ra-ên thuận phục vua. 24 Tất cả những người lãnh đạo, các dũng sĩ và cả các hoàng tử con vua Đa-vít đều thề phục tùng vua Sa-lô-môn. 25 CHÚA làm cho vua Sa-lô-môn được tôn trọng trước mắt toàn thể Y-sơ-ra-ên; Ngài ban cho người sự lộng lẫy vương giả mà chưa vua nào trong Y-sơ-ra-ên trước đây có được.
26 Vua Đa-vít, con trai Y-sai, đã cai trị toàn thể Y-sơ-ra-ên. 27 Vua trị vì trên Y-sơ-ra-ên bốn mươi năm, bảy năm tại Hếp-rôn và ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. 28 Vua băng hà lúc tuổi cao, hưởng trường thọ cùng phú quí vinh hoa. Thái tử Sa-lô-môn lên ngôi kế vị.
29 Các công việc của vua Đa-vít từ đầu đến cuối đều được ghi chép trong sách của vị tiên kiến Sa-mu-ên, sách của tiên tri Na-than và sách của tiên kiến Gát; 30 cùng với toàn thể triều đại vua trị vì, quyền thế, biến cố xảy ra chung quanh người và trong Y-sơ-ra-ên cũng như các vương quốc lân cận trong vùng.
Triều Đại Sa-lô-môn
1 Vua Sa-lô-môn, con vua Đa-vít, nắm quyền vững vàng trên vương quốc mình. CHÚA, Đức Chúa Trời của vua ở cùng vua và làm cho vua trở nên rất vĩ đại. 2 Vua Sa-lô-môn nói chuyện với toàn thể Y-sơ-ra-ên, những người chỉ huy ngàn quân, những người chỉ huy trăm quân, các thẩm phán, cùng toàn thể những người lãnh đạo Y-sơ-ra-ên, các trưởng tộc. 3 Sau đó vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng đi đến nơi đồi cao tại Ga-ba-ôn, vì Trại Hội Kiến mà Môi-se, tôi tớ CHÚA đã làm trong sa mạc, đang ở tại đó. 4 Bấy giờ vua Đa-vít đã đem rương của Đức Chúa Trời từ Ki-ri-át Giê-a-rim đến nơi vua đã chuẩn bị vì vua đã dựng một cái trại cho rương tại Giê-ru-sa-lem. 5 Còn bàn thờ bằng đồng mà Bết-sa-lê-ên, con trai U-ri, cháu Hu-rơ đã làm thì ở trước đền tạm của CHÚA nên vua Sa-lô-môn và hội chúng tìm ra nó.[k] 6 Vua Sa-lô-môn tiến lên bàn thờ bằng đồng trước mặt CHÚA, trong Trại Hội Kiến và dâng một ngàn tế lễ thiêu trên bàn thờ ấy.
7 Tối hôm ấy Đức Chúa Trời hiện ra cùng vua Sa-lô-môn; Ngài phán cùng người: “Hãy xin điều ngươi muốn ta ban cho ngươi.” 8 Vua Sa-lô-môn thưa cùng Đức Chúa Trời: “Ngài đã đối xử với vua Đa-vít, cha con, hết sức yêu thương nhân từ và Ngài cũng lập con làm vua kế vị người. 9 Giờ đây, lạy CHÚA là Đức Chúa Trời, xin lời hứa của Ngài cùng vua Đa-vít, cha con, được thành tựu vì Ngài đã lập con làm vua trên một dân tộc đông đúc như bụi đất. 10 Nay xin Chúa ban cho con khôn ngoan và hiểu biết để con lãnh đạo[l] dân này vì ai có thể cai trị dân tộc lớn lao này của Chúa.” 11 Đức Chúa Trời phán cùng Sa-lô-môn: “Vì ngươi có lòng như vậy, không xin của cải, giàu có, danh vọng, mạng sống những kẻ thù và cả tuổi thọ cho mình, nhưng xin khôn ngoan và hiểu biết để cai trị dân ta, dân mà ta đã lập ngươi làm vua trên họ, 12 nên khôn ngoan và hiểu biết sẽ được ban cho ngươi. Ta cũng sẽ ban cho ngươi của cải, giàu có, danh vọng đến nỗi không một vua nào trước hay sau ngươi được như vậy.”
13 Bấy giờ vua Sa-lô-môn từ nơi đồi cao tại Ga-ba-ôn, trước Trại Hội Kiến, trở về Giê-ru-sa-lem; người cai trị Y-sơ-ra-ên. 14 Vua Sa-lô-môn tập trung xe chiến mã và ngựa; người có 1,400 xe và 12,000 ngựa, để trong các thành chứa xe và ở gần vua tại Giê-ru-sa-lem. 15 Vua làm cho vàng bạc tại Giê-ru-sa-lem trở nên tầm thường như đá sỏi và cây bá hương nhiều như sung ở miền Sơ-phê-la. 16 Ngựa của vua Sa-lô-môn được nhập cảng từ Ai Cập và Cơ-ve;[m] các thương gia của vua đã mua ngựa từ Cơ-ve theo giá thị trường. 17 Họ nhập cảng xe ngựa từ Ai Cập với giá sáu trăm sê-ken[n] bạc một chiếc và ngựa một trăm năm mươi sê-ken[o] một con. Các xe và ngựa lại do họ xuất cảng cho các vua Hê-tít và vua Sy-ri.
Chuẩn Bị Xây Đền Thờ
2 Vua Sa-lô-môn ra lệnh xây một đền thờ cho danh CHÚA và hoàng cung cho mình. 2 Vua Sa-lô-môn động viên 70,000 người khuân vác, 80,000 người thợ đẽo đá trên núi và 3,600 người đốc công.
3 Vua Sa-lô-môn gởi sứ điệp đến vua Hi-ram ở Ty-rơ: “Ngài đã gởi gỗ bá hương để xây hoàng cung cho vua Đa-vít; ngài đã làm cho vua Đa-vít, cha tôi thể nào, xin ngài cũng làm cho tôi như thế. 4 Giờ đây tôi sắp xây đền thờ cho danh của CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, một ngôi đền riêng cho Ngài để đốt hương thơm trước mặt Ngài; để thường xuyên dâng bánh thánh, sớm chiều dâng tế lễ thiêu hoặc trong ngày Sa-bát, ngày trăng mới, các ngày lễ của CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi theo điều qui định cho Y-sơ-ra-ên muôn đời.
5 Ngôi đền mà chính tôi sắp xây sẽ rất vĩ đại vì Đức Chúa Trời của chúng tôi vĩ đại hơn hết các thần. 6 Nhưng ai là người có khả năng xây đền cho Chúa? Vì các tầng trời, trời của các tầng trời cũng không thể chứa được Ngài. Thế thì tôi là ai mà xây đền cho Chúa? Cất đền chẳng qua là để đốt hương trước mặt Ngài.
7 Vậy, bây giờ xin ngài gởi cho tôi những người thợ lành nghề về vàng, bạc, đồng, sắt, vải tím, vải đỏ thẳm, vải xanh cùng những người thợ chạm khắc để làm việc với những người thợ giỏi của tôi tại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem mà cha tôi, vua Đa-vít đã cung cấp.
8 Xin ngài gởi cho tôi gỗ bá hương, gỗ thông, gỗ đàn hương từ Li-ban vì tôi biết rằng các tôi tớ ngài thạo đốn gỗ ở Li-ban. Các tôi tớ của tôi cũng sẽ làm việc với tôi tớ ngài, 9 để đốn nhiều gỗ vì ngôi đền tôi xây sẽ vĩ đại và nguy nga. 10 Tôi sẽ cung cấp cho các tôi tớ ngài, những thợ đốn gỗ hai mươi ngàn cô-rơ[p] lúa mì, hai mươi ngàn cô-rơ lúa mạch, hai mươi ngàn bát[q] rượu và hai mươi ngàn bát dầu ô-liu.” 11 Hi-ram, vua Ty-rơ gởi thơ phúc đáp cho vua Sa-lô-môn: “Vì CHÚA yêu thương dân mình nên đã lập ngài lên làm vua của họ.” 12 Người cũng thêm: “Ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng tạo nên trời đất; Ngài đã ban cho vua Đa-vít một người con khôn ngoan hiểu biết, thông minh sáng suốt; người sẽ xây đền thờ cho CHÚA và hoàng cung cho mình.
13 Nay tôi sai một người thợ thành thạo sáng suốt tên Hu-ram A-bi, 14 mẹ người thuộc bộ tộc Đan, cha là người Ty-rơ. Người là thợ thành thạo về đồ vàng, bạc, đồng, sắt, đá, gỗ, vải tím, vải xanh, vải gai mịn, vải đỏ. Người cũng biết chạm trổ và sáng chế bất cứ sản phẩm nào người ta đưa kiểu. Người sẽ làm việc với các thợ của ngài cũng như các thợ của chúa tôi, vua Đa-vít, cha ngài.
15 Vậy, những lúa mì, lúa mạch, dầu và rượu chúa tôi đã hứa, xin ngài gởi cho các tôi tớ ngài. 16 Chúng tôi sẽ đốn tất cả số gỗ ngài cần từ Li-ban và đóng bè theo đường biển chở xuống Gia-phô, rồi ngài sẽ đem lên Giê-ru-sa-lem.”
17 Vua Sa-lô-môn kiểm kê tất cả những người ngoại quốc sống trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên theo như thống kê vua Đa-vít, cha người đã làm; người ta thấy có 153,600 người. 18 Trong số đó, vua đặt 70,000 người là phu khuân vác, 80,000 người làm thợ đẽo đá trên núi và 3,600 người làm đốc công để đốc thúc người ta làm việc.
Công Việc Xây Cất Đền Thờ
3 Vua Sa-lô-môn bắt đầu xây đền thờ CHÚA tại Giê-ru-sa-lem, trên núi Mô-ri-a, là nơi CHÚA đã hiện ra với vua cha Đa-vít; người đã chỉ định nơi này, tức là sân đạp lúa của Ọt-nan người Giê-bu-sít. 2 Vua khởi công xây cất vào ngày hai tháng hai năm thứ tư dưới thời trị vì của mình.
3 Đây là nền vua Sa-lô-môn xây cho đền thờ Đức Chúa Trời, theo thước đo cũ, chiều dài sáu mươi am-ma,[r] chiều rộng hai mươi am-ma.[s] 4 Tiền đường ở phía trước, dài hai mươi am-ma, bằng chiều rộng của đền thờ, cao hai mươi am-ma[t] phía trong dát vàng ròng. 5 Đại sảnh đường được lót bằng gỗ bá hương, dát vàng tốt và có chạm hình cây chà là và vòng xích. 6 Vua cũng trang hoàng đền thờ bằng đá quí và vàng dùng là vàng Phạt-va-im. 7 Vua dát vàng khắp đền thờ, xà ngang, khung cửa, tường, cửa và chạm hình chê-ru-bim trên tường.
8 Vua xây Nơi Chí Thánh, chiều dài bằng chiều rộng của đền thờ, hai mươi am-ma vuông vức mỗi chiều; vua dùng đến sáu trăm ta-lâng[u] vàng tốt để dát phòng. 9 Các đinh bằng vàng nặng năm mươi sê-ken;[v] vua cũng dát vàng các phòng lầu.
10 Trong Nơi Chí Thánh vua làm hai chê-ru-bim, là hai vật điêu khắc bọc vàng. 11 Các cánh của chê-ru-bim dài tổng cộng hai mươi am-ma, mỗi cánh dài năm am-ma. Một cánh của chê-ru-bim chạm một tường của đền thờ, còn cánh kia, dài năm am-ma, đụng cánh của chê-ru-bim kia. 12 Một cánh của chê-ru-bim này dài năm am-ma, chạm tường kia của đền thờ, còn cánh kia, cũng dài năm am-ma, đụng cánh của chê-ru-bim kia. 13 Các cánh của hai chê-ru-bim này xòe ra dài hai mươi am-ma; chúng đứng trên chân mình, mặt hướng về sảnh đường. 14 Vua cũng làm các màn bằng vải xanh, tím, đỏ thẫm, vải gai mịn và thêu hình chê-ru-bim lên trên.
15 Trước đền thờ vua xây hai trụ cao ba mươi lăm am-ma;[w] trên đỉnh mỗi trụ có một đầu trụ cao năm am-ma.[x] 16 Vua làm các vòng xích dây chuyền,[y] treo trên đầu các trụ; người làm một trăm trái lựu, gắn vào các vòng xích ấy. 17 Vua dựng các trụ trước đền thờ, một bên phải và một bên trái; trụ bên phải người gọi là Gia-kin và trụ bên trái là Bô-ách.
Những Dụng Cụ Trong Đền Thờ
4 Vua làm bàn thờ bằng đồng chiều dài hai mươi am-ma, chiều ngang hai mươi am-ma và cao mười am-ma.[z] 2 Vua đúc một cái bể kim loại hình tròn, rộng mười am-ma từ vành này sang vành kia, cao năm am-ma và chu vi ba mươi lăm am-ma.[aa] 3 Phía dưới vành khắp chung quanh bể có hình con bò, cứ nửa mét là mười con; các hình con bò được đúc chung quanh trên bể thành hai hàng.
4 Bể được đặt trên mười hai con bò, ba con hướng mặt về phía Bắc, ba con hướng mặt về hướng Tây, ba con hướng mặt về hướng Nam, ba con hướng mặt về hướng Đông; bể đặt trên chúng và phần mông hướng vào trong. 5 Bề dày của bể là một gang; mép bể như vành chén hình hoa huệ nở; bể chứa được ba ngàn bát.[ab] 6 Người cũng làm mười cái chậu, năm cái bên phải, năm cái bên trái để rửa những vật tế lễ thiêu. Còn cái bể để thầy tế lễ thanh tẩy. 7 Người làm mười chân đèn bằng vàng theo kiểu đã định và đặt chúng trong đền thờ, năm cái bên phải, năm cái bên trái. 8 Vua làm mười cái bàn đặt trong đền thờ, năm cái bên phải, năm cái bên trái. Người cũng làm một trăm bình rảy bằng vàng. 9 Người xây sân cho thầy tế lễ và sân lớn; các cửa trong sân lớn người đều bọc đồng. 10 Vua đặt cái bể ở bên phải, về phía đông nam. 11 Hu-ram làm các bình, xẻng và bình rảy. Hu-ram hoàn tất những công việc cho vua Sa-lô-môn trong đền thờ Đức Chúa Trời: 12 Hai cây trụ, các bầu của các đầu trụ trên đỉnh của hai cây trụ, các lưới bao quanh bầu trên đỉnh trụ; 13 bốn trăm trái lựu gắn vào hai tấm lưới; mỗi tấm lưới có hai hàng lựu trang trí cho hai bầu của các đầu trụ trên đỉnh. 14 Người cũng làm các chân và để các chậu trên chân; 15 cái bể để trên mười hai con bò; 16 các bình, xẻng và xiên cùng mọi vật dụng liên hệ. Hu-ram A-bi đã làm tất cả những vật dụng này bằng đồng đánh bóng cho vua Sa-lô-môn để dùng trong đền thờ của CHÚA.
17 Vua đúc những vật dụng này trong những khuôn bằng đất tại đồng bằng sông Giô-đanh, giữa Su-cốt và Xê-rê-đa. 18 Vua Sa-lô-môn làm tất cả những vật dụng này rất nhiều đến nỗi số lượng đồng không thể tính được.
19 Vua Sa-lô-môn làm tất cả những vật dụng trong đền Đức Chúa Trời: bàn thờ bằng vàng; các bàn để bày bánh; 20 các chân đèn và đèn bằng vàng ròng để thắp trước nội điện theo qui định; 21 các hoa, đèn và que kẹp toàn bằng vàng; 22 dao cắt tim đèn, bình rảy, cái vá, bình hương đều bằng vàng ròng. Về cửa đền thờ, các cửa bên trong Nơi Chí Thánh, các cửa trong nội điện đều bằng vàng.
Đem Rương Giao Ước Vào Đền Thờ
5 Khi mọi công trình vua Sa-lô-môn làm cho đền thờ CHÚA đã hoàn tất, vua cũng đem những vật vua cha Đa-vít dâng hiến: bạc, vàng và tất cả vật dụng khác, vào trong kho của đền thờ Đức Chúa Trời.
2 Bấy giờ vua Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, tất cả các lãnh đạo bộ tộc, các trưởng tộc trong dân Y-sơ-ra-ên về Giê-ru-sa-lem để rước Rương Giao Ước của CHÚA từ thành Đa-vít, tức là Si-ôn. 3 Mọi người nam trong Y-sơ-ra-ên đều tập họp lại cùng vua để dự lễ, lúc ấy vào tháng bảy.
4 Khi tất cả trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến, những người Lê-vi khiêng Rương Giao Ước đi. 5 Những thầy tế lễ người Lê-vi khiêng Rương Giao Ước, Trại Hội Kiến và tất cả những vật dụng thánh trong trại. 6 Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên tập họp bên cạnh vua trước Rương Giao Ước; họ dâng sinh tế chiên và bò nhiều đến nỗi không thể đếm được.
7 Các thầy tế lễ đem Rương Giao Ước của CHÚA vào nơi dành sẵn cho rương trong nội điện của đền thờ, tức là Nơi Chí Thánh, phía dưới cánh các chê-ru-bim. 8 Các chê-ru-bim xòe cánh trên chỗ để rương, che cả rương lẫn các đòn khiêng. 9 Các đòn khiêng rất dài nên từ phía trước nội điện có thể thấy các đầu đòn nhưng ở bên ngoài không thấy được; chúng vẫn còn đó cho đến ngày nay. 10 Không có gì trong rương ngoại trừ hai bảng đá Kinh Luật Môi-se đã đặt vào đó tại Hô-rếp khi CHÚA lập giao ước với người Y-sơ-ra-ên lúc họ ra khỏi Ai cập.
11 Bấy giờ các thầy tế lễ lui ra khỏi Nơi Thánh vì tất cả các thầy tế lễ, bất luận thuộc ngành nào, đều đã phải thanh tẩy. 12 Tất cả những ca nhạc sĩ người Lê-vi, tức là A-sáp, Hê-man, Giê-đu-thun, và các con trai, họ hàng của họ, mặc áo vải gai mịn, cầm chập chỏa, đàn lia, đàn hạc, đứng ở phía đông bàn thờ cùng với 120 thầy tế lễ thổi kèn. 13 Những người thổi kèn và ca sĩ cùng hòa ca một điệu; họ ca ngợi và cảm tạ CHÚA. Họ cất tiếng hát hòa với tiếng kèn, tiếng chập chỏa và những nhạc cụ khác cùng ca ngợi CHÚA rằng:
“Ngài là thiện,
Tình yêu thương nhân từ Ngài còn đến đời đời.”
Bấy giờ đền thờ của CHÚA đầy mây, 14 đến nỗi các thầy tế lễ không thể đứng hành lễ vì mây tỏa, vì vinh quang của CHÚA tỏa đầy đền thờ Đức Chúa Trời.
Lễ Dâng Hiến Đền Thờ
6 Vua Sa-lô-môn nói: CHÚA đã phán rằng Ngài sẽ ngự trong đám mây dày đặc. 2 Còn chính con, con đã xây một ngôi đền nguy nga cho Chúa, một nơi để Ngài ngự đời đời. 3 Bấy giờ vua xoay mặt lại chúc phước cho dân chúng trong khi cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đang đứng.
4 Vua nói: “Ca ngợi CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã lấy tay hoàn thành điều miệng Ngài đã hứa với vua cha, rằng: 5 ‘Từ khi Ta đem dân ta ra khỏi Ai Cập, Ta chưa hề chọn một thành nào trong vòng các thành của các bộ tộc để xây đền cho danh Ta ngự tại đó; Ta cũng chưa chọn một người nào để lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên Ta. 6 Nhưng Ta đã chọn Giê-ru-sa-lem để danh Ta ngự tại đó và Ta đã chọn Đa-vít để lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên Ta.’ ” 7 Vua cha Đa-vít đã định trong lòng sẽ xây đền thờ cho danh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 8 Nhưng CHÚA phán với vua cha Đa-vít rằng: “Ngươi có lòng định xây một đền thờ cho danh Ta là điều tốt; 9 tuy nhiên, ngươi không phải là người xây đền thờ, nhưng con trai từ lòng ngươi, chính nó sẽ xây đền thờ cho danh Ta.”
10 CHÚA đã giữ lời hứa của Ngài, cho tôi lên ngôi kế vị vua cha Đa-vít, trị vì Y-sơ-ra-ên như CHÚA đã hứa, và tôi đã xây đền thờ cho danh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; 11 tại nơi đó tôi đã đặt rương, là rương chứa giao ước mà CHÚA đã lập với dân Y-sơ-ra-ên.
12 Bấy giờ vua đang đứng trước bàn thờ CHÚA, trước mặt toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên; vua giơ tay lên. 13 Vua Sa-lô-môn đã làm một bục đồng vuông vức mỗi cạnh năm am-ma, cao ba am-ma,[ac] đặt giữa sân; vua đứng trên đó, rồi quì xuống trước toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên và giơ tay lên trời. 14 Vua nói: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, không có thần nào giống như Chúa ở trên trời hay dưới đất, Ngài gìn giữ giao ước và lòng yêu thương nhân từ đối với các tôi tớ Ngài khi họ hết lòng bước đi trước mặt Ngài. 15 Ngài đã giữ lời hứa với tôi tớ Ngài, vua cha Đa-vít. Thật vậy, chính miệng Ngài đã hứa và ngày nay chính tay Ngài đã hoàn thành điều ấy.
16 Giờ đây, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin Ngài giữ lời Ngài đã hứa cùng tôi tớ Ngài, là vua cha Đa-vít rằng: Trước mặt Ta, ngươi sẽ không thiếu người ngồi trên ngai trị vì Y-sơ-ra-ên nếu con cháu ngươi cẩn thận trong đường lối mình, đi theo Kinh Luật Ta như ngươi đã đi trước mặt Ta. 17 Vậy, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xin lời Ngài đã hứa cùng tôi tớ Ngài, là vua Đa-vít được ứng nghiệm.
18 Nhưng, Đức Chúa Trời có thật sự cư ngụ với phàm nhân ở dưới đất chăng? Kìa, trời của các tầng trời còn chưa chứa nổi Ngài huống chi đền thờ này mà con đã xây. 19 Dẫu sao, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của con, xin đoái đến lời cầu nguyện và nài xin của tôi tớ Chúa, xin lắng nghe lời kêu xin và cầu nguyện mà tôi tớ Ngài cầu trước mặt Ngài. 20 Xin mắt Chúa ngày đêm đoái đến đền thờ này, là nơi Chúa hứa sẽ để danh Ngài tại đó. Xin lắng nghe lời cầu nguyện tôi tớ Chúa hướng về nơi này mà cầu. 21 Xin Chúa lắng nghe lời nài xin của tôi tớ Chúa và của con dân Y-sơ-ra-ên khi họ hướng về nơi này cầu nguyện; từ trên trời, nơi Ngài ngự, xin lắng nghe, nhậm lời và tha thứ.
22 Nếu có ai phạm tội cùng người khác và buộc phải thề; người ấy đến thề trước bàn thờ Chúa trong đền thờ này. 23 Xin Chúa từ trên trời lắng nghe và hành động; xin xét xử các tôi tớ Chúa; hãy báo trả kẻ phạm tội, đổ lại trên đầu hắn đường lối hắn đã làm; minh oan cho người vô tội, thưởng cho người tùy theo sự công chính người làm.
24 Nếu dân Y-sơ-ra-ên của Chúa bị kẻ thù đánh bại vì họ phạm tội cùng Ngài, nhưng họ ăn năn, tuyên xưng danh Chúa mà cầu nguyện, nài xin Ngài tại đền thờ này, 25 thì xin Chúa từ trên trời lắng nghe, tha thứ tội lỗi cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài và đem họ về đất mà Chúa đã ban cho họ cũng như tổ tiên họ.
26 Khi trời đóng lại, không có mưa vì dân chúng phạm tội cùng Ngài nhưng rồi họ hướng về đền này cầu nguyện, tuyên xưng danh Ngài, ăn năn tội lỗi của mình vì Ngài đã phạt họ cực khổ, 27 thì xin Chúa từ trên trời lắng nghe, tha thứ tội lỗi của các tôi tớ Chúa và dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Thật vậy, Chúa đã dạy họ con đường tốt lành họ phải theo và ban mưa tưới đất mà Ngài đã ban cho dân Ngài làm cơ nghiệp.
28 Khi trong xứ có nạn đói kém, dịch lệ, khi mùa màng hư hoại, nấm mốc ăn hại, cào cào, châu chấu hoặc khi quân thù vây hãm một trong những nơi định cư trong xứ hay có tai họa hay bệnh tật gì xảy ra; 29 nếu có người nào hay toàn dân Y-sơ-ra-ên của Chúa vì ý thức được sự hoạn nạn, đau đớn của mình mà giơ tay hướng về đền thờ này cầu nguyện và nài xin. 30 Xin Chúa từ trên trời, là nơi Ngài ngự, lắng nghe, tha thứ và báo đền cho mỗi người tùy theo đường lối của họ vì Chúa biết tấm lòng họ; thật vậy, chỉ có Chúa biết lòng dạ loài người; 31 như thế họ sẽ kính sợ Ngài, đi theo đường lối Ngài suốt đời khi họ sống trên mặt đất mà Ngài đã ban cho tổ tiên chúng con.
32 Còn đối với người ngoại quốc, không thuộc về dân Y-sơ-ra-ên của Chúa, người đến từ phương xa vì danh lớn của Ngài, vì cánh tay quyền năng và giang ra của Ngài; nếu họ đến, hướng về đền thờ này cầu nguyện; 33 thì xin Chúa từ trên trời, từ nơi Ngài ngự, lắng nghe, thực hiện mọi lời người ngoại kiều ấy cầu nguyện để mọi dân tộc trên đất biết đến danh Ngài và kính sợ Ngài như dân Y-sơ-ra-ên và để họ cũng biết rằng đền thờ con xây đây mang danh Chúa.
34 Khi dân Ngài đi ra chiến đấu cùng quân thù, bất cứ nơi nào Ngài sai họ đi, nếu họ hướng về thành Ngài đã chọn này và về đền thờ con đã xây cho danh Ngài mà cầu nguyện, 35 thì xin Ngài từ trên trời lắng nghe lời cầu nguyện, nài xin của họ và phù hộ chính nghĩa họ.
36 Nếu họ phạm tội cùng Chúa, vì không ai mà không phạm tội, và Ngài nổi giận cùng chúng nó, phó chúng nó cho quân thù bắt đi lưu đày ở một xứ xa hay gần. 37 Tại xứ lưu đày ấy lòng họ hối cải; từ đất bị lưu đày họ ăn năn và nài xin Ngài rằng: Chúng con đã phạm tội, làm điều sai quấy và gian ác. 38 Nếu từ xứ, nơi họ bị lưu đày, họ hết lòng hết linh hồn quay trở lại cùng Chúa, cầu nguyện hướng về đất nước Ngài đã ban cho tổ tiên, về thành Ngài đã chọn và về đền thờ mà con xây cho danh Ngài, 39 thì xin Chúa từ trên trời, nơi Ngài ngự, lắng nghe lời cầu nguyện nài xin của họ, xét duyên cớ và tha thứ cho dân Chúa, là dân đã phạm tội cùng Ngài.
40 Lạy Đức Chúa Trời của con, nay xin Ngài đoái xem và lắng nghe lời cầu nguyện tại nơi đây.
41 Giờ đây, lạy CHÚA, Đức Chúa Trời,
Xin Ngài và rương quyền năng của Ngài ngự vào nơi nghỉ ngơi của Ngài.
Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời, nguyện các thầy tế lễ của Chúa được mặc lấy sự cứu rỗi;
Nguyện các người trung tín của Chúa vui mừng trong ơn lành.
42 Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời, xin chớ từ bỏ đấng được xức dầu của Chúa;
Xin ghi nhớ lòng yêu thương nhân từ của Chúa đối với vua Đa-vít, tôi tớ Ngài.”
Các Tế Lễ Dâng Hiến
7 Khi vua Sa-lô-môn cầu nguyện xong, lửa từ trời giáng xuống thiêu đốt tế lễ thiêu, các sinh tế và vinh quang của CHÚA tràn ngập đền thờ. 2 Các thầy tế lễ không thể vào đền thờ CHÚA vì vinh quang CHÚA tràn ngập đền thờ CHÚA. 3 Khi tất cả dân Y-sơ-ra-ên thấy lửa giáng xuống và vinh quang CHÚA trên đền thờ; họ quì xuống trên nền đền thờ, sấp mặt xuống đất thờ phượng và cảm tạ CHÚA, rằng:
Thật vậy, Ngài là thiện,
Lòng yêu thương nhân từ Ngài còn đến đời đời.
4 Bấy giờ vua và dân chúng dâng sinh tế cho CHÚA. 5 Vua Sa-lô-môn dâng 22,000 bò và 120,000 chiên. Như thế, vua và toàn dân làm lễ cung hiến đền thờ Đức Chúa Trời. 6 Các thầy tế lễ đứng tại chỗ của mình, những người Lê-vi cầm nhạc khí dùng cho CHÚA mà vua Đa-vít đã chế tạo để cảm tạ CHÚA, và dùng để ca ngợi Ngài, thật vậy, “lòng yêu thương nhân từ Ngài còn đến đời đời.” Đối diện với những người Lê-vi là các thầy tế lễ đứng thổi kèn; còn toàn thể dân Y-sơ-ra-ên đều đứng.
7 Vua Sa-lô-môn thánh hiến sân giữa phía trước đền thờ CHÚA; chính tại đây vua dâng các tế lễ thiêu, các phần mỡ của tế lễ cầu an vì bàn thờ bằng đồng mà vua đã làm không đủ chỗ chứa các tế lễ thiêu, tế lễ ngũ cốc và các phần mỡ.
8 Lúc ấy, vua Sa-lô-môn và toàn thể Y-sơ-ra-ên, một hội chúng rất đông đảo từ Lê-bô Ha-mát đến suối Ai Cập, cùng với vua dự lễ trong bảy ngày. 9 Vào ngày thứ tám có cuộc hội họp long trọng vì họ đã làm lễ dâng hiến bàn thờ trong bảy ngày và dự lễ bảy ngày. 10 Vào ngày hai mươi ba tháng thứ bảy, vua cho dân chúng trở về nhà, ai nấy lòng đầy vui mừng hân hoan vì CHÚA đã ban điều tốt lành cho Đa-vít, cho Sa-lô-môn và cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)