Bible in 90 Days
27 Dù đã như vậy mà các ngươi vẫn không vâng lời Ta, mà cứ chống lại Ta, 28 bấy giờ Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ chống lại các ngươi, và vì tội các ngươi, Ta sẽ phạt các ngươi gấp bảy lần nữa. 29 Các ngươi sẽ ăn thịt các con trai mình, và các ngươi sẽ ăn thịt các con gái mình. 30 Ta sẽ phá hủy các tế đàn trên những nơi cao; Ta sẽ đạp đổ những bàn thờ dâng hương của các ngươi; Ta sẽ chất thây các ngươi trên thây các thần tượng của các ngươi. Ta sẽ ghê tởm các ngươi. 31 Ta sẽ làm cho các thành của các ngươi ra hoang vắng; Ta sẽ khiến những nơi thánh của các ngươi ra điêu tàn; Ta sẽ không hưởng nhận những mùi thơm do các ngươi dâng hiến. 32 Ta sẽ làm cho xứ sở các ngươi trở nên hoang vu, đến nỗi những kẻ thù của các ngươi đến chiếm ở cũng phải ngạc nhiên. 33 Ta sẽ phân tán các ngươi ra trong các nước. Ta sẽ tuốt gươm ra truy đuổi các ngươi. Xứ sở các ngươi sẽ trở nên hoang vu; thành quách các ngươi sẽ ra điêu tàn vắng vẻ.
34 Bấy giờ nhờ nó bị bỏ hoang đất sẽ được hưởng những năm Sa-bát; trong khi các ngươi sống trong xứ của kẻ thù, đất sẽ được nghỉ bù và được hưởng những năm Sa-bát. 35 Hễ khi nào đất còn bị bỏ hoang, nó sẽ được nghỉ bù những năm Sa-bát mà nó không có khi các ngươi còn sống ở đó. 36 Ðối với những kẻ còn sống sót, Ta sẽ làm cho lòng chúng ra hèn nhát khi sống trong xứ bị kẻ thù cai trị. Chỉ một tiếng lá rung cũng đủ làm cho chúng sợ hãi bỏ chạy; chúng sẽ chạy trốn như thể bị gươm truy kích, và chúng sẽ ngã nhào dù chẳng ai đuổi theo. 37 Chúng sẽ ngã nhào lên nhau, như thể bị ngã rạp trước lưỡi gươm, mặc dù chẳng có ai rượt đuổi. Các ngươi sẽ chẳng có sức lực đối phó với quân thù. 38 Các ngươi sẽ bị diệt vong giữa các dân, và đất của kẻ thù các ngươi sẽ ăn nuốt các ngươi. 39 Ai trong các ngươi còn sống sót sẽ chết dần chết mòn trong xứ của kẻ thù vì tội lỗi mình. Chúng sẽ chết dần chết mòn vì tội lỗi của tổ tiên mình.
40 Nhưng nếu chúng xưng nhận tội lỗi mình và tội lỗi của tổ tiên mình rằng chúng đã phản nghịch Ta, thậm chí còn nhất quyết chống lại Ta, 41 đến nỗi Ta buộc lòng phải chống lại chúng và khiến chúng phải bị dẫn đến xứ của kẻ thù của chúng, nếu tấm lòng không chịu cắt bì của chúng biết khiêm nhường và chúng biết ăn năn lìa bỏ tội lỗi của chúng,[a] 42 Ta sẽ nhớ lại giao ước Ta với Gia-cốp, Ta cũng sẽ nhớ lại giao ước Ta với I-sác, Ta cũng sẽ nhớ lại giao ước Ta với Áp-ra-ham, và Ta sẽ nhớ đến xứ sở chúng, 43 vì xứ sở chúng đã bị chúng bỏ hoang, và đất ấy đã được hưởng những năm Sa-bát do bị bỏ hoang vì không có chúng, trong lúc chúng bị sửa phạt về tội lỗi chúng, bởi chúng đã dám khước từ mạng lịnh Ta và gớm ghét luật lệ Ta. 44 Dầu vậy trong khi chúng ở trong xứ của kẻ thù của chúng, Ta sẽ không khước từ chúng, hoặc gớm ghét chúng, mà tuyệt diệt chúng, hoặc hủy bỏ giao ước Ta với chúng, vì Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng. 45 Ðể tỏ lòng nhân từ với chúng, Ta sẽ nhớ lại giao ước với tổ tiên chúng, những kẻ Ta đã đem ra khỏi đất Ai-cập trước mặt các dân, để làm Ðức Chúa Trời của chúng. Ta là Chúa.”
46 Ðó là những điều răn, mạng lịnh, và luật pháp mà Chúa đã cậy Môi-se lập giữa Ngài với dân I-sơ-ra-ên trên núi Si-nai.
Những Quy Ðịnh về Dâng Hiến Chuộc Người Khấn Nguyện
27 Chúa phán với Môi-se rằng, 2 “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên và bảo chúng rằng: Nếu ngươi muốn chuộc một người đã được khấn nguyện dâng lên Chúa thì phải phỏng định trị giá như sau: 3 Nếu là một người nam tuổi từ hai mươi đến sáu mươi giá phỏng định là năm mươi sê-ken[b] theo trị giá sê-ken của nơi thánh. 4 Nếu là người nữ, giá phỏng định là ba mươi sê-ken. 5 Nếu là con trẻ, tuổi từ năm đến hai mươi, giá phỏng định cho con trai là hai mươi sê-ken, con gái là mười sê-ken. 6 Nếu tuổi từ một tháng đến năm tuổi, giá phỏng định cho một con trai là năm sê-ken bạc và giá phỏng định cho một con gái là ba sê-ken bạc. 7 Nếu một người tuổi từ sáu mươi trở lên thì giá phỏng định cho người nam là mười lăm sê-ken và cho người nữ là mười sê-ken. 8 Nếu ai không đủ khả năng để có số bạc phỏng định đó, hãy đem người ấy đến với tư tế, tư tế sẽ định giá người ấy; tư tế sẽ định giá người ấy theo khả năng người khấn nguyện có thể trả được.
Dâng Con Vật Hiến Tế
9 Nếu là một con vật đủ điều kiện được đem dâng lên Chúa, và khi con vật đó đã được đem dâng rồi, thì nó sẽ trở thành của thánh. 10 Không thể đem con vật khác đến để đổi hoặc thay thế nó, tức không thể đem con khác tốt hơn đổi cho con xấu hơn, hoặc không thể đem con xấu hơn thế cho con tốt hơn. Nếu ai đem một con vật khác đến thế, thì cả hai con, tức con đã được dâng hiến và con được đem đến thế, đều sẽ trở thành của thánh. 11 Nếu đó là một con vật không sạch đáng lý không được đem dâng lên Chúa mà đã mang đến dâng, hãy đem con vật ấy đến với tư tế. 12 Tư tế sẽ định giá nó, bất kể con vật đó tốt hay xấu; hễ tư tế định giá nó bao nhiêu thì cứ như thế mà chấp hành. 13 Nhưng nếu người dâng muốn chuộc nó lại, thì phải cộng thêm một phần năm vào giá tư tế đã định mà chuộc nó lại.
Dâng Nhà Cửa
14 Nếu một người dâng một căn nhà lên Chúa, tư tế sẽ định giá căn nhà ấy, bất kể nhà ấy tốt hay xấu; hễ tư tế định giá nó bao nhiêu thì cứ như thế mà chấp hành. 15 Nếu người dâng muốn chuộc nó lại, người ấy phải cộng thêm một phần năm vào giá tư tế đã định mà chuộc, và căn nhà đó sẽ trở về quyền sở hữu của người ấy.
Dâng Ðồng Ruộng
16 Nếu một người dâng lên Chúa một đồng ruộng do mình làm chủ, thì giá trị của nó sẽ tính theo số hạt giống mà nó có thể sản xuất: năm mươi sê-ken bạc cho hai tạ[c] giống lúa mạch. 17 Nếu người ấy dâng đồng ruộng mình vào năm hoan hỉ, thì giá trị của nó sẽ là như thế. 18 Nhưng nếu đồng ruộng được dâng sau năm hoan hỉ, thì tư tế sẽ dựa theo số năm còn lại tính đến năm hoan hỉ kế tiếp mà định và giảm bớt trị giá. 19 Nhưng nếu người dâng đồng ruộng muốn chuộc nó lại, người ấy phải cộng thêm một phần năm vào giá tư tế đã định mà chuộc, và đồng ruộng đó sẽ trở về quyền sở hữu của người ấy. 20 Nhưng nếu đồng ruộng đó không được chuộc hoặc đã bị bán cho người khác, nó sẽ không thể được chuộc nữa. 21 Ðến năm hoan hỉ, khi quyền sở hữu đồng ruộng ấy được buông ra, đồng ruộng ấy sẽ thành một đồng ruộng thánh đã được dâng lên Chúa; tư tế sẽ đứng tên làm chủ nó. 22 Nếu ai dâng lên Chúa đồng ruộng mình đã mua, chứ không phải đồng ruộng mình được quyền thừa hưởng, 23 thì tư tế sẽ dựa theo số năm còn lại tính đến năm hoan hỉ mà định giá, và đồng ruộng ấy trị giá bao nhiêu theo thời giá sẽ được xem là một của thánh mà người ấy đã dâng lên Chúa. 24 Ðến năm hoan hỉ, đồng ruộng đó sẽ được trả về cho nguyên chủ mà người ấy đã mua, tức trả về người có quyền thừa hưởng sản nghiệp đó. 25 Tất cả những giá cả được ấn định sẽ dựa theo trị giá của sê-ken nơi thánh, tức hai mươi ghê-ra[d] bằng một sê-ken.
Những Quy Ðịnh Ðặc Biệt về Sự Chuộc Lại Các Của Thánh
Con Ðầu Lòng
26 Không ai được dâng lên Chúa con đầu lòng trong đàn súc vật mình, vì nó là con đầu lòng, nên nó đã thuộc về Chúa, bất kể bò hay chiên, nó đã thuộc về Chúa. 27 Nếu của dâng là một con vật không thanh sạch, nó sẽ được chuộc lại bằng trị giá của nó cộng với một phần năm. Nếu không được chuộc lại, nó sẽ được bán theo giá đã ấn định.
Của Dâng Bất Khả Thu Hồi
28 Không một vật gì thuộc quyền sở hữu của ai, bất kể là người, hoặc vật, hoặc sản nghiệp được thừa hưởng, sau khi đã đem dâng đặc biệt lên Chúa lại có thể đem bán đi hoặc cho chuộc lại. Những gì khi đã dâng hiến đặc biệt sẽ trở thành của cực thánh cho Chúa. 29 Không người nào sau khi đã dâng mình đặc biệt mà có thể được chuộc lại; chỉ đến khi chết người ấy mới hoàn thành được sự dâng hiến đó mà thôi.[e]
Của Dâng Một Phần Mười
30 Tất cả các của dâng một phần mười đều thuộc về Chúa, bất kể đó là hạt giống gieo ở dưới đất hay hoa quả ở trên cây; chúng thảy đều thuộc về Chúa. Chúng là những vật thánh của Chúa. 31 Nếu ai muốn chuộc lại của dâng một phần mười của mình, người ấy phải trả theo trị giá của nó cộng với một phần năm.
32 Một phần mười súc vật trong đàn bò hay đàn chiên đều thuộc về Chúa; hễ con thứ mười nào đi qua dưới cây gậy của người chăn, con đó sẽ là của thánh cho Chúa. 33 Không ai được hỏi đó là con vật tốt hay xấu, và cũng không được thay thế con khác cho nó. Nếu ai muốn thay thế con khác cho nó, thì cả hai con, con vật đó và con vật được dùng để thay thế, sẽ trở thành thánh, và cả hai sẽ không thể được chuộc lại.”
34 Ðây là những mệnh lệnh mà Chúa đã ban cho Môi-se để truyền lại cho dân I-sơ-ra-ên trên Núi Si-nai.
Thống Kê Dân Số I-sơ-ra-ên
Lần Thứ Nhất
1 Chúa phán với Môi-se trong Ðồng Hoang Si-nai, trong Lều Hội Kiến, vào ngày mồng một tháng hai, năm thứ hai, sau khi dân I-sơ-ra-ên[f] rời khỏi đất Ai-cập rằng, 2 “Các ngươi hãy thực hiện cuộc thống kê dân số toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên. Hãy theo từng thị tộc và từng gia tộc mà lập danh sách mọi người nam 3 từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người I-sơ-ra-ên có khả năng ra trận. Ngươi và A-rôn hãy liệt kê họ theo từng đơn vị. 4 Mỗi chi tộc sẽ có một người cộng tác với các ngươi, người đó là tộc trưởng của mỗi chi tộc. 5 Ðây là danh sách những người sẽ giúp đỡ các ngươi:
Chi tộc Ru-bên, Ê-li-xu con trai Sê-đê-ua;
6 Chi tộc Si-mê-ôn, Sê-lu-mi-ên con trai Xu-ri-sa-đai;
7 Chi tộc Giu-đa, Nát-sôn con trai Am-mi-na-đáp;
8 Chi tộc I-sa-ca, Nê-tha-nên con trai Xu-a;
9 Chi tộc Xê-bu-lun, Ê-li-áp con trai Hê-lôn;
10 Trong các con cháu của Giô-sép:
Chi tộc Ép-ra-im, Ê-li-sa-ma con trai Am-mi-hút;
Chi tộc Ma-na-se, Ga-ma-li-ên con trai Pê-đa-xu;
11 Chi tộc Bên-gia-min, A-bi-đan con trai Ghi-đê-ô-ni;
12 Chi tộc Ðan, A-hi-ê-xe con trai Am-mi-sa-đai;
13 Chi tộc A-se, Pa-ghi-ên con trai Ốc-ran;
14 Chi tộc Gát, Ê-li-a-sáp con trai Ðê-u-ên;
15 Chi tộc Náp-ta-li, A-hi-ra con trai Ê-nan.”
16 Ðó là những người được chọn trong hội chúng, những người lãnh đạo các chi tộc, các đơn vị trưởng của quân đội I-sơ-ra-ên.
17 Môi-se và A-rôn tiếp nhận những người đã được nêu đích danh ấy. 18 Ngày mồng một tháng hai, họ triệu tập toàn thể hội chúng lại và thực hiện cuộc thống kê dân số bằng cách lập danh sách mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, theo từng thị tộc và từng gia tộc, 19 như Chúa đã truyền cho Môi-se. Như vậy ông lập danh sách họ trong Ðồng Hoang Si-nai.
20 Các con cháu của Ru-bên con đầu lòng của I-sơ-ra-ên được thống kê theo phổ hệ của họ, theo từng thị tộc, từng gia tộc, căn cứ vào danh sách đã kê khai từng người, mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người có thể ra trận; 21 tổng số những người trong danh sách của chi tộc Ru-bên là bốn mươi sáu ngàn năm trăm người.
22 Các con cháu của Si-mê-ôn được thống kê theo phổ hệ của họ, theo từng thị tộc, từng gia tộc, căn cứ vào danh sách đã kê khai từng người, mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người có thể ra trận; 23 tổng số những người trong danh sách của chi tộc Si-mê-ôn là năm mươi chín ngàn ba trăm người.
24 Các con cháu của Gát được thống kê theo phổ hệ của họ, theo từng thị tộc, từng gia tộc, căn cứ vào danh sách đã kê khai từng người, mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người có thể ra trận; 25 tổng số những người trong danh sách của chi tộc Gát là bốn mươi lăm ngàn sáu trăm năm mươi người.
26 Các con cháu của Giu-đa được thống kê theo phổ hệ của họ, theo từng thị tộc, từng gia tộc, căn cứ vào danh sách đã kê khai từng người, mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người có thể ra trận; 27 tổng số những người trong danh sách của chi tộc Giu-đa là bảy mươi bốn ngàn sáu trăm người.
28 Các con cháu của I-sa-ca được thống kê theo phổ hệ của họ, theo từng thị tộc, từng gia tộc, căn cứ vào danh sách đã kê khai từng người, mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người có thể ra trận; 29 tổng số những người trong danh sách của chi tộc I-sa-ca là năm mươi bốn ngàn bốn trăm người.
30 Các con cháu của Xê-bu-lun được thống kê theo phổ hệ của họ, theo từng thị tộc, từng gia tộc, căn cứ vào danh sách đã kê khai từng người, mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người có thể ra trận; 31 tổng số những người trong danh sách của chi tộc Xê-bu-lun là năm mươi bảy ngàn bốn trăm người.
32 Các con cháu của Giô-sép gồm các con cháu của Ép-ra-im được thống kê theo phổ hệ của họ, theo từng thị tộc, từng gia tộc, căn cứ vào danh sách đã kê khai từng người, mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người có thể ra trận; 33 tổng số những người trong danh sách của chi tộc Ép-ra-im là bốn mươi ngàn năm trăm người.
34 Các con cháu của Ma-na-se được thống kê theo phổ hệ của họ, theo từng thị tộc, từng gia tộc, căn cứ vào danh sách đã kê khai từng người, mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người có thể ra trận; 35 tổng số những người trong danh sách của chi tộc Ma-na-se là ba mươi hai ngàn hai trăm người.
36 Các con cháu của Bên-gia-min được thống kê theo phổ hệ của họ, theo từng thị tộc, từng gia tộc, căn cứ vào danh sách đã kê khai từng người, mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người có thể ra trận; 37 tổng số những người trong danh sách của chi tộc Bên-gia-min là ba mươi lăm ngàn bốn trăm người.
38 Các con cháu của Ðan được thống kê theo phổ hệ của họ, theo từng thị tộc, từng gia tộc, căn cứ vào danh sách đã kê khai từng người, mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người có thể ra trận; 39 tổng số những người trong danh sách của chi tộc Ðan là sáu mươi hai ngàn bảy trăm người.
40 Các con cháu của A-se được thống kê theo phổ hệ của họ, theo từng thị tộc, từng gia tộc, căn cứ vào danh sách đã kê khai từng người, mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người có thể ra trận; 41 tổng số những người trong danh sách của chi tộc A-se là bốn mươi mốt ngàn năm trăm người.
42 Các con cháu của Náp-ta-li được thống kê theo phổ hệ của họ, theo từng thị tộc, từng gia tộc, căn cứ vào danh sách đã kê khai từng người, mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người có thể ra trận; 43 tổng số những người trong danh sách của chi tộc Náp-ta-li là năm mươi ba ngàn bốn trăm người.
44 Ðó là con số những người được thống kê, tức những người Môi-se và A-rôn đã lập danh sách, với sự giúp đỡ của những người lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên, tức mười hai người, mỗi người đại diện cho chi tộc của họ. 45 Như vậy tổng số người I-sơ-ra-ên được thống kê theo chi tộc của họ, mọi người nam từ hai mươi tuổi trở lên, tức mọi người trong dân I-sơ-ra-ên có thể ra trận, 46 tổng cộng được sáu trăm lẻ ba ngàn năm trăm năm mươi người. 47 Tuy nhiên người Lê-vi đã không được thống kê theo gia tộc của họ để kể chung với các chi tộc khác.
Thống Kê Chi Tộc Lê-vi
48 Chúa phán với Môi-se rằng, 49 “Duy chỉ chi tộc Lê-vi, ngươi sẽ không đếm và thực hiện cuộc thống kê chung với những người I-sơ-ra-ên khác. 50 Nhưng hãy chỉ định người Lê-vi chịu trách nhiệm lo việc Ðền Tạm của Chứng Ước, mọi dụng cụ của Ðền Tạm, và tất cả những gì thuộc về Ðền Tạm. Họ sẽ chịu trách nhiệm di chuyển Ðền Tạm và mọi dụng cụ liên hệ đến Ðền Tạm, phục vụ những công việc của Ðền Tạm, và đóng trại ở chung quanh Ðền Tạm. 51 Mỗi khi Ðền Tạm cần di chuyển, người Lê-vi sẽ đảm trách việc tháo gỡ Ðền Tạm xuống; đến nơi nào cần phải đóng trại, người Lê-vi sẽ dựng Ðền Tạm lên. Bất cứ người nào khác đến gần Ðền Tạm sẽ bị xử tử. 52 Dân I-sơ-ra-ên sẽ đóng trại theo đơn vị mình, dưới ngọn cờ của chi tộc mình, trong thế trận của toàn thể đội quân. 53 Nhưng người Lê-vi sẽ đóng trại chung quanh Ðền Tạm của Chứng Ước, để cơn thịnh nộ sẽ không giáng xuống trên hội chúng I-sơ-ra-ên. Người Lê-vi sẽ chịu trách nhiệm bảo vệ Ðền Tạm của Chứng Ước.”
54 Dân I-sơ-ra-ên thi hành mọi điều Chúa đã truyền cho Môi-se.
Cách Bố Trí Doanh Trại
2 Chúa phán với Môi-se và A-rôn, 2 “Dân I-sơ-ra-ên sẽ đóng trại theo đơn vị mình, dưới ngọn cờ của chi tộc mình. Mỗi người sẽ đóng trại chung quanh Lều Hội Kiến và hướng mặt trại về Lều Hội Kiến.”
3 Về hướng đông, tức hướng mặt trời mọc, sẽ là vị trí cho các đơn vị dưới ngọn cờ của chi tộc Giu-đa. Người lãnh đạo chi tộc Giu-đa là Nát-sôn con trai Am-mi-na-đáp. 4 Quân số của ông theo thống kê là bảy mươi bốn ngàn sáu trăm người.
5 Ðóng trại kế chi tộc ông là chi tộc I-sa-ca. Người lãnh đạo chi tộc I-sa-ca là Nê-tha-nên con trai Xu-a. 6 Quân số của ông theo thống kê là năm mươi bốn ngàn bốn trăm người.
7 Tiếp theo là các trại của chi tộc Xê-bu-lun. Người lãnh đạo của chi tộc Xê-bu-lun là Ê-li-áp con trai Hê-lôn. 8 Quân số của ông theo thống kê là năm mươi bảy ngàn bốn trăm người.
9 Tổng số quân đặt dưới lều chỉ huy của chi tộc Giu-đa, theo từng đơn vị, là một trăm tám mươi sáu ngàn bốn trăm người. Ðại đơn vị nầy sẽ đi tiên phong.
10 Hướng nam sẽ là vị trí cho các đơn vị dưới ngọn cờ của chi tộc Ru-bên. Người lãnh đạo chi tộc Ru-bên là Ê-li-xu con trai Sê-đê-ua. 11 Quân số của ông theo thống kê là bốn mươi sáu ngàn năm trăm người.
12 Ðóng trại kế chi tộc ông là chi tộc Si-mê-ôn. Người lãnh đạo chi tộc Si-mê-ôn là Sê-lu-mi-ên con trai Xu-ri-sa-đai. 13 Quân số của ông theo thống kê là năm mươi chín ngàn ba trăm người.
14 Tiếp theo là các trại của chi tộc Gát. Người lãnh đạo chi tộc Gát là Ê-li-a-sáp con trai Ðê-u-ên. 15 Quân số của ông theo thống kê là bốn mươi lăm ngàn sáu trăm năm mươi người.
16 Tổng số quân đặt dưới lều chỉ huy của chi tộc Ru-bên, theo từng đơn vị, là một trăm năm mươi mốt ngàn bốn trăm năm mươi người. Ðại đơn vị nầy sẽ đi thứ nhì.
17 Lều Hội Kiến với trại quân của người Lê-vi sẽ đi giữa, trong khi các trại quân của các chi tộc khác ở chung quanh. Họ ra đi theo đội hình như lúc họ đóng trại; đơn vị nào theo vị trí nấy, cứ theo ngọn cờ của đơn vị mình mà di chuyển.
18 Hướng tây sẽ là vị trí cho các đơn vị dưới ngọn cờ của chi tộc Ép-ra-im. Người lãnh đạo chi tộc Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma con trai Am-mi-hút. 19 Quân số của ông theo thống kê là bốn mươi ngàn năm trăm người.
20 Ðóng trại kế chi tộc ông là chi tộc Ma-na-se. Người lãnh đạo chi tộc Ma-na-se là Ga-ma-li-ên con trai Pê-đa-xu. 21 Quân số của ông theo thống kê là ba mươi hai ngàn hai trăm người.
22 Tiếp theo là các trại của chi tộc Bên-gia-min. Người lãnh đạo của chi tộc Bên-gia-min là A-bi-đan con trai Ghi-đê-ô-ni. 23 Quân số của ông theo thống kê là ba mươi lăm ngàn bốn trăm người.
24 Tổng số quân đặt dưới lều chỉ huy của chi tộc Ép-ra-im, theo từng đơn vị, là một trăm lẻ tám ngàn một trăm người. Ðại đơn vị nầy sẽ đi thứ ba.
25 Hướng bắc sẽ là vị trí cho các đơn vị dưới ngọn cờ của chi tộc Ðan. Người lãnh đạo chi tộc Ðan là A-hi-ê-xe con trai Am-mi-sa-đai. 26 Quân số của ông theo thống kê là sáu mươi hai ngàn bảy trăm người.
27 Ðóng trại kế chi tộc ông là chi tộc A-se. Người lãnh đạo chi tộc A-se là Pa-ghi-ên con trai Ốc-ran. 28 Quân số của ông theo thống kê là bốn mươi mốt ngàn năm trăm người.
29 Tiếp theo là các trại của chi tộc Náp-ta-li. Người lãnh đạo chi tộc Náp-ta-li là A-hi-ra con trai Ê-nan. 30 Quân số của ông theo thống kê là năm mươi ba ngàn bốn trăm người.
31 Tổng số quân đặt dưới lều chỉ huy của chi tộc Ðan, theo từng đơn vị, là một trăm năm mươi bảy ngàn sáu trăm người. Ðại đơn vị nầy sẽ đi cuối cùng.
32 Ðó là quân số của I-sơ-ra-ên đã được thống kê theo gia tộc của họ. Tổng số quân trong các trại, theo các đơn vị của họ, là sáu trăm lẻ ba ngàn năm trăm năm mươi người. 33 Ðó là chưa kể người Lê-vi, những người không được thống kê trong dân I-sơ-ra-ên, như Chúa đã truyền cho Môi-se.
34 Dân I-sơ-ra-ên thi hành đúng như Chúa đã truyền cho Môi-se. Họ đóng trại theo ngọn cờ của từng đơn vị; khi ra đi họ cũng di chuyển theo đội hình như vậy, ai nấy đều di chuyển theo thị tộc mình, cùng với gia tộc mình.
Các Con của A-rôn
3 Ðây là dòng dõi của A-rôn và Môi-se trong thời Chúa phán với Môi-se trên Núi Si-nai. 2 Ðây là tên các con trai A-rôn: Na-đáp con đầu lòng, A-bi-hu, Ê-lê-a-xa, và I-tha-ma. 3 Ðó là tên các con trai của A-rôn, những vị tư tế đã được xức dầu phong chức để thi hành chức vụ tư tế. 4 Na-đáp và A-bi-hu đã qua đời trước mặt Chúa, khi họ dâng một thứ lửa uế dị trước mặt Chúa trong Ðồng Hoang Si-nai. Hai người đó không có con nối dõi. Chỉ còn Ê-lê-a-xa và I-tha-ma tiếp tục thi hành chức vụ tư tế trước mặt A-rôn thân phụ của họ.
Nhiệm Vụ của Người Lê-vi
5 Bấy giờ Chúa phán với Môi-se, 6 “Hãy đem chi tộc Lê-vi đến gần và để họ đứng túc trực trước mặt Tư Tế A-rôn, hầu họ có thể phụ giúp ông. 7 Họ sẽ thi hành những công tác cho ông và cho toàn thể hội chúng trước Lều Hội Kiến, tức phục vụ những công việc của Ðền Tạm. 8 Họ sẽ trông nom tất cả những vật dụng trong Lều Hội Kiến, và thay cho dân I-sơ-ra-ên làm những công việc phục vụ Ðền Tạm. 9 Ngươi hãy trao họ cho A-rôn và dòng dõi ông. Họ đã được chọn trong toàn dân I-sơ-ra-ên để trao cho ông ấy. 10 Ngươi hãy lập A-rôn và dòng dõi ông để họ thi hành chức vụ tư tế; người nào ngoài dòng dõi ông đến gần nơi thánh sẽ bị xử tử.”
Người Lê-vi Ðược Chọn
11 Chúa phán với Môi-se rằng, 12 “Nầy, Ta chọn người Lê-vi trong dân I-sơ-ra-ên để thay thế tất cả con đầu lòng của dân I-sơ-ra-ên; vì thế người Lê-vi thuộc về Ta, 13 vì tất cả con đầu lòng đều thuộc về Ta. Khi Ta tiêu diệt tất cả con đầu lòng trong đất Ai-cập, Ta đã biệt riêng ra thánh cho Ta tất cả con đầu lòng của dân I-sơ-ra-ên, cả loài người lẫn loài thú; chúng thuộc về Ta. Ta là Chúa.”
Thống Kê Người Lê-vi
14 Bấy giờ Chúa phán với Môi-se trong Ðồng Hoang Si-nai rằng, 15 “Hãy thực hiện cuộc thống kê người Lê-vi theo gia tộc và thị tộc. Ngươi sẽ lập danh sách mọi người nam từ một tháng trở lên.” 16 Vậy Môi-se lập danh sách họ theo như lời Chúa đã truyền cho ông.
17 Sau đây là tên các con của Lê-vi: Ghẹt-sôn, Kê-hát, và Mê-ra-ri. 18 Ðây là tên các con của Ghẹt-sôn theo thị tộc của họ: Líp-ni và Si-mê-i. 19 Các con của Kê-hát theo thị tộc của họ: Am-ram, Ít-ha, Hếp-rôn, và U-xi-ên. 20 Các con của Mê-ra-ri theo thị tộc của họ: Mác-li và Mu-si. Ðó là các thị tộc của người Lê-vi kể theo gia tộc của họ.
21 Dòng họ Ghẹt-sôn có thị tộc Líp-ni và thị tộc Si-mê-i. Ðó là các thị tộc của dòng họ Ghẹt-sôn. 22 Theo danh sách họ đã kê khai trong cuộc thống kê, những người nam của họ, tuổi từ một tháng trở lên, tổng cộng được bảy ngàn năm trăm người. 23 Dòng họ Ghẹt-sôn đóng trại phía sau Ðền Tạm, tức ở phía tây. 24 Ê-li-a-sáp con của La-ên lãnh đạo dòng họ Ghẹt-sôn. 25 Nhiệm vụ của dòng họ Ghẹt-sôn là đảm trách những công việc trong Lều Hội Kiến, tức Ðền Tạm, gồm chiếc lều và những tấm bạt làm mái lều, tấm màn che ở cửa ra vào Lều Hội Kiến, 26 những tấm màn làm tường vải che chung quanh sân và tấm màn che ở cổng vào sân, tức những tấm màn che chung quanh Ðền Tạm và bàn thờ, cùng các dây thừng để căng những vật ấy.
27 Dòng họ Kê-hát có thị tộc Am-ram, thị tộc Ít-ha, thị tộc Hếp-rôn, và thị tộc U-xi-ên. Ðó là các thị tộc của dòng họ Kê-hát. 28 Tính tất cả những người nam của họ, tuổi từ một tháng trở lên, tổng cộng được tám ngàn sáu trăm người; họ đảm trách những nhiệm vụ trong Nơi Thánh. 29 Dòng họ Kê-hát đóng trại ở phía nam Ðền Tạm. 30 Ê-li-xa-phan con trai U-xi-ên lãnh đạo các thị tộc của dòng họ Kê-hát. 31 Nhiệm vụ của họ là trông nom Rương Giao Ước, bàn dâng bánh thánh, cây đèn, các bàn thờ, các khí cụ của Nơi Thánh mà các tư tế dùng để thi hành thánh lễ, tấm màn ngăn đôi, và mọi thứ liên hệ đến những việc ấy. 32 Ê-li-a-xa con trai Tư Tế A-rôn chỉ huy những người lãnh đạo của người Lê-vi, và giám sát những người phục vụ trong Nơi Thánh.
33 Dòng họ Mê-ra-ri có thị tộc Mác-li và thị tộc Mu-si. Ðó là các thị tộc của dòng họ Mê-ra-ri. 34 Theo danh sách họ đã kê khai trong cuộc thống kê, những người nam của họ, tuổi từ một tháng trở lên, tổng cộng được sáu ngàn hai trăm người. 35 Xu-ri-ên con của A-bi-ha-in lãnh đạo các thị tộc của dòng họ Mê-ra-ri. Họ đóng trại ở phía bắc Ðền Tạm. 36 Trách nhiệm giao cho các con cháu của Mê-ra-ri là các tấm ván, các thanh ngang, các trụ, các đế trụ, các đồ phụ tùng, và mọi thứ liên hệ đến những vật đó. 37 Ngoài ra, họ cũng chịu trách nhiệm về các trụ để treo màn che quanh sân, các đế của những trụ ấy, các cọc, và những dây căng của chúng.
38 Những người đóng trại ở phía trước hay về phía đông của Ðền Tạm, tức ở phía trước hay về phía đông của Lều Hội Kiến, là Môi-se, A-rôn, và các con trai của A-rôn. Họ có trách nhiệm cử hành các thánh lễ trong Nơi Thánh, tức tất cả những gì họ phải làm cho dân I-sơ-ra-ên. Bất cứ người ngoài nào đến gần nơi ấy sẽ bị xử tử.
39 Tổng cộng những người Lê-vi đã được thống kê, tức những người Môi-se và A-rôn đã vâng lệnh Chúa lập danh sách, theo từng thị tộc, mọi người nam tuổi từ một tháng trở lên, là hai mươi hai ngàn người.
Thống Kê Các Con Ðầu Lòng và Việc Chuộc Con Ðầu Lòng
40 Bấy giờ Chúa phán với Môi-se, “Hãy thực hiện cuộc thống kê tất cả con trai đầu lòng của dân I-sơ-ra-ên, tuổi từ một tháng trở lên và lập danh sách họ. 41 Ta là Chúa. Sau đó ngươi hãy nhận lấy người Lê-vi cho Ta, để họ thay thế tất cả con đầu lòng của dân I-sơ-ra-ên và lấy các súc vật của người Lê-vi để chúng thay thế tất cả súc vật đầu lòng của dân I-sơ-ra-ên.” 42 Vậy Môi-se lập danh sách tất cả con đầu lòng của dân I-sơ-ra-ên như Chúa đã truyền cho ông. 43 Ông cộng tất cả con đầu lòng đã được ghi danh, tức tất cả những người nam đầu lòng tuổi từ một tháng trở lên, cứ theo từng tên mà tính, tổng cộng được hai mươi hai ngàn hai trăm bảy mươi ba người.
44 Bấy giờ Chúa phán với Môi-se rằng, 45 “Hãy nhận lấy người Lê-vi để thay thế tất cả con đầu lòng của dân I-sơ-ra-ên và lấy các súc vật của người Lê-vi để thay thế tất cả súc vật đầu lòng của dân I-sơ-ra-ên; bấy giờ người Lê-vi sẽ thuộc về Ta. Ta là Chúa. 46 Còn giá để chuộc hai trăm bảy mươi ba người, tức số người sai biệt do số con đầu lòng của dân I-sơ-ra-ên trội hơn số người Lê-vi, sẽ như sau: 47 Ngươi sẽ nhận lấy năm sê-ken[g] cho một người, theo trị giá của sê-ken Nơi Thánh, một sê-ken là hai mươi ghê-ra.[h] 48 Hãy lấy số tiền đó rồi trao cho A-rôn và các con trai ông; nhờ số tiền ấy mà số người trội hơn đó sẽ được chuộc.” 49 Vậy Môi-se nhận lấy số tiền chuộc những người sai biệt, do số con đầu lòng trội hơn số người Lê-vi; 50 ông nhận lấy số tiền một ngàn ba trăm sáu mươi lăm sê-ken, theo trị giá của sê-ken Nơi Thánh, từ các con đầu lòng của dân I-sơ-ra-ên, 51 rồi Môi-se trao số tiền ấy cho A-rôn và các con trai ông theo lời Chúa, y như Chúa đã truyền cho Môi-se.
Dòng Họ Kê-hát
4 Chúa phán với Môi-se và A-rôn rằng, 2 “Hãy thống kê những người Kê-hát trong vòng các con cháu Lê-vi, theo gia đình và gia tộc của họ, 3 những người từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức tất cả những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong Lều Hội Kiến. 4 Công việc của người Kê-hát trong Lều Hội Kiến sẽ liên quan đến những đồ thờ cực thánh.
5 Mỗi khi nhổ trại ra đi, A-rôn và các con trai ông sẽ đi vào và gỡ tấm màn ngăn đôi trong Nơi Thánh xuống, rồi dùng nó bao Rương Giao Ước lại. 6 Kế đến họ sẽ phủ lên trên một tấm đậy làm bằng da thú thượng hạng,[i] rồi phủ bên trên tấm đậy ấy một tấm vải xanh dương; sau đó họ xỏ các đòn khiêng vào.
7 Về bàn dâng Bánh Hằng Hiến, họ sẽ lấy một tấm vải xanh dương phủ lên; rồi lấy các khay, các bát dâng hương, các chén, các bình dùng để dâng lễ quán, và bánh dâng hằng ngày đem đặt trên tấm vải đó. 8 Kế đến họ sẽ lấy một tấm vải màu đỏ thẳm phủ trên các món đó, rồi lấy một tấm khác làm bằng da thú thượng hạng phủ trên tấm vải ấy; sau đó họ mới xỏ đòn khiêng vào.
9 Họ cũng sẽ lấy một tấm vải xanh dương bọc thân cây đèn lại, cùng bọc luôn các ngọn đèn, các kéo cắt tim đèn, các đĩa đựng tàn, và tất cả bình dầu để thắp đèn. 10 Họ sẽ lấy một cái bao làm bằng da thú thượng hạng bọc cây đèn và mọi khí dụng của cây đèn lại, rồi đem đặt tất cả lên cáng để khiêng đi.
11 Họ sẽ lấy một tấm vải xanh dương bọc bàn thờ bằng vàng, rồi lấy một tấm làm bằng da thú thượng hạng phủ trên tấm vải đó, sau đó họ sẽ xỏ các đòn khiêng vào. 12 Kế đến họ sẽ lấy tất cả khí dụng dùng vào việc thờ phượng trong Nơi Thánh, dùng một tấm vải xanh dương gói lại, xong lấy một tấm làm bằng da thú thượng hạng phủ lên, rồi đem đặt trên cáng để mang đi. 13 Họ cũng sẽ lấy tro trên bàn thờ, rồi lấy một tấm vải tím phủ lên. 14 Ðoạn họ sẽ đặt trên tấm vải đó tất cả khí dụng của bàn thờ, tức những thứ dùng cho sự thờ phượng, như các lư hương, các chĩa, các xẻng, các chén, và tất cả dụng cụ của bàn thờ; rồi họ sẽ phủ lên trên các dụng cụ ấy một tấm đậy làm bằng da thú thượng hạng; sau đó họ mới xỏ các đòn khiêng vào.
15 Sau khi A-rôn và các con ông hoàn tất công việc che phủ Nơi Thánh và tất cả khí dụng của Nơi Thánh, lúc sắp sửa nhổ trại ra đi, bấy giờ các con cháu Kê-hát mới đến để mang các vật thánh ấy đi. Tuy nhiên họ không được phép chạm vào bất cứ vật thánh nào, nếu không họ sẽ chết. Ðó là những vật dụng của Lều Hội Kiến mà các con cháu Kê-hát có nhiệm vụ mang đi.
16 Ê-lê-a-xa con trai Tư Tế A-rôn có nhiệm vụ trông coi việc cung cấp dầu cho đèn, hương thơm, của lễ chay dâng thường xuyên, dầu cho lễ xức dầu, cùng coi sóc toàn thể Ðền Tạm và mọi vật trong đó, tức Nơi Thánh và các vật dụng trong đó.”
17 Chúa lại phán với Môi-se và A-rôn, 18 “Các ngươi chớ để cho thị tộc của dòng họ Kê-hát bị diệt mất trong vòng các con cháu Lê-vi. 19 Ðây là những gì các ngươi phải làm cho họ để họ được sống và không phải chết khi họ đến gần các vật cực thánh: A-rôn và các con trai ông sẽ vào và giao công tác hoặc những gì cần phải khuân vác cho mỗi người. 20 Nhưng các con cháu Kê-hát không được phép tự động vào xem những vật thánh trong lúc chúng được che kín, dù chỉ trong giây phút cũng không được, bằng không chúng sẽ chết.”
Dòng Họ Ghẹt-sôn và Dòng Họ Mê-ra-ri
21 Chúa phán với Môi-se rằng, 22 “Ngươi cũng hãy thống kê những người Ghẹt-sôn theo gia đình và gia tộc của họ; 23 ngươi hãy thống kê những người từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức tất cả những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong Lều Hội Kiến. 24 Ðây là công việc của người Ghẹt-sôn trong công tác phục vụ hay trong công tác chuyên chở nặng nề: 25 Họ sẽ đảm trách việc di chuyển những bức màn của Ðền Tạm, Lều Hội Kiến với mái lều, tấm phủ lều làm bằng da thú thượng hạng, tấm màn ở cửa Lều Hội Kiến, 26 những tấm màn làm tường bao quanh sân, tấm màn che ở cửa ra vào sân, đó là bức tường vải bao quanh khu Ðền Tạm và bàn thờ, những dây căng lều, và tất cả dụng cụ liên quan đến công việc của họ. Họ sẽ làm tất cả những việc họ cần phải làm.
27 Tất cả những công việc của người Ghẹt-sôn sẽ đặt dưới quyền chỉ huy của A-rôn và các con trai ông; cha con ông sẽ điều động họ mọi việc liên quan đến vấn đề di chuyển và mọi việc họ cần phải làm. Các ngươi phải chỉ bảo họ những gì họ phải mang đi. 28 Ðó là công tác của dòng họ Ghẹt-sôn đối với Lều Hội Kiến. Nhiệm vụ của họ được đặt dưới quyền chỉ huy của I-tha-ma con trai Tư Tế A-rôn.
29 Còn đối với con cháu của Mê-ra-ri, ngươi hãy thống kê những người Mê-ra-ri theo gia đình và gia tộc của họ; 30 ngươi hãy thống kê những người từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức tất cả những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong Lều Hội Kiến. 31 Ðây là những gì liên quan đến Lều Hội Kiến được giao cho họ để họ mang đi: các tấm ván của Lều Hội Kiến, các thanh ngang, các trụ, các đế trụ, 32 các trụ của bức tường vải bao quanh sân, các đế của những trụ đó, các cây cọc, các dây căng trại, các đồ phụ tùng, và mọi thứ liên hệ đến những vật đó. Các ngươi phải chỉ định đích danh những vật gì họ phải mang đi. 33 Ðó là trách nhiệm của dòng họ Mê-ra-ri về mọi công việc của họ liên quan đến Lều Hội Kiến dưới sự chỉ huy của I-tha-ma con trai Tư Tế A-rôn.”
Thống Kê Chi Tộc Lê-vi
34 Vậy Môi-se, A-rôn, và những vị lãnh đạo của hội chúng đã thống kê các con cháu Kê-hát theo từng gia đình và gia tộc của họ, 35 những người từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức tất cả những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong Lều Hội Kiến. 36 Tổng số người đã được thống kê, dựa theo con số khai báo trong các gia đình là hai ngàn bảy trăm năm mươi người. 37 Ðó là con số được thống kê của dòng họ Kê-hát, tức tất cả những người sẽ phục vụ trong Lều Hội Kiến mà Môi-se và A-rôn đã thống kê theo lịnh Chúa đã truyền cho Môi-se.
38 Các con cháu Ghẹt-sôn được thống kê theo từng gia đình và gia tộc của họ, 39 những người từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức tất cả những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong Lều Hội Kiến. 40 Tổng số người đã được thống kê dựa theo con số khai báo trong các gia đình và gia tộc của họ là hai ngàn sáu trăm ba mươi người. 41 Ðó là con số được thống kê của dòng họ Ghẹt-sôn, tức tất cả những người sẽ phục vụ trong Lều Hội Kiến mà Môi-se và A-rôn đã thống kê theo lịnh Chúa đã truyền cho Môi-se.
42 Dòng họ Mê-ra-ri được thống kê theo từng gia đình và gia tộc của họ, 43 những người từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức tất cả những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong Lều Hội Kiến. 44 Tổng số người đã được thống kê dựa theo con số khai báo trong các gia đình của họ là ba ngàn hai trăm người. 45 Ðó là con số được thống kê của dòng họ Mê-ra-ri mà Môi-se và A-rôn đã thống kê theo lịnh Chúa đã truyền cho Môi-se.
46 Tất cả những người được thống kê trong chi tộc Lê-vi, tức những người mà Môi-se và A-rôn cùng những vị lãnh đạo của dân I-sơ-ra-ên đã thống kê theo từng gia đình và gia tộc của họ, 47 từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ và làm những công việc di chuyển nặng nhọc liên quan đến Lều Hội Kiến 48 là tám ngàn năm trăm tám mươi người. Ðó là tổng số những người được thống kê. 49 Theo lịnh Chúa truyền cho Môi-se, những người ấy được giao cho những công tác để phục vụ hoặc khiêng vật gì khi di chuyển. Như vậy họ đã được thống kê theo như Chúa đã truyền cho Môi-se.
Những Người Bị Ô Uế
5 Chúa phán với Môi-se rằng, 2 “Hãy truyền cho dân I-sơ-ra-ên buộc những người bị bịnh phung,[j] những người bị nhiễm trùng ra mủ, và những người bị ô uế do đụng chạm vào xác chết phải ra ở bên ngoài doanh trại. 3 Ngươi phải bắt những người ấy, bất kể nam hay nữ, phải ra bên ngoài doanh trại mà ở. Họ không được làm cho doanh trại, tức nơi Ta ngự, trở nên ô uế.” 4 Dân I-sơ-ra-ên làm y như vậy; họ bắt những người ấy ra ở bên ngoài doanh trại. Chúa đã truyền cho Môi-se thể nào, họ làm y như thế ấy.
Nhận Tội và Bồi Thường
5 Chúa phán với Môi-se rằng, 6 “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên: Khi một người nào, bất luận nam hay nữ, phạm một tội gì người ta có thể phạm khiến mang tội với Chúa, và người ấy đã mắc tội. 7 Người ấy phải xưng nhận tội mình đã phạm, rồi phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra, và phải trả thêm một phần năm cho người bị thiệt hại. 8 Nếu người bị thiệt hại không còn sống và cũng không có bà con gần nào để có thể lãnh tiền bồi thường, tiền bồi thường ấy sẽ thuộc về Chúa, và tư tế sẽ được hưởng, không kể con chiên đực làm của lễ chuộc tội mà người mắc tội phải đem dâng để làm lễ chuộc tội cho mình.
9 Trong tất cả lễ vật thánh của dân I-sơ-ra-ên, món gì họ đem biếu cho tư tế sẽ thuộc về tư tế. 10 Tất cả lễ vật thánh đều thuộc về người đem dâng, nhưng món gì người ấy đem biếu cho tư tế sẽ thuộc về tư tế.”
Luật về Ghen Tương
11 Chúa phán với Môi-se rằng, 12 “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên và bảo họ: Nếu vợ người nào ngoại tình và không chung thủy với chồng, 13 nếu có người đàn ông nào ăn nằm với người đàn bà ấy mà chồng bà không biết, tức người đàn bà ấy đã thất tiết do lén lút ngoại tình, và không có chứng cớ vì không ai bắt quả tang, 14 nếu người chồng nổi ghen vì nghi ngờ vợ mình đã lén lút ngoại tình và nàng đã thất tiết, hoặc nếu người chồng nổi ghen vì nghi ngờ vợ mình đã lén lút ngoại tình mặc dù nàng không hề thất tiết, 15 thì người chồng phải đem vợ mình đến tư tế. Vì cớ nàng, người chồng phải đem theo hai lít[k] bột lúa mạch để làm của lễ. Ông ta không được đổ dầu vào hay rắc nhũ hương lên trên, vì đó là của lễ chay dâng vì ghen, một của lễ tượng trưng, dâng để xin xác định tội lỗi.
16 Tư tế sẽ đem người đàn bà đến gần và để nàng đứng trước mặt Chúa. 17 Tư tế sẽ lấy nước thánh từ trong bình sành và lấy một ít bụi trên nền Ðền Tạm bỏ vào trong nước ấy. 18 Tư tế sẽ để người nữ ấy đứng trước mặt Chúa, bảo nàng xõa tóc xuống, đặt trong tay nàng một của lễ chay tượng trưng, tức của lễ chay dâng vì ghen. Trong tay tư tế có nước đắng mang lại sự nguyền rủa. 19 Tư tế sẽ bắt nàng thề và nói với nàng như thế nầy, ‘Nếu không có người đàn ông nào đã ăn nằm với bà, nếu bà không hề lỗi đạo với chồng mà thất thân với ai, thì nước đắng mang lại sự nguyền rủa nầy sẽ không làm hại bà. 20 Nhưng nếu bà đã ngoại tình và đã lỗi đạo với chồng, nếu bà đã thất tiết vì ăn nằm với một người đàn ông khác mà không phải chồng bà’ 21 – Bấy giờ tư tế sẽ bắt nàng thề độc và nói với nàng– ‘Nguyện Chúa làm cho bà trở thành cớ cho người ta nguyền rủa và thề độc giữa vòng dân tộc bà. Nguyện Chúa làm cho tử cung bà teo lại và bụng bà sình ra. 22 Nguyện nước đắng nầy thấm vào ruột gan bà làm cho bụng bà sình ra, còn tử cung bà sẽ teo lại.’ Người đàn bà ấy sẽ đáp, ‘A-men. A-men.’[l]
23 Bấy giờ tư tế sẽ viết những lời nguyền rủa ấy trên một bảng nhỏ,[m] rồi đem rửa những chữ ấy cho chảy vào nước đắng. 24 Tư tế sẽ bắt nàng uống nước đắng mang lại sự nguyền rủa ấy. Nước đắng mang lại sự nguyền rủa sẽ vào trong ruột gan nàng và làm cho nàng đau bụng vì nước đắng ấy. 25 Tư tế sẽ lấy của lễ chay dâng vì ghen khỏi tay nàng, rồi nâng cao lên để dâng, sau đó tư tế mang của lễ ấy đến bàn thờ. 26 Tư tế sẽ hốt một nắm bột tượng trưng của lễ chay, đem bỏ nắm bột ấy vào lửa trên bàn thờ để thiêu cho thành khói, sau đó tư tế bảo nàng uống thứ nước đó. 27 Sau khi tư tế đã bắt nàng uống thứ nước đó, nếu quả thật nàng đã lỗi đạo với chồng và đã thất thân với người khác, thì nước đắng mang lại sự nguyền rủa đó sẽ vào ruột gan nàng, khiến nàng bị đau đớn vì đắng, bụng nàng sẽ sình ra, tử cung nàng sẽ teo lại, và nàng sẽ thành cớ cho người ta nguyền rủa giữa dân tộc nàng. 28 Nhưng nếu nàng không hề ngoại tình và luôn luôn trong trắng, nàng sẽ không bị hại gì, về sau nàng sẽ có thai và sinh con.
29 Ðó là luật về ghen tương, áp dụng cho người phụ nữ có chồng mà lén lút ngoại tình và thất tiết với chồng, 30 hoặc khi người chồng nổi ghen vì nghi ngờ lòng chung thủy của vợ, người chồng phải dẫn vợ đến trước mặt Chúa, rồi tư tế sẽ áp dụng đầy đủ những chi tiết của luật nầy cho nàng. 31 Người chồng sẽ vô tội, nhưng người vợ sẽ mang lấy tội lỗi của nàng.”
Luật về Người Na-xi-rê
6 Chúa phán với Môi-se rằng, 2 “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên và bảo họ: Khi một người nam hay nữ lập lời khấn nguyện na-xi-rê để biệt riêng mình ra thánh cho Chúa, 3 người ấy phải kiêng cữ rượu và các thức uống say. Người ấy không được uống rượu giấm hoặc thức chi say do men rượu chế ra; người ấy không được uống bất cứ thứ nước nho nào, và cũng không được ăn trái nho, bất kể là nho tươi hay nho khô. 4 Trong suốt thời gian giữ lời khấn nguyện na-xi-rê người ấy không được ăn những sản phẩm của cây nho, và không được ăn ngay cả những sản phẩm làm từ hột nho hay vỏ nho.
5 Suốt thời gian người ấy giữ lời khấn nguyện na-xi-rê, dao cạo sẽ không được đụng đến đầu người ấy. Cho đến ngày người ấy làm xong sự khấn nguyện của mình và được giải thệ, người ấy là một người được biệt riêng ra thánh cho Chúa, nên người ấy phải để tóc trên đầu mình mọc ra tự nhiên.
6 Suốt thời gian biệt riêng mình ra thánh cho Chúa, người ấy không được lại gần xác chết. 7 Ngay cả cha, mẹ, anh, chị, hay em mình qua đời, người ấy cũng không được để cho mình bị ô uế, bởi vì trên đầu người ấy vẫn còn mang dấu hiệu khấn nguyện làm người na-xi-rê cho Ðức Chúa Trời. 8 Suốt thời gian làm người na-xi-rê người ấy là người thánh cho Chúa.
9 Nếu có ai đột nhiên ngã chết bên cạnh, khiến cho đầu đã biệt riêng ra thánh của người ấy trở nên ô uế, người ấy phải cạo đầu mình trong ngày tẩy uế, tức cạo đầu mình trong ngày thứ bảy. 10 Ðến ngày thứ tám, người ấy sẽ mang hai con chim đất hoặc một cặp bồ câu con đến tư tế ở cửa Lều Hội Kiến. 11 Tư tế sẽ dâng một con làm của lễ chuộc tội, còn con kia làm của lễ thiêu, để chuộc tội cho người ấy, vì người ấy đã vướng phải tội do ở gần xác chết. Trong ngày đó người ấy phải làm cho đầu mình ra thánh. 12 Sau đó người ấy có thể tái khấn nguyện biệt riêng mình ra thánh một thời gian để làm người na-xi-rê cho Chúa, và dâng một con chiên đực một tuổi làm của lễ tạ lỗi. Thời gian lúc trước không còn được kể nữa, vì sự giữ lời khấn nguyện na-xi-rê đã bị phạm uế.
13 Ðây là luật cho người na-xi-rê khi thời gian biệt riêng ra thánh của người ấy đã mãn: Người ấy sẽ được đưa đến cửa Lều Hội Kiến 14 để dâng của lễ lên Chúa. Lễ vật sẽ gồm một con chiên đực một tuổi không tì vết để làm của lễ thiêu, một con chiên cái một tuổi không tì vết để làm của lễ chuộc tội, một con chiên đực không tì vết để làm của lễ cầu an, 15 một rổ bánh không men, một ít bánh ngọt làm bằng bột thượng hạng trộn dầu, một ít bánh tráng không men phết dầu, cùng với của lễ chay và của lễ quán. 16 Tư tế sẽ đem các của lễ ấy đến trước mặt Chúa, và cử hành nghi thức dâng của lễ chuộc tội và của lễ thiêu, 17 rồi dâng con chiên đực lên Chúa để làm con vật hiến tế cho của lễ cầu an, chung với rổ bánh không men. Tư tế cũng sẽ dâng kèm theo đó của lễ chay và của lễ quán. 18 Bấy giờ người na-xi-rê sẽ cạo đầu đã biệt riêng ra thánh của mình trước cửa Lều Hội Kiến, rồi lấy tóc đã cạo từ đầu đã biệt riêng ra thánh của mình thiêu trong lửa đang cháy dưới xác con vật hiến tế làm của lễ cầu an. 19 Sau khi thịt con vật hiến tế đã luộc chín, tư tế sẽ lấy cái đùi trước[n] của con chiên đực, một cái bánh không men trong rổ, một cái bánh tráng không men, và đặt vào hai tay của người na-xi-rê, tức sau khi người ấy đã cạo đầu mình. 20 Kế đến tư tế sẽ lấy và nâng cao chúng lên[o] để dâng lên trước mặt Chúa. Ðó là phần đã ra thánh thuộc về tư tế, gồm cái ức đã được nâng cao lên dâng và cái đùi đã được dâng. Sau đó người na-xi-rê được phép uống rượu.
21 Ðó là luật cho người khấn nguyện làm người na-xi-rê. Của lễ người ấy dâng lên Chúa phải phù hợp với lời khấn nguyện làm người na-xi-rê của mình, ngoài những gì người ấy có thể dâng thêm. Người ấy khấn nguyện khi biệt riêng mình ra thánh thế nào thì phải làm theo thể ấy, y như luật dành cho người na-xi-rê.”
Cách Tư Tế Chúc Phước
22 Chúa phán với Môi-se rằng, 23 “Hãy nói với A-rôn và các con trai ông ấy, ‘Ðây là cách các ngươi sẽ chúc phước dân I-sơ-ra-ên. Các ngươi sẽ nói với họ,
24 “Nguyện xin Chúa ban phước cho anh chị em[p] và gìn giữ anh chị em.
25 Nguyện xin Chúa tỏa rạng hào quang của thánh nhan Ngài trên anh chị em và bày tỏ lòng nhân từ đối với anh chị em.
26 Nguyện xin Chúa đoái xem[q] anh chị em và ban bình an thịnh vượng[r] cho anh chị em.”’
27 Khi họ nhân danh Ta chúc phước cho dân I-sơ-ra-ên,[s] Ta sẽ ban phước cho dân ấy.”
Lễ Vật Các Tộc Trưởng Dâng Vào Ðền Tạm
7 Vào ngày Môi-se hoàn tất công việc xây dựng Ðền Tạm –tức sau khi ông đã xức dầu và biệt riêng ra thánh Ðền Tạm cùng với mọi vật dụng trong Ðền Tạm, và sau khi ông đã xức dầu và biệt riêng ra thánh bàn thờ cùng với mọi đồ phụ tùng của bàn thờ– 2 những vị lãnh đạo của dân I-sơ-ra-ên, những tộc trưởng tức những thủ lãnh các chi tộc, và những người đã phụ giúp trong việc thống kê dân số đem các lễ vật của họ đến dâng. 3 Họ mang các lễ vật đến dâng trước mặt Chúa, gồm sáu cỗ xe có mui và mười hai con bò đực, cứ hai vị dâng một cỗ xe, và mỗi vị dâng một con bò đực. Họ mang các lễ vật đó đến dâng trước Ðền Tạm.
4 Bấy giờ Chúa phán với Môi-se, 5 “Ngươi hãy nhận các lễ vật họ mang đến dâng để dùng vào các công việc của Lều Hội Kiến. Hãy trao chúng cho người Lê-vi; trao cho mỗi dòng họ tùy theo nhu cầu công tác của họ.”
6 Vậy Môi-se nhận lấy các cỗ xe và các bò đực, rồi trao chúng cho người Lê-vi. 7 Ông trao cho con cháu Ghẹt-sôn hai cỗ xe và bốn bò đực để dùng trong công tác của họ. 8 Ông trao cho con cháu Mê-ra-ri bốn cỗ xe và tám bò đực để dùng trong công tác của họ, và đặt dưới quyền chỉ huy của I-tha-ma con trai Tư Tế A-rôn. 9 Nhưng ông không trao cho con cháu Kê-hát gì hết, vì họ chịu trách nhiệm những vật thánh, là những thứ họ phải khiêng trên vai.
10 Các vị lãnh đạo cũng dâng các lễ vật cho sự cung hiến bàn thờ trong ngày bàn thờ được xức dầu biệt riêng ra thánh; các vị lãnh đạo đã mang các lễ vật của mình đến dâng trước bàn thờ. 11 Vì Chúa đã nói với Môi-se rằng, “Mỗi ngày một người trong những người lãnh đạo sẽ thay phiên nhau mang các lễ vật đến dâng cho việc cung hiến bàn thờ.”
12 Người mang các lễ vật mình đến dâng ngày đầu tiên là Nát-sôn con trai Am-mi-na-đáp, thuộc chi tộc Giu-đa. 13 Các lễ vật của ông gồm: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram,[t] một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram,[u] theo đơn vị đo lường[v] của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 14 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram,[w] chứa đầy hương thơm, 15 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 16 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 17 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Nát-sôn con trai Am-mi-na-đáp.
18 Ngày thứ nhì, Nê-tha-nên con trai Xu-a, người lãnh đạo chi tộc I-sa-ca, mang các lễ vật của mình đến dâng. 19 Các lễ vật của ông dâng gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 20 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 21 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 22 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 23 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Nê-tha-nên con trai Xu-a.
24 Ngày thứ ba, Ê-li-áp con trai Hê-lôn, người lãnh đạo chi tộc Xê-bu-lun, mang các lễ vật của mình đến dâng. 25 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 26 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 27 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 28 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 29 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Ê-li-áp con trai Hê-lôn.
30 Ngày thứ tư, Ê-li-xu con trai Sê-đê-ua, người lãnh đạo chi tộc Ru-bên, mang các lễ vật của mình đến dâng. 31 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 32 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 33 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 34 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 35 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Ê-li-xu con trai Sê-đê-ua.
36 Ngày thứ năm, Sê-lu-mi-ên con trai Xu-ri-sa-đai, người lãnh đạo chi tộc Si-mê-ôn, mang các lễ vật của mình đến dâng. 37 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 38 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 39 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 40 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 41 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Sê-lu-mi-ên con trai Xu-ri-sa-đai.
42 Ngày thứ sáu, Ê-li-a-sáp con trai Ðê-u-ên, người lãnh đạo chi tộc Gát, mang các lễ vật của mình đến dâng. 43 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 44 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 45 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 46 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 47 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Ê-li-a-sáp con trai Ðê-u-ên.
48 Ngày thứ bảy, Ê-li-sa-ma con trai Am-mi-hút, người lãnh đạo chi tộc Ép-ra-im, mang các lễ vật của mình đến dâng. 49 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 50 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 51 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 52 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 53 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Ê-li-sa-ma con trai Am-mi-hút.
54 Ngày thứ tám, Ga-ma-li-ên con trai Pê-đa-xu, người lãnh đạo chi tộc Ma-na-se, mang các lễ vật của mình đến dâng. 55 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 56 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 57 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 58 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 59 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Ga-ma-li-ên con trai Pê-đa-xu.
60 Ngày thứ chín, A-bi-đan con trai Ghi-đê-ô-ni, người lãnh đạo chi tộc Bên-gia-min, mang các lễ vật của mình đến dâng. 61 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 62 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 63 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 64 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 65 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của A-bi-đan con trai Ghi-đê-ô-ni.
66 Ngày thứ mười, A-hi-ê-xe con trai Am-mi-sa-đai, người lãnh đạo chi tộc Ðan, mang các lễ vật của mình đến dâng. 67 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 68 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 69 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 70 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 71 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của A-hi-ê-xe con trai Am-mi-sa-đai.
72 Ngày thứ mười một, Pa-ghi-ên con trai Ốc-ran, người lãnh đạo chi tộc A-se, mang các lễ vật của mình đến dâng. 73 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 74 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 75 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 76 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 77 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của Pa-ghi-ên con trai Ốc-ran.
78 Ngày thứ mười hai, A-hi-ra con trai Ê-nan, người lãnh đạo chi tộc Náp-ta-li, mang các lễ vật của mình đến dâng. 79 Các lễ vật của ông gồm có: một dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, một bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh, cả hai đều chứa đầy bột thượng hạng đã trộn dầu để làm của lễ chay, 80 một dĩa bằng vàng nặng một trăm mười gờ-ram, chứa đầy hương thơm, 81 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên đực một tuổi để dùng làm của lễ thiêu, 82 một con dê đực để dùng làm của lễ chuộc tội; 83 còn về của lễ cầu an thì có hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực, và năm con chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật của A-hi-ra con trai Ê-nan.
84 Ðó là các lễ vật do những người lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên đã dâng hiến cho bàn thờ, khi bàn thờ được xức dầu biệt riêng ra thánh: mười hai dĩa bằng bạc, mười hai bát bằng bạc, mười hai dĩa bằng vàng; 85 mỗi dĩa bằng bạc nặng một ký năm trăm gờ-ram, mỗi bát bằng bạc nặng tám trăm gờ-ram; tất cả khí dụng bằng bạc cân nặng khoảng hai mươi tám ký,[x] theo đơn vị đo lường của nơi thánh; 86 mười hai dĩa bằng vàng, chứa đầy hương thơm, mỗi dĩa cân nặng một trăm mười gờ-ram, theo đơn vị đo lường của nơi thánh; tất cả dĩa bằng vàng cân nặng khoảng một ký bốn trăm gờ-ram;[y] 87 tất cả thú vật để làm của lễ thiêu là mười hai bò đực tơ, mười hai chiên đực, mười hai chiên đực một tuổi, cùng với các lễ vật dâng làm của lễ chay; mười hai dê đực dùng làm của lễ chuộc tội; 88 còn các thú vật dâng làm của lễ cầu an thì có hai mươi bốn bò đực, sáu mươi chiên đực, sáu mươi dê đực, và sáu mươi chiên đực một tuổi. Ðó là các lễ vật đã được dâng cho sự cung hiến bàn thờ, khi bàn thờ được xức dầu biệt riêng ra thánh.
89 Mỗi khi Môi-se vào trong Lều Hội Kiến hầu chuyện với Chúa,[z] ông nghe tiếng từ trên Nắp Thi Ân, ở trên Rương Giao Ước, giữa hai chê-ru-bim, nói với ông. Ông hầu chuyện với Ngài qua cách đó.
Cách Ðặt Cây Ðèn
8 Chúa phán với Môi-se rằng, 2 “Hãy nói với A-rôn và hãy bảo ông: Khi anh đặt các ngọn đèn lên cây đèn, xin anh hãy đặt thế nào để bảy ngọn đèn tỏa sáng ra phía trước cây đèn.” 3 A-rôn làm y như thế. Ông sắp đặt các ngọn đèn và để chúng tỏa sáng ra phía trước cây đèn, như Chúa đã truyền cho Môi-se. 4 Vả, cây đèn đã được làm như thế nầy: người ta lấy vàng dát mỏng làm thành cây đèn; từ đế cho đến các hoa đèn đều được làm bằng vàng dát mỏng cả, giống như kiểu mẫu Chúa đã chỉ cho Môi-se. Ông đã làm một cây đèn y như vậy.
Lễ Biệt Riêng Người Lê-vi Ra Thánh
5 Chúa phán với Môi-se rằng, 6 “Hãy đem người Lê-vi ra khỏi dân I-sơ-ra-ên và thanh tẩy họ. 7 Ngươi sẽ thanh tẩy họ như thế nầy: Ngươi hãy rảy nước tẩy uế trên họ, rồi bảo họ cạo hết lông trên mình, cùng giặt thật sạch y phục của họ, và như thế họ làm cho mình được thanh sạch. 8 Sau đó họ sẽ đem đến một con bò đực tơ và bột thượng hạng trộn dầu làm của lễ chay; còn ngươi cũng phải đem đến một con bò đực tơ để làm của lễ chuộc tội. 9 Ngươi sẽ đưa người Lê-vi đến trước Lều Hội Kiến và tập họp toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên lại. 10 Khi ngươi đem người Lê-vi đến trước mặt Chúa, dân I-sơ-ra-ên sẽ đặt tay trên người Lê-vi. 11 Sau đó A-rôn sẽ trình diện người Lê-vi trước mặt Chúa như một của lễ do dân I-sơ-ra-ên nâng cao lên để dâng lên Chúa, hầu họ phục vụ công việc Chúa. 12 Người Lê-vi sẽ đặt tay họ trên đầu hai con bò tơ, rồi chúng sẽ được dâng lên Chúa để chuộc tội cho người Lê-vi; một con sẽ được dâng làm của lễ chuộc tội, còn con kia sẽ làm của lễ thiêu. 13 Ðoạn ngươi hãy đặt người Lê-vi đứng trước mặt A-rôn và các con trai ông, rồi ngươi sẽ dâng họ lên Chúa như một của lễ được đưa cao lên dâng.
14 Như thế ngươi sẽ biệt riêng người Lê-vi ra khỏi dân I-sơ-ra-ên, rồi người Lê-vi sẽ thuộc về Ta.
Copyright © 2011 by Bau Dang