Bible in 90 Days
14 Đức công chính và lẽ công bình là nền tảng của ngôi Ngài;
Tình yêu thương và lòng thành tín đi trước mặt Ngài.
15 Phước cho dân tộc nào biết được tiếng reo hò trong lễ hội ca ngợi Ngài;
Lạy CHÚA, họ sẽ bước đi trong ánh sáng của sự hiện diện Ngài.
16 Hằng ngày họ vui mừng trong danh Ngài
Và nhờ sự công chính của Ngài họ được nâng cao lên.[a]
17 Vì Ngài là sự vinh hiển và sức mạnh của họ;[b]
Nhờ ơn Ngài, sừng chúng tôi được giương cao.[c]
18 Vì CHÚA là cái khiên bảo vệ chúng tôi;
Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên là vua chúng tôi.[d]
19 Từ xưa, trong một khải tượng Ngài đã phán cùng các tôi tớ thánh Ngài rằng:
Ta đã giúp sức cho một dũng sĩ,
Ta đã tôn cao người ta chọn từ trong dân.
20 Ta đã tìm thấy Đa-vít, tôi tớ Ta;
Ta đã xức dầu thánh Ta cho người.
21 Tay ta sẽ nâng đỡ[e] người;
Cánh tay Ta sẽ thêm sức cho người.
22 Kẻ thù sẽ không thể áp bức người;
Kẻ ác cũng không thể làm người nhục nhã đau khổ.
23 Ta sẽ đập tan kẻ thù trước mặt người,
Và đánh ngã những kẻ ghét người.
24 Lòng thành tín và yêu thương của Ta sẽ ở cùng người
Và nhờ danh Ta sừng người sẽ được giương cao.[f]
25 Ta sẽ cho tay[g] người kiểm soát biển cả
Và tay phải người kiểm soát các sông.[h]
26 Người sẽ gọi ta: Ngài là cha tôi,
Đức Chúa Trời tôi và là tảng đá cứu rỗi của tôi.
27 Ta sẽ cử người làm con trưởng nam,
Vị vua vĩ đại hơn tất cả các vua trên đất.
28 Ta sẽ giữ tình yêu thương ta cho người mãi mãi
Và giao ước Ta với người sẽ vững bền.
29 Ta sẽ lập dòng dõi người làm vua[i] đời đời,
Và ngôi người sẽ như các ngày của trời.
30 Nếu con cháu người từ bỏ Kinh Luật của Ta
Và không đi theo sắc lệnh của Ta;
31 Nếu chúng nó vi phạm các quy luật Ta
Và không giữ những điều răn Ta;
32 Thì Ta sẽ lấy trượng phạt đòn sự vi phạm của chúng nó
Và dùng roi mà phạt sự gian ác của chúng.
33 Nhưng Ta sẽ không bỏ tình yêu thương Ta đối với người,
Và không phản bội sự thành tín Ta cùng người.
34 Ta sẽ không vi phạm giao ước Ta
Và không thay đổi lời môi miệng Ta đã phán.
35 Ta đã thề một lần đầy đủ cả, nhân danh sự thánh khiết của Ta,
Và không nói dối cùng Đa-vít.
36 Dòng dõi người sẽ tồn tại mãi mãi;
Ngôi người sẽ lâu dài như mặt trời trước mặt Ta;
37 Như mặt trăng được thiết lập đời đời,
Như bằng chứng trung tín trên bầu trời. Sê-la
38 Nhưng Ngài đã khước từ, đã ruồng bỏ;
Ngài đã tức giận cùng người được xức dầu của Ngài.
39 Ngài ghê tởm giao ước với tôi tớ Ngài;
Ngài ném mão triều người xuống đất bùn ô uế.[j]
40 Ngài phá đổ mọi bức tường của người
Và làm thành trì người đổ nát.
41 Mọi kẻ qua lại trên đường cướp giật người;
Những người xung quanh khinh bỉ người.
42 Ngài nâng tay phải kẻ thù người lên;
Ngài làm mọi kẻ thù nghịch người vui vẻ.
43 Thật vậy, Ngài đã xoay ngược lưỡi gươm của người,
Không giúp người đứng vững trong trận chiến.
44 Ngài loại bỏ sự huy hoàng của người[k]
Ném ngôi người xuống đất.
45 Ngài đã cắt ngắn những ngày tuổi trẻ của người
Và bao phủ người bằng nhục nhã. Sê-la
46 Lạy CHÚA, cho đến bao giờ? Ngài sẽ lánh mặt đời đời ư?
Cơn thịnh nộ ghen tương của Ngài vẫn cháy như lửa đến bao giờ?
47 Xin hãy nhớ đời sống tôi ngắn ngủi là bao!
Ngài đã tạo nên tất cả loài người là hư ảo sao?
48 Ai là người sống mãi mà không thấy sự chết?
Ai sẽ giải cứu mạng sống mình khỏi tay tử thần?[l] Sê-la
49 Lạy Chúa, tình yêu thương của Ngài từ xưa
Mà Ngài đã lấy lòng thành tín thề cùng Đa-vít ở đâu rồi?
50 Lạy Chúa, xin hãy nhớ sự sỉ nhục tôi tớ Chúa phải chịu;
Tôi đã mang trong lòng tất cả sự sỉ nhục từ nhiều dân tộc;
51 Là sỉ nhục, lạy CHÚA, mà kẻ thù Ngài đã dùng để nhục mạ;
Chúng đã nhục mạ những bước chân của người được Chúa xức dầu.
52 Lạy CHÚA, đáng ca ngợi Ngài đời đời!
A-men! A-men!
Đức Chúa Trời Đời Đời Và Loài Người Ngắn Ngủi
90 Lạy Chúa, Ngài là nơi cư trú[m] của chúng tôi đời đời.
2 Trước khi núi non được sinh ra;
Trái đất và thế gian được tạo nên;
Từ trước vô cùng cho đến đời đời, Ngài là Đức Chúa Trời.
3 Chúa khiến con người trở về với bụi đất;
Ngài phán: Hỡi loài người, hãy trở về bụi đất.[n]
4 Vì một ngàn năm trước mắt Chúa
Giống như một ngày hôm trước đã trôi qua,
Như một canh trong đêm.
5 Ngài khiến chúng nó trôi đi như dòng nước lũ;
Đời chúng nó như một giấc ngủ;[o]
Như cỏ mọc xanh tươi lúc ban mai;
6 Buổi sáng cỏ nảy nở và tốt tươi;
Đến chiều chúng tàn phai và khô héo.
7 Thật vậy, chúng tôi bị hủy diệt vì cơn giận Chúa;
Bị kinh hoàng vì cơn thịnh nộ của Ngài.
8 Ngài đặt sự gian ác chúng tôi trước mặt Ngài;
Để những tội lỗi bí mật của chúng tôi trong ánh sáng trước mặt Ngài.
9 Bởi cơn thịnh nộ của Ngài mọi ngày chúng tôi đều qua đi;
Các năm chúng tôi kết thúc như tiếng thở dài.
10 Tuổi tác chúng tôi thọ được bảy mươi,
Nếu mạnh khỏe thì tám mươi,
Nhưng sự kiêu căng của chúng chỉ là lao khổ và buồn thảm;
Vì đời sống thoáng qua, rồi chúng tôi bay mất đi.
11 Ai biết được năng lực của cơn giận Chúa?
Ai hiểu được hậu quả[p] của cơn thịnh nộ Ngài?[q]
12 Vậy, xin dạy chúng tôi biết đếm các ngày chúng tôi,
Để chúng tôi được lòng khôn ngoan.
13 Lạy CHÚA, xin hãy trở lại,[r] Ngài còn giận đến bao giờ?
Xin thương xót các tôi tớ Ngài.
14 Mỗi buổi sáng xin cho chúng tôi được thỏa lòng trong tình yêu thương của Ngài;
Để chúng tôi được hân hoan ca hát và vui mừng suốt đời.
15 Xin cho chúng tôi được vui mừng tương ứng với số ngày mà chúng tôi chịu hoạn nạn;
Tương ứng với số năm mà chúng tôi bị tai họa.
16 Xin cho các tôi tớ Chúa thấy những công việc Ngài,
Và con cháu họ thấy quyền năng vinh quang Ngài.
17 Nguyện xin ân huệ của Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên chúng tôi.
Xin Ngài thiết lập vững vàng công việc tay chúng tôi.
Vâng, xin Ngài thiết lập vững vàng công việc tay chúng tôi làm.
Đức Chúa Trời Là Đấng Bảo Vệ Chúng Ta
91 Người nào ở trong nơi trú ẩn của Đấng Chí Cao
Sẽ được che chở[s] dưới bóng của Đấng Toàn Năng.
2 Tôi nói về CHÚA rằng: Ngài là Đức Chúa Trời tôi, là nơi trú ẩn và thành lũy của tôi,
Tôi tin cậy nơi Ngài.
3 Vì Ngài sẽ giải cứu ngươi thoát khỏi bẫy chim,
Thoát khỏi dịch lệ hủy diệt.
4 Ngài sẽ lấy lông Ngài mà che chở ngươi
Và dưới cánh Ngài ngươi sẽ tìm được nơi trú ẩn.
Lòng thành tín Ngài là cái khiên, cái mộc bảo vệ ngươi.
5 Ngươi sẽ không sợ sự kinh hoàng vào ban đêm
Hay tên bắn lúc ban ngày;
6 Hoặc dịch lệ lan đến trong tối tăm
Hay sự hủy diệt tàn phá lúc giữa trưa.
7 Hàng ngàn người sẽ gục ngã bên cạnh ngươi,
Hàng vạn người ngã bên phải ngươi,
Nhưng tai họa sẽ không đến gần ngươi.
8 Ngươi chỉ lấy mắt nhìn xem
Và sẽ thấy kẻ ác bị báo trả.
9 Lạy CHÚA, vì Ngài là nơi trú ẩn của tôi,
Lạy Đấng Chí Cao, Ngài đã lập nơi cư trú của Ngài;
10 Nên sẽ chẳng có tai họa gì xảy đến ngươi
Và tai họa[t] sẽ không đến gần nhà[u] ngươi.
11 Vì Ngài sẽ truyền lệnh cho thiên sứ coi sóc ngươi,
Bảo vệ ngươi trong mọi đường lối ngươi.
12 Thiên sứ sẽ nâng đỡ ngươi trên tay
Để chân ngươi không vấp phải hòn đá.
13 Ngươi sẽ bước đi trên sư tử và rắn hổ mang;
Còn sư tử tơ và rắn độc ngươi sẽ giày đạp dưới chân.
14 Vì người yêu mến Ta nên ta giải cứu người;
Vì người biết danh Ta nên ta bảo vệ người.
15 Người sẽ cầu khẩn Ta, Ta sẽ trả lời người;
Gặp lúc gian truân Ta sẽ ở cùng người,
Giải cứu người và làm vinh hiển người.[v]
16 Ta sẽ cho người thỏa dạ sống lâu
Và chỉ cho người thấy sự cứu rỗi Ta.
Thánh Thi. Bài Hát Cho Ngày Sa-bát
92 Cảm tạ CHÚA là một điều tốt lành;
Lạy Đấng Chí Cao, ca tụng Danh Ngài là điều tốt đẹp;
2 Buổi sáng rao truyền tình yêu thương của Chúa,
Buổi tối ca ngợi đức thành tín của Ngài;
3 Bằng nhạc khí mười dây cùng đàn lia,
Hợp với giai điệu và đàn hạc.
4 Vì, lạy CHÚA, việc quyền năng của Ngài làm tôi vui mừng;
Các việc của tay Ngài làm tôi hớn hở hoan ca.
5 Lạy CHÚA, công việc của Ngài vĩ đại biết bao!
Tư tưởng Ngài sâu sắc biết dường nào!
6 Kẻ u mê không biết được
Và người ngu dại cũng không hiểu nổi.
7 Dù cho kẻ ác mọc lên như cỏ;
Mọi kẻ bất lương phát đạt;
Ấy là để chúng bị hủy diệt đời đời.
8 Nhưng lạy CHÚA, chính Ngài là Đấng Tối Cao[w] đời đời.
9 Lạy CHÚA, vì kìa, những kẻ thù Ngài;
Vì kìa, những kẻ thù Ngài sẽ bị hủy diệt;
Mọi kẻ làm ác sẽ chạy tán loạn.
10 Ngài đã làm cho sừng tôi giương cao[x] như sừng con bò rừng;
Tôi được xức bằng dầu mới.
11 Mắt tôi thấy kẻ thù tôi bị thất bại,
Tai tôi đã nghe tiếng than khóc của kẻ ác chống nghịch tôi.[y]
12 Người công chính sẽ lớn mạnh như cây chà là,
Sẽ mọc lên như cây tùng ở Li-ban;
13 Họ được trồng trong nhà CHÚA,
Lớn mạnh trong sân của Đức Chúa Trời chúng ta.
14 Dù đến tuổi già vẫn sinh bông trái,
Được mạnh khỏe và xanh tươi,
15 Để cho thấy CHÚA là ngay thẳng,
Ngài là tảng đá của tôi và trong Ngài không có sự bất công.
CHÚA Trị Vì Vinh Quang
93 CHÚA trị vì; Ngài trang phục bằng sự uy nghi;
CHÚA uy nghi;
Ngài nai nịt bằng sức mạnh.
Phải, thế giới được lập vững vàng,
Không thể rúng động.
2 Ngôi Ngài được lập vững vàng từ thời cổ;
Ngài hằng hữu từ trước vô cùng.
3 Lạy CHÚA, các sông đã dâng lên;
Các sông đã dâng lên cùng tiếng động;
Các sông đã dâng lên ầm ầm.
4 CHÚA trị vì trên cao,
Quyền năng hơn sấm động của nước lớn,
Quyền năng hơn sóng to của biển cả.
5 Lạy CHÚA, các sắc luật của Ngài thật chắc chắn;
Đền thờ Ngài thật là thánh khiết
Đến đời đời.
Đức Chúa Trời Là Đấng Phán Xét Mọi Sự
94 Lạy CHÚA, Ngài là Đức Chúa Trời báo trả;
Ngài là Đức Chúa Trời báo trả, xin bày tỏ thiên quang Ngài.[z]
2 Lạy Đấng phán xét thế giới,[aa] xin đứng lên,
Xin báo trả xứng đáng cho những kẻ kiêu ngạo.
3 Lạy CHÚA, cho đến bao giờ?
Kẻ ác sẽ đắc chí cho đến bao giờ?
4 Chúng tuôn đổ lời kiêu ngạo;
Mọi kẻ làm ác đều khoe khoang.
5 Lạy CHÚA, chúng nó chà đạp dân Ngài;
Chúng nó làm con dân[ab] Ngài khốn khổ.
6 Chúng giết kẻ góa bụa và người kiều dân;
Chúng tàn sát kẻ mồ côi.
7 Chúng bảo rằng CHÚA sẽ không nhìn thấy,
Đức Chúa Trời của Gia-cốp sẽ không nhận thấy.
8 Hỡi những kẻ u mê nhất trong dân, hãy hiểu biết;
Hỡi những kẻ ngu dại, bao giờ các người mới khôn ngoan?
9 Đấng đã tạo ra tai, lại không nghe được?
Đấng đã nắn nên mắt, lại không thấy sao?
10 Đấng đã trừng phạt các nước, lại không quở trách sao?
Ngài là Đấng dạy dỗ loài người tri thức.
11 CHÚA biết tư tưởng loài người;
Chúng chỉ là hư không.[ac]
12 Lạy CHÚA, phước cho người nào Ngài rèn luyện[ad]
Và dạy dỗ Kinh Luật cho;
13 Và ban cho họ yên lành khỏi[ae] những ngày hoạn nạn,
Cho đến khi nào hố sâu đã đào cho những kẻ ác.
14 Vì CHÚA không ruồng bỏ dân Ngài
Cũng chẳng từ bỏ cơ nghiệp Ngài.
15 Vì sự xét xử công bình sẽ trở về với người công chính;[af]
Và mọi người có lòng ngay thẳng sẽ noi theo.
16 Ai sẽ nổi lên chống lại những kẻ ác cho tôi;
Ai sẽ đứng lên chống lại những kẻ làm điều gian ác giúp tôi?
17 Nếu CHÚA đã không giúp đỡ tôi
Thì linh hồn tôi đã sớm ở nơi Âm Phủ.[ag]
18 Lạy CHÚA, khi tôi nghĩ: chân tôi trượt ngã
Thì tình yêu thương vững bền của Ngài nâng đỡ tôi.
19 Khi có nhiều mối lo nghĩ trong lòng tôi,
Thì sự an ủi của Ngài khích lệ tâm hồn tôi.
20 Cậy quyền năng dùng luật hại người,
Thế nào Ngài lại kết ước đồng minh?
21 Chúng hiệp nhau hại mạng sống của người công chính
Và kết án tử hình kẻ vô tội.[ah]
22 Nhưng CHÚA là thành lũy bảo vệ tôi;
Đức Chúa Trời tôi là vầng đá nơi tôi trú ẩn.
23 Ngài sẽ báo trả chúng nó vì tội lỗi chúng nó;
Ngài sẽ tiêu diệt chúng nó vì sự gian ác chúng nó;
CHÚA, Đức Chúa Trời sẽ tiêu diệt chúng nó.
Hãy Thờ Phượng Và Quy Phục Đấng Tạo Hóa
95 Hãy đến ca hát tán dương CHÚA;
Hãy hân hoan reo hò cho Chúa[ai] là vầng đá cứu rỗi chúng ta.
2 Hãy đến trước mặt Ngài với lời cảm tạ;
Hãy hân hoan reo hò bằng lời ca tụng Ngài.
3 Vì CHÚA là Đức Chúa Trời vĩ đại;
Ngài là vua vĩ đại hơn tất cả các thần.
4 Ngài nắm trong tay các vực sâu[aj] của quả đất;
Những đỉnh cao của núi non cũng thuộc về Ngài.
5 Biển cả thuộc về Ngài vì Ngài làm ra chúng;
Lục địa cũng do tay Ngài tạo nên.
6 Hãy đến, cúi đầu và thờ phượng Ngài;
Hãy quỳ gối trước mặt CHÚA, Đấng Tạo Hóa chúng ta.
7 Vì Ngài là Đức Chúa Trời chúng ta;
Chúng ta là con dân mà ngài chăn giữ,
Là đàn chiên mà tay Ngài bảo vệ.[ak]
Ngày nay, ước gì các ngươi nghe tiếng Ngài!
8 Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mê-ri-ba,
Như ngày ấy tại Ma-sa trong sa mạc;[al]
9 Khi tổ tiên các ngươi thử Ta; chúng thách thức Ta
Dù đã thấy công việc Ta làm.
10 Trong bốn mươi năm Ta chán ghét thế hệ ấy;[am]
Ta bảo: Chúng nó là một dân có lòng lầm lạc;
Chúng nó không biết đường lối Ta.
11 Vì thế, trong cơn giận Ta thề rằng:
Chúng nó sẽ chẳng bao giờ vào nơi an lạc của Ta.
Đức Chúa Trời Là Vị Vua Tối Cao
96 Hãy hát một bài ca mới cho CHÚA;
Hỡi cả thế giới, hãy ca hát cho CHÚA.
2 Hãy ca hát cho CHÚA, hãy ca tụng Danh Ngài.
Hằng ngày hãy công bố sự cứu rỗi của Ngài.
3 Hãy thuật sự vinh quang của Ngài giữa các nước;
Hãy tuyên bố những việc diệu kỳ của Ngài cho tất cả các dân.
4 Vì CHÚA thật vĩ đại! Rất đáng được ca ngợi;
Ngài đáng được kính sợ hơn tất cả các thần.
5 Vì tất cả các thần của các dân chỉ là hình tượng;[an]
Nhưng CHÚA đã tạo nên các tầng trời.
6 Trước mặt Ngài là vinh quang và uy nghi;
Nơi đền thánh Ngài là năng quyền và tráng lệ.
7 Hỡi các tông tộc của muôn dân, hãy dâng cho CHÚA;
Hãy dâng cho CHÚA vinh quang năng lực.
8 Hãy dâng cho CHÚA vinh quang xứng đáng với Danh Ngài;
Hãy mang lễ vật mà vào sân đền thờ Ngài.
9 Hãy mặc trang phục thánh[ao] mà thờ phượng CHÚA;
Hỡi cả trái đất, hãy run sợ trước mặt Ngài.
10 Hãy tuyên bố giữa các nước: CHÚA cai trị;
Phải, thế giới được lập vững vàng, không rung chuyển.
Ngài xét xử công bình cho muôn dân.
11 Hỡi các tầng trời, hãy vui mừng; hỡi trái đất, hãy vui vẻ;
Hỡi biển cả và mọi vật trong đó, hãy hân hoan reo hò.
12 Hỡi cánh đồng và mọi vật trong đó hãy hân hoan;
Bấy giờ mọi cây cối trong rừng đều sẽ vui mừng ca hát trước mặt CHÚA.
13 Vì Ngài đến;
Vì Ngài đến để xét xử thế gian.
Ngài sẽ xét xử thế giới bằng sự công chính
Và lấy sự chân thật mà xét xử muôn dân.
CHÚA, Đấng Cai Trị Tối Cao
97 CHÚA cai trị. Hỡi trái đất, hãy hân hoan;
Hỡi các hải đảo,[ap] hãy vui mừng.
2 Mây và bóng tối dày đặc bao quanh Ngài;
Công chính và công bình là nền móng của ngôi Ngài.
3 Lửa đi trước mặt Ngài
Và thiêu đốt những kẻ thù chung quanh.
4 Những tia chớp của Ngài thắp sáng thế giới;
Trái đất thấy và run rẩy.
5 Núi non tan chảy như sáp trước mặt CHÚA,
Trước mặt Chúa của cả trái đất.
6 Các tầng trời công bố sự công chính của Ngài;
Tất cả các dân thấy sự vinh quang Ngài.
7 Tất cả những kẻ thờ lạy các tượng,
Là kẻ huênh hoang về hình tượng mình thờ, sẽ bị hổ thẹn;
Tất cả các thần hãy quỳ lạy Ngài.[aq]
8 Lạy CHÚA, thành Si-ôn nghe và vui mừng;
Các thành[ar] ở Giu-đa hoan hỉ
Vì các phán xét của Ngài.
9 Lạy CHÚA, vì chính Ngài là Đấng Chí Cao trên cả trái đất,
Ngài được tôn cao hơn tất cả mọi thần.
10 Hỡi những kẻ yêu mến CHÚA, hãy ghét điều ác.[as]
CHÚA bảo vệ mạng sống những kẻ trung tín với Ngài,
Giải cứu họ khỏi tay những kẻ ác.
11 Ánh sáng chiếu ra[at] trên người công chính,
Và niềm vui tỏa ra trên kẻ có lòng ngay thẳng.
12 Hỡi những người công chính, hãy vui mừng trong CHÚA;
Và cảm tạ Danh[au] Thánh Ngài.
CHÚA Cai Trị Thế Gian
98 Hãy hát cho CHÚA một bài ca mới
Vì những việc diệu kỳ Ngài đã làm.
Tay phải và cánh tay thánh Ngài
Đã đem lại chiến thắng cho Ngài.
2 CHÚA đã bày tỏ sự cứu rỗi của Ngài;
Ngài đã trình bày sự công chính của Ngài trước mắt các dân.
3 Ngài nhớ đến tình yêu thương
Và sự thành tín của Ngài đối với nhà Y-sơ-ra-ên.
Mọi đầu cùng trái đất đều thấy
Sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời chúng ta.
4 Hỡi cả trái đất, hãy hân hoan reo hò cho CHÚA;
Hãy cất lên tiếng hát và tiếng nhạc ca tụng Ngài.
5 Ca ngợi CHÚA với đàn hạc;
Hãy dùng đàn hạc và giọng ca mà ca ngợi.
6 Hãy hân hoan thổi kèn và thổi tù và
Trước mặt Vua, tức là CHÚA.
7 Biển cả và những vật trong đó,
Thế giới và những người cư ngụ trên ấy,
Hãy hân hoan reo hò.
8 Các sông, hãy vỗ tay;
Các núi, hãy cùng nhau hân hoan ca hát trước mặt CHÚA;
9 Vì Ngài đến để phán xét trái đất.
Ngài sẽ dùng công chính để phán xét thế gian
Và công bình để xét xử các dân tộc.
Đức Chúa Trời Là Vị Vua Thánh
99 CHÚA cai trị,
Muôn dân hãy run sợ;
Ngài ngự trên các Chê-ru-bim,[av]
Trái đất rung chuyển.
2 CHÚA tại Si-ôn thật vĩ đại;
Ngài được tôn cao trên tất cả mọi dân tộc.
3 Nguyện chúng nó ca tụng danh vĩ đại và đáng sợ của Ngài;
Ngài là thánh.
4 Vị vua thật quyền năng,[aw] Ngài yêu chuộng công bình,
Thiết lập sự bình đẳng;
Ngài thi hành công bình
Và công chính trong Gia-cốp.
5 Hãy tôn cao CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta;
Hãy thờ phượng dưới bệ chân Ngài.
Ngài là thánh.
6 Môi-se và A-rôn là các thầy trong số những thầy tế lễ của Ngài;
Sa-mu-ên là một người trong số những người cầu khẩn danh Ngài;
Họ cầu khẩn CHÚA
Và Ngài đáp lời họ.
7 Từ trong cột mây Ngài phán với họ;
Ngài ban cho họ luật lệ cùng quy luật và họ gìn giữ chúng.
8 Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi,
Chính Ngài đã đáp lời họ.
Ngài là Đức Chúa Trời tha thứ cho họ,
Nhưng Ngài cũng báo trả những hành vi sai trái của họ.
9 Hãy tôn cao CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta;
Hãy thờ phượng tại núi thánh Ngài
Vì CHÚA, Đức Chúa Trời chúng ta là thánh.
Thánh Thi Cảm Tạ
100 Hỡi cả trái đất, hãy hân hoan reo hò cho CHÚA.
2 Hãy vui vẻ phụng sự CHÚA;
Hãy hân hoan ca hát mà đến trước mặt Ngài.
3 Hãy biết rằng CHÚA, chính Ngài là Đức Chúa Trời.
Ngài làm nên chúng ta, chúng ta thuộc về Ngài;
Chúng ta là dân của Ngài, là đàn chiên nơi đồng cỏ Ngài
4 Hãy cảm tạ mà vào các cổng Ngài;
Hãy ca ngợi mà vào sân Ngài;
Hãy cảm tạ Ngài, hãy ca ngợi danh Ngài.
5 Vì CHÚA là thiện; tình yêu thương Ngài vẫn còn mãi mãi;
Lòng thành tín Ngài còn đến đời đời.
Thơ Đa-vít
101 Tôi sẽ ca hát về tình yêu thương và về sự công bình của Chúa.
Lạy CHÚA, tôi sẽ ca tụng Ngài.
2 Tôi sẽ cư xử[ax] khôn ngoan,
Theo đường toàn vẹn.
Ôi! Khi nào Ngài mới đến với tôi?
Tôi sẽ lấy lòng thành thật mà sống[ay] trong nhà tôi;
3 Tôi sẽ không để điều gì xấu xa[az]
Trước mặt tôi;
Tôi ghét hành động của những kẻ từ bỏ Chúa;[ba]
Tôi không để việc ác dính dấp đến tôi.
4 Tôi sẽ lánh xa tâm trí đồi trụy,[bb]
Tôi sẽ không biết đến điều ác.[bc]
5 Tôi sẽ làm nín lặng kẻ lén lút nói xấu
Người lân cận mình;
Còn người có mắt tự cao, có lòng kiêu ngạo,
Tôi sẽ không dung tha.
6 Mắt tôi đoái xem những người trung tín trong xứ;
Họ sẽ được ở với tôi;
Kẻ sống theo đường toàn vẹn
Sẽ được phục vụ tôi.
7 Người lừa đảo
Sẽ không được ở trong nhà tôi;
Kẻ nói dối
Sẽ không được đứng trước mặt tôi.
8 Mỗi buổi sáng tôi sẽ diệt bỏ
Tất cả những kẻ ác trong xứ;
Loại trừ mọi kẻ gian tà
Khỏi thành của CHÚA.
Lời cầu nguyện của người bị hoạn nạn khi người kiệt sức và nói lên lời than thở trước mặt CHÚA
102 Lạy CHÚA, xin nghe lời cầu nguyện của tôi;
Nguyện tiếng kêu cứu của tôi thấu đến Ngài.
2 Xin chớ lánh mặt cùng tôi
Khi tôi bị khốn khó;
Xin lắng tai nghe
Và mau mau đáp lời khi tôi cầu khẩn.
3 Vì các ngày tháng đời tôi tiêu tan như mây khói;[bd]
Xương cốt tôi đốt cháy như than lửa đỏ.
4 Lòng tôi như cỏ xanh bị giập nát
Và khô héo vì tôi quên cả ăn uống;
5 Tôi chỉ còn xương bọc da[be]
Vì than khóc nhiều.[bf]
6 Tôi giống như diều hâu trong sa mạc,
Như chim cú ở những nơi hoang tàn.
7 Tôi thao thức; tôi giống như
Chim sẻ cô đơn trên mái nhà.
8 Suốt ngày những kẻ thù nhục mạ tôi;
Những kẻ chế nhạo tôi dùng tên tôi để nguyền rủa.
9 Tôi đã ăn tro bụi thay cho bánh;
Thức uống tôi hòa lẫn với nước mắt,
10 Vì cơn phẫn nộ và giận dữ của Ngài;
Vì Ngài đưa tôi lên và ném tôi ra xa.
11 Ngày tháng đời tôi như bóng hoàng hôn kéo dài;[bg]
Tôi khô héo như cỏ.
12 Nhưng lạy CHÚA, chính Ngài vẫn ngự trên ngai mãi mãi;
Danh Ngài còn đến đời đời.[bh]
13 Ngài sẽ đứng lên và thương xót Si-ôn;
Vì đây là lúc Ngài ban ân huệ cho Si-ôn;
Vì thời điểm ấn định đã đến.
14 Vì các tôi tớ Ngài vẫn yêu quý những viên đá thành Si-ôn
Và thương xót cả đến bụi đất của nó nữa.
15 Bấy giờ các nước sẽ kính sợ danh CHÚA
Và mọi vua trên đất sẽ kính trọng vinh quang Ngài.
16 Vì CHÚA sẽ xây dựng lại thành Si-ôn;[bi]
Ngài sẽ xuất hiện trong vinh quang.
17 Đức Chúa Trời nghe lời cầu nguyện của những kẻ khốn cùng
Và không khinh thường lời nài xin của họ.
18 Hãy ghi chép điều này cho thế hệ mai sau;
Một dân sẽ được tạo nên sẽ ca ngợi CHÚA.
19 Vì từ nơi cao cả thánh khiết CHÚA nhìn xuống;
Từ trời Ngài nhìn xuống trái đất;
20 Để nghe lời than khóc của kẻ bị tù
Và giải phóng những người bị định phải chết;[bj]
21 Hầu cho danh của CHÚA được công bố ở Si-ôn
Và lời ca ngợi Ngài tại Giê-ru-sa-lem;
22 Khi các dân, các vương quốc
Họp nhau lại để phụng vụ CHÚA.
23 Ngài làm cho sức lực tôi suy yếu ngay giữa đường đời;[bk]
Ngài cắt ngắn ngày tháng đời tôi.
24 Tôi thưa:
“Lạy Đức Chúa Trời tôi, các năm Ngài tồn tại đời đời;
Xin chớ cắt ngắn các ngày của đời tôi.
25 Từ xưa, Ngài lập nên trái đất;
Tay Ngài làm ra các tầng trời.
26 Trời đất sẽ bị hủy hoại nhưng Ngài vẫn trường tồn;
Chúng nó tất cả như chiếc áo cũ sờn;
Ngài sẽ thay thế chúng như thay y phục;
Chúng sẽ bị bỏ đi.
27 Nhưng Ngài vẫn y nguyên;[bl]
Các năm của Ngài không bao giờ cùng.
28 Con cháu các tôi tớ Ngài sẽ được lưu truyền
Và dòng dõi họ sẽ được thiết lập trước mặt Ngài.”
Thơ Đa-vít
103 Hỡi linh hồn ta, hãy ca tụng CHÚA;
Hãy hết lòng ca tụng Danh Thánh Ngài.
2 Hỡi linh hồn ta, hãy ca tụng CHÚA;
Chớ quên tất cả các ân huệ Ngài.
3 Ngài tha thứ hết tội lỗi tôi,
Chữa lành mọi bệnh tật tôi.
4 Ngài cứu chuộc mạng sống tôi khỏi mồ sâu;
Lấy tình yêu thương và thương xót làm mão triều đội cho tôi.
5 Năm tháng tôi được thỏa mãn với vật ngon;
Tuổi trẻ của tôi được tăng thêm sức mới như chim đại bàng.
6 CHÚA hành động công chính
Và xét xử công bình cho mọi kẻ bị áp bức.
7 Ngài cho Môi-se biết đường lối Ngài
Và cho con dân Y-sơ-ra-ên biết các việc quyền năng Ngài.
8 CHÚA có lòng thương xót và ban ân huệ;
Ngài chậm nóng giận và nhiều tình yêu thương.
9 Ngài không quở trách chúng ta luôn luôn,
Cũng không tức giận chúng ta mãi mãi.
10 Ngài không đối xử với chúng ta theo như tội lỗi chúng ta vi phạm;
Ngài không báo trả chúng ta theo như gian ác chúng ta đã làm.
11 Vì trời cao hơn đất bao nhiêu
Thì tình yêu thương của Ngài cũng lớn bấy nhiêu
Cho những người kính sợ Ngài.
12 Phương đông xa cách phương tây thể nào
Thì Ngài cũng loại bỏ các vi phạm của chúng ta xa thể ấy.
13 Như cha thương xót con cái thể nào
Thì CHÚA cũng thương xót những người kính sợ Ngài thể ấy.
14 Vì Ngài biết chúng ta đã được tạo nên cách nào;
Ngài nhớ rằng chúng ta chỉ là bụi đất.
15 Đời người như cây cỏ;
Như hoa ngoài đồng trổ hoa;
16 Khi gió thổi qua, hoa kia biến mất;
Người ta không còn nhìn thấy nó nữa.[bm]
17 Nhưng tình yêu thương của CHÚA hằng còn đời đời
Cho những người kính sợ Ngài;
Và sự công chính của Ngài cho con cháu họ;
18 Là những người gìn giữ giao ước Ngài
Và ghi nhớ tuân hành các mạng lệnh Ngài.
19 CHÚA lập ngôi Ngài trên trời;
Quyền cai trị Ngài trên khắp mọi vật.
20 Hỡi các thiên sứ Ngài,
Là các vị quyền năng dũng mãnh làm theo đường lối Ngài
Và nghe theo tiếng phán Ngài; hãy ca tụng CHÚA.
21 Hỡi cả thiên binh Ngài, là các tôi tớ làm theo ý Ngài;
Hãy ca tụng CHÚA.
22 Hỡi cả tạo vật ở trong khắp mọi nơi trong vương quốc Ngài, hãy ca tụng CHÚA.
Hỡi linh hồn ta, hãy ca tụng CHÚA.
Ca Tụng Đấng Tạo Hóa
104 Hỡi linh hồn ta, hãy ca tụng CHÚA.
Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời tôi, Ngài thật vĩ đại thay!
Ngài trang phục bằng vinh quang và oai nghiêm.
2 Ngài choàng mình bằng chiếc áo ánh sáng;
Ngài căng các tầng trời ra như căng lều trại;
3 Ngài dựng cột xây cung điện trên các lớp nước;[bn]
Ngài lấy mây làm xe
Và bước đi trên cánh gió.
4 Ngài sai gió làm sứ giả
Và lấy ngọn lửa làm tôi tớ.
5 Ngài lập đất trên các nền,
Cho nên đời đời nó sẽ không lay chuyển.
6 Ngài dùng vực sâu bao bọc nó như chiếc áo;[bo]
Nước được dâng cao hơn các núi.
7 Ngài quở trách, chúng phải bỏ trốn;
Nghe tiếng sấm của Ngài chúng vội bỏ chạy.
8 Núi non nâng cao;
Thung lũng hạ thấp,
Nước chạy đến chỗ Ngài đã định cho chúng.[bp]
9 Ngài định giới hạn để nước không vượt qua,
Không tràn ngập trái đất nữa.
10 Ngài làm các suối phun lên nơi thung lũng,
Chảy qua giữa các đồi;
11 Chúng cung cấp nước cho tất cả thú rừng;
Những con lừa hoang cũng được giải khát.
12 Chim chóc làm tổ bên các giòng suối
Và cất tiếng hót trên những cành cây.
13 Từ cung điện trên cao Ngài tưới núi non;
Đất đai tràn ngập hoa quả nhờ công việc Ngài.
14 Ngài làm cỏ xanh mọc lên cho súc vật,
Cây cối mà loài người trồng trọt[bq]
Từ đất, nơi cung cấp thực phẩm;
15 Rượu nho làm lòng người vui vẻ;
Dầu ô-liu làm cho da mặt tươi sáng
Và thực phẩm để tâm thần người ta mạnh mẽ.
16 Cây cối của CHÚA được tưới đầy đủ;
Ấy là các cây tùng mà Ngài đã trồng tại Li-ban;
17 Trên ấy chim chóc làm tổ;
Còn cò thì lấy cây thông làm chỗ ở;
18 Các núi cao là nơi ở của dê rừng;
Những vách đá là chỗ trú ẩn của chuột đồng.
19 Ngài đã làm nên mặt trăng để phân định mùa;
Mặt trời biết giờ nó lặn.
20 Ngài tạo nên bóng tối, ấy là đêm;
Lúc ấy tất cả thú rừng đi ra.
21 Các sư tử tơ gầm thét tìm mồi;
Chúng đi kiếm mồi do Đức Chúa Trời cung cấp;
22 Khi mặt trời mọc lên,
Chúng nó rút về nằm trong hang;
23 Còn loài người đi ra làm việc,
Họ lao động cho đến chiều tối.
24 Lạy CHÚA, công việc của Ngài nhiều biết bao!
Ngài đã dùng khôn ngoan làm nên tất cả,
Trái đất đầy dẫy tạo vật của Ngài.
25 Kìa là biển cả vĩ đại bao la;
Đầy những vật ở trong đó,
Là những sinh vật nhỏ và lớn không thể đếm được;
26 Ở đó tàu thuyền đi lại;
Lê-vi-a-than[br] mà Ngài đã tạo ra cũng đùa giỡn nơi đó.
27 Tất cả đều ngưỡng trông Ngài
Để Ngài ban cho đồ ăn đúng thì.
28 Chúa ban cho chúng,
Chúng nhận lấy;
Ngài mở bàn tay ra,
Chúng được no nê vật ngon.
29 Khi Ngài lánh mặt đi,
Chúng kinh hoàng;
Khi Ngài cất sinh khí đi,
Chúng chết và trở về bụi đất.
30 Khi Ngài ban Thần của Ngài đến,[bs]
Sinh vật được tạo nên
Và Ngài làm mới lại mặt đất.
31 Nguyện vinh quang của CHÚA còn mãi mãi;
Nguyện CHÚA vui vẻ về công việc Ngài.
32 Ngài nhìn trái đất, đất run rẩy;
Ngài sờ đến núi non, núi bốc khói.
33 Trọn đời, tôi sẽ ca hát cho CHÚA;
Suốt đời, tôi sẽ ca tụng Đức Chúa Trời tôi.
34 Nguyện sự suy tư của tôi đẹp lòng Ngài
Vì tôi vui mừng trong CHÚA.
35 Nguyện kẻ tội lỗi bị diệt khỏi đất
Và kẻ gian ác không còn nữa.
Hỡi linh hồn ta, hãy ca tụng CHÚA!
Ha-lê-lu-gia![bt]
Đức Chúa Trời Và Dân Ngài
105 Hãy cảm tạ CHÚA, hãy cầu khẩn Danh Ngài;
Hãy truyền cho muôn dân biết các việc quyền năng Ngài.
2 Hãy ca hát cho Chúa, hãy ca ngợi Ngài;
Hãy công bố tất cả những việc diệu kỳ của Ngài.
3 Thật vinh hạnh[bu] ở trong danh thánh Ngài;
Nguyện lòng những người tìm kiếm CHÚA được vui vẻ.
4 Hãy tìm kiếm CHÚA và sức lực Ngài;
Hãy luôn luôn tìm kiếm sự hiện diện Ngài.[bv]
5 Hãy ghi nhớ những việc diệu kỳ Ngài đã làm;
Những phép lạ và những phán xét miệng Ngài đã phán.
6 Hỡi dòng dõi Áp-ra-ham, tôi tớ Ngài;
Hỡi con cái Gia-cốp, những người Ngài chọn.
7 Chính Ngài, CHÚA là Đức Chúa Trời chúng ta;
Các phán xét của Ngài là cho toàn trái đất.
8 Ngài nhớ giao ước Ngài mãi mãi,
Và nhớ lời Ngài đã truyền đến ngàn đời;
9 Giao ước mà Ngài đã lập với Áp-ra-ham,
Lời thề mà Ngài đã thề cùng Y-sác;
10 Ngài cũng xác nhận nó với Gia-cốp như một quy luật;
Với Y-sơ-ra-ên như một giao ước đời đời.
11 Ngài phán: Ta sẽ ban cho ngươi vùng đất Ca-na-an,
Là sản nghiệp của các ngươi.
12 Lúc ấy họ là một nhóm[bw] nhỏ,
Ít người, là kiều dân tạm trú trong xứ;
13 Đi từ nước này sang nước nọ;
Từ vương quốc này đến dân tộc khác.
14 Ngài không để ai áp bức họ;
Vì cớ họ, Ngài quở trách các vua;
15 Rằng: “Chớ đụng đến những người được ta xức dầu,
Đừng làm hại các tiên tri của ta.”
16 Ngài đem đói kém đến trong xứ;
Ngài hủy hoại nguồn lương thực[bx] của chúng.
17 Ngài sai một người đi trước họ,
Là Giô-sép bị bán làm nô lệ.
18 Chân người bị cùm đau đớn;
Cổ người phải đeo xiềng sắt,
19 Cho đến khi lời tiên đoán của người[by] được ứng nghiệm.
Lời của CHÚA chứng nghiệm người là đúng.[bz]
20 Vua sai tha Giô-sép;
Đấng cai trị các dân phóng thích người.
21 Vua đặt người cai quản cung vua,
Lập người quản trị mọi tài sản mình;
22 Để giáo huấn[ca] các quan theo ý mình
Và dạy dỗ các trưởng lão của vua khôn ngoan.
23 Bấy giờ ông Y-sơ-ra-ên xuống Ai-cập,
Tức là Gia-cốp kiều ngụ trong xứ Cham.
24 CHÚA làm cho dân Ngài tăng thêm nhiều
Và mạnh hơn kẻ thù họ.
25 Ngài làm người Ai-cập trở lòng ghét dân Ngài;
Chúng đối xử xảo trá với các tôi tớ Ngài.
26 Ngài sai Môi-se, tôi tớ Ngài
Và A-rôn, người Ngài đã chọn.
27 Họ thực hiện[cb] những dấu lạ ở giữa chúng;
Làm những phép lạ tại đất Cham.
28 Ngài sai tối tăm đến khiến xứ mù mịt;
Để chúng không chống nghịch Ngài.[cc]
29 Ngài biến nước của chúng thành máu;
Làm cho cá chết hết.
30 Đất đai chúng nó tràn ngập ếch nhái,
Đầy cả trong cung thất của vua.
31 Ngài phán, hàng loạt ruồi mòng bay đến,
Muỗi đến trên khắp bờ cõi chúng nó.
32 Thay vì mưa, Ngài giáng mưa đá xuống trên chúng,
Làm lửa cháy khắp trên đất.
33 Ngài phá hủy vườn nho lẫn cây vả;
Bẻ gãy cây cối trong bờ cõi chúng.
34 Ngài phán bảo châu chấu kéo đến,
Cào cào nhiều vô số kể;
35 Chúng ăn hết cây cỏ trên đất;
Chúng ăn sạch mùa màng nơi đồng ruộng.
36 Ngài diệt tất cả các con trưởng nam tại Ai-cập,[cd]
Là trái đầu mùa của nguồn sinh lực chúng.
37 Bấy giờ Ngài dẫn dân Ngài[ce] ra đi với đầy vàng lẫn bạc;
Không một ai trong các bộ tộc yếu đuối.
38 Ai-cập vui vẻ khi dân Ngài ra đi
Vì chúng nó kinh hoàng về họ.
39 Ngài trải mây ra để che chở;
Lửa để soi sáng ban đêm.
40 Dân Ngài[cf] cầu xin,
Ngài ban cho họ chim cút và bánh từ trời ăn no nê.
41 Ngài chẻ đá, nước phun ra,
Chảy trong sa mạc như dòng sông.
42 Vì Ngài nhớ lại lời hứa thánh
Ngài đã ban cho Áp-ra-ham, tôi tớ Ngài;
43 Nên Ngài dẫn dân Ngài ra đi với sự vui mừng,
Tức là những người Ngài đã chọn ra đi trong tiếng ca hát khải hoàn.
44 Ngài ban cho họ đất đai của các nước,
Thừa hưởng công lao của các dân.
45 Để cuối cùng họ vâng theo các quy luật
Và gìn giữ Kinh Luật Ngài.
Ha-lê-lu-gia!
Sự Nhân Từ Của Chúa Đối Với Dân Ngài
106 Ha-lê-lu-gia!
Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài là thiện;
Tình yêu thương kiên trì của Ngài còn mãi mãi.
2 Ai có thể kể lại các việc quyền năng của CHÚA?
Công bố hết những lời ca ngợi Ngài?
3 Phước cho người nào giữ sự công bình,
Luôn luôn làm điều công chính.
4 Lạy CHÚA, Xin nhớ đến tôi khi Ngài ban ơn cho dân Ngài;
Xin thăm viếng tôi khi Ngài giải cứu họ;
5 Để tôi thấy sự tốt lành giữa những người được Ngài chọn;
Để chia sẻ niềm vui của đất nước Ngài
Và cùng ca ngợi với cơ nghiệp Ngài.
6 Chúng tôi cùng tổ tiên chúng tôi đã phạm tội;
Chúng tôi đã làm điều sai; đã hành động gian ác.
7 Tại Ai-cập tổ tiên chúng tôi
Đã không nhận thấy các phép lạ của Ngài;
Không nhớ đến tình yêu thương dồi dào của Ngài,
Nhưng họ đã nổi loạn bên bờ biển,[cg] tức là biển Đỏ.[ch]
8 Nhưng Ngài đã vì danh Ngài giải cứu họ
Để bày tỏ quyền năng Ngài.
9 Ngài quở trách Biển Đỏ và nó khô cạn;
Ngài dẫn họ đi qua biển sâu như đi trên sa mạc.
10 Ngài giải cứu họ khỏi tay kẻ thù
Và cứu chuộc họ khỏi tay thù nghịch.
11 Nước tràn ngập các kẻ thù của họ,
Không một người thoát khỏi.
12 Bấy giờ họ tin lời Chúa
Và hát ca ngợi Ngài.
13 Nhưng họ vội quên những việc làm của Chúa;
Không chờ đợi kế hoạch của Ngài.
14 Tại sa mạc họ sinh lòng thèm khát
Và thử Đức Chúa Trời nơi đồng hoang.
15 Ngài ban cho họ điều họ cầu xin
Nhưng sai bệnh tật tổn hại đến với đời sống họ.[ci]
16 Tại nơi đóng trại họ ghen ghét Môi-se
Và A-rôn, là người được biệt riêng ra cho CHÚA.
17 Đất nứt ra nuốt Đa-than
Và lấp nhóm A-bi-ram.
18 Lửa bùng cháy giữa nhóm họ;
Ngọn lửa thiêu đốt những kẻ ác.
19 Họ làm một con bò con tại Hô-rếp
Rồi thờ lạy tượng đúc.
20 Họ thay thế Đấng Vinh Quang của họ[cj]
Bằng tượng một con bò ăn cỏ.
21 Họ quên Đức Chúa Trời là Đấng cứu rỗi họ;
Là Đấng đã làm những việc vĩ đại tại Ai-cập;
22 Đấng đã làm những phép lạ tại đất Cham;
Những việc kinh hoàng tại Biển Đỏ.
23 Nên Ngài phán rằng Ngài sẽ hủy diệt họ,
Nếu không nhờ Môi-se, người Ngài chọn,
Đứng lên trước mặt Chúa can gián[ck]
Để Ngài từ bỏ cơn thịnh nộ hủy diệt họ.
24 Thế rồi họ khinh bỉ miền đất ước mơ;
Họ không tin lời hứa của Ngài.
25 Họ cằn nhằn trong trại mình,
Không nghe theo lời của CHÚA.
26 Nên Chúa đưa tay thề rằng
Ngài sẽ làm chúng ngã chết trong sa mạc;
27 Làm dòng dõi chúng chạy tán loạn[cl] giữa các nước;
Bị tản mác trong các xứ.
28 Tổ tiên chúng tôi đã thờ thần Ba-anh tại Phê-ô,
Ăn đồ cúng tế cho kẻ chết.[cm]
29 Những hành động của họ làm CHÚA giận
Nên một cơn dịch đã phát ra ở giữa họ.
30 Bấy giờ Phi-nê-a đứng lên can thiệp[cn]
Và cơn dịch ngừng lại.
31 Từ đời nọ đến đời kia,
Việc này được kể là hành động công chính mãi mãi của người.
32 Tổ tiên chúng tôi làm CHÚA giận vì vụ nước uống tại Mê-ri-ba;
Vì cớ họ Môi-se cũng mang lụy vào thân.
33 Vì họ làm tinh thần người cay đắng[co]
Nên môi miệng người nói những lời thiếu suy nghĩ.
34 Họ không hủy diệt các dân
Như CHÚA đã ra lệnh;
35 Nhưng thông gia với các nước
Và học làm theo những điều chúng làm.
36 Họ phụng vụ các tượng thần của chúng
Và điều này trở thành cái bẫy hủy hoại họ.
37 Họ dâng con trai,
Con gái họ làm sinh tế cho ma quỷ.
38 Họ đã làm đổ máu vô tội,
Là máu của những con trai, con gái mình
Mà họ đã dâng tế cho các thần tượng tại Ca-na-an;
Nên đất đã bị ô uế vì máu đó.
39 Vì thế họ đã trở thành ô uế vì công việc mình
Và thành đĩ điếm vì hành động mình.
40 CHÚA nổi giận cùng dân mình;
Ngài ghét bỏ cơ nghiệp Ngài.
41 Ngài trao họ vào tay các nước
Và cho những kẻ ghét chúng cai trị trên chúng.
42 Những kẻ thù áp bức họ
Và họ bị khuất phục dưới tay chúng.
43 Nhiều lần Ngài đã giải cứu họ
Nhưng họ vẫn cố ý phản loạn
Và càng chìm sâu[cp] trong tội lỗi mình.
44 Dù vậy khi nghe tiếng kêu van,
Ngài chú tâm đến sự khốn khổ của họ.
45 Vì cớ họ Ngài nhớ lại giao ước mình;
Vì tình yêu thương dồi dào, Ngài thương xót họ.[cq]
46 Ngài làm cho họ được ơn trước mặt
Tất cả những kẻ bắt họ đi lưu đày.
47 Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi, xin giải cứu chúng tôi;
Xin tập trung chúng tôi lại từ các nước,
Để chúng tôi cảm tạ danh thánh Ngài
Và được vinh hạnh trong lời ca ngợi Ngài.
48 CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên
Đáng được ca ngợi đến đời đời, vô cùng.
Tất cả toàn dân hãy nói: A-men!
Ha-lê-lu-gia!
Lời Ca Ngợi Và Cảm Tạ Các Ơn Lành Của Chúa
107 Hãy cảm tạ CHÚA vì Ngài là thiện;
Vì tình yêu thương bền vững của Ngài còn mãi mãi.
2 Nguyện những người được cứu chuộc của CHÚA,
Những người được cứu chuộc khỏi tay kẻ thù, hãy nói như vậy;
3 Những người được tập trung từ các xứ,
Từ phương đông, phương tây, phương bắc, phương nam.[cr]
4 Những người lưu lạc trong sa mạc, nơi đồng hoang;
Họ không tìm thấy đường vào thành cư trú.
5 Họ bị đói khát,
Tinh thần tuyệt vọng.[cs]
6 Trong cơn gian truân họ cầu khẩn CHÚA
Và Ngài giải cứu họ khỏi cảnh khốn cùng.
7 Ngài dẫn họ bằng một con đường thẳng,
Họ đến được thành cư trú.
8 Nguyện họ cảm tạ CHÚA vì tình yêu thương bền vững của Ngài,
Vì các việc diệu kỳ Ngài đã làm cho con cái loài người;
9 Vì Ngài cho người đói khát được đã khát
Và no thỏa với những vật ngon.[ct]
10 Những kẻ ở trong tối tăm và trong bóng sự chết;
Những tù nhân trong đau khổ và xiềng xích;
11 Vì họ đã chống lại các lời của Đức Chúa Trời
Và khinh bỉ sự cố vấn của Đấng Chí Cao.
12 Ngài làm cho lòng họ tan nát vì lao khổ nhọc nhằn;
Họ ngã quỵ nhưng không ai cứu giúp.
13 Trong cơn gian truân họ cầu khẩn CHÚA
Và Ngài giải cứu họ khỏi cảnh khốn cùng.
14 Ngài đem họ ra khỏi tối tăm và bóng sự chết,
Đập tan xiềng xích cho họ.
15 Nguyện họ cảm tạ CHÚA vì tình yêu thương kiên trì của Ngài,
Vì các việc diệu kỳ Ngài đã làm cho con cái loài người;
16 Vì Ngài đã đập tan cửa đồng
Và chặt đôi các song sắt.
17 Một số người ngu dại bị đau khổ
Vì theo đường tội lỗi và gian ác.
18 Linh hồn họ ghê tởm mọi thức ăn,
Nên họ đi đến gần cổng sự chết;
19 Trong cơn gian truân họ cầu khẩn CHÚA
Và Ngài giải cứu họ khỏi cảnh khốn cùng.
20 Ngài ban lời[cu] của Ngài đến và chữa lành cho họ;
Ngài giải cứu họ khỏi huyệt sâu.
21 Nguyện họ cảm tạ CHÚA vì tình yêu thương kiên trì của Ngài,
Vì các việc diệu kỳ Ngài đã làm cho con cái loài người.
22 Nguyện họ dâng tế lễ tạ ơn
Và công bố những công việc của Ngài qua những bài ca vui vẻ.
23 Có người đi trên biển bằng tàu;
Họ làm việc trên biển cả.
24 Họ thấy công việc của CHÚA,
Những việc diệu kỳ nơi vực sâu.
25 Ngài phán, bão tố nổi lên,
Sóng biển dâng cao.
26 Họ bị đưa lên tận trời cao rồi kéo xuống vực thẳm;
Tâm hồn tan vỡ[cv] vì khốn khổ.
27 Họ lảo đảo, ngả nghiêng như người say rượu;
Mọi sự khôn ngoan của họ đều tan biến mất.
28 Trong cơn gian truân họ cầu khẩn CHÚA
Và Ngài giải cứu họ khỏi cảnh khốn cùng.
29 Ngài làm cho bảo tố yên
Và sóng gió lặng.
30 Họ vui mừng vì biển yên lặng;
Ngài đưa họ đến bến họ mơ ước.
31 Nguyện họ cảm tạ CHÚA vì tình yêu thương kiên trì của Ngài,
Vì các việc diệu kỳ Ngài đã làm cho con cái loài người.
32 Nguyện họ tán dương Ngài giữa hội dân
Và ca tụng Ngài trong hội đồng trưởng lão.
33 Ngài biến các sông thành sa mạc;
Ngài đổi các suối nước thành đất khô;
34 Đất đai màu mỡ thành vùng ngập mặn vô dụng,
Vì sự gian ác của dân cư tại đó.
35 Ngài biến sa mạc thành những hồ ao,
Đất khô thành các suối nước;
36 Ngài cho những người đói khát định cư tại đó
Cho họ thiết lập thành phố để cư trú.
37 Họ gieo hạt nơi đồng ruộng,
Trồng các vườn nho và vụ mùa tươi tốt.
38 Ngài ban phước cho, họ sinh sản thêm nhiều;
Súc vật của họ cũng không bị giảm sút.
39 Khi họ bị giảm sút, bị chà đạp
Vì áp bức, hoạn nạn và đau khổ;
40 Ngài đổ sự khinh bỉ trên những người quyền quý của họ,
Khiến chúng lưu lạc trong sa mạc không phương hướng.
41 Nhưng Ngài nâng đỡ kẻ khốn khó ra khỏi cảnh gian truân
Và làm cho gia đình họ đông đúc như đàn chiên.
42 Những người ngay thẳng thấy và vui mừng;
Còn mọi kẻ ác phải câm miệng.
43 Ai là người khôn ngoan, hãy chú tâm đến những điều này
Và suy gẫm đến tình yêu thương vững bền của CHÚA.
Lời Cầu Nguyện Xin Chúa Giúp Đỡ
108 Lạy Đức Chúa Trời, lòng tôi kiên định.
Tôi sẽ hát, phải, linh hồn tôi[cw] sẽ ca ngợi Ngài.
2 Hỡi đàn hạc và đàn lia, hãy tỉnh thức;
Ta sẽ đánh thức hừng đông dậy.
3 Lạy CHÚA, Tôi sẽ cảm tạ Ngài trong các dân;
Tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa các nước.
4 Vì tình yêu thương của Ngài lớn hơn các tầng trời;
Sự thành tín của Ngài cao đến tận các tầng mây.
5 Lạy Đức Chúa Trời, nguyện Ngài được tôn cao hơn các tầng trời,
Nguyện vinh quang Ngài tỏa khắp trái đất.
6 Để những người yêu dấu của Ngài được giải cứu;
Nguyện Ngài dùng tay phải Ngài cứu rỗi chúng tôi và đáp lời chúng tôi.
7 Từ Nơi Thánh của Ngài Đức Chúa Trời phán:
Ta sẽ hân hoan chia cắt Si-chem
Và phân phối thung lũng Su-cốt.
8 Ga-la-át thuộc về ta, Ma-na-se cũng thuộc về ta;
Ép-ra-im là mũ miện bảo vệ đầu ta[cx]
Giu-đa là gậy uy quyền của ta.
9 Mô-áp là bồn tắm rửa của ta,
Ta sẽ cởi dép ra trên Ê-đôm;[cy]
Ta sẽ reo hò chiến thắng trên Phi-li-tin.[cz]
10 Ai sẽ đưa tôi vào thành kiên cố?
Ai sẽ dẫn tôi đến Ê-đôm?
11 Lạy Đức Chúa Trời, không lẽ Ngài là Đấng đã từ bỏ chúng tôi sao?
Hỡi Đức Chúa Trời, sao Ngài không còn xông pha chiến trận cùng quân đội chúng tôi nữa?
12 Xin Chúa giúp chúng tôi chống lại kẻ thù;
Vì sự cứu giúp của người phàm là vô vọng.
13 Nhờ Đức Chúa Trời chúng tôi sẽ chiến thắng[da]
Vì Ngài sẽ chà đạp các kẻ thù chúng tôi.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)