Bible in 90 Days
Của Lễ Thiêu
1 Bấy giờ Chúa gọi Môi-se đến; từ trong Lều Hội Kiến Ngài phán với ông: 2 “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên và bảo họ rằng: Khi ai trong các ngươi muốn dâng lên Chúa một của lễ bằng súc vật, người ấy phải bắt một con thú từ bầy súc vật của mình, bầy bò hay bầy chiên, mà đem đến dâng.
3 Nếu lễ vật là một con bò được dâng làm của lễ thiêu thì nó phải là một con bò đực không tì vết. Người ấy sẽ tự nguyện đem con vật hiến tế đến trước cửa Lều Hội Kiến mà dâng trước mặt Chúa để được Ngài đoái nhận. 4 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật hiến tế làm của lễ thiêu, và nó sẽ được chấp nhận để chuộc tội thay cho người ấy. 5 Người ấy sẽ giết con bò trước mặt Chúa; rồi các tư tế, tức các con trai của A-rôn, sẽ lấy huyết nó và rảy xung quanh bàn thờ ở trước cửa Lều Hội Kiến. 6 Người ấy sẽ lột da con vật hiến tế làm của lễ thiêu, rồi sả thịt nó ra từng mảnh. 7 Các con trai của Tư Tế A-rôn sẽ để lửa trên bàn thờ, rồi chất củi lên trên ngọn lửa ấy. 8 Các tư tế, tức các con trai của A-rôn, sẽ sắp các mảnh thịt, đầu, và mỡ của con thú trên đống củi ở trên ngọn lửa trên bàn thờ; 9 còn bộ lòng và các chân, người ấy sẽ lấy nước rửa cho sạch. Ðoạn tư tế sẽ thiêu tất cả những món ấy trên bàn thờ để làm một của lễ toàn thiêu, một lễ vật dùng lửa dâng, có mùi thơm bay lên Chúa.
10 Nếu lễ vật được dâng làm của lễ thiêu là một con thú trong bầy súc vật nhỏ, bầy chiên hay bầy dê, thì phải là một con đực không tì vết. 11 Người ấy sẽ giết con thú ở phía bắc bàn thờ, trước mặt Chúa, rồi các tư tế, tức các con trai của A-rôn, sẽ rảy huyết nó chung quanh bàn thờ. 12 Người ấy sẽ sả nó ra từng mảnh; sau đó tư tế sẽ sắp các mảnh ấy, với đầu và mỡ nó, trên đống củi đang cháy ở trên bàn thờ; 13 nhưng bộ lòng và các chân thì người ấy phải lấy nước rửa cho sạch; rồi tư tế sẽ thiêu rụi tất cả các món ấy trên bàn thờ. Ðó là một của lễ toàn thiêu, một lễ vật dùng lửa dâng, có mùi thơm bay lên Chúa.
14 Nếu con vật hiến tế làm của lễ thiêu dâng lên Chúa là chim, thì người ấy phải đem các chim gáy hay các bồ câu con. 15 Tư tế sẽ mang nó đến bàn thờ, vặn đứt đầu nó, rồi thiêu nó trên bàn thờ; huyết nó sẽ để chảy ra ở cạnh bàn thờ. 16 Tư tế sẽ lấy cái diều và nhổ lông nó, rồi ném những thứ ấy vào chỗ đổ tro, bên cạnh bàn thờ, về phía đông. 17 Tư tế sẽ xé nó ra, ngay chỗ giữa hai cánh, nhưng không để nó đứt rời ra; rồi tư tế sẽ thiêu nó trên bàn thờ, trên củi, trên ngọn lửa. Ðó là một của lễ toàn thiêu, một lễ vật dùng lửa dâng, có mùi thơm bay lên Chúa.
Của Lễ Chay
2 Khi ai muốn dâng một của lễ chay lên Chúa, người ấy phải lấy bột thượng hạng mà dâng. Người ấy sẽ đổ dầu vào bột và bỏ nhũ hương vào. 2 Người ấy sẽ mang bột đó đến các con trai của A-rôn, tức các tư tế. Một trong các tư tế sẽ bốc một nắm bột tượng trưng, tức nắm bột có dầu và nhũ hương ấy, và đem thiêu nó trên bàn thờ, làm một lễ vật dùng lửa dâng, có mùi thơm bay lên Chúa. 3 Phần của lễ chay còn lại sẽ thuộc về A-rôn và các con trai ông. Ðó là phần cực thánh trong các lễ vật dùng lửa dâng lên Chúa.
4 Nếu ngươi muốn dâng một của lễ chay bằng bánh nướng trong lò, bánh ấy phải làm bằng bột thượng hạng không men trộn dầu, hoặc bánh tráng không men có phết dầu.
5 Nếu lễ vật dâng làm của lễ chay là bánh nướng trên vỉ, bánh ấy phải làm bằng bột thượng hạng không men trộn dầu. 6 Ngươi sẽ bẻ bánh ấy ra thành những mảnh nhỏ, rồi đổ dầu lên; đó là của lễ chay.
7 Nếu lễ vật dâng làm của lễ chay là bánh hấp trong nồi, bánh ấy phải làm bằng bột thượng hạng trộn dầu.
8 Ngươi hãy đem của lễ chay làm bằng những cách như thế dâng lên Chúa. Khi của lễ được trình cho tư tế, tư tế sẽ mang nó đến bàn thờ. 9 Tư tế sẽ lấy một phần tượng trưng từ của lễ chay, rồi thiêu nó trên bàn thờ. Ðó là một lễ vật dùng lửa dâng, có mùi thơm bay lên Chúa. 10 Những phần của lễ chay còn lại sẽ thuộc về A-rôn và các con trai ông. Ðó là phần cực thánh trong các lễ vật dùng lửa dâng lên Chúa.
11 Không một của lễ chay nào mang đến dâng lên Chúa mà có men, vì ngươi sẽ không được thiêu men hay mật trong bất cứ của lễ nào dùng lửa dâng lên Chúa.
12 Ngươi có thể dâng lên Chúa các sản vật đầu mùa làm một của lễ, nhưng các lễ vật ấy sẽ không được thiêu trên bàn thờ để thành mùi thơm.
13 Ngươi phải bỏ muối vào tất cả của lễ chay ngươi dâng. Ngươi không được thiếu muối giao ước của Ðức Chúa Trời trong của lễ chay. Tất cả của lễ ngươi mang đến dâng, ngươi phải dâng chung với muối.
14 Nếu ngươi muốn dâng một của lễ chay lên Chúa bằng sản vật đầu mùa của mình, ngươi phải lấy những gié lúa mới, xay cho trốc trấu ra, rồi đem gạo ấy đến rang trên lửa. 15 Ngươi hãy đổ dầu vào và bỏ nhũ hương vào; đó là của lễ chay. 16 Tư tế sẽ lấy một phần tượng trưng đem thiêu, đó là phần gạo có dầu và nhũ hương, để làm lễ vật dùng lửa dâng lên Chúa.
Của Lễ Cầu An
3 Khi ai muốn dâng một con vật hiến tế làm của lễ cầu an, nếu con vật hiến tế ấy bắt ra từ đàn bò, thì bò đực hay bò cái ấy phải là con vật không tì vết trước mặt Chúa. 2 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật hiến tế, rồi giết nó trước cửa Lều Hội Kiến. Các con trai của A-rôn, tức các tư tế, sẽ rảy huyết nó chung quanh bàn thờ. 3 Kế đến người ấy sẽ lấy một phần của con vật hiến tế làm của lễ cầu an, rồi dùng lửa dâng lên Chúa; đó là lớp mỡ bọc bộ lòng và tất cả mỡ dính trên bộ lòng, 4 hai trái cật và lớp mỡ lưng bọc chúng, cùng lớp mỡ phía trên lá gan, mà người ấy sẽ gỡ ra với hai trái cật. 5 Sau đó các con trai của A-rôn sẽ thiêu chúng trên bàn thờ, cùng với của lễ thiêu đã chất trên củi đang cháy, để làm lễ vật dùng lửa dâng, có mùi thơm bay lên Chúa.
6 Nếu con vật hiến tế người ấy dùng làm của lễ cầu an để dâng lên Chúa là một con trong bầy chiên dê, thì con chiên hoặc con dê đó, dù đực hay cái, phải là một con không tì vết. 7 Nếu người ấy muốn dâng một con chiên con làm của lễ, người ấy cũng có thể dâng nó trước mặt Chúa.
8 Người ấy sẽ đặt tay mình trên đầu con vật hiến tế, giết nó trước cửa Lều Hội Kiến, rồi các con trai của A-rôn sẽ rảy huyết nó chung quanh bàn thờ. 9 Kế đó người ấy sẽ lấy một phần của con vật hiến tế dùng làm của lễ cầu an mà làm lễ vật dùng lửa dâng lên Chúa; đó là mỡ của nó, nguyên cái đuôi chặt ở cuối xương sống, mỡ bọc bộ lòng và tất cả mỡ dính trên bộ lòng, 10 hai trái cật và lớp mỡ lưng bọc chúng, cùng lớp mỡ phía trên lá gan mà người ấy sẽ gỡ ra với hai trái cật. 11 Tư tế sẽ thiêu chúng trên bàn thờ như một thức ăn làm lễ vật dùng lửa dâng lên Chúa.
12 Nếu của lễ của người ấy là một con dê, người ấy cũng có thể dâng nó lên trước mặt Chúa. 13 Người ấy sẽ đặt tay mình trên đầu con vật hiến tế, giết nó trước cửa Lều Hội Kiến; rồi các con trai của A-rôn sẽ rảy huyết nó chung quanh bàn thờ. 14 Kế đến người ấy sẽ dùng lửa dâng một phần con vật hiến tế lên Chúa; đó là lớp mỡ bọc bộ lòng và tất cả mỡ dính trên bộ lòng, 15 hai trái cật và lớp mỡ lưng bọc chúng, cùng lớp mỡ phía trên lá gan mà người ấy sẽ gỡ ra với hai trái cật. 16 Sau đó tư tế sẽ thiêu chúng trên bàn thờ như một thức ăn để làm lễ vật dùng lửa dâng lên có mùi thơm. Tất cả mỡ sẽ thuộc về Chúa.
17 Ðây là một quy luật đời đời cho các ngươi, trải qua mọi thế hệ, ở bất cứ nơi nào các ngươi sinh sống: các ngươi sẽ không được ăn mỡ hay ăn huyết.”
Của Lễ Chuộc Tội
4 Bấy giờ Chúa phán với Môi-se: 2 “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên rằng: Nếu một người không cố ý vi phạm bất cứ điều răn nào Chúa đã truyền không được vi phạm, nhưng người ấy đã lỡ vi phạm rồi thì:
Chuộc Tội cho Tư Tế
3 Nếu kẻ phạm tội là một tư tế đã được xức dầu phong chức, khiến cho dân cũng bị hậu quả lây, thì tư tế ấy phải vì tội mình đã phạm mà dâng lên Chúa một con bò tơ không tì vết để làm của lễ chuộc tội. 4 Ông sẽ đem con bò đó đến trước mặt Chúa, ở trước cửa Lều Hội Kiến, đặt tay mình trên đầu con bò, rồi giết con bò trước mặt Chúa. 5 Kế đến tư tế đã được xức dầu phong chức đó hãy lấy một ít huyết con bò, mang nó vào Lều Hội Kiến. 6 Tư tế ấy sẽ nhúng ngón tay mình vào trong huyết và rảy huyết bảy lần trước mặt Chúa, phía trước bức màn của Nơi Thánh. 7 Tư tế ấy sẽ bôi một ít huyết ấy trên các sừng bàn thờ dâng hương trước mặt Chúa trong Lều Hội Kiến. Phần huyết còn lại của con bò ông sẽ đem đổ nơi chân bàn thờ dâng của lễ thiêu, ở phía trước cửa Lều Hội Kiến. 8 Ông sẽ lấy tất cả mỡ của con bò để làm của lễ chuộc tội. Ðó là mỡ bọc bộ lòng và tất cả mỡ dính trên bộ lòng, 9 hai trái cật và lớp mỡ lưng bọc chúng, cùng lớp mỡ phía trên lá gan mà ông sẽ gỡ ra với hai trái cật, 10 giống như lớp mỡ đã được lấy ra từ con bò làm con vật hiến tế cho của lễ cầu an; rồi tư tế sẽ thiêu chúng trên bàn thờ dâng của lễ thiêu. 11 Nhưng da con bò, tất cả thịt của nó, đầu, các chân, bộ lòng, và phân nó, 12 nói chung là tất cả phần còn lại của con bò sẽ được mang ra ngoài doanh trại, đến một nơi sạch sẽ, nơi được dùng để đổ tro, rồi chất chúng trên củi đang cháy mà thiêu rụi chúng, tức con bò ấy sẽ được hỏa thiêu tại chỗ đổ tro.
Chuộc Tội cho Toàn Dân
13 Nếu toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên vô tình phạm tội, nhưng vì hội chúng không nhận thấy mà đã lỡ phạm bất cứ điều nào trong các điều răn Chúa cấm không được làm, khiến chúng mang tội; 14 một khi chúng nhận biết mình đã phạm tội, thì vì tội mình, hội chúng sẽ dâng một con bò tơ làm của lễ chuộc tội, và đem nó đến trước Lều Hội Kiến. 15 Các trưởng lão của hội chúng sẽ đặt tay trên đầu con bò trước mặt Chúa; rồi con bò sẽ bị giết trước mặt Chúa. 16 Tư tế được xức dầu phong chức sẽ lấy một ít huyết bò đem vào Lều Hội Kiến. 17 Tư tế sẽ nhúng ngón tay mình vào trong huyết và rảy huyết bảy lần trước mặt Chúa, phía trước bức màn. 18 Ông sẽ bôi một ít huyết trên các sừng bàn thờ trước mặt Chúa, tức trong Lều Hội Kiến. Phần huyết còn lại của con bò ông sẽ đem đổ nơi chân bàn thờ dâng của lễ thiêu ở phía trước cửa Lều Hội Kiến. 19 Ông sẽ lấy tất cả mỡ con bò, rồi đem thiêu chúng trên bàn thờ. 20 Ông sẽ dâng con bò ấy như cách dâng con bò làm của lễ chuộc tội. Ðó là cách ông sẽ làm cho con vật hiến tế ấy. Như thế tư tế sẽ chuộc tội cho chúng, và chúng sẽ được tha tội.
21 Sau đó ông sẽ mang con bò ra ngoài doanh trại, thiêu rụi nó như cách đã thiêu con bò trước. Ðó là của lễ chuộc tội cho hội chúng.
Chuộc Tội cho Người Lãnh Ðạo
22 Khi một người lãnh đạo phạm tội, dù vô tình, nhưng đã vi phạm điều răn của Chúa, Ðức Chúa Trời của mình, làm điều không được phép làm, và mắc tội, 23 khi có ai giúp người ấy nhận biết tội lỗi mình, người ấy phải mang một con dê đực không tì vết đến làm của lễ. 24 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con dê, rồi giết con dê ấy nơi người ta giết con vật hiến tế làm của lễ thiêu, trước mặt Chúa. Ðó là của lễ chuộc tội. 25 Tư tế sẽ lấy một ít huyết của con vật hiến tế chuộc tội ấy, dùng ngón tay bôi vào các sừng bàn thờ dâng của lễ thiêu, rồi đổ huyết còn lại nơi chân bàn thờ dâng của lễ thiêu. 26 Ông sẽ thiêu tất cả mỡ nó trên bàn thờ, giống như thiêu mỡ của con vật hiến tế cầu an. Như thế tư tế sẽ chuộc tội cho người ấy vì tội của người ấy, và người ấy sẽ được tha tội.
Chuộc Tội cho Thường Dân
27 Nếu một người dân nào phạm tội, dù vô tình, nhưng đã vi phạm điều răn của Chúa, làm điều cấm làm, và mắc tội, 28 khi có ai giúp người ấy nhận biết tội lỗi mình, thì vì cớ tội lỗi mình đã phạm, người ấy sẽ mang một con dê cái không tì vết đến làm của lễ. 29 Người ấy sẽ đặt tay mình trên đầu con vật hiến tế chuộc tội, rồi giết con vật hiến tế chuộc tội ấy nơi dâng của lễ thiêu. 30 Tư tế sẽ lấy một ít huyết của con vật hiến tế ấy, dùng ngón tay bôi trên các sừng bàn thờ dâng của lễ thiêu, rồi đổ huyết còn lại nơi chân bàn thờ. 31 Ông sẽ gỡ tất cả mỡ của nó ra, giống như đã lấy lớp mỡ của con vật hiến tế cầu an; rồi tư tế sẽ thiêu các mỡ ấy trên bàn thờ thành một mùi thơm dâng lên Chúa. Như thế tư tế sẽ chuộc tội cho người ấy, và người ấy sẽ được tha tội.
32 Nếu người ấy đem một con chiên đến làm của lễ thì phải là một con chiên cái không tì vết. 33 Người ấy sẽ đặt tay mình trên đầu con vật hiến tế chuộc tội, rồi giết con vật hiến tế chuộc tội ấy nơi người ta giết con vật hiến tế làm của lễ thiêu. 34 Tư tế sẽ lấy một ít huyết của con vật hiến tế ấy, dùng ngón tay bôi trên các sừng bàn thờ dâng của lễ thiêu, rồi đổ huyết còn lại nơi chân bàn thờ. 35 Ông sẽ lấy tất cả mỡ của nó, giống như đã lấy mỡ của con chiên dâng làm của lễ cầu an; rồi tư tế sẽ thiêu các mỡ ấy trên bàn thờ, giống như cách dùng lửa dâng các của lễ lên Chúa. Như thế tư tế sẽ chuộc tội cho người ấy vì những tội người ấy đã phạm, và người ấy sẽ được tha tội.
Các Của Lễ Chuộc Tội Khác
5 Khi có người nào phạm tội vì sau khi tuyên thệ sẽ làm chứng sự thật, tức nói ra những gì người ấy đã thấy và biết, nhưng lại không nói, người ấy phải chuốc lấy hậu quả của tội lỗi mình.
2 Hoặc khi có người nào đụng đến vật gì ô uế, bất kể đó là xác một dã thú thuộc loài không sạch, hoặc xác một gia súc thuộc loài không sạch, hoặc xác một con vật bò sát thuộc loài không sạch, nếu người ấy đã sơ ý đụng đến, người ấy đã bị ô uế và mắc tội.
3 Hoặc khi người ấy đụng đến vật gì ô uế nơi người ta, bất cứ vật gì khiến người ta trở nên ô uế mà người ấy sơ ý đụng đến, một khi người ấy nhận biết điều đó, người ấy mắc tội.
4 Hoặc khi một người đã thề sẽ làm điều gì bất kỳ xấu hay tốt, người ấy đã vọt miệng thề mà không đắn đo suy nghĩ và không biết hậu quả nghiêm trọng của lời thề đó sẽ thế nào, đến khi nhận thức được điều đó, người ấy mắc tội về lời thề hấp tấp của mình.
5 Khi ai mắc tội về một trong các điều trên, người ấy phải xưng nhận tội mình đã phạm, 6 rồi vì tội mình đã phạm, người ấy sẽ đem một của lễ đến dâng lên Chúa, một con chiên cái hay một con dê cái trong bầy, để làm của lễ chuộc tội cho mình. Tư tế sẽ làm lễ chuộc tội cho người ấy, để người ấy sẽ được tha tội.
7 Nếu người ấy không thể đem một con chiên hay dê, thì vì tội mình đã phạm, người ấy sẽ đem đến Chúa một cặp chim gáy, hoặc một đôi bồ câu con, một con dùng làm của lễ chuộc tội và một con dùng làm của lễ thiêu. 8 Người ấy sẽ đem chúng đến cho tư tế; tư tế sẽ dâng con vật làm lễ chuộc tội trước; ông sẽ vặn cổ nó nhưng không để cho đứt hẳn ra. 9 Ông sẽ rảy một ít huyết của con vật hiến tế chuộc tội nơi thành bàn thờ, phần huyết còn lại ông sẽ cho nó chảy ra nơi chân bàn thờ. Ðó là của lễ chuộc tội. 10 Còn con thứ hai, ông sẽ dâng nó làm của lễ thiêu, theo như cách thức dâng của lễ đó. Như thế tư tế sẽ chuộc tội cho người ấy về tội người ấy đã phạm, và người ấy sẽ được tha tội.
11 Nhưng nếu người ấy không thể đem đến một đôi chim gáy hoặc một đôi bồ câu con, người phạm tội ấy sẽ đem một của lễ bằng hai lít[a] bột thượng hạng để làm của lễ chuộc tội. Người ấy không được đổ dầu vào hay bỏ nhũ hương vào bột đó, vì đó là một của lễ chuộc tội. 12 Người ấy sẽ mang bột đó đến với tư tế, tư tế sẽ hốt một nắm tượng trưng, rồi thiêu nắm bột đó trên bàn thờ, theo cách dâng các lễ vật dùng lửa dâng lên Chúa. Ðó là một của lễ chuộc tội. 13 Như thế tư tế sẽ chuộc tội cho người ấy vì tội người ấy đã phạm, bất cứ tội gì trong các tội trên, và người ấy sẽ được tha tội. Phần bột còn lại sẽ thuộc về tư tế, giống như của lễ chay.”
Của Lễ Chuộc Lỗi
14 Chúa phán với Môi-se rằng, 15 “Khi một người nào sống bất cẩn, vô tình phạm bất kỳ điều thánh nào của Chúa, thì vì sự vi phạm mình, người ấy sẽ đem đến một con chiên đực không tì vết từ trong bầy, trị giá bằng số bạc quy định lúc bấy giờ, tính theo cân lượng của nơi thánh, để làm của lễ chuộc lỗi. 16 Người ấy sẽ bồi thường những gì người ấy đã làm thiệt hại cho điều thánh, cộng thêm một phần năm trị giá, và nộp cho tư tế. Tư tế sẽ dùng con chiên đực đó làm lễ chuộc lỗi cho người ấy, và người ấy sẽ được tha lỗi.
17 Nếu một người phạm tội, tức vi phạm bất cứ điều gì mà điều răn của Chúa cấm, dù vô tình đi nữa, người ấy vẫn mắc tội và phải mang tội của mình. 18 Người ấy sẽ đem đến tư tế một con chiên đực không tì vết từ trong bầy, trị giá như đã quy định, để làm của lễ chuộc lỗi. Tư tế sẽ chuộc lỗi cho người ấy, về lỗi bất cẩn mà người ấy đã phạm nhưng không biết, và người ấy sẽ được tha lỗi. 19 Ðó là của lễ chuộc lỗi, vì người ấy quả đã phạm lỗi với Chúa.”
6 Chúa phán với Môi-se rằng, 2 “Nếu một người phạm tội và có lỗi với Chúa, như nhận vật gì của người khác đặt cọc hoặc ký thác rồi thề rằng không hề nhận vật đó, hoặc lấy trộm rồi bảo là không lấy, hoặc lừa gạt người khác để thủ lợi, 3 hoặc lượm của người khác bị mất rồi nói dối rằng không lượm, và bất kỳ những gì người ấy thề dối mà được, hễ ai làm bất cứ điều nào trong các điều đó, người ấy đã phạm tội. 4 Khi người ấy đã phạm tội và bị xác định là có lỗi, người ấy phải trả lại vật gì người ấy đã lấy, hoặc vật gì người ấy đã lừa gạt mà được, hoặc vật gì người ta ký thác mà người ấy đã nhận, hoặc vật gì người ta bị mất mà người ấy đã lượm, 5 hoặc những gì người ấy đã thề dối mà có. Người ấy phải trả lại đầy đủ, cộng thêm một phần năm, rồi đưa cho sở hữu chủ trong ngày người ấy dâng của lễ chuộc lỗi.
6 Người ấy phải mang của lễ chuộc lỗi đến với Chúa, đó là một con chiên đực không tì vết bắt từ trong bầy, theo trị giá đã quy định, để làm của lễ chuộc lỗi, và trao nó cho tư tế. 7 Như thế tư tế sẽ chuộc lỗi cho người ấy trước mặt Chúa, và người ấy sẽ được tha thứ tội lỗi mà người ấy đã phạm và mắc lỗi.”
Quy Luật về Của Lễ Thiêu
8 Chúa phán với Môi-se rằng, 9 “Hãy truyền cho A-rôn và các con trai ông: Ðây là quy luật về của lễ thiêu. Của lễ thiêu phải ở trên lửa, trên bàn thờ, suốt đêm cho đến sáng, và lửa trên bàn thờ phải cháy luôn. 10 Tư tế sẽ mặc áo lễ dài bằng vải gai và quần đùi bằng vải gai, rồi xúc tro mà lửa đã thiêu của lễ thiêu đem đổ bên cạnh bàn thờ. 11 Sau đó ông cởi bộ lễ phục ấy ra và mặc bộ đồ khác vào, rồi mang tro ấy ra đổ ở một nơi thanh sạch bên ngoài doanh trại. 12 Lửa trên bàn thờ lúc nào cũng phải giữ cháy luôn và không được để cho tắt. Mỗi sáng tư tế phải chất thêm củi vào, rồi sắp của lễ thiêu lên trên đó; ông cũng sẽ thiêu trên đó mỡ các của lễ cầu an. 13 Lửa phải được giữ cháy luôn trên bàn thờ, và không được để cho tắt.”
Quy Luật về Của Lễ Chay
14 “Ðây là quy luật về của lễ chay: Các con trai của A-rôn sẽ dâng của lễ ấy trên bàn thờ, trước mặt Chúa. 15 Một tư tế sẽ hốt một nắm bột thượng hạng, cùng với dầu, và tất cả nhũ hương trong của lễ chay ấy, rồi đem thiêu phần tượng trưng đó trên bàn thờ, để thành một mùi thơm dâng lên Chúa. 16 Phần còn lại của lễ vật, A-rôn và các con trai ông sẽ ăn; họ sẽ làm thành bánh không men và ăn bánh ấy trong một nơi thánh, tức họ sẽ ăn bánh ấy trong sân của Lều Hội Kiến. 17 Bánh ấy không được trộn men rồi đem nướng. Ðó là phần Ta ban cho họ, lấy từ những lễ vật dùng lửa dâng lên Ta. Ðó là phần cực thánh, giống như của lễ chuộc tội và của lễ chuộc lỗi. 18 Tất cả những người nam trong con cháu A-rôn sẽ được ăn bánh ấy. Ðó là quy luật đời đời cho các thế hệ của các ngươi đối với những lễ vật dùng lửa dâng lên Chúa. Hễ ai đụng đến những vật ấy đều trở nên thánh.”
19 Chúa phán với Môi-se rằng, 20 “Ðây là của lễ mà A-rôn và các con trai ông sẽ dâng lên Chúa, ngay từ ngày người ấy được xức dầu phong chức: hằng ngày hai lít[b] bột thượng hạng để làm của lễ chay, một nửa dâng vào buổi sáng, một nửa dâng vào chiều tối. 21 Bột ấy sẽ được trộn kỹ với dầu, làm thành bánh, rồi đem nướng trên vỉ; sau đó họ sẽ đem vào, bẻ thành những miếng nhỏ để làm của lễ chay có mùi thơm dâng lên Chúa. 22 Trong vòng các con cháu ông, chỉ tư tế nào được xức dầu phong chức kế vị ông, người đó mới được dâng của lễ ấy lên Chúa. Ðó là một quy luật đời đời. Sau đó của lễ ấy sẽ được thiêu hoàn toàn. 23 Tất cả của lễ chay do tư tế[c] đem dâng đều phải được thiêu hoàn toàn; không ai được ăn.”
Quy Luật về Của Lễ Chuộc Tội
24 Chúa phán với Môi-se rằng, 25 “Hãy nói với A-rôn và các con trai ông: Ðây là quy luật về của lễ chuộc tội: Hãy giết con vật hiến tế chuộc tội trước mặt Chúa tại nơi người ta giết con vật hiến tế làm của lễ thiêu. Ðó là vật cực thánh. 26 Tư tế dâng con vật hiến tế chuộc tội phải ăn thịt con vật hiến tế ấy. Của lễ ấy phải được ăn trong nơi thánh, tức trong sân của Lều Hội Kiến. 27 Phàm ai đụng đến thịt con vật hiến tế ấy đều trở nên thánh. Nếu huyết con vật hiến tế ấy văng vào quần áo của tư tế, quần áo bị dính máu ấy phải được giặt trong nơi thánh. 28 Cái nồi đất dùng để nấu thịt con vật hiến tế phải đem đập vỡ đi. Nếu thịt ấy được nấu trong một nồi đồng, nồi ấy phải được chùi cọ sạch và rửa bằng nước. 29 Tất cả nam tư tế sẽ được ăn của lễ ấy. Ðó là vật cực thánh. 30 Tuy nhiên không một của lễ chuộc tội nào mà huyết của con vật hiến tế đã được đem vào trong Lều Hội Kiến để cử hành lễ chuộc tội trong nơi thánh sẽ được ăn. Con vật hiến tế ấy phải được thiêu hoàn toàn trong lửa.
Quy Luật về Của Lễ Chuộc Lỗi
7 Ðây là quy luật về của lễ chuộc lỗi, một lễ vật cực thánh: 2 Ở tại chỗ người ta giết con vật hiến tế làm của lễ thiêu, họ cũng sẽ giết con vật hiến tế làm của lễ chuộc lỗi. Huyết nó sẽ được rảy chung quanh bàn thờ. 3 Người dâng lễ sẽ dâng tất cả mỡ của con vật hiến tế, cái đuôi có mỡ và lớp mỡ bọc bộ lòng, 4 hai trái cật và lớp mỡ lưng bọc chúng, cùng lớp mỡ phía trên lá gan mà người ấy sẽ gỡ ra với hai trái cật. 5 Rồi tư tế sẽ thiêu chúng trên bàn thờ, làm một lễ vật dùng lửa dâng lên Chúa. Ðó là của lễ chuộc lỗi. 6 Tất cả nam tư tế sẽ được ăn của lễ ấy. Lễ vật ấy phải được ăn trong nơi thánh. Ðó là vật cực thánh.
7 Của lễ chuộc lỗi cũng giống như của lễ chuộc tội. Chỉ có một quy luật cho cả hai: tư tế nào cử hành lễ chuộc tội sẽ được ban cho lễ vật ấy. 8 Tư tế nào dâng của lễ thiêu cho ai, tư tế ấy sẽ được ban cho bộ da của con vật hiến tế làm của lễ thiêu mà tư tế ấy đã dâng. 9 Mọi của lễ chay nướng trong lò và tất cả lễ vật gì chiên trong chảo hay nướng trên vỉ sẽ thuộc về tư tế dâng của lễ ấy. 10 Mọi của lễ chay có trộn dầu hay để khô sẽ thuộc về các con trai A-rôn và sẽ được chia đều cho họ.
Quy Luật về Của Lễ Cầu An
11 Ðây là quy luật về của lễ cầu an mà một người sẽ dâng lên Chúa: 12 Nếu người ấy dâng của lễ cầu an để tỏ lòng cảm tạ, người ấy phải dâng của lễ cầu an cùng với của lễ cảm tạ, gồm bánh ngọt không men trộn dầu, bánh tráng không men có phết dầu, và bánh ngọt làm bằng bột thượng hạng trộn dầu đem chiên. 13 Ngoài các thứ bánh đem dâng để tạ ơn trong của lễ cầu an, người ấy cũng sẽ đem đến bánh ngọt có men. 14 Như thế người ấy sẽ dâng lên Chúa một cái bánh từ mỗi thứ bánh làm của lễ. Các bánh ấy sẽ thuộc về tư tế đã rảy huyết của con vật hiến tế cầu an. 15 Thịt của con vật hiến tế tạ ơn trong của lễ cầu an sẽ được ăn nội trong ngày ấy, không được để đến sáng hôm sau.
16 Nhưng nếu con vật hiến tế là của lễ do sự khấn nguyện hoặc lạc ý, của lễ ấy sẽ được ăn ngay trong ngày dâng hiến; nếu còn thừa, có thể ăn ngày hôm sau; 17 nhưng thịt của con vật hiến tế còn lại đến ngày thứ ba phải được đem thiêu hết trong lửa. 18 Nếu qua ngày thứ ba mà thịt của con vật hiến tế cầu an còn được đem ra ăn, của lễ đó không còn được chấp nhận nữa; người dâng sẽ không còn được kể là đã dâng của lễ ấy nữa. Nó đã thành một vật gớm ghiếc; kẻ nào ăn thịt ấy sẽ mắc tội.
19 Nếu thịt con vật hiến tế bị chạm vào bất cứ vật gì không sạch, thịt ấy sẽ không được ăn, nó phải bị đem thiêu. Còn thịt khác, tất cả những người giữ mình thanh sạch đều có thể ăn. 20 Nhưng ai đang ở trong tình trạng ô uế mà ăn thịt của con vật hiến tế dâng lên Chúa làm của lễ cầu an, người ấy phải bị khai trừ khỏi dân. 21 Phàm ai đụng chạm vào bất cứ vật gì không sạch, dù là người không sạch, hay thú vật không sạch, hay bất cứ vật gì không sạch, mà lại ăn thịt con vật hiến tế dâng lên Chúa làm của lễ cầu an, người ấy phải bị khai trừ khỏi dân.”
Cấm Ăn Mỡ và Ăn Huyết
22 Chúa phán với Môi-se rằng, 23 “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên: Các ngươi không được ăn mỡ bò, mỡ chiên, hay mỡ dê. 24 Mỡ của các thú vật bị chết hoặc bị thú dữ cắn xé có thể dùng vào mọi việc, nhưng tuyệt đối không được ăn. 25 Trong các ngươi, nếu ai ăn mỡ của một con thú đã được dùng lửa dâng lên Chúa, kẻ ấy sẽ bị khai trừ khỏi dân.
26 Trong bất cứ nơi nào các ngươi cư ngụ, các ngươi không được ăn huyết, dù là huyết của loài chim hay của súc vật. 27 Phàm kẻ nào ăn bất cứ thứ huyết gì đều sẽ bị khai trừ khỏi dân.”
Phần của Tư Tế Trong Của Lễ
28 Chúa phán với Môi-se rằng, 29 “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên: Ai trong các ngươi muốn dâng lên Chúa một con vật hiến tế để làm của lễ cầu an, chính người ấy phải mang con vật hiến tế làm của lễ cầu an đến dâng lên Chúa. 30 Chính tay người ấy phải mang của lễ đến để dùng lửa dâng lên Chúa. Người ấy sẽ đem mỡ và cái ức, để cái ức sẽ được cầm đưa lên dâng trước mặt Chúa. 31 Tư tế sẽ thiêu mỡ trên bàn thờ, nhưng cái ức sẽ thuộc về A-rôn và các con trai ông. 32 Các ngươi phải lấy đùi phải của con vật hiến tế cầu an biếu cho tư tế làm quà lễ. 33 Người nào trong các con trai của A-rôn dâng máu và mỡ của lễ cầu an sẽ được cái đùi phải làm phần quà lễ. 34 Vì Ta lấy cái ức được cầm đưa lên dâng và cái đùi đã dâng từ nơi dân I-sơ-ra-ên, tức từ của lễ cầu an của họ, mà ban cho Tư Tế A-rôn và các con trai ông. Ðó là quy luật vĩnh viễn trong dân I-sơ-ra-ên.
35 Ðó là phần dành cho A-rôn và các con trai ông từ những của lễ được dùng lửa dâng lên Chúa, kể từ ngày họ được dẫn đến để làm các tư tế phục vụ Chúa. 36 Những phần đó Chúa đã truyền phải ban cho họ khi Ngài xức dầu phong chức họ. Ðó là quy luật vĩnh viễn trong dân I-sơ-ra-ên trải qua các thế hệ.
37 Ðó là quy luật về việc dâng của lễ thiêu, của lễ chay, của lễ chuộc tội, của lễ chuộc lỗi, của lễ tấn phong, và của lễ cầu an, 38 mà Chúa đã truyền cho Môi-se trên Núi Si-nai, trong ngày Ngài truyền cho dân I-sơ-ra-ên mang các của lễ đến dâng lên Chúa trong Ðồng Hoang Si-nai.”
Nghi Thức Phong Chức
(Xuất 29:1-37)
8 Chúa phán với Môi-se rằng, 2 “Hãy đem A-rôn và các con trai ông đến, cùng đem các bộ lễ phục, dầu dùng cho phép xức dầu, con bò đực làm của lễ chuộc tội, hai con chiên đực, và cái rổ đựng bánh không men. 3 Ngươi hãy triệu tập toàn thể hội chúng lại trước cửa Lều Hội Kiến.”
4 Môi-se làm y như những gì Chúa truyền cho ông. Khi hội chúng đã tập họp ở trước cửa Lều Hội Kiến, 5 Môi-se nói với hội chúng, “Ðây là những gì Chúa đã truyền chúng ta phải thi hành.”
6 Bấy giờ Môi-se đem A-rôn và các con trai ông ấy đến, rồi lấy nước thanh tẩy họ. 7 Ông mặc chiếc áo lễ dài cho ông ấy, thắt đai lưng cho ông ấy, lấy áo choàng khoác lên trên, rồi lấy ê-phót mang vào người ông ấy. Xong ông lấy đai buộc ê-phót thắt cho ông ấy, và dùng đai ấy buộc chặt ê-phót vào người A-rôn. 8 Ðoạn ông lấy túi đeo ngực đeo vào người A-rôn, rồi lấy U-rim và Thum-mim để vào trong túi đeo ngực. 9 Sau đó ông lấy mũ tế đội lên đầu A-rôn, rồi trên mũ tế ấy, về phía trước, ông gắn cái thẻ thánh bằng vàng, và biến nó thành mũ thánh, như Chúa đã truyền cho Môi-se.
10 Ðoạn Môi-se lấy dầu dùng cho phép xức dầu xức cho Ðền Tạm và mọi vật trong đền ấy, và biệt riêng chúng ra thánh. 11 Ông lấy một ít dầu ấy và rảy bảy lần trên bàn thờ, ông xức dầu cho bàn thờ và tất cả đồ dùng của bàn thờ, đỉnh đồng và đế đỉnh, và biệt riêng chúng ra thánh. 12 Ông đổ một ít dầu dùng làm phép xức dầu trên đầu A-rôn và xức dầu cho ông ấy, để biệt riêng ông ấy ra thánh. 13 Môi-se đem các con trai của A-rôn đến, mặc áo lễ dài cho họ, thắt đai lưng cho họ, đội mũ lên đầu họ, như Chúa đã truyền cho Môi-se.
14 Ông đem con bò đực làm của lễ chuộc tội đến. A-rôn và các con trai ông đặt tay trên đầu con bò làm của lễ chuộc tội đó, 15 rồi Môi-se cho sát tế con bò ấy. Môi-se dùng ngón tay nhúng vào máu bò ấy và bôi lên các sừng bàn thờ để thanh tẩy bàn thờ; đoạn ông đổ máu nó nơi chân bàn thờ. Như thế ông đã biệt riêng bàn thờ ra thánh và làm phép chuộc tội cho nó. 16 Môi-se lấy tất cả mỡ bao quanh bộ lòng, lớp mỡ dính nơi lá gan, và hai trái cật với lớp mỡ bọc chúng đem thiêu tất cả trên bàn thờ. 17 Nhưng con bò, với da, thịt, và phân nó, ông cho đem thiêu bên ngoài doanh trại, như Chúa đã truyền cho Môi-se.
18 Kế đó ông đem con chiên đực để làm của lễ thiêu đến. A-rôn và các con trai ông đặt tay trên đầu con chiên đực đó, 19 rồi ông sát tế con chiên ấy. Môi-se lấy máu nó rảy chung quanh bàn thờ. 20 Ðoạn ông cho sả thịt con chiên ấy ra từng mảnh. Môi-se lấy cái đầu nó, các mảng thịt đã bị sả ra, và mỡ nó đem thiêu. 21 Sau khi bộ lòng và các giò nó được dùng nước rửa sạch, ông cũng đem thiêu chúng luôn. Như vậy ông thiêu toàn thể con chiên đực trên bàn thờ. Ðó là một của lễ thiêu có mùi thơm, một lễ vật dùng lửa dâng lên Chúa, như Chúa đã truyền cho Môi-se.
22 Sau đó ông đem con chiên đực thứ nhì đến, tức con chiên dành cho sự tấn phong. A-rôn và các con trai ông ấy đặt tay họ trên đầu con chiên đó, 23 rồi nó bị sát tế. Môi-se lấy một ít máu của nó bôi vào trái tai phải của A-rôn, vào ngón cái tay phải, và vào ngón cái chân phải của ông ấy. 24 Ông cũng bảo các con trai của A-rôn lại gần, rồi Môi-se bôi một ít máu của con vật hiến tế vào trái tai phải, vào ngón cái tay phải, và vào ngón cái chân phải của họ. Ðoạn Môi-se lấy máu còn lại đem rảy chung quanh bàn thờ. 25 Ông lấy mỡ, cái đuôi, tất cả mỡ bọc quanh bộ lòng, lớp mỡ bọc trên lá gan, hai trái cật với mỡ bọc chúng, và cái đùi phải, 26 và từ rổ bánh không men để trước mặt Chúa, ông lấy ra một cái bánh không men, một cái bánh ngọt có dầu, và một cái bánh tráng, rồi đặt chúng bên trên mỡ và cái đùi phải. 27 Xong ông đem tất cả những món đó đặt trên hai bàn tay A-rôn và trên hai bàn tay các con trai ông ấy, rồi ông bảo họ nâng cao lên để cung kính dâng lên trước mặt Chúa. 28 Sau đó Môi-se lấy các món đó từ tay họ đem thiêu trên bàn thờ để làm của lễ thiêu. Ðó là của lễ phong chức có mùi thơm, một của lễ được dùng lửa dâng lên Chúa. 29 Môi-se lấy cái ức, nâng nó lên cao làm một của lễ nâng lên dâng trước mặt Chúa. Cái ức con chiên đực đó là phần của Môi-se trong của lễ phong chức, như Chúa đã truyền cho Môi-se.
30 Sau đó, Môi-se lấy dầu để xức dầu phong chức và một ít máu trên bàn thờ đem rảy trên A-rôn và trên bộ lễ phục của ông ta, cùng trên các con trai ông ta và trên các lễ phục của họ. Như thế, ông đã biệt riêng A-rôn và bộ lễ phục của ông ta ra thánh, với các con trai của A-rôn và các lễ phục của họ ra thánh.
31 Môi-se nói với A-rôn và các con trai ông ấy, “Hãy nấu chín thịt ở cửa Lều Hội Kiến, rồi ăn thịt đó với bánh trong rổ đựng bánh dâng cho lễ phong chức, như tôi đã được truyền rằng, ‘A-rôn và các con trai ông ấy sẽ ăn các món đó.’ 32 Phần thịt và bánh mà anh và các cháu ăn không hết sẽ phải đem thiêu trong lửa cho rụi hết. 33 Trong vòng bảy ngày, anh và các cháu sẽ không được ra khỏi cửa Lều Hội Kiến, cho đến khi thời hạn lễ phong chức cho anh và các cháu hoàn tất. Vì cần phải mất bảy ngày để phong chức cho anh và các cháu. 34 Chúa đã truyền phải làm giống như đã làm hôm nay, để chuộc tội cho anh và các cháu. 35 Anh và các cháu sẽ ở nơi cửa vào Lều Hội Kiến, cả ngày lẫn đêm, suốt bảy ngày, hầu giữ đúng lệnh Chúa đã truyền, để anh và các cháu khỏi chết, vì tôi đã được lệnh phải làm như vậy.” 36 A-rôn và các con trai ông làm theo mọi điều Chúa đã truyền cho Môi-se.
Các Vị Tư Tế Nhậm Chức
9 Ðến ngày thứ tám, Môi-se mời A-rôn, các con trai ông ta, và các vị trưởng lão của dân I-sơ-ra-ên lại. 2 Ông nói với A-rôn, “Xin anh hãy bắt một con bò đực tơ để dâng làm lễ chuộc tội, và một con chiên đực để dâng làm của lễ thiêu, cả hai con thú đều không tì vết, rồi anh hãy dâng chúng lên trước mặt Chúa. 3 Anh hãy nói với dân I-sơ-ra-ên, ‘Hãy bắt một con dê đực làm của lễ chuộc tội, một con bò con và một con chiên con, cả hai đều phải được một tuổi và không tì vết, để làm của lễ thiêu, 4 một con bò đực và một con chiên đực để làm của lễ cầu an, và một của lễ chay có trộn dầu để dâng lên trước mặt Chúa, vì hôm nay Chúa sẽ hiện ra giữa anh chị em.’”
5 Họ mang tất cả những món đó đến trước Lều Hội Kiến, y như Môi-se đã truyền. Toàn thể hội chúng lại gần và đứng trước mặt Chúa. 6 Môi-se nói với họ, “Ðây là những điều Chúa truyền cho anh chị em làm. Anh chị em hãy thi hành để vinh quang Chúa hiện ra giữa anh chị em.”
7 Ðoạn Môi-se nói với A-rôn, “Anh hãy lại gần bàn thờ, dâng của lễ chuộc tội và của lễ thiêu của anh, để chuộc tội cho anh và cho dân; kế đến, anh hãy dâng của lễ do dân đem đến, để chuộc tội cho họ, như Chúa đã truyền.”
8 A-rôn lại gần bàn thờ và sát tế con bò con làm con vật hiến tế để chuộc tội, hầu chuộc tội cho ông. 9 Các con trai của A-rôn mang máu bò con ấy đến cho ông; ông nhúng ngón tay ông vào máu, rồi bôi nó lên các sừng bàn thờ. Máu còn lại ông đem đổ nơi chân bàn thờ. 10 Nhưng ông đem thiêu mỡ, hai trái cật, và lớp mỡ bọc lá gan của con vật hiến tế trên bàn thờ, như Chúa đã truyền cho Môi-se. 11 Còn thịt và da nó, ông đem ra ngoài doanh trại, dùng lửa thiêu rụi chúng.
12 Kế đó ông sát tế con vật hiến tế làm của lễ thiêu. Các con trai của A-rôn mang máu nó đến ông. Ông rảy máu ấy chung quanh bàn thờ. 13 Ðoạn họ đem của lễ thiêu đã được sả ra từng mảnh đến ông, luôn cả cái đầu con vật hiến tế. Ông thiêu chúng trên bàn thờ. 14 Ông cũng rửa bộ lòng và các chân nó, rồi chất tất cả trên của lễ thiêu, và thiêu chúng trên bàn thờ.
15 Kế đến ông dâng của lễ do dân mang đến. Ông bắt con dê làm con vật hiến tế chuộc tội cho dân và sát tế nó, rồi dâng nó làm của lễ chuộc tội giống như con trước. 16 Ông cũng dâng con vật hiến tế dùng cho của lễ thiêu, và dâng nó theo như cách thức đã quy định.
17 Kế đến ông dâng của lễ chay. Ông hốt một nắm bột và thiêu nó trên bàn thờ, ngoài của lễ thiêu đã được dâng vào buổi sáng.
18 Ông sát tế con bò đực và con chiên đực để làm của lễ cầu an cho dân. Các con trai của A-rôn mang máu chúng đến cho ông; ông rảy máu ấy quanh bàn thờ. 19 Mỡ con bò đực và con chiên đực ấy, gồm mỡ cái đuôi, mỡ bao quanh bộ lòng, mỡ bọc hai trái cật, và mỡ bọc trên lá gan, 20 họ lấy những mỡ ấy đặt trên cái ức, rồi thiêu những mỡ ấy trên bàn thờ, 21 còn cái ức và cái đùi phải, A-rôn cầm chúng nâng cao lên mà dâng trước mặt Chúa, như Môi-se đã truyền.
22 A-rôn giơ hai tay lên hướng về dân và chúc phước cho họ. Sau khi dâng các của lễ chuộc tội, của lễ thiêu, và của lễ cầu an, ông bước xuống. 23 Môi-se và A-rôn đi vào trong Lều Hội Kiến, rồi họ đi ra và chúc phước cho dân. Vinh quang Chúa hiện ra với toàn dân. 24 Lửa từ Chúa lòe ra thiêu rụi của lễ thiêu và mỡ trên bàn thờ. Khi dân thấy thế, họ reo mừng và sấp mặt xuống đất.
Na-đáp và A-bi-hu Dâng Lửa Lạ
10 Khi ấy hai con trai của A-rôn là Na-đáp và A-bi-hu, mỗi người lấy lư hương của mình, bỏ lửa than vào, rồi bỏ hương vào trong lửa, đoạn họ mang đến dâng trước mặt Chúa một thứ lửa lạ; đó là điều Ngài không truyền họ làm. 2 Lửa từ thánh nhan Chúa lòe ra, thiêu đốt họ, và họ chết ngay trước mặt Chúa. 3 Bấy giờ Môi-se nói với A-rôn, “Ðó là điều Chúa đã nói khi Ngài phán,
‘Qua những kẻ đến gần Ta, Ta sẽ được tôn thánh;
Trước mặt toàn dân, Ta sẽ được tôn vinh.’”
A-rôn yên lặng chấp nhận.
4 Môi-se gọi Mi-sa-ên và Ên-xa-phan, hai con trai của U-xi-ên chú của A-rôn, đến và bảo họ, “Hãy lại, mang thi thể hai cháu của các em ra khỏi Nơi Thánh và đem ra ngoài doanh trại.” 5 Họ đến khiêng thi thể hai người ấy, vẫn còn mặc áo lễ dài, ra ngoài doanh trại, như Môi-se đã truyền.
6 Môi-se nói với A-rôn và hai con trai ông ấy là Ê-lê-a-xa và I-tha-ma, “Xin anh và hai cháu đừng xõa tóc để tang và cũng đừng xé rách áo mình than khóc, kẻo anh và hai cháu phải chết, và Ngài sẽ nổi giận mà đánh phạt luôn cả hội chúng. Tuy nhiên những người khác trong gia tộc và toàn thể nhà I-sơ-ra-ên có thể than khóc các cháu, vì ngọn lửa từ Chúa đã lòe ra làm các cháu phải qua đời. 7 Anh và hai cháu đừng ra khỏi cửa Lều Hội Kiến, kẻo anh và hai cháu sẽ chết, vì dầu phong chức của Chúa vẫn còn ở trên anh và hai cháu.” Họ làm theo lời Môi-se đã bảo.
Những Quy Luật Ðặc Biệt cho Các Tư Tế
8 Chúa phán với A-rôn rằng, 9 “Ngươi và các con trai ngươi chớ uống rượu hay thức uống gì làm cho say khi vào trong Lều Hội Kiến, để các ngươi khỏi phải chết. Ðây là một quy luật đời đời trải qua các thế hệ của các ngươi. 10 Các ngươi phải biết phân biệt điều gì là thánh và điều gì là phàm, vật nào là ô uế và vật nào là tinh sạch. 11 Các ngươi phải dạy cho dân I-sơ-ra-ên mọi luật lệ Chúa đã dùng Môi-se truyền cho họ.”
12 Môi-se nói với A-rôn và các con trai còn lại của ông ấy là Ê-lê-a-xa và I-tha-ma rằng, “Hãy lấy phần của lễ chay còn lại, sau khi đã lấy một phần dùng lửa dâng lên Chúa, mà làm bánh không men và ăn bên cạnh bàn thờ, vì đó là vật rất thánh. 13 Anh và hai cháu phải ăn bánh đó trong nơi thánh, vì đó là phần của anh và của các con trai anh trong các lễ vật dùng lửa dâng lên Chúa, vì tôi đã được truyền như vậy. 14 Nhưng cái ức và cái đùi đã được đưa cao lên để dâng, thì anh, các con trai anh, và các con gái anh có thể ăn ở bất cứ nơi nào thanh sạch, vì đó là phần đã được quy định cho anh và cho các con anh trong các của lễ cầu an mà dân I-sơ-ra-ên mang đến dâng. 15 Cái đùi để nâng cao lên dâng và cái ức để đưa cao lên dâng do dân mang đến chung với mỡõ thì chỉ mỡ sẽ được dùng lửa để thiêu, còn hai món kia, sau khi đã nâng cao lên dâng trước mặt Chúa, sẽ là phần của anh và con cháu anh đời đời, như Chúa đã truyền.”
16 Kế đến Môi-se hỏi kỹ về việc con dê được dùng làm con vật hiến tế để chuộc tội, và kìa, nó đã bị thiêu rồi. Do đó ông nổi giận với Ê-lê-a-xa và I-tha-ma, hai con trai còn lại của A-rôn, và nói, 17 “Tại sao hai cháu không ăn thịt con vật hiến tế làm của lễ chuộc tội trong khu vực thánh, vì nó đã trở thành một vật cực thánh rồi, và Ngài đã ban nó cho các cháu, để các cháu cất bỏ tội lỗi của hội chúng, hầu chuộc tội cho họ trước mặt Chúa? 18 Nầy, máu nó đã không được mang vào trong Nơi Thánh, nên các cháu phải ăn thịt nó trong khu vực thánh như tôi đã bảo, như vậy mới đúng.”
19 Nhưng A-rôn trả lời Môi-se, “Nầy, hôm nay các cháu đã dâng của lễ chuộc tội và của lễ thiêu cho chúng trước mặt Chúa rồi; dầu vậy chuyện đau buồn cũng đã đột ngột xảy ra cho tôi! Nếu hôm nay tôi ăn của lễ chuộc tội nữa, liệu Chúa có chấp nhận của lễ ấy hay không?” 20 Nghe thế Môi-se bèn nhận là phải.
Thú Vật Thanh Sạch và Thú Vật Ô Uế
Loài Thú Sống Trên Mặt Ðất
(Phục 14:3-8)
11 Chúa phán với Môi-se và A-rôn, 2 “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên rằng: Trong tất cả thú vật trên đất, đây là những thú vật các ngươi được ăn: 3 Phàm thú vật nào có móng chẻ, bàn chân chẻ hai, và nhai lại thì các ngươi được ăn. 4 Tuy nhiên trong các thú vật nhai lại hay có móng chẻ, các ngươi không được ăn những thú vật sau đây: con lạc đà, vì mặc dù nó nhai lại nhưng không có móng chẻ, nó là loài ô uế đối với các ngươi; 5 con chồn núi, vì mặc dù nó nhai lại nhưng không có móng chẻ, nó là loài ô uế đối với các ngươi; 6 con thỏ rừng, vì mặc dù nó nhai lại nhưng không có móng chẻ, nó là loài ô uế đối với các ngươi; 7 con heo, vì mặc dù nó có móng chẻ và bàn chân chẻ hai nhưng không nhai lại, nó là loài ô uế đối với các ngươi. 8 Các ngươi chớ ăn thịt chúng; xác chết chúng các ngươi chớ đụng đến; chúng là loài ô uế đối với các ngươi.
Loài Vật Sống Dưới Nước
(Phục 14:9-10)
9 Trong những loài vật sống dưới nước, đây là những sinh vật các ngươi được phép ăn: tất cả những sinh vật nào có vi và có vảy, bất kể sống trong nước ngọt hay nước mặn, các ngươi có thể ăn các sinh vật ấy. 10 Nhưng phàm sinh vật nào sống trong nước mặn hay nước ngọt mà không có vi và không có vảy, sống lúc nhúc ở giữa những loài vật trong nước và giữa mọi sinh vật sống trong nước, thì các ngươi phải coi chúng là đáng tởm. 11 Các ngươi phải luôn coi chúng như những vật đáng tởm. Thịt chúng các ngươi không được ăn; xác chết chúng các ngươi phải coi là đáng tởm. 12 Tất cả những sinh vật nào sống trong nước mà không có vi và không có vảy, các ngươi phải coi là đáng tởm.
Loài Chim
(Phục 14:11-18)
13 Trong các loài chim, đây là những loài các ngươi phải coi là đáng tởm; các ngươi không được ăn thịt chúng. Chúng là loài đáng tởm đối với các ngươi: đại bàng, kên kên lớn, ó biển, 14 chim ưng, các loại ó diều, 15 các loại quạ, 16 đà điểu, bồ cắt, hải âu, các loại diều hâu, 17 cú vọ, cồng cộc, cú mèo, 18 thủy kê, bồ nông, kên kên nhỏ, 19 cò, các loại diệc, chim mũ quạt, và dơi.
Côn Trùng
(Phục 14:19)
20 Mọi loài côn trùng có cánh và đi bằng bốn chân các ngươi phải coi là đáng tởm. 21 Nhưng trong các côn trùng có cánh và đi bằng bốn chân các ngươi có thể ăn các con nào dùng chân để nhảy trên mặt đất. 22 Các loài nầy các ngươi có thể ăn được: mọi thứ châu chấu, mọi thứ muỗm, mọi thứ dế, và mọi thứ cào cào. 23 Còn tất cả những côn trùng có cánh và có bốn chân khác các ngươi phải coi là đáng tởm.
Ðụng Vào Loài Vật Ô Uế
24 Vì các con vật ấy mà các ngươi có thể sẽ trở thành ô uế. Phàm ai đụng vào xác chết của bất cứ con nào trong chúng, người ấy sẽ bị ô uế đến chiều tối. 25 Hễ ai mang bất cứ phần nào của xác chết chúng đều phải giặt sạch y phục mình và bị ô uế đến chiều tối. 26 Bất cứ con vật nào chân không có móng chẻ hay không nhai lại, chúng là vật ô uế đối với các ngươi; phàm ai chạm vào con nào trong chúng đều bị ô uế. 27 Trong các loài vật bốn chân có móng vuốt, con nào bước đi bằng bàn chân, chúng là con vật ô uế đối với các ngươi; phàm ai đụng vào xác của bất cứ con nào của chúng đều bị ô uế đến chiều tối. 28 Ai mang xác chúng phải giặt sạch y phục mình và bị ô uế đến chiều tối. Chúng là những con vật ô uế đối với các ngươi.
29 Trong các loài vật nhỏ sống lúc nhúc trên đất, các ngươi phải xem các loài nầy là ô uế: chuột chũi, chuột nhắt, các loại rắn mối, 30 cắc kè, kỳ đà, thằn lằn, kỳ nhông, và cắc ké. 31 Ðó là những sinh vật ô uế thuộc loài vật nhỏ sống lúc nhúc; phàm ai đụng phải xác chết của chúng sẽ bị ô uế đến chiều tối. 32 Bất cứ vật gì bị xác chết chúng rơi nhằm đều trở thành ô uế, bất kể vật dụng đó làm bằng gỗ, bằng vải, bằng da, hay là bao bị, tức bất cứ vật dụng nào người ta dùng cho việc gì. Vật ấy phải được ngâm trong nước để tẩy rửa, và phải bị xem là ô uế cho đến chiều tối, rồi sau đó mới được xem là sạch. 33 Nếu xác chết chúng rơi vào một hũ sành nào, tất cả những gì trong hũ sành đó sẽ trở thành ô uế; các ngươi phải đập vỡ hũ sành đó đi. 34 Nếu nước từ trong hũ sành đó rơi nhằm thức ăn nào, thức ăn đó sẽ trở nên ô uế. Nếu thức uống nào bị nước từ trong hũ sành đó rơi vào, thức uống đó sẽ trở nên ô uế. 35 Hễ vật gì bị bất cứ phần nào trong xác chết chúng rơi vào đều sẽ trở nên ô uế, bất kể là lò nướng bánh hay bếp nấu ăn; vật đó phải bị phá bỏ; lò hay bếp ấy đã trở nên ô uế, và các ngươi phải xem nó là vật ô uế.
36 Tuy nhiên nếu xác chết ấy rơi vào một dòng suối hay một giếng nước, dòng suối ấy hay giếng nước ấy vẫn sạch, chỉ phần nước múc ra khỏi suối hay giếng có xác chết mới bị ô uế mà thôi. 37 Nếu bất cứ phần nào của xác chết các con vật ô uế ấy rơi nhằm những hạt giống để đem gieo, những hạt giống ấy vẫn sạch. 38 Nhưng nếu những hạt giống ấy đang được ngâm nước mà bị xác chết chúng rơi vào, số hạt giống ấy đã trở thành ô uế.
39 Nếu một con thú các ngươi định làm thịt ăn chết trước khi bị giết thịt, hễ ai đụng đến xác chết nó sẽ bị ô uế đến chiều tối. 40 Ai ăn thịt nó phải giặt sạch y phục mình và sẽ bị ô uế đến chiều tối; ai mang xác nó cũng phải giặt sạch y phục mình và bị ô uế đến chiều tối.
41 Những côn trùng bò trên mặt đất là những sinh vật đáng tởm cho các ngươi. Các ngươi chớ ăn chúng. 42 Những con nào bò bằng bụng, những con nào bò bằng bốn chân, hoặc những con nào bò bằng nhiều chân, tức mọi thứ côn trùng bò lúc nhúc trên mặt đất, các ngươi chớ ăn chúng, vì chúng là những vật đáng tởm. 43 Các ngươi chớ làm cho mình trở nên đáng tởm vì những côn trùng bò lúc nhúc trên đất. Các ngươi chớ làm cho mình trở nên ô uế vì chúng, bởi chúng có thể làm cho các ngươi trở nên ô uế, 44 vì Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của các ngươi. Vậy hãy làm cho mình nên thánh, và giữ mình luôn thánh khiết, vì Ta là thánh. Các ngươi chớ làm cho mình trở nên ô uế bằng những côn trùng bò lúc nhúc trên đất, 45 vì Ta là Chúa, Ðấng đem các ngươi ra khỏi đất Ai-cập để làm Ðức Chúa Trời của các ngươi. Các ngươi phải nên thánh, vì Ta là thánh.
46 Ðó là luật lệ về những thú vật trên đất, về loài chim, về những sinh vật sống và di động trong nước, và về những côn trùng bò lúc nhúc trên đất, 47 để phân biệt giữa loài ô uế và loài thanh sạch, giữa loài các ngươi có thể ăn thịt và loài không được phép ăn thịt.”
Luật về Sự Thanh Tẩy của Phụ Nữ Sau Khi Sinh Con
12 Chúa phán với Môi-se rằng, 2 “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên rằng: Nếu một phụ nữ có thai và sinh con trai, người ấy sẽ bị ô uế bảy ngày. Người ấy sẽ bị ô uế như trong thời kỳ kinh nguyệt. 3 Ðến ngày thứ tám, đứa bé phải được làm phép cắt bì để cắt bỏ da bao quy đầu của nó. 4 Người mẹ sẽ đợi cho máu mình được thanh tẩy trong ba mươi ba ngày. Nàng không được phép đụng vào một vật thánh nào, và cũng không được phép vào nơi thánh, cho đến khi thời kỳ thanh tẩy đã mãn.
5 Còn nếu người phụ nữ sinh con gái, người ấy sẽ bị ô uế hai tuần, như trong thời kỳ kinh nguyệt, và thời kỳ để cho máu người mẹ được thanh tẩy là sáu mươi sáu ngày.
6 Khi thời kỳ thanh tẩy của nàng đã xong, bất kể nàng đã sinh con trai hay con gái, nàng phải mang đến cho tư tế ở cửa Lều Hội Kiến một con chiên dưới một tuổi để dâng làm của lễ thiêu và một con bồ câu con hoặc một con chim gáy để dâng làm của lễ chuộc tội. 7 Tư tế sẽ dâng con vật hiến tế ấy trước mặt Chúa và làm lễ chuộc tội cho nàng; bấy giờ nàng sẽ được sạch vì huyết đã xuất ra. Ðó là luật lệ về người phụ nữ sinh con trai hoặc con gái. 8 Nếu nàng không đủ khả năng dâng một chiên con, nàng có thể mang đến hai con chim gáy hoặc hai con bồ câu con; một con sẽ được dâng làm của lễ thiêu, và con kia sẽ được dâng làm của lễ chuộc tội. Tư tế sẽ làm lễ chuộc tội cho nàng, và nàng sẽ được sạch.”
Luật về Bệnh Phung và Các Bệnh Ngoài Da
Nhiễm Trùng và Ung Nhọt
13 Chúa phán với Môi-se và A-rôn rằng, 2 “Khi da người nào bị sưng lên, hoặc nổi ung nhọt, hoặc nổi đốm, và biến thành bệnh phung[d] trên da thịt người ấy, người ấy phải được đưa đến Tư Tế A-rôn hoặc đưa đến một tư tế là con trai của A-rôn. 3 Tư tế sẽ khám nghiệm chỗ da thịt bị thương của người ấy. Nếu lông chỗ bị thương đã đổi thành trắng và chỗ bị thương lõm sâu trong da thịt người ấy, đó là một vết phung. Sau khi khám nghiệm, tư tế phải tuyên bố rằng người ấy đã bị ô uế. 4 Nếu chỗ đốm trên da thịt người ấy có màu trắng, vết đốm không lõm sâu xuống mặt da, lông ở chỗ đó cũng chưa đổi thành màu trắng, thì tư tế phải cô lập người bệnh trong bảy ngày. 5 Vào ngày thứ bảy, tư tế sẽ tái khám vết thương của người ấy, nếu tư tế thấy vết thương đó vẫn như cũ, không lan ra trên da, thì tư tế phải cô lập người ấy thêm bảy ngày nữa. 6 Vào ngày thứ bảy, tư tế sẽ tái khám người ấy một lần nữa, nếu vết thương bấy giờ đã nhạt dần, và bệnh không lan ra trên da, tư tế phải tuyên bố rằng người ấy được sạch. Ðó chỉ là một ung nhọt thường. Người ấy phải giặt sạch y phục mình, và được xem là sạch. 7 Nhưng nếu sau khi người ấy đã được tư tế khám nghiệm và tuyên bố là sạch, mà ung nhọt tái phát và lan ra trên da, người ấy phải trở lại trình diện với tư tế. 8 Tư tế phải khám nghiệm, và nếu ung nhọt đã lan ra trên da, tư tế phải tuyên bố rằng người ấy đã bị ô uế; đó là bịnh phung.
Bệnh Phung Kinh Niên
9 Khi một người mắc bịnh phung,[e] người ấy phải được đem đến tư tế. 10 Tư tế sẽ khám nghiệm, nếu da chỗ sưng màu trắng, lông nơi đó cũng đã biến thành trắng, và có thịt đỏ tươi lộ ra ở vết sưng, 11 đó là bệnh phung kinh niên trong da thịt người ấy. Tư tế sẽ tuyên bố người ấy đã bị ô uế. Tư tế sẽ không cô lập người ấy để tái khám nữa, vì người ấy đã bị xem là ô uế.
12 Nhưng nếu bệnh ấy cứ lan ra trên da, tràn khắp cơ thể người bệnh, từ đầu đến chân, nhìn đâu tư tế cũng thấy, 13 bấy giờ tư tế sẽ khám nghiệm, và nếu bệnh đã lan khắp cả cơ thể người ấy, tư tế sẽ tuyên bố người ấy sạch, vì toàn thân đều đã biến thành trắng, nên người ấy được xem là sạch.
14 Nhưng nếu thấy thịt đỏ tươi lộ ra trên cơ thể người ấy, người ấy sẽ bị xem là ô uế. 15 Tư tế sẽ khám nghiệm chỗ thịt đỏ tươi và tuyên bố người ấy ô uế. Thịt đỏ tươi lộ ra là ô uế, vì đó là bệnh phung.
16 Nhưng nếu chỗ thịt đỏ tươi đó đã đổi thành màu trắng, người ấy phải đến trình diện với tư tế. 17 Tư tế sẽ khám nghiệm người bệnh, và nếu chỗ bị bệnh đã biến thành trắng, tư tế phải tuyên bố người bệnh đã được sạch; người ấy sẽ được xem là sạch.
Ung Nhọt
18 Khi da trên cơ thể người nào có một ung nhọt đã được lành, 19 nhưng ngay chỗ có ung nhọt lại nổi lên một mụt màu trắng hoặc một đốm trắng hồng, người ấy phải đến trình cho tư tế biết. 20 Tư tế sẽ khám nghiệm. Nếu mụt hay đốm ấy lõm sâu vào da thịt và lông nơi đó đã biến thành trắng, tư tế phải tuyên bố người ấy đã bị ô uế, vì đó là bệnh phung đã lộ ra qua chỗ ung nhọt. 21 Nhưng nếu tư tế khám nghiệm chỗ ấy và thấy lông nơi đó chưa biến thành trắng, trên mặt cũng không lõm sâu vào da thịt, nhưng đã nhạt màu, tư tế phải cô lập người ấy trong bảy ngày. 22 Nếu nó lan ra trên da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy ô uế; người ấy đã mắc bệnh. 23 Nhưng nếu đốm ấy cứ giữ nguyên một chỗ và không lan ra, thì đó chỉ là vết thẹo của ung nhọt; tư tế phải tuyên bố người ấy sạch.
Ghẻ Phỏng
24 Hoặc khi da trên cơ thể người nào có một ghẻ phỏng và thịt đỏ tươi ở chỗ phỏng đó đã trở thành một đốm có màu trắng hồng hay màu trắng, 25 tư tế phải khám nghiệm đốm ấy. Nếu lông ở chỗ đó đã biến thành trắng, và vết đốm đã lõm sâu vào trong da thịt, thì đó là bệnh phung. Nó đã lộ ra qua chỗ ghẻ phỏng, và tư tế phải tuyên bố người ấy ô uế. Ðó là bệnh phung. 26 Nhưng nếu tư tế khám nghiệm đốm ấy và thấy lông ở đó không có màu trắng, và nó không lõm sâu vào da thịt, nhưng đã nhạt màu, tư tế phải cô lập người ấy bảy ngày. 27 Vào ngày thứ bảy, tư tế phải tái khám người ấy, nếu đốm ấy đã lan ra trên da, tư tế phải tuyên bố người ấy ô uế; đó là bệnh phung. 28 Nhưng nếu đốm ấy vẫn ở nguyên một chỗ, không lan ra trên da, nhưng lại nhạt màu đi, thì đó chỉ là vết sưng nổi ra ở chỗ ghẻ phỏng; tư tế sẽ tuyên bố người ấy sạch, vì đó chỉ là vết thẹo ở chỗ phỏng.
Ghẻ Chốc
29 Khi một người nam hay nữ có ghẻ chốc trong tóc trên đầu hay trong râu trên mặt, 30 tư tế sẽ khám nghiệm chỗ ghẻ chốc ấy. Nếu nó lõm sâu vào trong da thịt và tóc hay râu ở đó đã đổi thành màu vàng và nhỏ, tư tế phải tuyên bố người ấy ô uế. Ðó là bệnh ghẻ chốc, một thứ bệnh phung trên đầu hay trong râu. 31 Nếu tư tế khám nghiệm chỗ ghẻ chốc ấy và thấy nó không lõm sâu vào trong da thịt, cũng không thấy lông đen nào trong đó, tư tế phải cô lập người mắc bệnh ghẻ chốc ấy trong bảy ngày. 32 Vào ngày thứ bảy tư tế sẽ tái khám chỗ ghẻ chốc. Nếu chỗ ghẻ chốc không lan ra, cũng không có lông màu vàng ở đó, và chỗ ghẻ chốc cũng không thấy lõm sâu vào trong da thịt, 33 thì người ấy phải cạo tóc hay cạo râu đi, nhưng phải chừa chỗ bị ghẻ chốc lại. Tư tế sẽ cô lập người mắc bệnh ghẻ chốc thêm bảy ngày nữa. 34 Vào ngày thứ bảy tư tế sẽ tái khám chỗ ghẻ chốc ấy. Nếu chỗ ghẻ chốc không lan ra trên da, và nếu nó không lõm sâu vào trong da thịt, tư tế phải tuyên bố người ấy sạch. Người ấy phải giặt kỹ y phục mình và được xem là sạch. 35 Nhưng nếu chỗ ghẻ chốc lan ra trên da sau khi đã được tuyên bố là sạch, 36 tư tế phải tái khám người ấy. Nếu chỗ ghẻ chốc đã lan ra trên da, tư tế không cần phải tìm xem lông đã biến thành màu vàng hay chưa; người ấy đã bị ô uế. 37 Nhưng nếu theo sự thẩm định của tư tế, chỗ ghẻ chốc ấy đã bắt đầu lành, lông đen đã mọc lên trong đó, như vậy chỗ ghẻ chốc ấy đang được lành, người ấy được xem là sạch, và tư tế phải tuyên bố người ấy sạch.
Tàn Nhang
38 Khi một người nam hay nữ thấy trên da thịt mình có những đốm, những đốm màu trắng, 39 tư tế phải khám nghiệm. Nếu những đốm trên da người ấy có màu trắng nhạt, đó là tàn nhang đã lộ ra trên da; người ấy sạch.
Sói Tóc
40 Nếu người nào bị rụng tóc trên đầu, người ấy bị sói đầu nhưng vẫn sạch. 41 Nếu một người bị rụng tóc trên trán, người ấy bị sói trán nhưng vẫn sạch. 42 Nhưng nếu da ở chỗ đầu sói hay trán sói ấy nổi lên một vết trắng hồng, không chừng đó là vết phung[f] đã lộ ra ở chỗ đầu sói hay trán sói. 43 Tư tế sẽ khám nghiệm người ấy. Nếu vết sưng ở chỗ đầu sói hay trán sói đó màu trắng hồng và trông giống như một vết phung trên da thịt một người, 44 người ấy đã mắc bệnh phung; người ấy đã bị ô uế. Tư tế phải tuyên bố người ấy ô uế, vì bệnh phung đã lộ ra trên đầu.
Quy Chế về Người Mắc Bệnh Phung
45 Khi người nào mắc bệnh phung, người ấy phải xé rách y phục mình, để tóc xõa xuống, lấy tay che miệng mình, và kêu lớn, ‘Ô uế! Ô uế!’ 46 Ngày nào người ấy còn bệnh, người ấy vẫn còn bị ô uế. Người ấy phải ở bên ngoài doanh trại.
Bệnh Phung trên Y Phục
47 Về y phục, khi bệnh phung thấy xuất hiện trên y phục, bất kể y phục đó được làm bằng lông thú hay bằng vải gai, 48 tức y phục được dệt hoặc đan bằng vải gai hay lông thú, hoặc y phục ấy được làm bằng da, hay bất cứ vật gì được làm bằng da, 49 nếu người ta thấy có vết xanh chàm hay đỏ nhạt xuất hiện trên y phục, hoặc trên da, bất kể món đồ ấy được đan hay dệt, hoặc thấy xuất hiện trên bất cứ vật gì làm bằng da, thì đó là bệnh phung, và vật đó phải được đem đến trình cho tư tế. 50 Tư tế sẽ khám nghiệm vật đó; sau đó tư tế phải để riêng vật bị bệnh đó ra bảy ngày. 51 Ngày thứ bảy tư tế sẽ tái khám vật đó. Nếu vết bệnh đã lan ra trên y phục, bất kể là y phục ấy được đan hay dệt, hoặc vết bệnh đã lan ra trên da, bất kể là da được dùng làm món đồ gì, thì đó là bệnh phung đã lan ra; món đồ ấy đã trở thành vật ô uế. 52 Tư tế phải thiêu bộ y phục ấy, bất kể bộ y phục có bệnh ấy được đan hay dệt bằng lông thú hay bằng vải gai; còn nếu món đồ làm bằng da có bệnh, tư tế phải thiêu nó đi, vì bệnh phung đã lan ra. Nó phải bị thiêu rụi trong lửa.
53 Nếu tư tế khám nghiệm món đồ và thấy bệnh không lan ra trên y phục được đan hay dệt, hay trên món đồ được làm bằng da, 54 thì tư tế sẽ truyền cho chủ món đồ đem giặt rửa món đồ có bệnh, rồi để nó cách ly bảy ngày nữa. 55 Sau đó tư tế sẽ tái khám món đồ bị bệnh đã được giặt rửa, nếu tư tế thấy vết bệnh vẫn không đổi màu, mặc dù vết bệnh ấy không lan ra, món đồ ấy đã trở thành vật ô uế. Các ngươi phải đem thiêu nó trong lửa, bất kể vết phung ấy ở mặt trong hay mặt ngoài của món đồ.
56 Nếu tư tế khám nghiệm món đồ và thấy vết bệnh đã nhạt màu sau khi được giặt rửa, người ta sẽ cắt bỏ chỗ vết bệnh ra khỏi bộ y phục, bất kể bộ y phục ấy được đan hay dệt, hoặc cắt bỏ chỗ da bệnh ra khỏi món đồ làm bằng da.
57 Nếu sau đó trên món đồ lại thấy xuất hiện vết bệnh mới, bất kể đó là y phục được đan hay dệt, hoặc bất kể đó là món đồ gì được làm bằng da, các ngươi phải đem thiêu món đồ có bệnh đó trong lửa, vì món đồ ấy đã bị bệnh phung và phung đã lan ra. 58 Nhưng nếu bộ y phục được đan hay dệt, hoặc món đồ được làm bằng da, mà sau khi đem giặt rửa, chỗ có vết bệnh đã biến mất, thì phải đem giặt rửa nó thêm một lần nữa, sau đó món đồ ấy sẽ được sạch.
59 Ðó là quy luật về bệnh phung cho y phục được đan hay dệt bằng lông thú hay bằng vải gai, hoặc bất cứ món đồ gì được làm bằng da, để quyết định vật ấy là sạch hay ô uế.”
Lễ Thanh Tẩy cho Người Ðược Lành Phung
14 Chúa phán với Môi-se rằng, 2 “Ðây là quy luật áp dụng cho một người đã mắc bệnh phung trong ngày người ấy được lành:
Người ấy sẽ được đem đến với tư tế. 3 Tư tế sẽ đi ra bên ngoài doanh trại, và tư tế sẽ thực hiện cuộc khám nghiệm người ấy. Nếu bệnh nơi người phung quả thật đã lành, 4 tư tế sẽ truyền cho người ấy đem đến hai con chim còn sống thuộc loài thanh sạch, một nhánh cây bá hương, một lọn chỉ điều, và một nhánh cây bài hương, để làm lễ thanh tẩy cho người được lành. 5 Tư tế sẽ truyền đem giết một con chim, cho chảy huyết vào một chậu sành, trong khi đổ nước suối[g] vào. 6 Tư tế sẽ lấy con chim còn sống, với nhánh cây bá hương, lọn chỉ điều, và nhánh cây bài hương, đem nhúng vào huyết của con chim bị giết đã hòa lẫn với nước suối đổ vào đó. 7 Tư tế sẽ rảy bảy lần trên người được lành bệnh phung, rồi tuyên bố người ấy đã được sạch; đoạn tư tế sẽ thả con chim còn sống để nó bay ra đồng. 8 Người được tuyên bố là sạch phải giặt kỹ tất cả y phục mình, cạo sạch tất cả lông râu tóc trên người mình, lấy nước tắm rửa thật kỹ thân thể mình, rồi người ấy sẽ được sạch. Sau đó người ấy sẽ được vào bên trong doanh trại, nhưng phải ở bên ngoài lều mình thêm bảy ngày nữa. 9 Vào ngày thứ bảy, người ấy phải cạo sạch tất cả lông râu tóc mình một lần nữa, tức tóc trên đầu, râu, lông mày, và mọi chỗ có lông trên cơ thể mình; sau đó người ấy phải giặt kỹ tất cả y phục mình, và dùng nước tắm rửa sạch sẽ cơ thể mình, rồi người ấy sẽ được sạch.
10 Vào ngày thứ tám, người ấy sẽ bắt hai con chiên đực không tì vết, một con chiên cái không tì vết chưa được một tuổi, mà đem đến cùng với sáu lít rưỡi[h] bột thượng hạng đã trộn dầu để dâng làm của lễ chay, và một chai dầu nhỏ.[i] 11 Tư tế thi hành nghi thức thanh tẩy sẽ đem người vừa được sạch đó, cùng với các lễ vật của người ấy, đến trước mặt Chúa tại cửa Lều Hội Kiến. 12 Tư tế sẽ bắt một con chiên để làm lễ chuộc lỗi, và lấy chai dầu nhỏ ấy, rồi đưa chúng lên cao để dâng lên trước mặt Chúa. 13 Tư tế sẽ giết con chiên nơi người ta giết con vật hiến tế chuộc tội và con vật hiến tế làm của lễ thiêu trong nơi thánh. Về của lễ chuộc lỗi, thì giống như của lễ chuộc tội, nó sẽ thuộc về tư tế. Ðó là vật rất thánh. 14 Tư tế sẽ lấy một ít máu của con vật hiến tế để chuộc lỗi bôi vào trái tai phải, ngón cái tay phải, và ngón cái chân phải của người được sạch bệnh. 15 Tư tế sẽ lấy chai dầu nhỏ đổ một ít vào lòng bàn tay trái mình, 16 rồi lấy ngón tay phải chấm vào dầu trong lòng bàn tay trái mình mà rảy bảy lần trước mặt Chúa. 17 Dầu còn lại trong lòng bàn tay trái tư tế sẽ lấy bôi vào trái tai phải, ngón cái tay phải, và ngón cái chân phải của người được sạch bệnh, tức bôi chồng lên trên máu của lễ chuộc lỗi. 18 Số dầu còn sót lại trong lòng bàn tay, tư tế sẽ thoa lên đầu người được sạch bệnh. Sau đó tư tế sẽ cử hành lễ chuộc tội cho người đó trước mặt Chúa: 19 Tư tế sẽ dâng con vật hiến tế chuộc tội để chuộc tội cho người bị ô uế hầu người ấy được sạch tội. Kế đó tư tế sẽ giết con vật hiến tế làm của lễ thiêu, 20 rồi tư tế sẽ cử hành nghi thức dâng của lễ thiêu và của lễ chay trên bàn thờ. Như vậy tư tế làm lễ chuộc tội cho người ấy, và người ấy được trở nên sạch.
21 Nhưng nếu người ấy nghèo và không thể sắm nổi những lễ vật đó, người ấy chỉ cần mang đến một con chiên đực để làm của lễ dâng lên chuộc lỗi, hầu chuộc tội cho mình, cùng với hai lít[j] bột thượng hạng để làm của lễ chay, một chai dầu nhỏ, 22 hai con chim gáy hoặc hai con bồ câu, tức những thứ người ấy có thể sắm được, một con dâng làm của lễ chuộc tội và một con dâng làm của lễ thiêu. 23 Vào ngày thứ tám người ấy phải mang các lễ vật đó đến trước cửa Lều Hội Kiến, để tư tế cử hành nghi thức thanh tẩy cho đương sự trước mặt Chúa. 24 Tư tế sẽ bắt con chiên dâng làm của lễ chuộc lỗi và chai dầu nhỏ rồi nâng cao lên để dâng lên trước mặt Chúa. 25 Tư tế sẽ giết con chiên dâng làm của lễ chuộc lỗi, rồi tư tế sẽ lấy một ít máu của con vật hiến tế chuộc lỗi bôi vào trái tai phải, ngón cái tay phải, và ngón cái chân phải của người được sạch bệnh. 26 Tư tế sẽ lấy chai dầu nhỏ, đổ một ít vào lòng bàn tay trái mình, 27 rồi lấy ngón tay phải chấm vào dầu trong lòng bàn tay trái mình mà rảy bảy lần trước mặt Chúa. 28 Dầu còn lại trong lòng bàn tay trái tư tế sẽ lấy bôi vào trái tai phải, ngón cái tay phải, và ngón cái chân phải của người được sạch bệnh, tức bôi chồng lên trên máu của lễ chuộc lỗi. 29 Số dầu còn lại trong lòng bàn tay, tư tế sẽ thoa lên đầu của người được sạch bệnh, để chuộc tội cho người đó trước mặt Chúa. 30 Ðoạn tư tế sẽ dâng hai con chim gáy hoặc hai con bồ câu mà người ấy có thể sắm được, 31 một con dâng làm của lễ chuộc tội, còn con kia dâng làm của lễ thiêu, cùng với của lễ chay. Như thế tư tế sẽ cử hành nghi lễ chuộc tội cho người được sạch ấy trước mặt Chúa. 32 Ðó là quy luật để làm lễ thanh tẩy cho người mắc bệnh phung mà nghèo và không thể sắm nổi các lễ vật, hầu người ấy được sạch.”
Copyright © 2011 by Bau Dang