Bible in 90 Days
Thơ Đa-vít, Cho Nhạc Trưởng
109 Lạy Đức Chúa Trời, tôi ca ngợi Ngài,
Xin chớ im lặng.
2 Vì miệng độc ác và gian dối
Đã mở ra chống lại tôi;
Chúng nói nghịch tôi bằng lưỡi dối trá.
3 Chúng bao vây tôi bằng những lời thù ghét;
Chúng tấn công tôi vô cớ.
4 Chúng đã buộc tội tôi dù tôi yêu thương chúng
Và cầu nguyện cho chúng.[a]
5 Chúng lấy điều dữ để báo đáp điều lành cho tôi;
Chúng lấy thù ghét để báo đáp tình thương.
6 Nguyện xin một kẻ ác sẽ xử nó,
Kẻ tố cáo[b] sẽ đứng bên phải nó.
7 Khi bị xét xử, nguyện nó bị định tội;
Nguyện lời cầu nguyện của nó bị kể như tội lỗi.
8 Nguyện ngày tháng đời nó sẽ ngắn đi,
Nguyện kẻ khác sẽ chiếm chỗ[c] của nó.
9 Nguyện con cái nó thành trẻ mồ côi,
Vợ nó sẽ thành người góa bụa.
10 Nguyện con cái nó phải đi lang thang và ăn xin;
Chúng nó phải đi kiếm ăn[d] từ nơi ở đổ nát của chúng.
11 Nguyện chủ nợ tịch thu tất cả tài sản nó;
Nguyện người ngoại quốc cướp mất công lao của nó.
12 Nguyện không ai thương hại nó;
Chẳng ai thương xót con cái mồ côi của nó.
13 Nguyện con cháu nó bị diệt đi;
Tên nó sẽ bị xóa bỏ vào thế hệ thứ hai.
14 Nguyện sự gian ác của tổ tiên nó vẫn còn ghi nhớ trước mặt CHÚA,
Tội lỗi của mẹ nó cũng không được xóa đi.
15 Nguyện các tội lỗi ấy hằng ở trước mặt CHÚA;
Nhưng Ngài xóa bỏ tên[e] họ khỏi mặt đất.
16 Vì nó đã không nhớ làm điều nhân từ
Nhưng cứ săn đuổi và giết chết
Kẻ nghèo nàn, khốn khó và khổ đau.
17 Nó ưa thích nguyền rủa,
Nguyện nó bị rủa sả;
Nó không thích chúc phúc lành,
Nguyện điều phúc lành cách xa nó.
18 Nó trang phục bằng lời nguyền rủa như chiếc áo khoác;
Nguyện sự nguyền rủa thấm vào người nó như nước,
Ngấm vào xương nó như dầu.
19 Nguyện sự nguyền rủa như chiếc áo quấn quanh người nó,
Như cái nịt lưng nó luôn luôn thắt quanh hông.
20 Nguyện CHÚA báo trả như vậy cho những kẻ buộc tội tôi,
Và cho những kẻ nói điều ác hại mạng sống[f] tôi.
21 Nhưng chính Ngài, lạy CHÚA, là Đấng Chủ Tể.
Xin vì danh Ngài hành động bênh vực tôi.
Vì tình yêu thương của Ngài là tốt lành, xin giải cứu tôi.
22 Vì tôi nghèo khổ và khốn khó;
Lòng tôi đau đớn trong tôi.
23 Tôi sắp qua đi như bóng hoàng hôn;[g]
Tôi bị giũ sạch như sâu bọ.[h]
24 Đầu gối tôi yếu mỏn đi vì kiêng ăn;
Thân thể tôi gầy còm và hốc hác.[i]
25 Tôi trở thành vật chúng khinh bỉ;
Khi thấy tôi chúng lắc đầu.
26 Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, xin giúp đỡ tôi;
Vì tình yêu thương của Ngài xin cứu rỗi tôi;
27 Xin cho chúng biết rằng tay Ngài đã cứu rỗi tôi;
Chính CHÚA đã làm điều đó.
28 Hãy để chúng nguyền rủa nhưng chính Ngài lại ban phước;
Hãy để chúng nổi lên nhưng chúng sẽ bị hổ thẹn;
Còn tôi tớ Ngài sẽ vui mừng.
29 Kẻ buộc tội tôi sẽ mặc lấy sự nhục nhã;
Sự hổ thẹn sẽ bao phủ chúng như áo choàng.
30 Miệng tôi sẽ vô cùng cảm tạ CHÚA;
Tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa công chúng;
31 Vì Ngài đã đứng bên cạnh bênh vực người nghèo khó
Và cứu rỗi mạng sống người[j] khỏi những kẻ kết tội người.
CHÚA Và Vị Vua Ngài Chọn Lựa
110 CHÚA phán với Chúa tôi:
“Hãy ngồi bên phải ta,
Cho đến khi ta đặt các kẻ thù ngươi
Làm bệ dưới chân ngươi.”
2 Từ Si-ôn CHÚA sẽ mở rộng vương quyền[k] của ngươi.
Hãy cai trị giữa các kẻ thù ngươi.
3 Trong ngày lâm chiến[l]
Dân ngươi sẽ hiến mình tình nguyện;[m]
Từ lúc sáng sớm rạng đông,
Những thanh niên tuấn tú
Được trang sức thánh sẽ đến với ngươi.[n]
4 CHÚA đã thề
Và sẽ không đổi ý rằng:
“Ngươi là thầy tế lễ đời đời,
Theo ban Mên-chi-xê-đéc.”
5 Chúa ở bên phải ngươi;
Trong ngày thịnh nộ, Ngài sẽ đập tan các vua.
6 Ngài sẽ phán xét các nước, làm thây người chất đống;
Ngài đập tan các lãnh tụ trên khắp trái đất.
7 Vua sẽ uống nước từ con suối bên đường,
Nhờ đó người sẽ ngước đầu lên.
Ca Ngợi CHÚA
111 Ha-lê-lu-gia!
Tôi sẽ hết lòng cảm tạ CHÚA
Giữa hội của những người ngay thẳng.[o]
2 Các việc của CHÚA đều vĩ đại;
Tất cả những ai yêu thích những việc ấy đều nên suy gẫm.
3 Công việc của Ngài vinh hiển và uy nghi,
Đức công chính của Ngài còn đến muôn đời.
4 Ngài làm những việc diệu kỳ đáng ghi nhớ.
CHÚA ban ân huệ và có lòng thương xót.
5 Ngài ban vật thực cho những người kính sợ Ngài;
Ngài luôn luôn ghi nhớ giao ước Ngài.
6 Ngài đã bày tỏ cho dân Ngài những công việc quyền năng
Bằng cách ban cho họ những sản nghiệp của các nước.
7 Công việc của tay Ngài là trung tín và công bình;
Mọi mạng lệnh của Ngài đều đáng tin cậy,
8 Được vững lập đời đời để thi hành[p]
Trong sự chân thật và ngay thẳng.
9 Ngài ban cho dân Ngài sự cứu chuộc;
Ngài truyền lập giao ước Ngài đến đời đời.
Danh Ngài là thánh và đáng kính sợ.
10 Kính sợ CHÚA là khởi đầu của sự khôn ngoan.
Tất cả những ai làm theo các mạng lệnh Ngài[q] được nhiều sáng suốt.
Nguyện lời ca ngợi Ngài còn đến đời đời.
Phước Của Người Kính Sợ Chúa
112 Ha-lê-lu-gia!
Phước cho người nào kính sợ CHÚA;
Rất thích làm theo các điều răn của Ngài.
2 Con cháu người sẽ cường thịnh trong xứ;
Dòng dõi người ngay thẳng sẽ được phước.
3 Của cải và giàu có ở trong nhà người;
Phước công chính[r] của người sẽ còn mãi mãi.
4 Ánh sáng chiếu vào nơi tối tăm cho người ngay thẳng,
Tức là người[s] ban ân huệ, có lòng thương xót và công chính.
5 Phúc lành cho người hay ban ơn và cho mượn,
Là người điều hành công việc mình một cách công bình.
6 Vì người công chính sẽ chẳng bao giờ bị lay chuyển,
Người sẽ được ghi nhớ đến muôn đời.
7 Người sẽ không sợ hãi vì các tin dữ;
Lòng người kiên định; người tin cậy nơi CHÚA.
8 Người vững tâm, không sợ hãi;
Cho đến khi nhìn đắc thắng[t] trên các kẻ thù.
9 Người bố thí rộng rãi[u] cho người nghèo khó;
Sự công chính của người sẽ còn mãi mãi;
Uy lực[v] người sẽ được nâng cao trong vinh hiển.
10 Kẻ ác sẽ thấy và tức giận;
Nghiến răng và chết mất.[w]
Tham vọng của những kẻ ác sẽ tiêu tan.
Ca Ngợi Sự Nhân Lành Của Chúa
113 Ha-lê-lu-gia!
Hỡi các tôi tớ CHÚA, hãy ca ngợi,
Hãy ca ngợi danh CHÚA.
2 Danh của CHÚA đáng được ca tụng
Từ nay cho đến đời đời.
3 Từ đông sang tây,[x]
Danh CHÚA đáng được ca ngợi.
4 CHÚA cao cả hơn tất cả các nước;
Vinh quang của Ngài cao hơn các tầng trời.
5 Ai giống như CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta?
Đấng ngự trên cao.
6 Ngài cúi xuống xem xét trời và đất.
7 Ngài nâng đỡ kẻ nghèo khổ ra khỏi bụi tro;
Ngài nhấc người khốn khó lên khỏi rác rến.
8 Ngài đặt họ ngồi chung với các hoàng tử,
Cùng các hoàng tử của dân Ngài.
9 Ngài làm người đàn bà hiếm muộn trong nhà
Thành bà mẹ vui vẻ với đàn con.
Ha-lê-lu-gia!
Kỷ Niệm Cuộc Xuất Hành Khỏi Ai-cập
114 Khi Y-sơ-ra-ên ra đi từ Ai-cập,
Khi nhà Gia-cốp rời khỏi một dân nói tiếng ngoại quốc.
2 Giu-đa trở nên đền thánh của Ngài,
Y-sơ-ra-ên trở nên dân Ngài cai trị.[y]
3 Biển thấy và chạy trốn;
Sông Giô-đanh chảy ngược trở lui.
4 Các núi nhảy lên như chiên đực;
Các đồi nhảy vọt như chiên con.
5 Hỡi biển, tại sao ngươi chạy trốn?
Hỡi sông Giô-đanh, sao ngươi chảy ngược trở lui?
6 Hỡi các núi, sao các ngươi nhảy lên như chiên đực;
Hỡi các đồi, sao các ngươi nhảy vọt như chiên con?
7 Hỡi đất, hãy run rẩy trước mặt Chúa;
Tức là trước mặt Đức Chúa Trời của Gia-cốp;
8 Đấng biến tảng đá thành ao nước;
Đá cứng thành suối nước.
115 Không phải chúng tôi, lạy CHÚA, không phải chúng tôi;
Nhưng vinh quang xứng đáng thuộc về danh Chúa,
Vì tình yêu thương và lòng thành tín của Ngài.
2 Tại sao các nước dám hỏi rằng:
Đức Chúa Trời của chúng nó ở đâu?
3 Đức Chúa Trời chúng ta ở trên trời,
Ngài làm bất cứ điều gì Ngài muốn.
4 Các tượng thần của chúng nó là bạc và vàng;
Là sản phẩm do tay người làm ra.
5 Các tượng ấy có miệng nhưng không nói được,
Có mắt nhưng không thấy;
6 Có tai nhưng không nghe được,
Có mũi nhưng không ngửi;
7 Có tay nhưng không cảm thấy gì,
Có chân nhưng không đi;
Và cuống họng không có tiếng thở.[z]
8 Những kẻ tạc các tượng thần sẽ trở nên giống như các tượng ấy;
Và tất cả những kẻ tin cậy các tượng ấy cũng như vậy.
9 Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy tin cậy nơi CHÚA;
Vì chính Ngài là sự giúp đỡ và thuẫn che chở các ngươi.[aa]
10 Hỡi nhà A-rôn, hãy tin cậy nơi CHÚA;
Vì chính Ngài là sự giúp đỡ và thuẫn che chở các ngươi.
11 Hỡi những người kính sợ CHÚA, hãy tin cậy nơi CHÚA;
Vì chính Ngài là sự giúp đỡ và thuẫn che chở các ngươi.
12 CHÚA lưu tâm đến chúng ta và sẽ chúc phước cho chúng ta.
Ngài sẽ chúc phước cho nhà Y-sơ-ra-ên;
Ngài sẽ chúc phước cho nhà A-rôn.
13 Ngài sẽ chúc phước cho những người kính sợ CHÚA,
Cả lớn lẫn nhỏ.
14 Nguyện CHÚA làm các ngươi gia tăng,
Cả các ngươi và con cháu các ngươi.[ab]
15 Nguyện các ngươi được CHÚA ban phước,
Là Đấng làm nên trời và đất.
16 Các tầng trời cao nhất[ac] thuộc về CHÚA
Nhưng Ngài ban đất cho loài người.
17 Những kẻ chết không ca ngợi CHÚA;
Mọi kẻ đi xuống Âm Phủ[ad] cũng không.
18 Nhưng chúng tôi sẽ ca tụng CHÚA
Từ nay cho đến đời đời.
Ha-lê-lu-gia!
Lời Cầu Nguyện Cảm Tạ Chúa Vì Được Cứu Thoát Chết
116 Tôi yêu mến CHÚA
Vì Ngài nghe lời cầu xin của tôi.
2 Suốt đời, tôi cầu khẩn Chúa
Vì Ngài lắng tai nghe tôi.
3 Dây Tử Thần buộc quanh tôi,
Sự đau đớn của Âm Phủ nắm lấy tôi;
Tôi đau khổ và sầu não;
4 Nên tôi cầu khẩn danh CHÚA:
Lạy CHÚA, xin giải cứu linh hồn tôi.[ae]
5 CHÚA công chính và ban ân huệ;
Đức Chúa Trời chúng ta có lòng thương xót.
6 CHÚA gìn giữ người chân thật;
Khi tôi bị nguy khốn[af] Ngài giải cứu tôi.
7 Hỡi linh hồn ta, hãy trở lại yên nghỉ,[ag]
Vì CHÚA đã hậu đãi ngươi.
8 Vì Ngài đã giải cứu linh hồn tôi khỏi chết,
Mắt tôi khỏi giọt lệ
Và chân tôi khỏi vấp ngã.
9 Tôi sẽ bước đi trước mặt CHÚA
Trong đất người sống.
10 Tôi vẫn tin dù[ah] tôi nói:
Tôi đau khổ vô cùng.
11 Trong khi lo sợ tôi nói:
Mọi người phàm đều không đáng tin cậy.[ai]
12 Tôi sẽ lấy gì đền đáp CHÚA
Về mọi ơn lành Ngài ban cho tôi?
13 Tôi sẽ nâng chén cứu rỗi lên,
Và cầu khẩn danh CHÚA.
14 Tôi sẽ hoàn thành các lời tôi hứa nguyện
Cho CHÚA trước mặt toàn dân Ngài.
15 Sự chết của các thánh Ngài
Là quý báu trước mặt CHÚA.
16 Lạy CHÚA, chính tôi là tôi tớ Chúa,
Tôi là tôi tớ Ngài, con trai của đầy tớ gái Ngài.
Ngài đã giải phóng tôi khỏi gông cùm.
17 Tôi sẽ dâng sinh tế tạ ơn Ngài
Và cầu khẩn danh CHÚA.
18 Tôi sẽ hoàn thành các lời tôi hứa nguyện cho CHÚA
Trước mặt toàn dân Ngài;
19 Trong sân đền CHÚA
Ở giữa Giê-ru-sa-lem.
Ha-lê-lu-gia!
Toàn Thế Giới Hãy Ca Ngợi CHÚA
117 Hỡi tất cả các nước, hãy ca ngợi CHÚA.
Hỡi tất cả các dân, hãy chúc tụng Ngài.
2 Vì tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta thật lớn lao;
Và sự thành tín của CHÚA còn mãi mãi.
Ha-lê-lu-gia!
Lời Cầu Nguyện Cảm Tạ Vì Chiến Thắng
118 Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài là thiện;
Vì tình yêu thương của Ngài còn đến đời đời.
2 Nguyện Y-sơ-ra-ên nói rằng:
Tình yêu thương của Chúa còn đến đời đời.
3 Nguyện gia tộc thầy tế lễ[aj] A-rôn nói rằng:
Tình yêu thương của Chúa còn đến đời đời.
4 Nguyện những người thờ kính CHÚA nói rằng:
Tình yêu thương của Chúa còn đến đời đời.
5 Trong lúc hoạn nạn tôi cầu khẩn CHÚA,
CHÚA đáp lời tôi và cho tôi được thong dong.[ak]
6 CHÚA ở cùng tôi, tôi sẽ không sợ.
Người phàm sẽ làm chi tôi?
7 CHÚA ở cùng và giúp đỡ tôi,
Tôi sẽ nhìn đắc thắng trên những kẻ ghét tôi.
8 Nương náu mình nơi CHÚA
Tốt hơn là tin cậy loài người.
9 Nương náu mình nơi CHÚA
Tốt hơn là tin cậy vua quan.
10 Mọi nước đều bao vây tôi,
Nhờ danh CHÚA tôi diệt[al] chúng nó.
11 Chúng bao phủ tôi mọi phía,
Phải, chúng bao vây tôi,
Nhờ danh CHÚA tôi diệt chúng nó.
12 Chúng bao phủ tôi như đàn ong;
Chúng sẽ tàn lụi như lửa cháy bụi gai,
Nhờ danh CHÚA tôi diệt chúng nó.
13 Ngươi xô ta thật mạnh đặng ta ngã
Nhưng CHÚA giúp đỡ ta.
14 CHÚA là sức mạnh và bài ca của ta;
Ngài là sự cứu rỗi ta.
15 Hãy nghe tiếng hát vui mừng đắc thắng[am] trong trại người công chính.
Tay hữu CHÚA đã làm những việc lớn lao.[an]
16 Tay hữu CHÚA đã giương cao;
Tay hữu CHÚA đã làm những việc quyền năng.
17 Tôi sẽ không chết nhưng sẽ sống
Và công bố những công việc của CHÚA.
18 CHÚA đã trừng phạt tôi nặng nề
Nhưng không để tôi chết.
19 Hãy mở cho tôi các cổng công chính,
Tôi sẽ vào và cảm tạ CHÚA.
20 Đây là cổng của CHÚA,
Những người công chính sẽ vào đó.
21 Tôi cảm tạ CHÚA vì Ngài đáp lời tôi;
Ngài là Đấng cứu rỗi tôi.[ao]
22 Tảng đá người thợ xây nhà loại bỏ
Đã trở thành đá nền tảng.[ap]
23 Đây là việc CHÚA đã làm,
Là việc diệu kỳ trước mắt chúng ta.
24 Đây là ngày CHÚA đã hành động,
Hãy hân hoan và vui mừng trong ngày ấy.
25 Lạy CHÚA, tôi nài xin Ngài, xin hãy cứu rỗi chúng tôi.
Lạy CHÚA, tôi nài xin Ngài, xin cho chúng tôi được thành công.
26 Phước cho đấng nhân danh CHÚA mà đến,
Từ đền CHÚA chúng tôi chúc tụng.
27 CHÚA là Đức Chúa Trời,
Ngài ban cho chúng ta ánh sáng.
Hãy lấy dây cột con sinh tế
Vào sừng bàn thờ.[aq]
28 Ngài là Đức Chúa Trời tôi, tôi cảm tạ Chúa;
Ngài là Đức Chúa Trời tôi, tôi tôn cao Ngài.
29 Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài là thiện;
Vì tình yêu thương Ngài còn đến đời đời.
Kinh Luật Của Đức Chúa Trời
119 Phước cho những người trọn vẹn trong đường lối mình;
Sống theo Kinh Luật của CHÚA.
2 Phước cho những người gìn giữ lời chứng của Chúa;
Hết lòng tìm kiếm Ngài.
3 Họ không làm điều gì sai trái,
Nhưng sống theo đường lối của Chúa.
4 Chúa đã truyền các mạng lệnh của Ngài
Để chúng tôi tuân theo.
5 Ước gì đường lối tôi được vững vàng
Để tôi tuân theo các quy luật của Chúa;
6 Bấy giờ tôi sẽ không bị hổ thẹn
Vì tôi chú tâm vào mọi điều răn của Chúa.
7 Tôi sẽ lấy lòng ngay thẳng ca ngợi Chúa
Khi tôi học hỏi các phán quyết công chính của Ngài.
8 Tôi sẽ tuân theo các quy luật của Chúa;
Xin chớ hoàn toàn từ bỏ tôi.
9 Người trẻ tuổi phải làm thế nào để giữ đời sống mình trong sạch?
Phải tuân giữ lời Chúa.
10 Tôi hết lòng tìm kiếm Chúa,
Xin chớ để tôi lạc xa các điều răn Ngài.
11 Tôi đã giấu lời Chúa trong lòng tôi
Để tôi không phạm tội cùng Ngài.
12 Lạy CHÚA, tôi ca tụng Ngài,
Xin dạy tôi các quy luật Ngài.
13 Môi tôi sẽ công bố mọi phán quyết từ miệng Ngài phán ra.
14 Tôi vui mừng theo lời chứng của Chúa như[ar]
Vui vì giàu có.
15 Tôi sẽ suy gẫm về các mạng lệnh của Chúa
Và chú tâm vào đường lối Ngài.
16 Tôi vui thích trong quy luật của Chúa
Và không quên lời Ngài.
17 Xin rộng lượng cùng tôi, là tôi tớ Chúa, để tôi được sống
Và tuân giữ lời Ngài.
18 Xin Chúa mở mắt tôi để tôi nhìn thấy
Những điều diệu kỳ trong Kinh Luật của Ngài.
19 Tôi là lữ khách trên đất,
Xin chớ giấu tôi các điều răn Chúa.
20 Tâm hồn tôi luôn mòn mỏi khao khát các phán quyết của Chúa.
21 Ngài quở trách những kẻ kiêu ngạo, là kẻ đáng bị rủa sả,
Kẻ đi lạc xa các điều răn Chúa.
22 Xin cất khỏi tôi sự sỉ nhục và khinh bỉ
Vì tôi gìn giữ lời chứng của Chúa.
23 Các vua chúa ngồi cùng nhau bàn định nghịch tôi,
Nhưng tôi tớ Chúa sẽ suy gẫm các quy luật Ngài.
24 Các lời chứng của Chúa là niềm vui cho tôi,
Là những vị cố vấn của tôi.
25 Linh hồn tôi phủ phục dưới bụi đất;
Xin phục hồi sức sống cho tôi theo như lời Chúa.
26 Tôi tỏ bày đường lối tôi cùng Chúa và Ngài đáp lời tôi.
Xin dạy tôi các quy luật của Chúa.
27 Xin cho tôi hiểu ý nghĩa[as] các mạng lệnh của Chúa,
Và tôi sẽ suy gẫm những việc diệu kỳ của Ngài.
28 Tôi đổ nước mắt than khóc vì sầu thảm.
Xin thêm sức cho tôi theo như lời Chúa.
29 Xin đẩy xa khỏi tôi đường lối sai lầm,
Xin ban ơn dạy dỗ tôi Kinh Luật của Chúa.
30 Tôi đã chọn con đường trung tín,[at]
Tôi đã đặt trước mặt tôi các phán quyết của Ngài.
31 Lạy CHÚA, tôi nắm chắc lấy lời chứng của Ngài,
Xin đừng để tôi bị hổ thẹn.
32 Tôi chạy theo đường lối mạng lệnh của Chúa
Vì Ngài giúp tôi hiểu biết thêm.[au]
33 Lạy CHÚA, xin dạy tôi đường lối quy định của Ngài;
Tôi sẽ gìn giữ chúng cho đến cùng.[av]
34 Xin ban cho tôi sự hiểu biết thì tôi sẽ gìn giữ Kinh Luật của Chúa
Và hết lòng tuân giữ chúng.
35 Xin hướng dẫn tôi trong đường lối theo điều răn Chúa
Vì tôi vui mừng trong đường ấy.
36 Xin hướng lòng tôi về lời chứng của Chúa
Chứ không phải về lợi lộc riêng.
37 Xin xoay mắt tôi để khỏi nhìn những điều hư không;[aw]
Xin ban cho tôi sức sống trong đường lối Chúa.[ax]
38 Xin hoàn thành lời hứa Ngài cho tôi tớ Chúa,
Là lời hứa dành cho những người kính sợ Ngài.
39 Xin cất khỏi tôi sự sỉ nhục mà tôi sợ hãi
Vì các phán quyết của Ngài là tốt lành.
40 Kìa, tôi mong ước các mạng lệnh của Chúa,
Xin ban cho tôi sức sống trong sự công chính Ngài.
41 Lạy CHÚA, nguyện tình yêu thương Ngài đến cùng tôi;
Sự cứu rỗi Chúa như lời Ngài đã hứa.
42 Tôi sẽ có câu trả lời cho những kẻ sỉ nhục tôi
Vì tôi tin cậy nơi lời Chúa.
43 Xin chớ lấy hết lời chân thật khỏi miệng tôi
Vì tôi đặt hy vọng nơi các phán quyết của Chúa.
44 Tôi luôn luôn gìn giữ Kinh Luật của Chúa
Đến đời đời vô cùng.
45 Tôi sẽ bước đi tự do
Vì tôi tìm kiếm các mạng lệnh của Chúa.
46 Tôi sẽ nói về lời chứng của Chúa trước mặt các vua
Mà không hổ thẹn.
47 Tôi vui thích trong điều răn của Chúa
Là điều tôi yêu mến.
48 Tôi đưa tay hướng về điều răn của Chúa là điều tôi yêu mến,
Và tôi suy gẫm các quy luật của Ngài.
49 Xin Chúa nhớ lời hứa cùng tôi tớ Chúa;
Nhờ lời hứa đó mà tôi hy vọng.
50 Đây là niềm an ủi của tôi trong khi hoạn nạn
Vì lời hứa của Chúa ban sức sống cho tôi.
51 Những kẻ kiêu ngạo nhạo báng tôi rất nhiều
Nhưng tôi không từ bỏ Kinh Luật của Chúa.
52 Lạy CHÚA, tôi ghi nhớ các phán quyết của Ngài từ xưa
Và được an ủi.
53 Tôi trở nên nóng giận
Khi thấy kẻ ác từ bỏ Kinh Luật Chúa.
54 Các quy luật của Chúa trở nên những bài ca
Cho cuộc đời[ay] lữ khách của tôi.
55 Lạy CHÚA, ban đêm tôi nhớ đến danh Chúa
Và gìn giữ Kinh Luật của Ngài.
56 Đây là phần của tôi
Vì tôi gìn giữ các mạng lệnh của Chúa.
57 CHÚA là phần cơ nghiệp của tôi,
Tôi đã hứa gìn giữ lời Chúa.
58 Tôi đã hết lòng cầu khẩn ơn Chúa,
Xin ban ơn cho tôi tùy theo lời Ngài hứa.
59 Tôi đã suy gẫm về đường lối của tôi
Và trở gót quay về lời chứng của Chúa.
60 Tôi vội vàng, không chậm trễ
Gìn giữ các điều răn của Chúa.
61 Dù kẻ ác giăng dây chung quanh tôi,
Nhưng tôi không quên Kinh Luật Chúa.
62 Tôi thức dậy vào lúc nửa đêm để cảm tạ Chúa
Vì các phán quyết công chính của Ngài.
63 Tôi là bạn của tất cả những người kính sợ Chúa,
Là những người gìn giữ mạng lệnh Ngài.
64 Lạy CHÚA, tình yêu thương của Ngài đầy dẫy đất,
Xin dạy tôi các quy luật chúa.
65 Lạy CHÚA, Ngài đã hậu đãi tôi tớ Chúa
Theo như lời Chúa.
66 Xin dạy tôi tri thức và biết quyết định đúng
Vì tôi tin cậy nơi các điều răn của Ngài.
67 Trước khi bị hoạn nạn, tôi thường đi sai lạc
Nhưng bây giờ tôi gìn giữ lời Chúa.
68 Ngài là thiện và là Đấng làm điều thiện;
Xin dạy tôi các quy luật của Ngài.
69 Dù những kẻ kiêu ngạo dùng lời láo khoét nói xấu tôi,
Nhưng tôi hết lòng gìn giữ các mạng lệnh Chúa.
70 Lòng chúng nó chai lì như mỡ,
Nhưng tôi vui thích Kinh Luật của Chúa.
71 Ấy là điều tốt cho tôi khi tôi bị hoạn nạn
Để tôi học các quy luật của Chúa.
72 Kinh luật từ miệng Chúa là tốt lành cho tôi
Hơn hàng ngàn lạng vàng và bạc.
73 Tay Chúa đã làm và nắn nên tôi,
Xin ban cho tôi trí hiểu biết để tôi học hỏi các điều răn Chúa.
74 Những người kính sợ Chúa sẽ thấy tôi và vui mừng
Vì tôi đặt hy vọng nơi lời Chúa.
75 Lạy CHÚA, tôi biết các phán quyết của Ngài là công chính,
Ấy là từ lòng thành tín mà Ngài làm cho tôi bị hoạn nạn.
76 Nguyện tình yêu thương Chúa an ủi tôi
Như lời Ngài đã hứa cùng tôi tớ Chúa.
77 Nguyện Chúa thương xót tôi thì tôi sẽ sống
Vì tôi vui thích trong Kinh Luật Chúa.
78 Nguyện những kẻ kiêu ngạo bị hổ thẹn vì đã dùng điều giả dối hại tôi,
Còn tôi sẽ suy gẫm các mạng lệnh của Chúa.
79 Nguyện những người kính sợ Chúa, là những người biết lời chứng của Ngài,
Quay trở lại cùng tôi.
80 Nguyện lòng tôi không có gì đáng trách theo quy luật của Chúa
Để tôi không bị hổ thẹn.
81 Linh hồn tôi mòn mỏi mong ước sự cứu rỗi của Chúa;
Tôi hy vọng nơi lời Chúa.
82 Mắt tôi mòn mỏi trông chờ lời hứa của Chúa;
Tôi nói: “Khi nào Chúa sẽ an ủi tôi?
83 Vì tôi như cái bình da vô dụng[az]
Nhưng tôi không quên các quy luật của Chúa.
84 Tôi tớ Chúa phải chờ bao lâu nữa?[ba]
Khi nào Ngài mới đoán xét những kẻ bắt bớ tôi?”
85 Những kẻ kiêu ngạo đào hố hại tôi,
Là những kẻ không làm theo Kinh Luật Chúa.
86 Tất cả các điều răn của Chúa đều đáng tin cậy;
Người ta dùng điều giả dối để bắt bớ tôi.
Xin giúp đỡ tôi.
87 Dù chúng nó gần như diệt tôi khỏi mặt đất,
Nhưng tôi không từ bỏ mạng lệnh của Chúa.
88 Xin ban sức sống cho tôi theo như tình yêu thương của Chúa
Để tôi gìn giữ lời chứng từ miệng Ngài.
89 Lạy CHÚA, lời Ngài đứng vững đời đời trên trời.
90 Lòng thành tín Chúa tồn tại từ đời nọ đến đời kia;
Ngài đã lập quả đất và nó đứng vững vàng.
91 Mọi sự đứng vững cho đến ngày nay là do phán quyết của Chúa;
Vì chúng đều là tôi tớ Ngài.
92 Nếu Kinh Luật Chúa không phải là niềm vui của tôi
Thì tôi đã bị tiêu diệt trong cơn hoạn nạn.
93 Tôi không bao giờ quên các mạng lệnh Chúa
Vì nhờ chúng mà tôi được sức sống.
94 Tôi thuộc về Chúa, xin cứu rỗi tôi
Vì tôi tìm kiếm các mạng lệnh Chúa.
95 Những kẻ ác rình để diệt tôi
Nhưng tôi suy gẫm các lời chứng của Chúa.
96 Tôi thấy mọi sự dù toàn hảo đều có giới hạn
Nhưng các điều răn của Chúa thì vô hạn.[bb]
97 Tôi yêu Kinh Luật Chúa biết bao,
Suốt ngày tôi suy gẫm luật ấy.
98 Các điều răn Chúa giúp tôi khôn ngoan hơn các kẻ thù tôi,
Vì các điều răn ấy luôn luôn ở cùng tôi.
99 Tôi sáng suốt hơn tất cả các thầy dạy tôi,
Vì tôi suy gẫm các lời chứng của Chúa.
100 Tôi hiểu biết hơn các bậc bô lão
Vì tôi gìn giữ các mạng lệnh của Chúa.
101 Tôi giữ chân tôi tránh mọi đường tà để gìn giữ lời Chúa.
102 Tôi không từ bỏ các phán quyết của Chúa
Vì chính Ngài đã dạy dỗ tôi.
103 Lời Chúa ngọt ngào cho khẩu vị tôi biết bao,
Ngọt hơn mật ong trong miệng.
104 Nhờ các mạng lệnh của Chúa tôi được sáng suốt,
Vì thế tôi ghét mọi đường lối giả dối.
105 Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi,
Là ánh sáng cho đường lối tôi.
106 Tôi đã thề và sẽ giữ lời thề rằng
Tôi sẽ giữ các phán quyết công chính của Chúa.
107 Lạy CHÚA, tôi đau khổ rất nhiều,
Xin ban sức sống cho tôi theo như lời Chúa.
108 Lạy CHÚA, xin nhận tế lễ tình nguyện từ môi miệng tôi
Và dạy tôi các phán quyết của Ngài.
109 Mạng sống tôi thường bị nguy hiểm[bc]
Nhưng tôi không quên Kinh Luật Chúa.
110 Những kẻ ác đặt bẫy hại tôi
Nhưng tôi không lìa bỏ các mạng lệnh của Chúa.
111 Lời chứng của Chúa là cơ nghiệp đời đời của tôi,
Vì chúng là niềm vui cho lòng tôi.
112 Tôi luôn chuyên tâm làm theo các quy luật của Chúa
Đến tận cùng.
113 Tôi ghét những kẻ hai lòng
Nhưng yêu mến Kinh Luật của Chúa.
114 Chính Ngài là nơi trú ẩn và là cái khiên bảo vệ tôi,
Tôi hy vọng nơi lời Chúa.
115 Hỡi những kẻ ác, hãy tránh xa ta
Để ta gìn giữ các điều răn của Đức Chúa Trời ta.
116 Xin nâng đỡ tôi như lời Chúa đã hứa để tôi được sống
Và không bị hổ thẹn về điều tôi hy vọng.
117 Xin hỗ trợ tôi để tôi được an toàn
Và luôn luôn làm theo quy luật của Chúa.
118 Ngài từ bỏ tất cả những kẻ đi xa lạc các quy luật Chúa
Vì sự giả dối của họ là vô ích.
119 Ngài coi mọi kẻ ác trên đất như cặn bã,
Vì thế tôi yêu mến các lời chứng của Chúa.
120 Thân thể tôi run rẩy vì sợ hãi Chúa,
Tôi cũng sợ sự phán xét của Ngài.
121 Tôi đã hành động công bình và công chính,
Xin đừng bỏ tôi cho những kẻ áp bức tôi.
122 Xin bảo đảm cho tôi tớ Chúa được phúc lành;
Chớ để những kẻ kiêu ngạo áp bức tôi.
123 Mắt tôi mòn mỏi trông đợi sự cứu rỗi
Và lời hứa công chính của Chúa.
124 Xin đối xử với tôi tớ Chúa theo như tình yêu thương của Chúa;
Xin dạy tôi các quy luật của Ngài.
125 Tôi là tôi tớ Chúa, xin ban cho tôi sự hiểu biết,
Để tôi hiểu các lời chứng của Chúa.
126 Đây là lúc để CHÚA hành động
Vì người ta vi phạm Kinh Luật Chúa.[bd]
127 Thật vậy, tôi yêu mến các điều răn của Chúa
Hơn vàng, hơn cả vàng ròng.
128 Vì mọi giáo huấn của Chúa đều đúng,[be]
Và tôi ghét mọi đường lối giả dối.
129 Lời chứng của Chúa là diệu kỳ
Cho nên tâm hồn tôi gìn giữ chúng.
130 Sự giải thích lời Chúa đem lại ánh sáng;
Nó đem sự hiểu biết cho người chân thật.
131 Tôi há miệng khao khát
Vì tôi mong ước các điều răn của Chúa.
132 Xin đoái nhìn và ban ơn cho tôi
Như cách Chúa vẫn làm đối với những người yêu mến danh Ngài.
133 Xin giữ các bước chân tôi vững vàng trong lời Chúa;
Xin đừng để điều ác nào cai trị tôi.
134 Xin cứu chuộc tôi khỏi sự áp bức của loài người,
Để tôi gìn giữ các mạng lệnh của Chúa.
135 Xin mặt Ngài tỏa sáng trên tôi tớ Chúa
Và dạy tôi các quy luật Ngài.
136 Mắt tôi tuôn tràn suối lệ
Vì người ta không giữ Kinh Luật của Chúa.
137 Lạy CHÚA, Ngài là công chính
Và các phán quyết của Ngài là công bình.
138 Ngài đã truyền các lời chứng công chính
Và rất đáng tin cậy.
139 Sự nhiệt thành thiêu hủy tôi
Vì các kẻ thù tôi quên lời Chúa.
140 Lời chúa đã được tinh luyện kỹ
Và tôi tớ Chúa yêu mến nó.
141 Dù tôi bé nhỏ và bị khinh thường
Nhưng tôi không quên các mạng lệnh Chúa.
142 Sự công chính của Chúa là công chính đời đời,
Và Kinh Luật của Chúa là chân thật.
143 Hoạn nạn và khổ não đến với tôi
Nhưng các điều răn của Chúa là niềm vui cho tôi.
144 Các lời chứng của Chúa là công chính đời đời;
Xin ban cho tôi sự hiểu biết để tôi được sống.
145 Lạy CHÚA, tôi hết lòng cầu khẩn, xin đáp lời tôi,
Tôi sẽ gìn giữ quy luật của Chúa.
146 Tôi cầu khẩn Ngài, xin cứu tôi,
Tôi sẽ giữ các lời chứng của Chúa.
147 Tôi thức dậy lúc rạng đông và cầu xin;
Tôi hy vọng nơi lời Chúa.
148 Mắt tôi thức tỉnh suốt canh khuya
Để suy gẫm lời Chúa.
149 Lạy CHÚA, xin nghe lời cầu xin của tôi theo như tình yêu thương Ngài;
Xin phục hồi cho tôi sức sống[bf] theo như các phán quyết Chúa.
150 Những kẻ gian ác áp bức tôi[bg] đã đến gần,
Chúng là kẻ xa cách Kinh Luật Chúa.
151 Lạy CHÚA, chính Ngài đang ở gần
Và tất cả các điều răn của Ngài đều chân thật.
152 Từ xa xưa, do các lời chứng của Chúa tôi biết rằng
Ngài đã lập chúng đến đời đời.[bh]
153 Xin hãy xem sự đau khổ tôi chịu và giải cứu tôi
Vì tôi không quên Kinh Luật của Chúa.
154 Xin bênh vực trường hợp tôi và cứu chuộc tôi;
Xin ban sức sống cho tôi theo như lời Chúa hứa.
155 Sự cứu rỗi ở xa những kẻ gian ác
Vì chúng không tìm kiếm các quy luật Chúa.
156 Lạy CHÚA, sự thương xót của Ngài thật lớn lao;
Xin ban cho tôi sức sống theo như các phán quyết của Chúa.
157 Nhiều kẻ thù ghét và áp bức tôi
Nhưng tôi không từ bỏ các lời chứng của Chúa.
158 Tôi thấy những kẻ bội tín và ghê tởm chúng
Vì chúng nó không giữ lời Chúa.
159 Nguyện Chúa thấy rằng tôi yêu mến các mạng lệnh Chúa.
Lạy CHÚA, xin ban cho tôi sức sống theo như tình yêu thương của Ngài.
160 Bản chất[bi] của lời Chúa là chân lý;
Tất cả các phán quyết công chính của Chúa là đời đời.
161 Các vua chúa đã bắt bớ tôi vô cớ
Nhưng lòng tôi run sợ trước lời Chúa.
162 Tôi vui mừng vì lời Chúa hứa
Như người chiếm được chiến lợi phẩm lớn.
163 Tôi ghét và ghê tởm sự dối trá
Nhưng tôi yêu mến Kinh Luật Chúa.
164 Mỗi ngày tôi ca ngợi Chúa bảy lần
Vì các phán quyết công chính của Ngài.
165 Những người yêu mến Kinh Luật Chúa được bình an lớn
Và không có gì làm cho họ vấp ngã.
166 Lạy CHÚA, tôi hy vọng nơi sự cứu rỗi của Ngài
Và thi hành các điều răn Chúa.
167 Linh hồn tôi gìn giữ
Và yêu mến các lời chứng của Chúa vô cùng.
168 Tôi gìn giữ các mạng lệnh và lời chứng của Chúa,
Vì mọi đường lối tôi đều ở trước mặt Ngài.
169 Lạy CHÚA, nguyện lời cầu xin của tôi đến gần trước mặt Ngài;
Xin ban cho tôi sự hiểu biết theo như lời Chúa.
170 Nguyện lời cầu khẩn của tôi đến trước mặt Ngài,
Xin Chúa giải cứu tôi như lời Ngài hứa.
171 Môi miệng tôi sẽ tuôn tràn lời ca ngợi
Vì Chúa đã dạy tôi các quy luật Ngài.
172 Lưỡi tôi sẽ ca hát lời Chúa
Vì mọi điều răn Chúa đều công chính.
173 Nguyện tay Chúa sẵn sàng giúp đỡ tôi
Vì tôi đã chọn các mạng lệnh Chúa.
174 Lạy CHÚA, tôi mong ước sự cứu rỗi của Chúa,
Kinh luật Chúa là niềm vui của tôi.
175 Xin cho tôi sống để linh hồn tôi ca tụng Chúa;
Nguyện các phán quyết của Chúa giúp đỡ tôi.
176 Tôi lạc lối như con chiên đi lạc;
Xin tìm kiếm tôi tớ Chúa,
Vì tôi không quên các điều răn của Chúa.
Kẻ Thù Của Bình An
120 Trong lúc khốn khổ tôi cầu khẩn CHÚA
Và Ngài đã đáp lời tôi.
2 Lạy CHÚA, xin giải cứu tôi khỏi môi giả dối,
Khỏi lưỡi lừa gạt.
3 Hỡi lưỡi lừa gạt, Ngài sẽ giáng gì cho ngươi?
Và thêm hình phạt gì cho ngươi?
4 Ấy là các mũi tên nhọn của binh sĩ
Với than củi đỏ rực.
5 Khốn nạn cho tôi, tôi như sống với người Mê-siếc,
Như ngụ trong trại của người Kê-đa.[bj]
6 Tôi đã cư ngụ quá lâu
Với những kẻ ghét hòa bình.
7 Tôi muốn hòa bình
Nhưng khi tôi nói lên thì chúng muốn chiến tranh.[bk]
Chúa Là Cha, Đấng Bảo Vệ Chúng Ta
121 Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi,
Sự giúp đỡ tôi đến từ đâu?
2 Sự giúp đỡ tôi đến từ CHÚA,
Đấng sáng tạo nên trời và đất.
3 Ngài không để chân ngươi trượt ngã;
Đấng bảo vệ ngươi sẽ không buồn ngủ.
4 Phải, Đấng bảo vệ Y-sơ-ra-ên
Sẽ không buồn ngủ cũng không cần ngủ.
5 CHÚA là Đấng bảo vệ ngươi;
CHÚA là bóng che chở ở bên phải ngươi.
6 Ban ngày mặt trời sẽ không thiêu đốt[bl] ngươi;
Ban đêm mặt trăng cũng không hại ngươi.[bm]
7 CHÚA bảo vệ ngươi khỏi mọi tai họa;
Ngài sẽ bảo vệ sinh mạng ngươi.[bn]
8 CHÚA sẽ bảo vệ ngươi khi đi ra, lúc đi vào
Từ nay cho đến đời đời.
Lời Cầu Nguyện Cho Giê-ru-sa-lem
122 Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi rằng:
Chúng ta hãy đi đến nhà CHÚA.
2 Hỡi Giê-ru-sa-lem, chân chúng ta đang đứng
Trong các cổng thành ngươi.
3 Giê-ru-sa-lem được xây cất như một cái thành,
Nối kết nhau vững chắc.
4 Ấy là nơi các bộ tộc,
Tức là các bộ tộc của CHÚA
Đi hành hương, theo như quy luật truyền cho Y-sơ-ra-ên,
Để cảm tạ danh CHÚA.
5 Vì tại đó các ngôi phán xét,
Tức là các ngôi thuộc nhà Đa-vít được lập.
6 Hãy cầu hòa bình cho Giê-ru-sa-lem,
Nguyện những người yêu mến ngươi được thịnh vượng.
7 Nguyện bình an ở trong các tường thành ngươi,
An ninh ở giữa các đồn lũy ngươi.[bo]
8 Vì cớ anh em, bè bạn ta, ta cầu rằng:
Nguyện ngươi được bình an.
9 Vì cớ đền thờ CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta,
Ta cầu phúc lành cho ngươi.
Lời Cầu Nguyện Xin Chúa Giúp Đỡ
123 Lạy Đấng ngự trên các tầng trời,
Tôi ngước mắt hướng về Ngài.
2 Kìa, như mắt của các tôi trai hướng về tay ông chủ,
Như mắt của các tớ gái hướng về tay bà chủ mình thế nào,
Mắt chúng tôi cũng hướng về CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi thể ấy,
Cho đến khi nào Ngài thương xót chúng tôi.
3 Xin thương xót chúng tôi,
Lạy CHÚA, xin thương xót chúng tôi;
Vì chúng tôi đã chịu nhiều khinh bỉ.
4 Linh hồn chúng tôi đã chịu nhiều chế nhạo từ những kẻ tự mãn;
Nhiều khinh bỉ từ những kẻ kiêu căng.
Đức Chúa Trời Là Đấng Bảo Vệ Dân Ngài
124 Y-sơ-ra-ên hãy tuyên bố:
Nếu CHÚA không ở cùng chúng ta;
2 Nếu CHÚA không ở phía chúng ta
Khi phàm nhân nổi lên chống nghịch chúng ta,
3 Thì chúng ắt đã nuốt sống chúng ta
Khi chúng nổi giận cùng chúng ta rồi;
4 Thì nước lụt ắt đã cuốn trôi chúng ta;
Nước lũ đã tràn ngập linh hồn chúng ta;
5 Và dòng nước cuồng bạo
Đã tràn ngập linh hồn chúng ta rồi.
6 Cảm tạ CHÚA,
Ngài không phó chúng ta làm mồi cho răng chúng nó.
7 Linh hồn chúng ta như con chim
Thoát khỏi bẫy sập của kẻ bẫy chim;
Bẫy đã gãy
Và chúng ta thoát khỏi.
8 Sự giúp đỡ của chúng ta ở trong danh CHÚA;
Là Đấng tạo nên trời và đất.
Đức Chúa Trời Bảo Vệ Dân Ngài
125 Những người tin cậy nơi CHÚA như núi Si-ôn,
Sẽ không lay chuyển nhưng vẫn tồn tại đời đời.
2 Các núi bao quanh Giê-ru-sa-lem thể nào
Thì CHÚA cũng bao phủ dân Ngài thể ấy
Từ nay cho đến đời đời.
3 Vì cây gậy của kẻ ác sẽ không còn cai trị[bp]
Trên phần sản nghiệp của người công chính;
Để người công chính cũng sẽ không
Đưa tay ra làm điều ác.
4 Lạy CHÚA, xin hãy ban phúc lành
Cho người lành và người có lòng ngay thẳng.
5 Nhưng những kẻ trở gót theo đường cong quẹo,
CHÚA sẽ đày ải[bq] chúng cùng với những kẻ làm ác.
Nguyện Y-sơ-ra-ên được bình an.
Lời Cầu Nguyện Giải Cứu
126 Khi CHÚA phục hồi cơ đồ cho Si-ôn[br]
Chúng tôi như những người nằm mơ.
2 Bấy giờ miệng chúng tôi đầy tiếng cười,
Lưỡi chúng tôi đầy tiếng hát;
Bấy giờ người ta sẽ nói giữa các nước rằng:
“CHÚA đã làm những việc vĩ đại cho họ.”
3 CHÚA đã làm những việc vĩ đại cho chúng tôi,
Chúng tôi vui mừng.
4 Lạy CHÚA, xin phục hồi cơ đồ cho chúng tôi
Như những dòng suối trong sa mạc Miền Nam.
5 Những người gieo giống trong nước mắt,
Sẽ gặt hái với niềm hân hoan.
6 Người nào vừa đi vừa khóc, mang giống ra gieo;
Sẽ trở về, vác bó lúa mình trong tiếng hát vui vẻ.
Ca Ngợi Phúc Lành Của Chúa
127 Nếu CHÚA không xây cất nhà,
Thì người ta có lao khổ để xây cất cũng vô ích.
Nếu CHÚA không giữ thành,
Thì người lính canh có thức canh cũng vô ích.
2 Thật vô ích cho tất cả các ngươi
Là người dậy sớm, thức khuya,
Lao khổ để kiếm miếng ăn.[bs]
Vì Chúa cũng ban giấc ngủ cho những người Ngài yêu mến như vậy.[bt]
3 Kìa con cái là cơ nghiệp CHÚA ban;
Bông trái tử cung là phần thưởng.
4 Các con trai sinh trong thời tuổi trẻ
Khác nào các mũi tên trong tay dũng sĩ.
5 Phước cho người nào
Có đầy chúng trong bao đựng tên mình.
Người sẽ không bị hổ thẹn
Khi đối đáp với kẻ thù tại cổng thành.
Phần Thưởng Cho Người Vâng Lời Chúa
128 Phước cho người nào kính sợ CHÚA
Và sống theo đường lối Ngài.
2 Ngươi sẽ được hưởng công lao của tay mình;
Ngươi sẽ được phước lành và thịnh vượng.
3 Vợ ngươi sẽ như cây nho nhiều trái
Trong nhà ngươi;
Con cái ngươi sẽ như các chồi cây ô-liu
Chung quanh bàn ngươi.
4 Kìa, người nào kính sợ CHÚA
Sẽ được phước như thế.
5 Nguyện CHÚA từ Si-ôn ban phước cho ngươi.
Nguyện ngươi sẽ thấy sự thịnh vượng của Giê-ru-sa-lem suốt đời mình.
6 Nguyện ngươi được thấy con cháu mình.
Nguyện Y-sơ-ra-ên được bình an.
Lời Cầu Nguyện Xin Chúa Đánh Bại Kẻ Thù
129 Y-sơ-ra-ên hãy nói:
Từ khi tôi còn trẻ chúng nó thường áp bức tôi;
2 Từ khi tôi còn trẻ chúng nó thường áp bức tôi;
Nhưng chúng nó không thắng tôi được.
3 Những kẻ đi cày đã cày trên lưng tôi,
Xẻ thành những luống cày dài.
4 CHÚA là công chính,
Ngài cắt đứt dây trói của kẻ ác.
5 Nguyện mọi kẻ ghét Si-ôn
Đều bị hổ thẹn và quay lui.
6 Nguyện chúng nó như cỏ mọc trên mái nhà
Bị khô héo trước khi mọc lên;[bu]
7 Nên người gặt không nắm được đầy tay,
Người bó cũng không ôm được đầy lòng.
8 Những người qua lại cũng không chúc nhau rằng:
“Nguyện CHÚA ban phước cho anh chị em;
Chúng tôi nhân danh CHÚA chúc phước cho anh chị em.”
Lời Cầu Nguyện Xin Giúp Đỡ
130 CHÚA ôi, từ nơi sâu thẳm tôi cầu khẩn Ngài.
2 Lạy CHÚA, xin nghe tiếng cầu xin của tôi,
Nguyện CHÚA lắng nghe
Lời khẩn nguyện của tôi.
3 CHÚA ôi, nếu Ngài ghi nhớ các tội ác chúng tôi;
Thì lạy CHÚA, còn ai sống[bv] nổi.
4 Nhưng CHÚA có lòng tha thứ
Để người ta kính sợ CHÚA.
5 Tôi trông đợi, linh hồn tôi trông đợi CHÚA;
Tôi trông cậy nơi lời Chúa.
6 Linh hồn tôi trông đợi Chúa
Hơn những lính canh trông đợi bình minh.
Thật hơn những lính canh trông đợi bình minh.
7 Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy trông cậy CHÚA,
Vì Ngài có lòng yêu thương
Và ban ơn cứu chuộc dồi dào.
8 Chính Ngài sẽ cứu chuộc Y-sơ-ra-ên
Khỏi mọi tội ác họ.
Lời Cầu Nguyện Nhu Mì Tin Cậy
131 CHÚA ôi, lòng tôi không tự cao,
Mắt tôi không tự đắc.
Tôi cũng không theo đuổi những việc quá vĩ đại
Hay quá diệu kỳ cho tôi.
2 Nhưng tâm hồn tôi yên tĩnh và bình thản
Như đứa bé đã dứt sữa ở bên cạnh mẹ mình.
Tâm hồn tôi bình thản ở trong tôi như đứa bé đã dứt sữa.
3 Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy trông cậy nơi CHÚA
Từ nay cho đến đời đời.
Lời Ca Tụng Về Đền Thờ
132 CHÚA ôi, xin nhớ đến Đa-vít
Cùng tất cả những khổ nạn người chịu.
2 Thể nào người đã thề cùng CHÚA,
Đã hứa cùng Đấng Quyền Năng của Gia-cốp.
3 “Tôi sẽ không vào nhà ở,
Sẽ không lên giường ngủ;
4 Tôi sẽ không chợp mắt ngủ nghỉ,
Không để cho mí mắt nghỉ ngơi;
5 Cho đến khi tôi tìm được một địa điểm cho CHÚA,
Một nơi cư trú cho Đấng Quyền Năng của Gia-cốp.”
6 Kìa chúng tôi nghe về Rương Giao Ước[bw] tại Ê-pha-rát,
Tìm thấy rương ấy tại cánh đồng Gia-a.
7 Chúng ta hãy đến nơi Ngài cư ngụ,
Thờ phượng dưới bệ chân Ngài.
8 Lạy CHÚA, xin hãy đứng lên và vào nơi nghỉ ngơi của Ngài,
Ngài đi cùng Rương Giao Ước quyền năng của Ngài.
9 Nguyện các thầy tế lễ của Chúa trang phục bằng sự công chính;
Các thánh của Ngài hân hoan reo hò.
10 Vì cớ Đa-vít, tôi tớ Chúa,
Xin đừng quay mặt từ khước đấng được xức dầu của Chúa.
11 CHÚA đã thề cùng Đa-vít,
Một lời thề chắc chắn Ngài sẽ không rút lại,
Ta sẽ đặt một người từ dòng dõi ngươi
Nối ngôi cho ngươi.
12 Nếu các con ngươi gìn giữ giao ước ta
Và những lời chứng ta sẽ dạy chúng nó
Thì các con chúng nó cũng sẽ được
Nối ngôi ngươi đời đời.
13 Vì CHÚA đã chọn Si-ôn,
Ngài muốn tại đó là nơi Ngài ngự.
14 Đây là nơi nghỉ ngơi của Ta đời đời;
Ta sẽ ngự nơi đây vì Ta muốn như thế.
15 Ta sẽ ban lương thực dồi dào cho Si-ôn,
Thực phẩm đầy đủ cho kẻ nghèo ở nơi ấy.
16 Ta sẽ trang phục các thầy tế lễ của thành ấy bằng sự cứu rỗi
Và các thánh của nó sẽ hân hoan reo hò.
17 Ở đó Ta sẽ khiến một cái sừng mọc lên cho Đa-vít,
Chuẩn bị một cây đèn cho đấng được xức dầu của Ta.
18 Ta sẽ lấy nhục nhã mặc cho các kẻ thù người
Nhưng vương miện trên đầu người sẽ chiếu sáng rực rỡ.
Ca Ngợi Tình Thương Anh Em
133 Kìa, thật tốt đẹp và vui vẻ biết bao
Khi anh em sống hòa thuận với nhau.
2 Như dầu quý giá rót trên đầu thầy tế lễ A-rôn, dầu chảy xuống râu
Và xuống vạt[bx] áo dài người.
3 Như sương móc từ núi Hẹt-môn
Sa xuống núi đồi Si-ôn;
Vì tại đó CHÚA đã ban phước lành,
Tức là sự sống đời đời.
Lời Kêu Gọi Ca Tụng Chúa
134 Hỡi tất cả các tôi tớ của CHÚA,
Là những người phụng sự ban đêm trong đền CHÚA,
Hãy đến ca tụng Ngài.
2 Hãy giơ tay cầu nguyện trong đền thánh,
Hãy ca tụng CHÚA.
3 Nguyện CHÚA, là Đấng dựng nên trời và đất,
Từ Si-ôn sẽ ban phước cho ngươi.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)