Bible in 90 Days
19 Trong khi chiến mã, xe chiến mã và kỵ binh của Pha-ra-ôn đều chìm dưới đáy biển vì CHÚA đem nước biển trở lại phủ lấp họ; còn dân Y-sơ-ra-ên đi ngang qua biển như đi trên đất khô. 20 Nữ tiên tri Mi-ri-am, chị của A-rôn, và các phụ nữ đều cầm trống cơm nhảy múa. 21 Mi-ri-am cất tiếng đáp:
“Hãy hát lên ca ngợi CHÚA,
Vì Ngài cao cả tuyệt vời.
CHÚA ném xuống biển sâu,
Bao nhiêu chiến mã cùng đoàn kỵ binh.”
Nước Ở Ma-ra Và Ê-lim
22 Sau đó Môi-se dẫn dân Y-sơ-ra-ên từ Biển Đỏ đi đến sa mạc Su-rơ. Suốt ba ngày đi trong sa mạc họ không tìm được nước uống. 23 Khi đến Ma-ra, họ không thể uống nước ở đó được, vì nước đắng. (Đó là lý do tên của địa điểm đó là Ma-ra).[a] 24 Do đó dân chúng than phiền với Môi-se: “Chúng tôi lấy gì uống đây?”
25 Môi-se kêu cầu CHÚA và Chúa chỉ cho ông một khúc cây. Ông nắm lấy khúc cây, liệng xuống nước và nước hóa ngọt. Tại đó, CHÚA công bố đạo luật và sắc lệnh cho dân chúng và Ngài thử họ. 26 Chúa phán dạy: “Nếu các ngươi cẩn thận nghe theo tiếng của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, và làm điều ngay lành trước mắt Ta, nếu các ngươi lưu tâm đến mạng lệnh và quy luật Ta, Ta sẽ không đem đến cho các ngươi các thứ bệnh tật Ta đã giáng trên người Ai-cập, vì Ta là CHÚA, Đấng chữa bệnh các ngươi.” 27 Khi đến Ê-lim là nơi có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là, họ đóng trại bên cạnh các suối nước này.
Bánh Ma-na Và Chim Cút
16 Toàn dân Y-sơ-ra-ên đi từ Ê-lim đến sa mạc Sin (sa mạc này nằm giữa Ê-lim và Si-nai) vào ngày mười lăm tháng hai, tính từ ngày họ ra khỏi Ai-cập. 2 Khi ở trong sa mạc toàn dân Y-sơ-ra-ên phiền trách Môi-se và A-rôn. 3 Họ nói với hai ông rằng: “Thà chúng tôi chết vì bàn tay của CHÚA trong xứ Ai-cập khi ngồi quanh nồi thịt và muốn chi có nấy, còn hơn là để hai ông đem vào sa mạc để chết đói cả đám!”
4 CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa cho các ngươi. Mỗi ngày dân chúng sẽ đi lượm đủ bánh cho ngày đó. Ta sẽ dùng cách ấy thử chúng để xem chúng có vâng giữ các giáo huấn của Ta hay không. 5 Vào ngày thứ sáu chúng sẽ thu nhặt gấp đôi số lượng chúng thu nhặt trong những ngày khác.”
6 Vậy Môi-se và A-rôn nói với toàn dân Y-sơ-ra-ên: “Chiều nay, anh chị em sẽ nhận biết rằng chính CHÚA đã đem anh chị em ra khỏi Ai-cập. 7 Chiều nay anh chị em sẽ trông thấy vinh quang của CHÚA vì Ngài đã nghe tiếng than phiền của anh chị em rồi. Chúng tôi là ai mà anh chị em trách móc chúng tôi?” 8 Môi-se tiếp: “Anh chị em sẽ nhận biết CHÚA khi Ngài ban cho dư dật thịt vào buổi chiều và bánh vào buổi sáng, vì Ngài đã nghe tiếng anh chị em trách móc Ngài. Chúng tôi là ai? Không phải anh chị em trách móc chúng tôi đâu, nhưng chính anh chị em trách móc CHÚA đó.”
9 Sau đó Môi-se nói với A-rôn: “Anh truyền cho dân chúng đến trước mặt CHÚA vì Ngài đã nghe tiếng than phiền của họ.” 10 Đang khi A-rôn nói chuyện với toàn dân Y-sơ-ra-ên, họ ngó về hướng sa mạc và thấy vinh quang của CHÚA hiện ra trên đám mây.
11 CHÚA phán với Môi-se: 12 “Ta đã nghe tiếng than phiền của dân Y-sơ-ra-ên. Con nói với chúng: ‘đến chiều các ngươi sẽ ăn thịt và đến sáng mai sẽ có bánh ăn dư dật,’ rồi chúng nó sẽ nhận biết Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng nó.” 13 Chiều đó, chim cút bay đến phủ cả trại quân và qua sáng mai có một lớp sương xung quanh trại quân. 14 Lớp sương tan đi và để lại trên cát sa mạc những hạt nhỏ mịn như sương muối. 15 Khi thấy các hạt nhỏ này, dân Y-sơ-ra-ên hỏi nhau: “Cái gì vậy?” vì họ không biết đó là vật gì. Môi-se đáp: “Đó là bánh CHÚA ban cho anh chị em ăn. 16 Và đây là mạng lệnh của Ngài: ‘Mỗi người đi nhặt đủ cho nhu cầu của mình. Nhặt cho mỗi người một ô-me[b] trong lều của mình.’ ”
17 Người Y-sơ-ra-ên làm theo lời ấy, người nhặt nhiều kẻ nhặt ít. 18 Nhưng khi đong, người nhặt nhiều cũng chẳng thừa, kẻ nhặt ít cũng không thiếu. Mỗi người thu lượm tùy theo nhu cầu của mình. 19 Môi-se có căn dặn họ đừng để bánh thừa đến sáng mai. 20 Tuy nhiên có một số người không để ý đến lời Môi-se và để bánh thừa đến sáng hôm sau, bánh hóa sâu và có mùi hôi hám. Vì vậy Môi-se giận họ.
21 Cứ đến sáng, mỗi người đi thu nhặt đủ số cần dùng và khi mặt trời đã nóng, bánh tan đi hết. 22 Vào ngày thứ sáu, họ thu nhặt gấp đôi, tức là mỗi người hai ô-me. Khi thấy vậy các người lãnh đạo trong hội chúng đến báo cáo với Môi-se. 23 Nhưng Môi-se nói rằng: “Đây là điều CHÚA truyền dạy: ‘ngày mai là ngày nghỉ, là ngày Sa-bát thánh cho CHÚA. Hãy nấu nướng món gì các ngươi muốn nấu nướng, luộc món gì các ngươi muốn luộc, rồi để dành một phần cho ngày hôm sau.’ ”
24 Họ làm theo lời Môi-se và để thức ăn đến sáng hôm sau; thức ăn không hôi hám cũng không hóa sâu. 25 Khi ấy Môi-se nói với họ: “Anh chị em ăn các món đó hôm nay đi, vì hôm nay là ngày Sa-bát cho CHÚA. Hôm nay anh chị em sẽ không tìm thấy bánh trên mặt đất đâu. 26 Anh chị em đi thu lượm trong sáu ngày nhưng qua ngày thứ bảy là ngày Sa-bát, sẽ không có bánh.”
27 Tuy nhiên, một số người đi ra kiếm bánh vào ngày Sa-bát nhưng không tìm thấy gì cả. 28 CHÚA phán hỏi Môi-se: “Các ngươi cứ từ chối không chịu vâng theo mạng lệnh và giáo huấn của Ta cho đến khi nào? 29 Nên nhớ rằng CHÚA đã cho các ngươi ngày Sa-bát; vì đó mà vào ngày thứ sáu Ngài cho các ngươi đủ bánh cho hai ngày. Tất cả mọi người phải nghỉ ngơi trong ngày thứ bảy; không ai được phép đi ra ngoài.” 30 Như vậy dân chúng nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy.
31 Dân Y-sơ-ra-ên gọi bánh đó là ma-na,[c] nó giống hạt ngò, có vị như bánh mật ong. 32 Môi-se nói: “Đây là mạng lệnh CHÚA truyền dạy: ‘Lấy một ô-me ma-na và giữ lại cho các thế hệ tương lai, để chúng được thấy thứ bánh Ta ban cho các ngươi ăn trong sa mạc khi Ta đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập.’ ” 33 Vậy Môi-se nói với A-rôn: “Anh lấy một cái bình, bỏ vào đấy một ô-me ma-na, rồi đem bình để trước mặt CHÚA để giữ lại cho các thế hệ tương lai.” 34 Đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se, A-rôn đem ma-na đặt trước Rương Giao Ước để lưu truyền. 35 Dân Y-sơ-ra-ên ăn ma-na trong bốn mươi năm, cho đến khi họ vào định cư, tức là họ ăn ma-na cho tới biên giới xứ Ca-na-an. 36 Một ô-me bằng một phần mười ê-pha.[d]
Nước Từ Vầng Đá
17 Toàn dân Y-sơ-ra-ên từ sa mạc Sin ra đi từng chặng theo lệnh của CHÚA. Họ đến cắm trại ở Rê-phi-đim, nhưng ở đó không có nước cho dân chúng uống. 2 Họ cãi nhau với Môi-se và nói: “Ông cho chúng tôi nước uống!” Môi-se đáp: “Tại sao anh chị em cãi nhau với tôi? Tại sao anh chị em thử CHÚA?”
3 Nhưng vì quá khát nên họ cứ trách móc Môi-se và nói: “Tại sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập để cho chúng tôi, con cái chúng tôi và bầy súc vật phải chết khát?” 4 Môi-se kêu cầu CHÚA: “Con phải làm gì cho dân này? Thiếu chút nữa là họ ném đá con.”
5 CHÚA đáp lời Môi-se: “Con hãy đi trước dân chúng, dẫn theo con một số bô lão Y-sơ-ra-ên và cầm trong tay cây gậy con đã dùng đập nước sông Ninh. 6 Ta sẽ đứng đó, trước mặt con ở bên vầng đá Hô-rếp. Con sẽ đập vầng đá và nước sẽ tuôn tràn ra cho dân chúng uống.” Môi-se làm đúng theo điều Chúa phán dạy trước mắt các bô lão Y-sơ-ra-ên. 7 Ông đặt tên chỗ đó là Ma-sa[e] và Mê-ri-ba[f] vì dân Y-sơ-ra-ên có cãi lộn và vì họ thử CHÚA khi nói rằng: “CHÚA có ở giữa chúng ta không?”
Đánh Bại Dân A-ma-léc
8 Người A-ma-léc đến tấn công dân Y-sơ-ra-ên tại Rê-phi-đim. 9 Môi-se bảo Giô-suê: “Hãy tuyển chọn người của chúng ta để ra chiến đấu chống lại dân A-ma-léc. Ngày mai tôi sẽ đứng trên ngọn đồi với cây gậy của Đức Chúa Trời trong tay.”
10 Như vậy Giô-suê chiến đấu chống lại dân A-ma-léc theo lệnh Môi-se, còn Môi-se, A-rôn và Hu-rơ lên đứng trên đỉnh đồi. 11 Trong khi Môi-se đưa tay lên thì dân Y-sơ-ra-ên thắng thế, nhưng khi nào ông hạ tay xuống thì dân A-ma-léc lại thắng thế. 12 Khi tay Môi-se đã mỏi, A-rôn và Hu-rơ cùng đứng mỗi người một bên để đỡ tay Môi-se và giữ cho tay ông không chuyển động cho đến khi mặt trời lặn. 13 Như vậy Giô-suê dùng gươm đánh bại đạo quân A-ma-léc.
14 Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se: “Con chép lại việc này trong một cuốn sách để ghi nhớ, và cũng nói cho Giô-suê biết rằng Ta sẽ xóa sạch kỷ niệm của dân A-ma-léc khỏi dưới trời.” 15 Môi-se thiết lập một bàn thờ, đặt tên là: “CHÚA, cờ chiến thắng của tôi.” 16 Ông nói rằng: “Vì tay họ đã đưa lên nghịch với ngôi của CHÚA nên Ngài sẽ chống nghịch dân A-ma-léc từ đời này đến đời kia.”
Giê-trô Viếng Thăm Môi-se
18 Ông gia Môi-se là Giê-trô, thầy tế lễ Ma-đi-an, có nghe về mọi việc Đức Chúa Trời đã làm cho Môi-se và cho dân Y-sơ-ra-ên, cũng như về cách CHÚA đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập. 2 Trước đấy Môi-se có gởi vợ là Sê-phô-ra cho ông gia là Giê-trô, 3 cùng hai con trai Môi-se đặt tên cho một người con là Ghẹt-sôn,[g] vì nói rằng: “Tôi đã thành một kiều dân ở ngoại quốc” 4 và đặt tên cho người kia là Ê-li-ê-se[h] vì nói: “Đức Chúa Trời của tổ phụ tôi là Đấng đã giúp đỡ tôi, Ngài giải cứu tôi khỏi lưỡi gươm của Pha-ra-ôn.”
5 Giê-trô, ông gia Môi-se, cùng với vợ và hai con trai Môi-se, đến gặp ông khi ông đang cắm trại gần bên núi của Đức Chúa Trời. 6 Giê-trô cho người đến báo cáo cho Môi-se rằng: “Ta là Giê-trô, ông gia của con, cùng với vợ và các con của con đã đến đây.”
7 Môi-se ra tiếp đón ông gia mình, cúi đầu chào và hôn ông. Sau khi chào thăm nhau, hai người vào lều. 8 Môi-se thuật lại cho ông gia nghe mọi việc CHÚA đã vì dân Y-sơ-ra-ên mà đã làm trên Pha-ra-ôn và trên dân Ai-cập; ông cũng kể lại những nỗi khó khăn dân Chúa đã gặp dọc đường và cách CHÚA giải cứu họ.
9 Giê-trô rất hoan hỉ khi nghe tất cả những việc lành CHÚA đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên để giải cứu họ ra khỏi tay người Ai-cập. 10 Ông nói: “Cảm tạ CHÚA là Đấng đã giải cứu con ra khỏi tay của người Ai-cập và của Pha-ra-ôn cũng như đã giải cứu dân Ngài khỏi tay người Ai-cập. 11 Bây giờ cha biết CHÚA vĩ đại hơn tất cả các thần vì Ngài đã làm những việc này cho những người đối xử với dân Y-sơ-ra-ên cách kiêu căng.” 12 Sau đó Giê-trô, ông gia Môi-se dâng tế lễ thiêu và các tế lễ khác cho Đức Chúa Trời, rồi A-rôn và các bô lão Y-sơ-ra-ên ăn bữa với ông gia Môi-se trước mặt Đức Chúa Trời. 13 Qua hôm sau, Môi-se ra ngồi xét đoán dân chúng, và họ đứng xung quanh ông từ sáng đến chiều. 14 Khi thấy mọi việc Môi-se làm cho dân chúng, Giê-trô hỏi: “Có phải điều đó là điều con làm cho dân chúng không? Tại sao chỉ một mình con ngồi xét đoán còn toàn dân đứng chung quanh con từ sáng đến chiều như vậy?”
15 Môi-se đáp: “Họ đến với con để tìm biết ý muốn của Đức Chúa Trời. 16 Khi có ai tranh tụng điều gì thì đem đến với con để con phân xử giữa đôi bên và cho họ biết mạng lệnh và luật pháp của Đức Chúa Trời.”
17 Ông gia Môi-se nói: “Con làm như vây không tiện. 18 Cả con lẫn những người đến với con cũng đều mệt nhoài. Công việc quá nặng nề cho con, một mình con gánh không xuể. Con sẽ kiệt quệ mà dân cũng mỏi mòn. 19 Con nghe cha nói rồi cha sẽ cho con một vài lời khuyên; cầu xin CHÚA ở với con. Con phải là người đại diện của dân chúng trước mặt Đức Chúa Trời và trình cho Ngài biết các cuộc tranh tụng của họ. 20 Con dạy cho họ các mạng lệnh và luật lệ và chỉ dẫn cho họ biết cách họ phải sống và bổn phận họ phải thi hành. 21 Trong toàn dân con cũng phải lựa chọn những người có khả năng, kính sợ Đức Chúa Trời, đáng tin cậy và ghét lợi bất chánh, rồi bổ nhiệm họ vào cấp lãnh đạo, chỉ huy từng ngàn, trăm, năm mươi và mười người. 22 Con dùng họ làm người xét xử thường xuyên để giải quyết những vụ đơn giản, còn vụ khó khăn thì đem trình cho con. Như vậy họ sẽ chia sẻ trách nhiệm với con và gánh nặng của con sẽ vơi đi rất nhiều. 23 Nếu con làm như vậy, và nếu Đức Chúa Trời cho phép, con mới gánh vác nổi và dân chúng mới an lòng khi về nhà.”
24 Môi-se nghe lời ông gia mình và làm theo mọi điều ông khuyên bảo. 25 Môi-se chọn những người có khả năng trong dân chúng và đặt họ làm những người lãnh đạo, chỉ huy hàng ngàn, trăm, năm mươi và mười người. 26 Những người này thường xuyên xét xử dân chúng và giải quyết những vụ đơn giản, còn vụ khó khăn thì đem trình Môi-se. 27 Sau đó, Môi-se tiễn đưa ông gia mình là Giê-trô, khi ông lên đường về xứ mình.
Đến Núi Si-nai
19 Sau khi ra khỏi Ai-cập đúng ba tháng, dân Y-sơ-ra-ên đến sa mạc Si-nai và cắm trại đối ngang với núi. 2 Họ đi từ Rê-phi-đim đến sa mạc Si-nai, rồi cắm trại đối ngang núi.
3 Môi-se lên với Đức Chúa Trời khi CHÚA gọi và phán dạy ông rằng: 4 “Đây là điều con sẽ thuật lại cho nhà Gia-cốp và nói lại cho dân Y-sơ-ra-ên: ‘Chính các ngươi đã thấy những việc Ta làm trong xứ Ai-cập và cách Ta đã đem các ngươi như bằng cánh chim ưng để đem các ngươi đến với Ta. 5 Bây giờ nếu các ngươi vâng phục Ta hoàn toàn và giữ giao ước Ta thì trong tất cả các nước, các ngươi sẽ là cơ nghiệp quý giá của Ta. Mặc dù cả thế gian đều thuộc về Ta, 6 riêng các ngươi sẽ là vương quốc thầy tế lễ và là dân tộc thánh cho Ta.’ Đó là những lời con phải nói lại cho dân Y-sơ-ra-ên.”
7 Như vậy Môi se trở về, triệu tập các bô lão đến và thuật lại cho họ những lời CHÚA đã truyền cho ông. 8 Toàn dân đồng thanh trả lời rằng: “Chúng tôi sẽ làm theo mọi điều CHÚA đã phán dạy.” Môi-se trình lại lời của họ với CHÚA. 9 CHÚA phán với Môi-se: “Ta sẽ đến với con trong đám mây dày đặc và cho dân chúng được nghe Ta nói chuyện với con để chúng luôn tin tưởng con.” Môi-se cũng trình lên cho CHÚA những điều dân Y-sơ-ra-ên đã nói. 10 CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy đến với dân Y-sơ-ra-ên và bảo họ làm cho mình thánh sạch trong ngày hôm nay và ngày mai. Bảo họ giặt quần áo 11 và phải sẵn sàng vào ngày thứ ba vì ngày đó CHÚA sẽ giáng lâm trên núi Si-nai trước mắt toàn dân. 12 Con phải vạch ranh giới xung quanh núi cho dân chúng và bảo họ: ‘Phải cẩn thận đừng lên núi cũng đừng đụng đến chân núi. Ai đụng đến núi phải bị xử tử. 13 Người đó sẽ bị ném đá hoặc bị bắn tên cho chết; không ai được đưa tay sờ đến người đó. Dù là người ta hay súc vật, hễ đụng đến núi thì phải chết. Chỉ khi nào có tiếng kèn thổi dài người ta mới được lên núi.’ ”
14 Môi-se ở trên núi xuống, đến với dân chúng, bảo họ giữ mình thánh sạch và giặt quần áo. 15 Sau đó ông nói với họ: “Anh chị em phải chuẩn bị cho ngày thứ ba, và phải kiêng đến gần đàn bà.” 16 Vào buổi sáng ngày thứ ba có sấm sét chớp nhoáng, mây đen kịt bao phủ núi và có tiếng kèn thổi vang làm cho mọi người trong trại quân đều run sợ. 17 Môi-se hướng dẫn dân chúng từ trại quân bước ra để ra mắt Đức Chúa Trời và họ dừng lại ở chân núi. 18 Khói bao phủ núi Si-nai, vì CHÚA giáng lâm trong lửa. Khói từ núi bay lên như khói từ lò lửa hực và cả núi rung chuyển dữ dội. 19 Tiếng kèn càng lúc càng vang động. Lúc đó Môi-se bắt đầu nói và có tiếng của Đức Chúa Trời đáp lời ông.
20 CHÚA giáng lâm trên đỉnh núi Si-nai, gọi Môi-se lên núi. Ông liền vâng lời. 21 CHÚA phán với Môi-se: “Con xuống cảnh cáo dân chúng bảo họ không được vượt ranh giới tìm xem CHÚA mà nhiều người phải thiệt mạng. 22 Ngay cả các thầy tế lễ khi đến gần CHÚA cũng phải làm cho mình thánh sạch, nếu không, họ sẽ bị CHÚA tiêu diệt.” 23 Môi-se trình với CHÚA: “Dân chúng không thể lên núi Si-nai vì chính Chúa có bảo con vạch ranh giới quanh núi và biệt núi riêng ra thánh.” 24 CHÚA phán bảo Môi-se: “Con xuống đem A-rôn lên với con. Nhưng các thầy tế lễ và dân chúng không được vượt ranh giới lên đến Ta; ai bất tuân sẽ bị Ta tiêu diệt.” 25 Như vậy Môi-se xuống núi đến với dân chúng và căn dặn họ.
Mười Điều Răn
20 Đức Chúa Trời công bố những lời này:
2 “Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi, Ta đã đem các ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi đất nô lệ.
3 Ngoài Ta ra, các ngươi không được thờ các thần khác.
4 Các ngươi không được làm cho mình tượng theo hình dạng của bất cứ vật gì ở trên trời cao, ở trên mặt đất hay ở dưới nước.
5 Các ngươi không được sấp mình thờ phượng các tượng ấy; vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, Đức Chúa Trời kỵ tà. Ta hình phạt con cháu cho đến thế hệ thứ ba, thứ tư vì tội khước từ Ta của tổ tiên họ, 6 nhưng bày tỏ tình thương đến ngàn đời cho ai yêu mến Ta và vâng giữ các điều răn Ta.
7 Các ngươi không được dùng danh CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi cách thiếu tôn kính, vì CHÚA không coi người dùng danh Ngài cách thiếu tôn kính là người vô tội.
8 Phải nhớ ngày Sa-bát và giữ làm ngày thánh. 9 Các ngươi phải làm tất cả các công việc mình trong sáu ngày, 10 nhưng ngày Sa-bát là ngày dành cho CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi. Trong ngày đó các ngươi, con trai con gái, tôi trai tớ gái, súc vật và cả đến khách ở trong nhà các ngươi đều không được làm việc gì cả. 11 Vì trong sáu ngày CHÚA đã dựng nên trời, đất, biển và mọi vật trong đó, nhưng Ngài nghỉ vào ngày thứ bảy. Như vậy CHÚA chúc phước cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày ấy.
12 Phải hiếu kính cha mẹ, để các ngươi có thể sống lâu trên đất mà CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi ban cho.
13 Không được giết người.
14 Không được tà dâm.
15 Không được trộm cắp.
16 Không được làm chứng dối nghịch người khác.
17 Không được tham muốn nhà cửa của người khác. Không được tham muốn vợ, tôi trai, tớ gái, bò lừa hay bất cứ thứ gì của người khác.”
18 Khi nghe thấy sấm chớp, tiếng kèn và núi bốc khói, dân chúng run rảy sợ sệt. Họ đứng tận đằng xa 19 và nói với Môi-se rằng: “Xin chính ông nói với chúng tôi và chúng tôi sẽ nghe lời. Xin đừng để Đức Chúa Trời phán với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất!” 20 Môi-se nói với dân chúng: “Anh chị em đừng sợ. Đức Chúa Trời đến để thử anh chị em, để anh chị em có lòng kính sợ Đức Chúa Trời và không phạm tội với Ngài.” 21 Trong khi Môi-se đến gần đám mây dầy đặc là nơi Đức Chúa Trời ngự thì dân chúng cứ đứng ở đằng xa.
Hình Tượng Và Bàn Thờ
22 Sau đó, CHÚA phán dạy Môi-se: “Con truyền lại cho dân Y-sơ-ra-ên lời này: ‘Chính các ngươi đã thấy tận mắt Ta từ trời phán cùng với các ngươi; 23 vậy các ngươi không được làm và đặt bên cạnh Ta bất cứ thần tượng nào; đừng làm cho mình các thần bằng bạc hay các thần bằng vàng. 24 Các ngươi phải làm một bàn thờ bằng đất cho Ta và dâng trên bàn thờ ấy tế lễ thiêu, tế lễ cầu an, cừu, dê và bò. Bất cứ nơi nào Ta làm cho danh Ta được tôn kính, Ta sẽ đến và ban phước cho các ngươi. 25 Nếu các ngươi thiết lập cho Ta một bàn thờ bằng đá thì đừng dùng đá đẽo, vì các ngươi sẽ làm ô uế bàn thờ khi dùng dụng cụ để đẽo đá. 26 Không được đi lên bàn thờ Ta bằng bậc thang để khỏi bộc lộ sự trần truồng của ngươi.’ ”
Luật Về Nô Lệ
21 Đây là những luật lệ con phải truyền cho dân Y-sơ-ra-ên:
2 “Nếu các ngươi mua một người Hê-bơ-rơ làm nô lệ, người đó sẽ phục vụ trong sáu năm. Nhưng đến năm thứ bảy người đó sẽ được tự do, không cần phải trả tiền chuộc. 3 Nếu đến nhà ngươi một mình, người ấy cũng ra đi một mình; nhưng nếu có vợ khi đến nhà ngươi, người ấy sẽ ra đi với vợ mình. 4 Nếu chủ cưới vợ cho người nô lệ và họ có con cái, khi ra đi người nô lệ sẽ đi một mình còn vợ và con đều thuộc về người chủ. 5 Nhưng nếu người nô lệ tuyên bố rằng: ‘Tôi yêu chủ, yêu vợ con và không muốn ra đi tự do’ 6 thì người chủ phải đem người nô lệ này đến trước mặt các thẩm phán. Chủ sẽ dẫn người nô lệ đến cửa, hay trụ cửa, rồi dùng dùi xỏ tai người ấy và người ấy sẽ làm nô lệ cho chủ trọn đời.
7 Nếu người có bán con gái mình làm nữ tỳ, đến năm thứ bảy nữ tỳ này sẽ không được trả tự do như các tôi tớ đàn ông. 8 Nếu nữ tỳ này không còn vừa lòng chủ mặc dù đã được chủ chọn cho mình, chủ phải để cho người khác chuộc nữ tỳ này và không được phép bán cho người nước ngoài vì chủ đã thất tín với nàng. 9 Nếu chủ đã chọn một nữ tỳ cho con trai mình, chủ phải cho người này các đặc quyền như là con gái mình. 10 Nếu chủ đã cưới một nữ tỳ sau đó lại cưới vợ khác, chủ không được phép giảm thức ăn, quần áo và tình nghĩa vợ chồng với người vợ thứ nhất. 11 Nếu chủ không cung cấp ba thứ này, người vợ thứ nhất có thể ra đi tự do mà không cần phải đóng tiền chuộc.
Thương Tích Cá Nhân
12 Ai đánh chết người, chắc chắn sẽ bị xử tử. 13 Tuy nhiên nếu không có chủ mưu và tai nạn do Đức Chúa Trời cho phép xảy ra, người ấy phải chạy trốn đến chỗ Ta sẽ chỉ định. 14 Nhưng nếu có ai chủ mưu và cố tình giết người, các ngươi phải dẫn tên sát nhân ra khỏi bàn thờ Ta và đem xử tử. 15 Ai đánh cha mẹ mình, phải bị xử tử. 16 Ai bắt cóc một người, hoặc đem bán đi hoặc giữ lại, phải bị xử tử. 17 Ai rủa cha mẹ, phải bị xử tử.
18 Nếu hai người cãi lộn rồi một người đánh người kia bằng đá hay bằng nắm tay làm cho bị thương phải nằm liệt giường nhưng không chết, 19 người gây ra thương tích sẽ không bị buộc tội nếu người bị thương có thể đứng dậy chống gậy đi ra khỏi nhà. Tuy nhiên người gây thương tích phải bồi thường thiệt hại cho người bị thương suốt thời gian người ấy không làm việc được cho đến khi lành mạnh.
20 Nếu một người chủ dùng cây đánh nô lệ nam hay nữ của mình làm người nô lệ chết ngay tại chỗ, người chủ phải bị trừng phạt, 21 nhưng nếu một hai ngày sau người nô lệ này dậy được thì chủ khỏi bị trừng phạt, vì nô lệ là tài sản của chủ.
22 Nếu hai người đang đánh nhau, đụng vào một phụ nữ đang có thai và làm cho phụ nữ này bị sinh thiếu tháng nhưng không bị thương tích trầm trọng thì người có lỗi phải bồi thường theo mức chồng của phụ nữ ấy đòi hỏi và được thẩm phán chấp thuận. 23 Nhưng nếu gây thương tích trầm trọng thì mạng đền mạng, 24 mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, 25 bỏng đền bỏng, thương tích đền thương tích, bầm giập đền bầm giập.
26 Nếu người chủ đánh trúng con mắt của người nô lệ của mình, dù nam hay nữ, và làm cho mù thì người chủ phải bồi thường thiệt hại bằng cách để cho người nô lệ ra đi tự do. 27 Nếu người chủ đánh rụng răng một người nô lệ, dù nam hay nữ, chủ phải để người nô lệ ra đi tự do để bồi thường răng bị rụng.
28 Nếu một con bò húc chết một người đàn ông hay đàn bà, bò đó phải bị ném đá chết và không ai ăn thịt nó. Chủ bò sẽ không bị buộc phải chịu trách nhiệm. 29 Tuy nhiên, nếu bò có tật hay húc và chủ bò đã được cảnh cáo nhưng không chịu nhốt bò lại để bò húc chết người, dù nam hay nữ, thì bò phải bị ném đá chết và chủ bò cũng bị xử tử. 30 Tuy nhiên nếu thân nhân người chết cho phép chuộc mạng, chủ bò sẽ trả bất cứ giá nào thân nhân đòi hỏi. 31 Luật này cũng áp dụng khi bò húc chết một thiếu niên nam hay nữ. 32 Nếu bò húc chết một người nô lệ nam hay nữ, chủ bò phải trả ba mươi miếng bạc[i] cho chủ người nô lệ còn bò phải bị ném đá cho chết.
33 Nếu có người mở miệng hầm hay đào hầm mà không đậy lại và có bò hay lừa ngã xuống hầm, 34 người chủ hầm phải bồi thường thiệt hại cho chủ bò và con bò chết sẽ thuộc về chủ hầm.
35 Nếu bò của người này húc chết bò của người khác, hai người chủ sẽ đem bán con bò còn sống rồi chia tiền bán và chia con bò chết cho công bằng. 36 Tuy nhiên, nếu chủ biết bò mình có tật hay húc mà không chịu nhốt bò lại, người chủ này phải bồi thường, bò đền bò, và được giữ con bò chết.
Bảo Vệ Tài Sản
22 Nếu một người bắt trộm bò hay cừu rồi đem giết hay đem bán đi, người ấy phải bồi thường: nếu là bò thì một đền năm; còn cừu thì một đền bốn.
2 Nếu kẻ trộm bị bắt quả tang và bị đánh chết, người đánh chết không mang tội sát nhân, 3 nhưng nếu vụ việc xảy ra sau khi mặt trời mọc, người đánh chết sẽ mang tội sát nhân. Người trộm cắp phải bồi thường, nhưng nếu không có gì, người ấy phải bị đem bán để bồi thường cho vụ trộm cắp. 4 Nếu tìm lại được con vật bị mất cắp, dù là bò lừa hay cừu trong tay kẻ trộm và con vật vẫn còn sống, kẻ trộm chỉ phải bồi thường gấp đôi.
5 Nếu một người thả gia súc đi ăn trong một cánh đồng hay trong vườn nho rồi để chúng đi lạc qua và ăn trong cánh đồng của người khác, thì phải lấy hoa lợi tốt nhất của cánh đồng hay vườn nho mình để bồi thường thiệt hại.
6 Nếu một người nổi lửa đốt bụi gai rồi lửa cháy lan qua cháy hoa lợi đã gặt, hoa lợi chưa gặt, hay cháy cả cánh đồng của người khác, người đã nổi lửa phải bồi thường thiệt hại.
7 Nếu một người gởi tiền bạc hay đồ vật nhờ hàng xóm giữ hộ, và những món này bị trộm cắp trong nhà của hàng xóm, kẻ trộm sẽ bồi thường gấp đôi nếu bị bắt. 8 Nhưng nếu không bắt được kẻ trộm, người chủ nhà phải đến để các thẩm phán xác định người này có nhúng tay vào vụ trộm cắp tài sản của người kia hay không. 9 Trong trường hợp có người giữ một con bò, lừa, cừu, quần áo hay bất cứ vật gì đã mất cắp và có người nói rằng: ‘Cái này là của tôi’ thì cả hai bên phải đem trình vụ việc. Người bị thẩm phán kết tội phải bồi thường gấp đôi cho láng giềng mình.
10 Nếu một người gửi lừa, bò, cừu hay con vật nào khác cho láng giềng giữ hộ, nhưng con vật bị chết, bị thương hay bị lạc mất khi không có ai chứng kiến, 11 sự tranh chấp giữa hai bên sẽ được giải quyết bằng lời thề trước mặt CHÚA rằng người láng giềng không nhúng tay vào tài sản của người chủ, người này phải chấp nhận lời thề và không được đòi bồi thường. 12 Nhưng nếu con vật bị bắt trộm khi được gởi cho láng giềng giữ, người này phải bồi thường. 13 Nếu con vật bị thú rừng xé xác, người này sẽ đưa xác con vật ra làm tang chứng và sẽ không bị buộc phải bồi thường.
14 Nếu có người mượn của láng giềng một con vật và nó bị chết hay bị thương trong khi không có mặt người chủ, người mượn con vật phải bồi thường, 15 nhưng nếu người chủ có mặt tại đó, người mượn sẽ không phải bồi thường. Nếu con vật được cho mướn, tiền mướn sẽ trang trải số thiệt hại.
Trách Nhiệm Xã Hội
16 Nếu một người quyến rũ một người con gái còn trinh chưa hứa hôn với ai và ngủ với nàng, người này phải nộp sính lễ và nàng sẽ thành vợ người. 17 Nếu người cha nhất quyết không chịu gả con gái mình, người kia vẫn phải trả đủ sính lễ như khi cưới con gái còn trinh. 18 Không được để cho người hành nghề phù thủy sống. 19 Người nào nằm với một con vật phải bị xử tử. 20 Người nào dâng tế lễ cho bất cứ thần nào khác, ngoài CHÚA, phải bị tiêu diệt. 21 Đừng bạc đãi ngoại kiều cũng đừng áp bức họ, vì các ngươi đã là ngoại kiều trong xứ Ai-cập. 22 Đừng làm cho các góa phụ và trẻ mồ côi đau khổ. 23 Nếu các ngươi làm cho họ đau khổ, họ sẽ kêu van Ta và chắc chắn Ta sẽ nghe tiếng kêu của họ. 24 Cơn giận của Ta sẽ nổi lên và Ta sẽ dùng gươm giết các ngươi; như vậy vợ các ngươi sẽ thành góa phụ và con các ngươi sẽ thành mồ côi.
25 Nếu các ngươi cho một anh chị em thiếu thốn mượn tiền, đừng lấy lãi như người cho vay vẫn làm. 26 Nếu ngươi cầm quần áo của láng giềng làm của cầm thì phải trả áo lại trước khi mặt trời lặn, 27 vì áo đó là món duy nhất người láng giềng dùng để che thân, thì người đó lấy gì dùng để đắp khi ngủ? Khi người đó kêu van Ta, Ta sẽ nghe, vì Ta giàu lòng thương xót.
28 Đừng nói xúc phạm đến Đức Chúa Trời cũng đừng rủa các cấp quản trị dân mình.
29 Đừng chậm trễ trong việc dâng hiến ngũ cốc và rượu nho. Các ngươi phải dâng con trưởng nam cho Ta. 30 Cũng phải dâng bò và cừu đầu lòng. Hãy để cho chúng ở với mẹ trong bảy ngày, nhưng phải đem chúng dâng cho Ta vào ngày thứ tám.
31 Các ngươi phải là một dân tộc thánh cho Ta. Vậy đừng ăn thịt con vật bị thú rừng cắn xé, nhưng phải quăng nó cho chó ăn.
Luật Công Lý Và Nhân Từ
23 Đừng loan tin không đúng. Đừng làm chứng dối giúp người ác.
2 Đừng hùa theo đám đông để làm ác. Khi ngươi là nhân chứng trong một vụ án, đừng hùa theo đám đông mà bẻ cong công lý, 3 cũng đừng thiên vị người nghèo trong phiên tòa.
4 Nếu ngươi gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, phải dẫn nó về cho chủ. 5 Nếu ngươi thấy lừa của kẻ thù ngã quỵ vì chở quá nặng, đừng làm ngơ nhưng phải ra tay giúp đỡ.
6 Đừng làm lệch cán cân công lý trong các vụ kiện liên quan đến người nghèo. 7 Đừng chấp nhận lời cáo gian và đừng để người vô tội hay ngay thẳng phải chịu tử hình, vì Ta không dung thứ người có tội đâu.
8 Đừng nhận hối lộ, vì của hối lộ làm mù mắt người sáng suốt và bẻ cong lời lẽ của người công bình.
9 Đừng áp bức ngoại kiều; chính các ngươi đã biết rõ tâm trạng của ngoại kiều vì các ngươi vốn là ngoại kiều trong xứ Ai-cập.
Luật Về Ngày Sa-bát
10 Các ngươi sẽ gieo giống và gặt hái trong sáu năm, 11 nhưng trong năm thứ bảy phải để cho đất nghỉ, không cầy bừa gieo trồng gì cả. Như vậy người nghèo khó của ngươi sẽ kiếm được lương thực ngoài đồng và thú rừng cũng được ăn những gì còn lại. Luật này cũng áp dụng cho vườn nho và vườn ô-liu của các ngươi.
12 Các ngươi làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy phải nghỉ, để cho bò, lừa được nghỉ ngơi, và nô lệ sinh trong nhà ngươi cũng như ngoại kiều đều được dưỡng sức.
13 Phải cẩn thận làm theo mọi điều Ta đã phán dạy. Đừng cầu đảo tên các thần khác, môi miệng ngươi không được nhắc đến tên các thần ấy.
Ba Đại Lễ Hằng Năm
14 Mỗi năm các ngươi phải giữ ba đại lễ cho Ta. 15 Phải giữ Lễ Bánh Không Men; trong bảy ngày các ngươi ăn bánh không men, như Ta đã dạy bảo. Lễ này phải giữ đúng thời điểm đã ấn định vào tháng giêng vì vào tháng đó các ngươi ra khỏi Ai-cập. Không một ai đi tay không đến trước mặt Ta.
16 Phải giữ Lễ Mùa Gặt bằng cách dâng hiến hoa quả đầu tiên của hoa lợi do các ngươi canh tác. Phải giữ Lễ Thu Hoạch vào cuối năm, khi các ngươi thu hoạch mùa màng từ ngoài đồng mang về. 17 Mỗi năm ba lần tất cả các người đàn ông phải trình diện trước CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi.
18 Đừng dâng hiến huyết sinh tế cho Ta chung với bất cứ món gì có men. Mỡ của sinh tế không được giữ cho đến sáng hôm sau. 19 Phải đem hoa quả đầu mùa tốt nhất do đất ruộng ngươi canh tác đến Nhà của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đừng nấu dê con trong sữa mẹ nó.
Thiên Sứ Của Đức Chúa Trời
20 Ta sai một thiên sứ đi trước các ngươi để bảo vệ các ngươi dọc đường và đem các ngươi vào nơi Ta đã chuẩn bị. 21 Phải chú ý và vâng theo lời thiên sứ dạy bảo. Đừng phản nghịch chống lại thiên sứ, thiên sứ sẽ không tha thứ tội phản nghịch đâu, vì danh Ta ở trong thiên sứ. 22 Nếu các ngươi cẩn thận nghe lời thiên sứ và làm theo mọi điều Ta phán dậy, Ta sẽ chống nghịch kẻ thù của các ngươi và chống đối những người chống đối các ngươi. 23 Thiên sứ Ta sẽ đi trước các ngươi và đem các ngươi vào đất của các dân A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Ca-na-an, Hê-vít và Giê-bu-sít và Ta sẽ quét sạch chúng nó. 24 Đừng sấp mình trước các thần của chúng cũng đừng thờ phượng các thần ấy hay bắt chước các thói tục của họ. Các ngươi phải hủy diệt các thần ấy và đập vụn các trụ thờ của họ. 25 Các ngươi chỉ thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời các người và Ngài sẽ ban phước lành cho thức ăn nước uống của các ngươi. Ta sẽ đem bệnh tật tránh xa các ngươi, 26 trong toàn quốc sẽ không có ai sẩy thai hay son sẻ. Ta sẽ cho các ngươi trường thọ.
27 Ta sẽ sai kinh hoàng đi trước các ngươi và làm náo loạn mọi nước đối nghịch các ngươi. Ta sẽ khiến mọi kẻ thù nghịch các ngươi quay đầu bỏ chạy. 28 Ta sẽ sai ong vò vẽ bay trước các ngươi để đuổi các dân Hê-vít, Ca-na-an và Hê-tít khỏi trước mặt các ngươi. 29 Nhưng Ta sẽ không đuổi chúng nó hết trong một năm, vì nếu làm vậy đất sẽ hoang vu và thú rừng sẽ trở nên quá nhiều, các ngươi không kham nổi. 30 Ta sẽ đuổi chúng lần lần, cho đến khi các ngươi sinh sôi nẩy nở đủ để chiếm hữu toàn xứ.
31 Ta sẽ thiết lập biên giới cho các ngươi từ Biển Đỏ cho đến Biển Phi-li-tin[j] và từ sa mạc đến Sông Lớn.[k] Ta sẽ trao cho các ngươi các dân tộc sống trong phần đất đó và các ngươi sẽ đuổi họ đi. 32 Đừng kết ước với các dân tộc ấy hay với các thần của họ. 33 Đừng để họ sống lẫn lộn trên đất các ngươi, vì họ sẽ xui giục các ngươi phạm tội với Ta và việc thờ phượng các thần đó chắc chắn sẽ đưa các ngươi vào cạm bẫy.”
Giao Ước Được Chấp Nhận
24 CHÚA phán dạy Môi-se: “Con đem A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu và bảy mươi bô lão dân Y-sơ-ra-ên đến với Ta. Họ sẽ thờ phượng từ đằng xa, 2 nhưng chỉ một mình Môi-se được đến gần CHÚA; các người kia không được phép đến gần. Trong dân chúng không ai được theo Môi-se lên núi.”
3 Khi Môi-se đã đi và thuật lại cho dân Y-sơ-ra-ên nghe những lời phán và luật pháp của CHÚA, họ đồng thanh đáp: “Chúng tôi sẽ làm theo mọi điều CHÚA phán dạy.” 4 Môi-se ghi chép lại tất cả những điều CHÚA đã phán. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ tại chân núi và dựng lên mười hai trụ đá, tượng trưng cho mười hai bộ tộc Y-sơ-ra-ên. 5 Ông cũng cắt đặt một số thanh niên Y-sơ-ra-ên, và họ dâng tế lễ thiêu và dâng bò tơ làm tế lễ cầu an cho CHÚA. 6 Môi-se đựng một nửa huyết trong một cái chậu còn nửa kia ông đem rảy lên bàn thờ. 7 Rồi ông đem cuốn Sách Giao Ước ra đọc trước dân chúng. Họ đáp: “Chúng tôi sẽ làm theo mọi điều CHÚA phán dạy; chúng tôi sẽ tuân theo.”
8 Môi-se lấy huyết rảy trên dân chúng và nói: “Đây là huyết giao ước CHÚA đã lập với các ngươi đúng theo mọi lời này.”
9 Môi-se, A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu và bảy mươi bô lão của dân Y-sơ-ra-ên đứng dậy 10 và trông thấy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Dưới chân Ngài có cái gì giống như cái bệ bằng ngọc xa-phia, trong sáng như bầu trời xanh. 11 Nhưng Đức Chúa Trời không đưa tay Ngài nghịch các cấp quản trị của Y-sơ-ra-ên; họ trông thấy Đức Chúa Trời rồi ăn uống.
12 CHÚA phán dạy Môi-se: “Con lên núi với Ta và chờ đợi Ta ban cho con mấy bảng đá có luật pháp và điều răn Ta đã ghi chép để dạy dỗ dân Y-sơ-ra-ên.” 13 Môi-se với phụ tá là Giô-suê lên núi của Đức Chúa Trời. 14 Ông căn dặn các bô lão: “Các ông chờ đợi tại đây cho đến khi chúng tôi trở lại. A-rôn và Hu-rơ ở lại với các ông, ai có tranh chấp gì có thể đến với hai ông ấy.”
15 Khi Môi-se lên núi, mây che phủ núi, 16 và vinh quang của CHÚA bao trùm núi Si-nai. Trong sáu ngày, mây che phủ núi và qua ngày thứ bảy CHÚA từ trong đám mây gọi Môi-se. 17 Đối với dân Y-sơ-ra-ên, vinh quang của CHÚA trông giống đám lửa cháy hực trên núi. 18 Khi lên núi, Môi-se vào trong đám mây. Ông ở trên núi bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.
Tế Lễ Dâng Cho Đền Tạm
25 CHÚA phán dạy Môi-se: 2 “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên đem lễ vật dâng cho Ta và con tiếp nhận lễ vật do mỗi người tự nguyện dâng hiến. 3 Đây là những thứ lễ vật con sẽ nhận từ dân chúng: vàng, bạc, đồng, 4 chỉ mầu xanh, tím và đỏ, sợi lanh, lông dê, da cừu nhuộm đỏ, 5 da dê, gỗ si-tim, 6 dầu phong chức và hương thơm, 7 bạch ngọc và các loại ngọc khác để gắn vào ê-phót và bảng đeo ngực.
8 Con bảo họ làm cho Ta một Đền Thánh và Ta sẽ ở giữa họ. 9 Hãy làm Đền Tạm và các vật dụng giống hệt mẫu Ta sẽ chỉ cho con.”
Rương Giao Ước
10 “Làm một cái rương bằng gỗ si-tim, dài hai am-ma rưỡi, rộng một am-ma rưỡi và cao một am-ma rưỡi[l] 11 Dùng vàng ròng bọc bên ngoài lẫn bên trong và làm cái viền bằng vàng quanh rương. 12 Đúc bốn khoen vàng và gắn khoen vào bốn góc rương, hai khoen bên này và hai khoen bên kia. 13 Làm hai cái đòn bằng gỗ si-tim và dùng vàng bọc đòn. 14 Xỏ hai cái đòn vào các khoen hai bên rương để khiêng rương. 15 Phải để đòn khiêng trong khoen, đừng bao giờ rút ra. 16 Sau đó con sẽ để trong rương Bảng Giao Ước Ta sẽ ban cho con.
17 Làm cái Nắp Chuộc Tội bằng vàng ròng, dài hai am-ma rưỡi và rộng một am-ma rưỡi[m] 18 Làm hai chê-ru-bim bằng vàng đặt ở hai đầu Nắp Chuộc Tội, 19 một chê-ru-bim ở đầu này và một ở đầu kia; hai chê-ru-bim phải dính liền với nắp và đứng ở hai đầu nắp. 20 Các chê-ru-bim đứng đối diện nhau, với hai cánh xòe ra hướng lên phía trên và che trên nắp. 21 Đặt nắp lên trên rương và đặt Bảng Giao Ước Ta sẽ ban cho vào trong rương. 22 Trên Nắp Chuộc Tội, giữa hai chê-ru-bim và trên Rương Giao Ước là nơi Ta sẽ gặp con để ban cho con tất cả các mạng lệnh áp dụng cho dân Y-sơ-ra-ên.”
Bàn Bánh Thánh
23 “Đóng một cái bàn bằng gỗ si-tim, dài hai am-ma, rộng một am-ma và cao một am-ma rưỡi[n] 24 Dùng vàng ròng bọc bàn và làm viền xung quanh bàn. 25 Làm khung xung quanh mặt bàn, bề rộng khung bằng một bàn tay[o] và viền vàng quanh khung. 26 Làm bốn khoen vàng để gắn vào bốn chân bàn, ở bốn góc. 27 Các khoen này giữ các đòn dùng để khiêng bàn. 28 Các đòn này được làm bằng gỗ si-tim bọc vàng và được dùng để khiêng bàn. 29 Làm đĩa, muỗng bằng vàng ròng; cũng làm bình và bát bằng vàng ròng dùng cho tế lễ tưới rượu. 30 Phải để bánh thánh trên bàn này trước mặt Ta luôn luôn.”
Chân Đèn
31 “Làm một cái chân đèn bằng vàng dát; từ chân đèn đến thân, đài, bầu và hoa của đèn đều dính liền thành một khối. 32 Từ thân đèn mọc ra sáu cành, ba cành bên này và ba cành bên kia. 33 Trên mỗi cành có ba cái đài, hình hoa hạnh nhân, với bầu và nụ, cành kế bên cũng có ba cái đài và tất cả sáu cành từ thân đèn ra cũng giống như vậy. 34 Thân của chân đèn có bốn cái đài hình hoa hạnh nhân, với bầu và nụ. 35 Chân đèn có sáu cành, cứ dưới mỗi hai cành thì có một cái bầu. 36 Tất cả các bầu và cành đều dính liền với chân đèn thành một khối và đều làm bằng vàng ròng đánh dát. 37 Sau đó, làm bảy ngọn đèn rồi đặt trên chân đèn thế nào để ánh sáng chiếu ra phía trước. 38 Kéo cắt tim đèn và đĩa đựng tàn cũng làm bằng vàng ròng. 39 Một ta-lâng[p] vàng ròng sẽ được dùng để làm chân đèn và các đồ phụ tùng trên đây. 40 Con phải lưu ý làm các món này đúng theo kiểu mẫu đã cho con xem trên núi.”
Đền Tạm
26 Làm Đền Tạm với mười tấm màn dệt bằng chỉ gai mịn mầu xanh, tím và đỏ với hình chê-ru-bim do một người thợ tài giỏi thêu. 2 Tất cả các màn này đều cùng cỡ: bề dài hai mươi tám am-ma và bề ngang bốn am-ma[q] 3 Kết năm tấm màn thứ nhất dính lại thành một tấm lớn, rồi cũng kết năm tấm màn còn lại thành một tấm lớn. 4 Làm các vòng bằng chỉ xanh dọc theo biên của tấm màn lớn thứ nhất, rồi cũng làm các vòng cho tấm màn lớn thứ hai. 5 Làm năm mươi cái vòng trên một cạnh của tấm màn lớn thứ nhất, cũng làm năm mươi cái vòng trên tấm màn lớn thứ hai, và các vòng trên hai tấm màn này được đặt đối diện nhau. 6 Làm năm mươi cái móc bằng vàng, và dùng các móc này để kết hai tấm màn lớn lại với nhau thành một khối dùng làm Đền Tạm.
7 Cũng lấy lông dê làm mười một tấm màn dùng làm mái che Đền Tạm. 8 Tất cả mười một tấm màn này đều cùng cỡ: bề dài ba mươi am-ma và bề rộng bốn am-ma.[r] 9 Kết năm tấm màn lại thành một bộ. Sáu tấm màn còn lại cũng được kết thành một bộ nhưng tấm thứ sáu được xếp đôi lại cho phủ xuống trước Đền. 10 Làm năm mươi cái vòng dọc theo đường biên của bộ thứ nhất, và cũng làm năm mươi vòng như vậy cho bộ kia. 11 Rồi làm năm mươi móc đồng để móc liền hai bộ màn lông dê này lại thành một mái che Đền. 12 Mái này có một phần dư ra được thả thòng ở mặt sau Đền; 13 cũng có phần dư ra với chiều dài một am-ma[s] để thả thòng hai bên Đền. 14 Phủ trên mái che này một lớp da cừu nhuộm đỏ, rồi phủ trên lớp da cừu một lớp da dê.
15 Làm vách Đền Tạm bằng ván si-tim. 16 Một tấm ván dài mười am-ma, rộng một am-ma rưỡi[t] và đặt thẳng đứng, 17 với hai lỗ móng song song với nhau. Các tấm ván trong Đền Tạm đều có lỗ mộng. 18 Vách phía nam Đền có hai mươi tấm ván, 19 dưới mỗi tấm ván có hai lỗ mộng bằng bạc, tất cả là bốn mươi lỗ mộng cho các tấm ván này. 20 Về phía kia, tức là phía bắc của Đền, cùng làm hai mươi tấm ván 21 và bốn mươi lỗ mộng bằng bạc, hai lỗ mộng cho mỗi tấm ván. 22 Làm sáu tấm cho phía sau, tức là phía tây của Đền; 23 và làm hai tấm ván cho hai góc phía sau này. 24 Ở hai góc này, ván phải làm hai lớp, từ dưới lên đến trên cùng và ghép lại với nhau bằng một cái khoen; cả hai góc đều làm giống như vậy. 25 Như vậy vách này có tám tấm ván và mười sáu lỗ mộng bằng bạc, dưới mỗi tấm ván có hai lỗ mộng.
26 Cũng làm các thanh xà ngang bằng gỗ si-tim: năm thanh xà ngang cho phía này, 27 năm thanh cho phía kia và năm thanh cho phía tây, tức là phía sau của Đền Tạm. 28 Thanh xà ngang chính giữa chạy dài từ đầu này đến đầu kia và nằm ở chính giữa các vách. 29 Lấy vàng bọc các tấm ván vách và làm vòng vàng để giữ các thanh xà ngang. Cũng lấy vàng bọc các thanh này.
30 Con phải dựng Đền Tạm theo mẫu chỉ cho con trên núi. 31 Dệt một tấm màn bằng chỉ lanh mầu xanh, tím và đỏ, rồi một người thợ tài giỏi thêu hình chê-ru-bim lên tấm màn. 32 Dùng móc vàng treo màn này trên bốn trụ gỗ si-tim. Các trụ này đều bọc vàng và được đặt trên bốn đế trụ bằng bạc. 33 Treo bức màn vào các móc và đặt Rương Giao Ước phía sau bức màn. Bức màn này sẽ phân chia Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh. 34 Lấy Nắp Chuộc Tội đậy lên Rương Giao Ước và đặt Rương trong Nơi Chí Thánh. 35 Đặt Bàn Bánh Thánh bên ngoài về phía bắc của Đền và đặt cây đèn đối diện với Bàn, về phía nam.
36 Làm một cái màn cho cửa vào Trại,[u] màn phải được một thợ thêu dệt bằng chỉ lanh mầu xanh, tím và đỏ. 37 Làm móc bằng vàng để treo màn này trên năm trụ bằng gỗ si-tim bọc vàng. Các trụ này được đặt trong đế trụ bằng đồng.
Bàn Thờ Của Lễ Thiêu
27 Đóng một bàn thờ bằng gỗ si-tim hình vuông, dài năm am-ma, ngang năm am-ma, và cao ba am-ma.[v] 2 Làm bốn cái sừng và gắn sừng liền vào góc bàn thờ thế nào cho bốn sừng với bàn thờ thành một khối. Dùng đồng bọc bàn thờ. 3 Các vật dụng của bàn thờ là thùng đựng tro, xuồng, bồn chứa nước, đỉnh ba và dĩa đựng than lửa đều làm bằng đồng. 4 Làm một cái rá giữ than bằng lưới đồng và làm bốn cái khoen cho bốn góc rá. 5 Đặt rá dưới thành bàn thờ để nó nhô lên đến một nửa bề cao của bàn thờ. 6 Làm đòn khiêng bàn thờ bằng gỗ si-tim và lấy đồng bọc đòn. 7 Xỏ đòn vào các khoen ở hai bên bàn thờ để khiêng. 8 Bàn thờ làm bằng ván, rỗng ở giữa, đúng theo kiểu mẫu đã chỉ cho con trên núi.
Hành Lang
9 Làm một hành lang cho Đền Tạm. Phía nam dài một trăm am-ma[w] có màn sợi lanh, 10 với hai mươi trụ đồng và hai mươi lỗ trụ cũng bằng đồng, cùng với các móc bạc và các đai cũng bằng bạc. 11 Phía bắc cũng dài một trăm am-ma[x] và cũng có màn, với hai trụ và hai mươi lỗ trụ bằng đồng, cùng với các móc và đai bạc.
12 Cạnh phía tây của hành lang rộng năm mươi am-ma[y] với các màn được treo trên mười cột trụ đặt trên mười lỗ trụ. 13 Về phía đông, tức là hướng mặt trời mọc, hành lang cũng rộng năm mươi am-ma.[z] 14 Một bên cửa Đền có màn dài mười lăm am-ma[aa] treo trên ba cột trụ đặt trên ba lỗ trụ; 15 bên kia cửa vào cũng có màn dài mười lăm am-ma treo trên ba cột trụ đặt trên ba lỗ trụ.
16 Cửa vào hành lang có một bức màn dài hai mươi am-ma,[ab] do một người thợ thêu tài giỏi thêu với chỉ gai mịn mầu xanh, tím và đỏ; bức màn được treo trên bốn cột trụ đặt trên bốn lỗ trụ. 17 Tất cả các cột trụ xung quanh hành lang đều được nối liền với nhau bằng cây bạc, các móc cũng bằng bạc và các lỗ trụ bằng đồng. 18 Như vậy chiều dài của hành lang là một trăm am-ma,[ac] chiều rộng năm mươi am-ma,[ad] với các bức màn bằng sợi lanh bề cao năm am-ma[ae] và với các lỗ trụ bằng đồng. 19 Tất cả các dụng cụ khác dùng trong Đền Tạm, bất cứ có công dụng gì, kể cả các cọc cắm lều dùng cho Đền và cho hành lang, đều làm bằng đồng.
Dầu Dùng Cho Cây Đèn
20 Con truyền cho dân Y-sơ-ra-ên đem dầu trong, ép với trái ô-liu, để đốt đèn cháy sáng luôn. 21 A-rôn và các con trai phải giữ cho đèn cháy sáng luôn trước mặt CHÚA, từ tối đến sáng, trong Trại Hội Kiến, đặt bên ngoài bức màn, bên trong có Rương Giao Ước. Đây là một luật lệ đời đời cho các thế hệ tương lai của dân Y-sơ-ra-ên.
Y Phục Của Thầy Tế Lễ
28 Trong dân Y-sơ-ra-ên, con hãy chọn A-rôn, anh con, cùng với các con trai người là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma, để họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. 2 May bộ áo lễ thánh cho A-rôn, anh con, để người được uy nghi và đẹp đẽ. 3 Con bảo những người thiện nghệ đã được Ta ban cho sự khôn ngoan để họ may bộ áo lễ A-rôn mặc trong khi được biệt riêng ra thánh và trong chức vụ thầy tế lễ để phục vụ Ta. 4 Sau đây là các phần của bộ áo lễ họ sẽ may: bảng đeo ngực, ê-phót, áo dài, áo lá, khăn đội đầu và đai thắt lưng. Như vậy, họ phải may các bộ áo lễ thánh cho A-rôn và cho các con trai của người, để họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. 5 Con bảo họ dùng vàng, chỉ mầu xanh, tím, đỏ và sợi lanh.
Ê-phót
6 Con bảo một người thợ tài giỏi làm cái ê-phót bằng vàng, chỉ mầu xanh, tím, đỏ và sợi lanh. 7 Ê-phót có hai đai vai gắn liền vào hai góc, để có thể thắt chặt lại. 8 Dây thắt ê-phót cũng được làm cách tinh vi và dùng cùng các thứ vật liệu là vàng, chỉ mầu xanh, tím, đỏ và sợi lanh.
9 Lấy hai viên bạch ngọc và khắc trên đó tên của các con trai Y-sơ-ra-ên 10 theo thứ tự ngày sinh của họ, sáu tên trên một viên bạch ngọc này và sáu tên trên viên bạch ngọc kia. 11 Khắc tên của các con trai Y-sơ-ra-ên trên hai viên bạch ngọc theo cách người cắt ngọc khắc con dấu. Sau đó đem hai viên ngọc chạm vào hai khuôn vàng 12 và gắn hai viên ngọc này vào hai đai vai của ê-phót làm ngọc tưởng niệm cho các con trai Y-sơ-ra-ên. A-rôn sẽ mang các tên này trên hai vai mình làm kỷ niệm trước mặt CHÚA. 13 Làm các khuôn bằng vàng, 14 với hai sợi dây chuyền bằng vàng ròng, giống sợi dây thừng, rồi gắn hai dây chuyền vào khuôn vàng.
Bảng Đeo Ngực
15 Con bảo một người thợ tài giỏi làm một bảng đeo ngực dùng để phán quyết. Làm bảng này bằng các vật liệu dùng để làm ê-phót, là vàng, chỉ mầu xanh, tím, đỏ và sợi lanh. 16 Bảng này hình vuông, bề dài một gang tay,[af] bề rộng một gang tay và làm bằng hai lớp vải. 17 Gắn lên bảng bốn hàng ngọc. Hàng thứ nhất có hồng mã não, hoàng ngọc và hồng ngọc; 18 hàng thứ hai có bích ngọc, lam ngọc và kim cương; 19 hàng thứ ba có ngọc hồng bửu, ngọc mã não và ngọc tím; 20 hàng thứ tư có lục ngọc, bạch ngọc và vân ngọc. Chạm các viên ngọc này lên khuôn vàng. 21 Có tất cả mười hai viên cho mỗi con trai của Y-sơ-ra-ên; tên của các bộ tộc được khắc lên các viên ngọc như cách khắc con dấu.
22 Làm các dây chuyền bằng vàng ròng xoắn trôn ốc, giống sợi dây thừng, cho bảng đeo ngực. 23 Làm hai cái khoen vàng gắn liền vào hai góc của bảng đeo ngực. 24 Gắn hai dây chuyền vàng vào hai khoen vàng ở hai góc của bảng đeo ngực; 25 còn đầu kia của hai dây chuyền được gắn vào hai khuôn vàng, để cho liền vào hai đai vai của ê-phót về phía trước. 26 Làm hai khoen vàng và gắn ở góc bên trong của bảng đeo ngực kế bên ê-phót; 27 làm hai khoen vàng khác và gắn vào bên dưới của đai vai ở phía trước ê-phót, sát với đường biên ngay trên dây thắt lưng của ê-phót. 28 Dùng sợi dây mầu xanh buộc bảng đeo ngực với cái ê-phót, qua các khoen vàng, để cho bảng đeo ngực và ê-phót khỏi rời nhau.
29 Mỗi khi vào trong Nơi Thánh, A-rôn sẽ mang trên ngực mình tên của các con trai Y-sơ-ra-ên, là tên được khắc trên bảng đeo ngực để làm kỷ niệm thường xuyên trước mặt CHÚA. 30 Cũng đặt U-rim và Thu-mim trong bảng đeo ngực, để A-rôn đeo trên ngực mình mỗi khi người vào trước sự hiện diện của CHÚA.
Các Áo Lễ Khác
31 May áo dài khoác ngoài ê-phót toàn bằng vải xanh, 32 với một cái lỗ để chui đầu ở chính giữa. Dệt một đường viền quanh lỗ này để giữ cho khỏi rách. 33 Thắt trái lựu bằng chỉ xanh, tím, đỏ; kết các trái lựu này theo gấu áo, xen kẽ với chuông vàng. 34 Các chuông vàng và trái lựu được kết xen kẽ với nhau vòng theo gấu của áo dài. 35 A-rôn phải mặc áo này mỗi khi thi hành chức vụ. Người ta sẽ nghe tiếng chuông vàng mỗi khi A-rôn vào Nơi Thánh trước sự hiện diện của CHÚA, và khi ra khỏi nơi này để người khỏi phải chết.
36 Làm một cái thẻ bằng vàng ròng, và khắc trên thẻ như cách khắc con dấu “Thánh cho CHÚA”. 37 Dùng dây mầu xanh buộc thẻ vào khăn đội đầu, ngay ở phía trước khăn. 38 Thẻ sẽ ở trên trán A-rôn và người sẽ mang lấy tội của dân Y-sơ-ra-ên, khi họ dâng tế lễ thánh, bất cứ loại tế lễ nào. Thẻ sẽ thường trực ở trên trán A-rôn để tế lễ được CHÚA chấp nhận.
39 Dệt một áo lót bằng chỉ gai mịn, một khăn đội đầu cũng bằng sợi lanh. Một người thợ thêu sẽ thêu dây thắt lưng. 40 Cũng dệt áo lót, khăn đội đầu và thắt lưng cho các con trai, để cho họ được uy nghi và đẹp đẽ. 41 Sau khi con mặc các bộ áo lễ đó cho A-rôn và các con trai của người, con sẽ xức dầu và biệt họ riêng ra thánh để họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ.
42 Cũng may quần lót để che thân thể, từ bụng xuống đến đùi. 43 A-rôn và các con trai người phải mặc quần này khi vào Trại Hội Kiến hay khi đến gần bàn thờ để phục vụ trong Nơi Thánh, để họ khỏi mang tội và chết. Đây là một luật lệ đời đời áp dụng cho A-rôn và cho dòng dõi người.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)