Print Page Options
Previous Prev Day Next DayNext

Bible in 90 Days

An intensive Bible reading plan that walks through the entire Bible in 90 days.
Duration: 88 days
New Vietnamese Bible (NVB)
Version
Dân Số 21:8-32:19

CHÚA phán bảo Môi-se: “Làm một con rắn lửa, đem treo trên một cây trụ. Người bị rắn cắn khi nhìn đến nó thì được sống.” Vậy Môi-se làm một con rắn bằng đồng, đem treo trên một cây trụ. Ai bị rắn cắn, nhìn lên con rắn đồng đều được thoát chết.

Đường Đi Mô-áp

10 Người Y-sơ-ra-ên lại ra đi, và dừng chân cắm trại tại Ô-bốt. 11 Đi từ Ô-bốt, họ cắm trại tại Y-giê A-ba-rim trong sa mạc, về phía đông Mô-áp. 12 Từ đó ra đi, họ cắm trại tại thung lũng Xê-rết. 13 Tiếp tục ra đi, họ cắm trại trong sa mạc, bên kia sông Ạt-nôn; sa mạc này lan rộng đến lãnh thổ người A-mô-rít. Sông Ạt-nôn là biên giới xứ Mô-áp, nằm giữa Mô-áp và lãnh thổ người A-mô-rít. 14 Vì thế trong sách chiến trận của CHÚA có ghi:

“Na-hép ở Su-phơ và các thung lũng,
    Sông Ạt-nôn và triền thung lũng
15 Chạy dài đến thành A-rơ,
    Lượn quanh biên giới Mô-áp.”

16 Từ đó, họ tiếp tục đi đến Bê-e,[a] và nơi đây CHÚA phán bảo Môi-se: “Tập họp dân chúng lại, Ta sẽ cho họ nước uống.”

17 Và người Y-sơ-ra-ên ca lên như sau:

“Trào nước lên, hỡi giếng
    Cho ta lên tiếng, hát ca
18 Giếng vua khơi, các nhà quý tộc đào
    Đào bằng gậy,
    Khơi bằng cây phủ việt.”

Rồi họ từ sa mạc đi đến Ma-tha-na. 19 Từ Ma-tha-na họ đến Na-ha-li-ên; từ Na-ha-li-ên đến Ba-mốt; 20 từ Ba-mốt đến thung lũng ở trong địa phận Mô-áp, tới đỉnh núi Phích-ga, và từ đấy nhìn thấy khắp sa mạc.

Đánh Bại Si-hôn Và Óc

21 Y-sơ-ra-ên sai sứ đến nói với Si-hôn, vua A-mô-rít như sau:

22 “Xin cho chúng tôi đi qua đất vua. Chúng tôi sẽ không đi vào đồng ruộng, vườn nho, cũng không múc nước giếng để uống. Chúng tôi sẽ theo đường cái quan cho đến khi ra khỏi lãnh thổ nhà vua.”

23 Nhưng Si-hôn không cho Y-sơ-ra-ên đi qua đất mình. Vua đem toàn thể quân đội kéo ra sa mạc, và tấn công Y-sơ-ra-ên tại Gia-hát. 24 Người Y-sơ-ra-ên chém chết Si-hôn, chiếm lấy đất từ Ạt-nôn đến Gia-bốc, cho đến biên giới A-môn, đây là một biên cương vững chắc. 25 Y-sơ-ra-ên chiếm hết các thành của người A-mô-rít, kể cả thành Hết-bôn và các làng mạc chung quanh. 26 Hết-bôn là kinh đô của Si-hôn vua A-mô-rít. Ngày trước, Si-hôn đã chiến thắng vua Mô-áp, chiếm đất của vua này tới Ạt-nôn.

27 Cho nên, có thi sĩ đã viết:

“Hãy cùng nhau đến Hết-bôn
    Xây dựng lại thành của Si-hôn!
28 Từ Hết-bôn lửa đã phát ra
    Ngọn lửa cháy từ thành của Si-hôn
Thiêu hủy A-rơ của Mô-áp
    Là thành ngự trị Ạt-nôn từ trên cao.
29 Hỡi dân Mô-áp, khốn khổ cho ngươi
    Hỡi dân Kê-mốt, họa diệt vong đã tới
Con trai ngươi phải trốn tránh lưu lạc
    Con gái ngươi phải đọa đày tù rạc
    Chính vì Si-hôn, vua dân A-mô-rít.
30 Nhưng nay ta lật đổ nó
    Tiêu hủy Hết-bôn đến tận Đi-bôn,
Ta tàn phá nó cho đến Nô-phách
    Cho đến tận Mê-đê-ba.”

31 Vậy, người Y-sơ-ra-ên chiếm ngụ đất của người A-mô-rít.

32 Môi-se sai người đi trinh sát Gia-ê-xe, và đánh chiếm hết các vùng phụ cận, đuổi người A-mô-rít đi. 33 Sau đó, người Y-sơ-ra-ên quay lại, đi lên hướng Ba-san. Óc, vua Ba-san kéo toàn quân ra chận họ tại Ết-rê-i.

34 CHÚA phán với Môi-se: “Đừng sợ người, vì Ta giao người vào tay con, luôn cả quân dân và đất đai của người nữa. Hãy xử người như con đã xử Si-hôn vua A-mô-rít ở Hết-bôn vậy.”

35 Vậy, người Y-sơ-ra-ên giết Óc, con cái và quân dân của người, không để một ai sống sót, rồi chiếm đóng đất đai của người.

Ba-lác Và Ba-la-am

22 Sau đó, người Y-sơ-ra-ên đi đến đồng bằng Mô-áp, và cắm trại bên kia sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô.

Ba-lác, con trai Xếp-bô, thấy hết mọi điều Y-sơ-ra-ên làm cho người A-mô-rít. Mô-áp càng kinh hoàng vì thấy người Y-sơ-ra-ên đông đảo quá.

Người Mô-áp bàn với các trưởng lão Ma-đi-an: “Đoàn dân này sẽ ăn nuốt chúng ta như bò ăn cỏ ngoài đồng vậy.” Vậy, Ba-lác con Xếp-bô, vua Mô-áp, gửi các sứ giả đi triệu Ba-la-am con trai Bê-ô, ông này đang sống ở quê mình là Phê-thô-rơ, bên bờ sông, nói rằng:

“Một dân tộc đến từ Ai-cập đông rợp đất, đang đóng bên chúng tôi. Bây giờ xin ông đến nguyền rủa họ, vì họ mạnh hơn chúng tôi; và như thế, có lẽ chúng tôi sẽ đuổi họ ra khỏi đất này được. Vì tôi biết rằng ai được ông chúc phước sẽ được phước, ai bị ông nguyền rủa sẽ bị họa.”

Các trưởng lão Mô-áp và Ma-đi-an ra đi, mang theo lễ vật bói toán. Gặp Ba-la-am, họ trình bày mọi điều Ba-lác dặn.

Ba-la-am bảo họ: “Xin các ông nghỉ lại đêm nay. Tôi sẽ trả lời các ông tùy theo điều CHÚA sẽ phán dạy tôi.” Vậy các trưởng lão Mô-áp ở lại.

CHÚA đến, hỏi Ba-la-am: “Họ là ai?”

10 Ba-la-am thưa: “Ba-lác con trai Xếp-bô, vua Mô-áp sai những người này đến nói rằng: 11 ‘Một dân tộc đến từ Ai-cập đông rợp đất. Hãy đến nguyền rủa họ cho tôi, và có lẽ chúng tôi sẽ đánh đuổi họ đi được.’ ”

12 Nhưng Đức Chúa Trời bảo Ba-la-am: “Đừng đi với họ. Ngươi không được nguyền rủa dân ấy vì họ được chúc phước.”

13 Sáng hôm sau, Ba-la-am thức dậy nói với các sứ giả của Ba-lác: “Xin các ông về xứ mình đi, vì CHÚA không cho tôi đi với các ông.”

14 Các sứ giả Mô-áp trở về, thưa với Ba-lác: “Ba-la-am từ khước, không chịu đi với chúng tôi.”

15 Ba-lác gửi một số sứ giả khác đông hơn, và gồm những người được trọng vọng hơn những người trước. 16 Họ đến nói với Ba-la-am:

“Ba-lác con Xếp-bô nói: ‘Xin ông đừng từ chối đến gặp tôi. 17 Tôi hứa sẽ trọng đãi ông tột bực, tôi sẽ làm bất cứ điều gì ông muốn, xin ông đến nguyền rủa dân này cho tôi.’ ”

18 Nhưng Ba-la-am đáp lời họ: “Dù Ba-lác có cho tôi cung điện chứa đầy vàng bạc, tôi cũng không thể trái lệnh của CHÚA, Đức Chúa Trời tôi để làm một việc, dù lớn hay nhỏ. 19 Bây giờ, tôi cũng xin các ông nghỉ lại đây đêm nay, để tôi xem có điều gì CHÚA phán dạy thêm nữa không.”

20 Đêm hôm ấy, Đức Chúa Trời đến và phán với Ba-la-am: “Nếu những người ấy đến mời, thì cứ dậy đi với họ, nhưng ngươi chỉ được làm điều gì Ta bảo.”

Con Lừa Của Ba-la-am

21 Ba-la-am dậy sớm, thắng yên lừa, ra đi với các sứ giả Mô-áp. 22 Nhưng việc ông đi làm cho Đức Chúa Trời giận. Thiên sứ của CHÚA đứng trên đường ngăn cản ông. Ba-la-am cưỡi lừa, có hai người đầy tớ đi theo. 23 Khi con lừa thấy thiên sứ CHÚA đứng trên đường, tay cầm kiếm tuốt trần, nó đi rẽ xuống ruộng. Ba-la-am đánh nó, bắt nó trở lại trên đường.

24 Thiên sứ CHÚA đến đứng tại một khúc đường giữa hai vườn nho, hai bên đường đều có tường. 25 Lừa thấy thiên sứ CHÚA liền đứng nép mình vào tường, làm kẹt chân Ba-la-am, nên ông lại đánh nó.

26 Thiên sứ CHÚA đi tới đứng tại một nơi rất hẹp, không có chỗ để trở mình phía nào cả. 27 Thấy thiên sứ CHÚA, lừa nằm mọp xuống, Ba-la-am nổi giận lấy gậy đánh nó. 28 CHÚA mở miệng con lừa, nó nói với Ba-la-am: “Tôi có làm gì mà ông đánh tôi đến ba lần?”

29 Ba-la-am đáp: “Vì mày sỉ nhục ta. Nếu có kiếm trong tay, ta đã giết mày rồi.”

30 Lừa lại hỏi Ba-la-am: “Tôi có phải là lừa ông vẫn cưỡi từ trước tới nay không? Tôi có thường hành động thế này không?”

Ông đáp: “Không.”

31 Bấy giờ, CHÚA mở mắt Ba-la-am, ông thấy thiên sứ CHÚA đứng trên đường, tay cầm kiếm tuốt trần. Ông vội cúi đầu, úp mặt xuống đất.

32 Thiên sứ của CHÚA hỏi: “Tại sao ngươi lại đánh con lừa ba lần? Ta đến đây ngăn cản ngươi vì ngươi đi theo con đường tà. 33 Con lừa thấy ta, nên nó tránh ta ba lần. Nếu nó không tránh, ta đã giết ngươi và để cho nó sống.”

34 Ba-la-am nói với thiên sứ của CHÚA: “Tôi đã phạm tội. Tôi đã không biết thiên sứ đứng trên đường để ngăn cản tôi. Nếu thiên sứ không vừa ý, bây giờ tôi xin quay về.”

35 Thiên sứ của CHÚA bảo Ba-la-am: “Cứ đi với họ, nhưng ngươi chỉ được nói lời nào ta bảo ngươi nói.” Vậy Ba-la-am tiếp tục đi với các sứ giả của Ba-lác.

36 Nghe tin Ba-la-am đến, Ba-lác ra tận một thành bên sông Ạt-nôn, ngoài biên giới để tiếp đón. 37 Ba-lác hỏi Ba-la-am: “Tôi đã khẩn khoản mời sao ông không đến? Tôi không đủ khả năng cho ông được vẻ vang sao?”

38 Ba-la-am đáp: “Bây giờ tôi đã đến đây. Nhưng tôi không có quyền nói gì hết. Tôi chỉ nói những lời Đức Chúa Trời đặt trong miệng tôi.”

39 Và Ba-la-am đi với Ba-lác đến Ki-ri-át Hút-sốt. 40 Ba-lác giết bò, cừu để cúng tế, và sai đem lễ vật cho Ba-la-am và các trưởng lão cùng đi với ông. 41 Sáng hôm sau, Ba-lác đem Ba-la-am lên Ba-mốt Ba-anh là nơi từ đấy Ba-la-am có thể thấy một phần người Y-sơ-ra-ên.

Lời Tiên Tri Thứ Nhất Của Ba-la-am

23 Ba-la-am nói với Ba-lác: “Xin xây tại đây bảy cái bàn thờ, và chuẩn bị cho tôi bảy con bò đực và bảy con chiên đực.” Ba-lác làm theo lời Ba-la-am nói, và hai người dâng một con bò và một con chiên trên mỗi bàn thờ.

Rồi Ba-la-am lại nói với Ba-lác: “Xin Vua đứng bên tế lễ thiêu mình. Tôi đi đằng này, có lẽ CHÚA sẽ đến cho tôi gặp. Ngài bảo tôi điều gì, tôi sẽ cho vua hay.” Ba-la-am đi lên một ngọn đồi.

Đức Chúa Trời gặp Ba-la-am, và ông thưa: “Tôi có lập bảy cái bàn thờ, trên mỗi cái dâng một con bò và một con chiên.”

CHÚA đặt lời trong miệng Ba-la-am, và bảo ông trở về nói với Ba-lác.

Ba-la-am về, thấy Ba-lác đứng bên tế lễ thiêu mình, cùng với các trưởng lão Mô-áp. Ba-la-am nói lời tiên tri như sau:

“Ba-lác, vua Mô-áp vời tôi đến từ A-ram,
    Từ những dãy núi miền Đông.
Bảo tôi đến nguyền rủa Gia-cốp,
    Lăng mạ Y-sơ-ra-ên.
Tôi nguyền rủa sao được
    Người Đức Chúa Trời không nguyền rủa?
Tôi lăng mạ sao được
    Người Đức Chúa Trời không lăng mạ?
Từ chót núi tôi thấy họ,
    Từ đồi cao tôi nhìn họ.
Tôi thấy họ, một dân sống riêng rẽ,
    Không coi mình như một nước thế gian.
10 Ai lường được cát bụi của Gia-cốp?
    Ai đếm được phần tư dân số Y-sơ-ra-ên?
Cho tôi chết cái chết của người công chính,
    Cho tôi qua đời như họ qua đời!”

11 Ba-lác hỏi Ba-la-am: “Ông làm gì vậy? Tôi mời ông đến nguyền rủa quân thù, nhưng ông lại đi chúc phước cho họ.”

12 Ông đáp: “Tôi phải nói những lời CHÚA đặt trong miệng tôi.”

Lời Tiên Tri Thứ Hai Của Ba-la-am

13 Sau đó, Ba-lác nói với Ba-la-am: “Ông đi với tôi đến một nơi khác, tại đấy ông sẽ thấy họ, nhưng cũng chỉ thấy được một phần dân ấy, và ông sẽ nguyền rủa họ cho tôi.” 14 Rồi Ba-lác dẫn Ba-la-am đến cánh đồng Xô-phim, lên đỉnh núi Phích-ga, lập tại đó bảy cái bàn thờ, dâng trên mỗi bàn thờ một con bò và một con chiên.

15 Ba-la-am nói với Ba-lác: “Xin vua đứng đấy, bên tế lễ thiêu mình, còn tôi sẽ đi đến đằng kia gặp CHÚA.”

16 CHÚA gặp Ba-la-am, đặt lời trong miệng ông, và bảo ông trở về nói với Ba-lác.

17 Vậy Ba-la-am về, thấy Ba-lác đứng bên tế lễ thiêu mình cùng với các trưởng lão Mô-áp, Ba-lác hỏi: “CHÚA phán dạy thế nào?”

18 Ba-la-am nói lời tiên tri:
    “Hỡi Ba-lác, hãy đứng lên nghe đây,
    Hỡi con trai của Xếp-bô, hãy lắng tai!
19 Đức Chúa Trời đâu phải loài người để nói dối,
    Ngài đâu phải con loài người để đổi ý.
Có bao giờ Ngài nói mà không làm?
    Hay hứa mà không thực hiện?
20 Đây, tôi nhận được lệnh chúc phước;
    Ngài đã chúc phước, tôi không thay đổi được.
21 Trong Gia-cốp, không thấy bất hạnh,
    Trong Y-sơ-ra-ên không thấy khốn cùng.
CHÚA, Đức Chúa Trời ở với họ,
    Tiếng thét của Vua ở giữa họ.
22 Đức Chúa Trời đem họ ra khỏi Ai-cập
    Sức mạnh họ như của bò rừng.
23 Không ai bùa ếm Gia-cốp được,
    Cũng không ai bói toán nghịch Y-sơ-ra-ên.
Vì đây là lúc nói về những việc Đức Chúa Trời đã làm cho Gia-cốp, cho Y-sơ-ra-ên.
24 Họ vươn mình như sư tử cái,
    Vùng dậy như sư tử đực
Chỉ nghỉ ngơi khi đã nuốt xong mồi,
    Và uống xong máu kẻ bị giết.”

25 Ba-lác nói với Ba-la-am: “Ông không nguyền rủa họ thì thôi cũng đừng chúc phước cho họ nữa.”

26 Ba-la-am đáp: “Tôi đã bảo là tôi chỉ được nói những điều CHÚA dạy tôi.”

Lời Tiên Tri Thứ Ba Của Ba-la-am

27 Rồi, Ba-lác lại nói với Ba-la-am: “Để tôi đưa ông đến một nơi khác. Có lẽ lần này Đức Chúa Trời sẽ đồng ý cho ông nguyền rủa họ tại đó.” 28 Và Ba-lác dẫn Ba-la-am lên đỉnh núi Phê-ô, từ đấy nhìn thấy sa mạc.

29 Ba-la-am nói: “Xây bảy bàn thờ và chuẩn bị bảy con bò, bảy con chiên tại đây cho tôi.” 30 Ba-lác làm theo lời Ba-la-am, và dâng một con bò, một con chiên trên mỗi bàn thờ.

24 Bây giờ, Ba-la-am thấy rõ rằng CHÚA muốn chúc phước cho Y-sơ-ra-ên, nên ông không đi tìm điềm báo như những lần trước, nhưng quay nhìn về hướng sa mạc. Ông thấy các trại quân Y-sơ-ra-ên, mỗi bộ tộc cắm trại riêng biệt. Được thần Đức Chúa Trời cảm thúc, ông nói tiên tri như sau:

“Lời tiên tri của Ba-la-am con trai Bê-ô,
    Là người có đôi mắt mở ra.
Người nghe được lời của Đức Chúa Trời,
    Thấy được khải tượng của Đức Chúa Trời
    Dù người ngã, mắt người vẫn mở.
Lều của Gia-cốp,
    Trại của Y-sơ-ra-ên đẹp mắt thật,
Như thung lũng chạy dài,
    Như vườn tược cạnh mé sông,
Như cây trầm hương được tay Đức Chúa Trời vun trồng,
    Như cây bách hương mọc bên dòng nước.
Họ sẽ có nước ngọt tràn trề dư dật,
    Con cháu họ không hề sống nơi khô cạn,
Vua họ có uy quyền cao hơn A-gát,
    Vương quốc họ hùng mạnh thăng tiến.
Đức Chúa Trời đem họ ra khỏi Ai-cập,
    Họ trở nên dũng mãnh như bò rừng.
    Họ nuốt tươi các nước cừu địch.
Họ nghỉ ngơi như sư tử nằm ngủ,
    Ai dám đánh thức?
Ai chúc phước họ sẽ hưởng hạnh phúc;
    Ai nguyền rủa họ sẽ bị tai ương!”

10 Đến đây, Ba-lác không ngăn được cơn giận, hai tay đập vào nhau, lên tiếng quở trách Ba-la-am: “Ta gọi ông đến để nguyền rủa kẻ thù cho ta, ông lại đi chúc phước họ ba lần. 11 Thôi ông về đi! Ta có hứa làm cho ông được vẻ vang nhưng CHÚA đã không cho ông hưởng vinh dự.”

12 Ba-la-am đáp: “Tôi đã bảo sứ giả của bệ hạ là 13 dù đức vua có cho tôi cung điện đầy vàng bạc, tôi cũng không tự mình làm điều gì được cả, CHÚA bảo tôi nói gì, tôi phải nói đúng như vậy. 14 Bây giờ, trước khi tôi về, tôi xin nói trước những điều Y-sơ-ra-ên sẽ làm cho thần dân bệ hạ.”

15 Và Ba-la-am tiếp:

“Lời tiên tri của Ba-la-am, con trai Bê-ô
    Là người có đôi mắt mở ra.
16 Người nghe được lời của Đức Chúa Trời,
    Nhận thức được cao kiến của Đấng Tối Cao,
Thấy được khải tượng của Đức Chúa Trời,
    Dù người ngã, mắt người vẫn mở.
17 Điều tôi thấy chưa xảy ra ngay,
    Việc tôi nhìn chưa đến gần.
Một ngôi sao xuất phát từ nhà Gia-cốp,
    Một cây trượng đến từ Y-sơ-ra-ên.
Vị vua Y-sơ-ra-ên này sẽ đánh Mô-áp tan tành,
    Tận diệt dòng dõi loạn lạc.
18 Y-sơ-ra-ên sẽ biểu dương lực lượng,
    Chiếm Ê-đôm và Sê-i-rơ.
19 Đức Vua uy quyền xuất phát từ nhà Gia-cốp này,
    Sẽ tiêu diệt những người sống sót trong các thành thị.”

Lời Tiên Tri Chót Của Ba-la-am

20 Sau đó, Ba-la-am nhìn thấy A-ma-léc, ông nói lời tiên tri sau đây:

“A-ma-léc đứng đầu các quốc gia,
    Nhưng cuối cùng sẽ bị diệt vong.”

21 Khi nhìn thấy người Kên, ông nói:

“Nơi ngươi ở thật an toàn,
    Như tổ lót trên tảng đá:
22 Thế nhưng Kên sẽ bị tàn phá
    Khi A-sua bắt ngươi lưu đày.”
23     Ông kết thúc lời tiên tri mình như sau:
“Ôi! Khi Đức Chúa Trời thực hiện những điều này, còn ai sống nổi?
24     Tàu biển sẽ đến từ bờ biển Kít-tim
Làm cho A-sua và Hê-be khốn đốn,
    Rồi chính họ cũng bị tiêu hủy.”

25 Ba-la-am đứng dậy, đi về nhà, Ba-lác cũng lên đường.

Mô-áp Quyến Rũ Y-sơ-ra-ên

25 Trong khi người Y-sơ-ra-ên ở lại Si-tim, một số người tà dâm với các phụ nữ Mô-áp. Các phụ nữ mời họ dự các buổi dâng sinh tế cho thần mình, họ ăn uống và quỳ lạy các thần ấy. Vậy Y-sơ-ra-ên tham dự vào việc cúng thần Ba-anh Phê-ô. Và CHÚA nổi giận.

CHÚA phán bảo Môi-se: “Bắt các nhà lãnh đạo dân chúng, treo họ trước mặt CHÚA, dưới ánh nắng, để cơn giận Ta nguôi đi.”

Môi-se ra lệnh cho các thẩm phán Y-sơ-ra-ên: “Các anh phải xử tử tất cả những người nào ở dưới quyền mình mà đã tham dự vào việc thờ Ba-anh Phê-ô.”

Có một người Y-sơ-ra-ên đem một phụ nữ Ma-đi-an về nhà, ngay trước mặt Môi-se và cả hội chúng Y-sơ-ra-ên, trong khi họ đang khóc lóc trước cửa Trại Hội Kiến. Thấy thế Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn, thầy tế lễ, liền rời hội chúng đi lấy một cây giáo, chạy theo người kia vào trong trại, đâm xuyên qua cả hai người, xuyên người đàn ông Y-sơ-ra-ên và bụng người đàn bà. Tai họa liền chấm dứt. Số người chết trong tai họa này lên đến hai mươi bốn ngàn người.

10 CHÚA phán bảo Môi-se: 11 “Phi-nê-a con trai Ê-lê-a-sa, cháu A-rôn, thầy tế lễ, đã cứu Y-sơ-ra-ên thoát khỏi cơn giận Ta, người đã vì Ta nhiệt tâm đố kỵ tà thần, nên Ta không diệt Y-sơ-ra-ên bất trung. 12 Vậy con cho người hay, Ta lập giao ước hòa bình với người, 13 là giao ước với người và con cháu người, họ sẽ giữ chức tế lễ mãi mãi, vì người đã nhiệt tâm với Ta, Đức Chúa Trời người, và chuộc tội cho Y-sơ-ra-ên.”

14 Tên của người Y-sơ-ra-ên bị giết chung với phụ nữ Ma-đi-an là Xim-ri, con trai Sa-lu, đứng đầu một họ trong bộ tộc Si-mê-ôn, 15 và tên của người phụ nữ Ma-đi-an bị giết là Cốt-bi, con Xu-rơ, trưởng một bộ tộc trong Ma-đi-an.

16 CHÚA phán bảo Môi-se: 17 “Hãy coi người Ma-đi-an là kẻ thù và đánh giết họ, 18 vì họ đã coi các ngươi là thù nghịch khi dùng mưu kế dụ dỗ các ngươi thờ Phê-ô. Cốt-bi là con gái một nhà lãnh đạo Ma-đi-an, người phụ nữ bị giết trong ngày tai họa, và tai họa này xảy ra vì việc cúng thờ Phê-ô.”

Cuộc Kiểm Tra Dân Số Thứ Hai

26 Sau tai họa ấy, CHÚA phán bảo Môi-se và Ê-lê-a-sa, con trai thầy tế lễ A-rôn: “Kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên theo từng gia tộc, từ hai mươi tuổi trở lên, những người có thể ra trận được.” Vậy, tại đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô, Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa truyền lại lệnh ấy cho dân: “Kiểm tra những người từ hai mươi tuổi trở lên, như CHÚA đã phán dặn Môi-se.”

Đây là dân số Y-sơ-ra-ên, những người ra từ Ai-cập:

Con cháu Ru-bên, con trưởng nam của Y-sơ-ra-ên,

Từ Hê-nóc sinh ra gia tộc Hê-nóc,

Từ Pha-lu sinh ra gia tộc Pha-lu,

Từ Hết-rôn sinh ra gia tộc Hết-rôn,

Từ Cạt-mi sinh ra gia tộc Cạt-mi.

Đó là các gia tộc thuộc bộ tộc Ru-bên, có 43,730 người.

Con trai Pha-lu là Ê-li-áp. Các con trai Ê-li-áp là Nê-mu-ên, Đa-than và A-bi-ram. Chính Đa-than và A-bi-ram này là hai người lãnh đạo của dân, đã theo Cô-rê nổi loạn chống Môi-se, A-rôn và cả CHÚA nữa. 10 Đất hả miệng nuốt họ cùng với Cô-rê, còn 250 người theo họ bị lửa thiêu chết. Việc này xảy ra để cảnh cáo Y-sơ-ra-ên. 11 Tuy nhiên, con cháu Cô-rê không bị tuyệt diệt.

12 Con cháu Si-mê-ôn, tính từng gia tộc:

Từ Nê-mu-ên sinh ra gia tộc Nê-mu-ên,

từ Gia-min sinh ra gia tộc Gia-min,

từ Gia-kin sinh ra gia tộc Gia-kin,

13 từ Xê-rách sinh ra gia tộc Xê-rách,

từ Sau-lơ sinh ra gia tộc Sau-lơ.

14 Đó là các gia tộc của bộ tộc Si-mê-ôn, có 22,200 người.

15 Con cháu Gát, tính từng gia tộc:

Từ Xê-phôn sinh ra gia tộc Xê-phôn,

từ Ha-ghi sinh ra gia tộc Ha-ghi,

từ Su-ni sinh ra gia tộc Su-ni,

16 từ Óc-ni sinh ra gia tộc Óc-ni,

từ Ê-ri sinh ra gia tộc Ê-ri,

17 từ A-rốt sinh ra gia tộc A-rốt,

từ A-rê-li sinh ra gia tộc A-rê-li.

18 Đó là các gia tộc của bộ tộc Gát, có 40,500 người.

19 Có hai con trai của Giu-đa là Ê-rơ và Ô-nan đã qua đời tại Ca-na-an.

20 Con cháu Giu-đa, tính từng gia tộc:

Từ Sê-la sinh ra gia tộc Sê-la,

từ Phê-rết sinh ra gia tộc Phê-rết,

từ Xê-rách sinh ra gia tộc Xê-rách,

21 từ Hết-rôn sinh ra gia tộc Hết-rôn,

từ Ha-mun sinh ra gia tộc Ha-mun.

Hết-rôn và Ha-num là con Phê-rết.

22 Đó là các gia tộc của bộ tộc Giu-đa, có 76,500 người.

23 Con cháu Y-sa-ca, tính từng gia tộc:

Từ Thô-la sinh ra gia tộc Thô-la,

từ Phu-va sinh ra gia tộc Phu-va,

24 từ Gia-súp sinh ra gia tộc Gia-súp,

từ Sim-rôn sinh ra gia tộc Sim-rôn.

25 Đó là các gia tộc của bộ tộc Y-sa-ca, có 64,300 người.

26 Con cháu Sa-bu-luân, tính từng gia tộc:

Từ Sê-rết sinh ra gia tộc Sê-rết,

từ Ê-lôn sinh ra gia tộc Ê-lôn,

từ Gia-lê-ên sinh ra gia tộc Gia-lê-ên.

27 Đó là các gia tộc của bộ tộc Sa-bu-luân, có 60,500 người.

28 Con cháu Giô-sép tính từng bộ tộc, có Ma-na-se và Ép-ra-im:

29 Con cháu Ma-na-se:

Từ Ma-ki sinh ra gia tộc Ma-ki,

từ Ga-la-át (con Ma-ki) sinh ra gia tộc Ga-la-át,

30 các người của Ga-la-át là:

từ Giê-xe sinh ra gia tộc Giê-xe,

từ Hê-léc sinh ra gia tộc Hê-léc,

31 từ Ách-ri-ên sinh ra gia tộc Ách-ri-ên,

từ Si-chem sinh ra gia tộc Si-chem,

32 Từ Sê-mi-đa sinh ra gia tộc Sê-mi-đa,

từ Hê-phê sinh ra gia tộc Hê-phê.

33 (Xê-lô-phát, con trai Hê-phê, không có con trai. Tên các con gái Xê-lô-phát là Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa).

34 Đó là các gia tộc của bộ tộc Ma-na-se, có 52,700 người.

35 Con cháu Ép-ra-im:

Từ Su-thê-lách sinh ra gia tộc Su-thê-lách,

từ Bê-ka sinh ra gia tộc Bê-ka,

từ Tha-chan sinh ra gia tộc Tha-chan.

36 Con của Su-thê-lách là Ê-ran,

từ Ê-ran sinh ra gia tộc Ê-ran.

37 Đó là các gia tộc của bộ tộc Ép-ra-im, có 32,500 người.

Các gia tộc thuộc hai bộ tộc trên đều là con cháu Giô-sép.

38 Con cháu Bên-gia-min, tính từng gia tộc:

Từ Bê-la sinh ra gia tộc Bê-la,

từ Ách-bên sinh ra gia tộc Ách-bên,

từ A-chi-ram sinh ra gia tộc A-chi-ram,

39 từ Sê-phu-pham sinh ra gia tộc Sê-phu-pham,

từ Hu-pham sinh ra gia tộc Hu-pham.

40 Các người của Bê-la là A-rết và Na-a-man,

từ A-rết sinh ra gia tộc A-rết,

từ Na-a-man sinh ra gia tộc Na-a-man.

41 Đó là các gia tộc của bộ tộc Bên-gia-min, có 45,600 người.

42 Con cháu Đan, tính từng gia tộc:

Từ Su-cham sinh ra gia tộc Su-cham.

43 Bộ tộc Đan chỉ có một gia tộc, bộ tộc Su-cham có 64,400 người.

44 Con cháu A-se, tính từng gia tộc:

từ Im-na sinh ra gia tộc Im-na,

từ Ích-vi sinh ra gia tộc Ích-vi,

từ Bê-ri-a sinh ra gia tộc Bê-ri-a.

45 Các người của Bê-ri-a:

Từ Hê-be sinh ra gia tộc Hê-be,

từ Manh-ki-ên sinh ra gia tộc Manh-ki-ên.

46 (A-se có một con gái tên là Sê-rách).

47 Đó là các gia tộc của bộ tộc A-se, có 53,400 người.

48 Con cháu Nép-ta-li tính từng gia tộc:

Từ Giát-sê-ên sinh ra gia tộc Giát-sê-ên,

từ Gu-ni sinh ra gia tộc Gu-ni,

49 từ Giê-se sinh ra gia tộc Giê-se,

từ Si-lem sinh ra gia tộc Si-lem.

50 Đó là các gia tộc của bộ tộc Nép-ta-li, có 45,400 người.

51 Vậy trong Y-sơ-ra-ên, tổng số người được kiểm tra là 601,730 người.

52 CHÚA phán bảo Môi-se: 53 “Đất sẽ được chia cho họ làm cơ nghiệp căn cứ trên dân số. 54 Bộ tộc đông dân sẽ được nhiều đất, bộ tộc ít dân sẽ được ít đất. Mỗi bộ tộc sẽ nhận được đất tùy theo dân số kiểm tra. 55 Người ta sẽ dùng lối bốc thăm chia đất, mỗi phần mang tên một bộ tộc. 56 Cơ nghiệp của họ sẽ được bắt thăm giữa những bộ tộc đông dân và những bộ tộc ít dân.”

57 Người Lê-vi cũng được kiểm tra, tính từng gia tộc:

Từ Ghẹt-sôn sinh ra gia tộc Ghẹt-sôn,

từ Kê-hát sinh ra gia tộc Kê-hát,

từ Mê-ra-ri sinh ra gia tộc Mê-ra-ri.

58 Các gia tộc khác thuộc bộ tộc Lê-vi là:

gia tộc Líp-ni,

gia tộc Hếp-rôn,

gia tộc Mách-li,

gia tộc Mu-si,

gia tộc Cô-rê.

(Kê-hát sinh Am-ram. 59 Lê-vi lúc còn ở Ai-cập sinh ra một người con gái tên là Giô-kê-bết. Am-ram cưới Giô-kê-bết sinh A-rôn, Môi-se và một người con gái tên là Mi-ri-am. 60 A-rôn sinh Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. 61 Na-đáp và A-bi-hu chết khi dâng lửa lạ trước mặt CHÚA).

62 Tổng số người nam thuộc bộ tộc Lê-vi, từ một tháng trở lên, là 23,000 người. Họ không được kiểm tra.

63 Đó là cuộc kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên do Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa thực hiện trong đồng bằng Mô-áp, bên kia sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô. 64 Không một ai trong số những người này có tên trong kỳ kiểm tra lần trước do Môi-se và thầy tế lễ A-rôn thực hiện trong sa mạc Si-nai. 65 CHÚA có phán về những người trước rằng: “Họ phải chết trong sa mạc”, nên không còn một ai sống sót, trừ Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, và Giô-suê, con trai Nun.

Các Con Gái Của Xê-lô-phát

27 Xê-lô-phát có năm người con gái: Mách-la, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa. (Xê-lô-phát là con Hê-phê, cháu Ga-la-át, chắt Ma-ki, chít Ma-na-se, thuộc bộ tộc Ma-na-se. Ma-na-se là con Giô-sép). Các cô đến gặp Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, các nhà lãnh tụ và toàn thể dân chúng hiện diện tại cửa Trại Hội Kiến, nói: “Cha chúng tôi qua đời trong sa mạc, không phải vì theo bè đảng Cô-rê phản nghịch CHÚA, nhưng chết vì tội lỗi mình, và không có con trai. Chỉ vì không có con trai nên cha tôi phải bị xóa tên khỏi gia tộc mình hay sao? Vậy, xin cho chúng tôi lãnh phần cơ nghiệp cùng với các chú các bác chúng tôi.”

Môi-se trình vụ này lên cho CHÚA. CHÚA phán dạy ông: “Các con gái Xê-lô-phát nói đúng. Hãy chia cho họ một phần đất làm cơ nghiệp cùng với chú bác họ, là phần đáng lẽ chia cho cha họ.

Con cũng nói với dân Y-sơ-ra-ên, nếu có ai chết mà không có con trai, hãy chia phần cho con gái người ấy. Nếu người ấy không có con gái, giao phần cơ nghiệp cho anh em người ấy. 10 Nếu không có anh em, giao cho chú bác. 11 Nếu không có chú bác, giao phần cơ nghiệp cho người bà con gần nhất.” Đây là một luật áp dụng cho người Y-sơ-ra-ên, đúng như CHÚA phán dạy Môi-se.

Giô-suê Kế Nghiệp Môi-se

12 Sau đó, CHÚA phán với Môi-se: “Con lên núi A-ba-rim ngắm xem đất Ta cho Y-sơ-ra-ên. 13 Xem xong, con cũng sẽ về cùng tổ tiên như A-rôn, anh con vậy. 14 Vì trong sa mạc Xin, hai con đã không vâng lệnh Ta, không tôn thánh Ta trước mặt dân chúng khi họ chống cự về việc nước.” (Đây là “nước Mê-ri-ba” ở Ca-đê, trong sa mạc Xin.)

15 Môi-se thưa với CHÚA: 16 “Lạy CHÚA là Chúa của linh hồn mọi người, xin chỉ định một người lãnh đạo dân chúng, 17 một người ở giữa họ để dẫn họ ra, đem họ vào, cho dân của CHÚA không như cừu chẳng có người chăn.”

18 CHÚA đáp lời Môi-se: “Chọn Giô-suê, con trai Nun là người có thần trong mình. Con sẽ đặt tay trên người. 19 Con sẽ dẫn người đến đứng trước thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và toàn thể dân chúng. Trước mặt họ, con sẽ ủy thác trách nhiệm cho người. 20 Con trao quyền cho người và như thế, toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên sẽ vâng lệnh người. 21 Người đến với thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ dùng bảng U-rim thỉnh cầu quyết định của CHÚA. Người và toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên phải tuân hành lệnh Chúa trong mọi việc, việc đi ra cũng như đi vào.”

22 Môi-se làm đúng như lời CHÚA phán dặn, đem Giô-suê đến đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và toàn thể dân chúng. 23 Ông đặt tay trên Giô-suê và ủy thác trách nhiệm cho người, như CHÚA đã dạy ông.

Tế Lễ Hằng Ngày

28 CHÚA phán bảo Môi-se truyền cho dân Y-sơ-ra-ên lệnh này: “Phải cẩn thận dâng lên ta đúng kỳ hạn các lễ vật thức ăn dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng Ta.” Con bảo họ: “Đây là lễ thiêu dùng lửa dâng lên CHÚA: Mỗi ngày dâng tế lễ toàn thiêu thường xuyên, gồm hai chiên đực một tuổi không tì vết. Dâng một con vào buổi sáng, một con vào buổi tối, cùng với lễ vật ngũ cốc gồm một phần mười ê-pha bột mì mịn[b] trộn với một phần tư hin dầu ô-liu giã bằng cối.[c] Đây là tế lễ thiêu thường xuyên đã được ấn định tại núi Si-nai, là một tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Cũng dâng chung với chiên một lễ tưới rượu, gồm một phần tư hin rượu; đổ rượu ra trên bàn thờ trước mặt CHÚA. Vào lúc chiều tối cũng dâng một con chiên cùng với lễ vật ngũ cốc và lễ tưới rượu giống như lễ buổi sáng. Đây là tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA.

Tế Lễ Ngày Sa-bát

Mỗi ngày Sa-bát, dâng tế lễ thiêu gồm hai con chiên đực một tuổi, không tì vết, cùng với lễ tưới rượu và lễ dâng ngũ cốc, gồm hai phần mười ê-pha[d] bột mì mịn trộn với dầu. 10 Đây là tế lễ thiêu dâng ngày Sa-bát, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên và lễ tưới rượu.

Tế Lễ Hằng Tháng

11 Mỗi đầu tháng, dâng tế lễ thiêu cho CHÚA gồm hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên đực một tuổi, không tì vết. 12 Lễ vật ngũ cốc gồm bột mì trộn với dầu: dâng ba phần mười ê-pha[e] chung với mỗi con bò, hai phần mười ê-pha[f] chung với mỗi con chiên đực và một phần mười ê-pha chung với mỗi con chiên con. Đây là tế lễ toàn thiêu, dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. 13 Với con chiên đực, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm một phần mười ê-pha bột mì mịn. Đây là tế lễ thiêu, dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. 14 Chung với mỗi con bò, dâng một lễ tưới rượu gồm một nửa hin[g] rượu. Với con chiên đực, dâng một phần tư hin rượu. Với mỗi con chiên con, một phần tư hin rượu. Đây là lễ thiêu dâng hằng tháng trong năm. 15 Ngoài tế lễ thiêu dâng thường xuyên hằng ngày với lễ tưới rượu, dâng lên CHÚA một con dê đực để làm tế lễ chuộc tội.

Lễ Vượt Qua

16 Hãy giữ Lễ Vượt Qua của CHÚA vào ngày mười bốn tháng giêng. 17 Từ ngày mười lăm, người ta sẽ dự lễ, ăn bánh không men trong bảy ngày. 18 Vào ngày thứ nhất, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA và không ai được làm việc hằng ngày của mình. 19 Dâng cho CHÚA một tế lễ thiêu, lễ vật gồm hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên đực một tuổi, không tì vết. 20 Chung với mỗi con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai phần mười ê-pha. 21 Với mỗi chiên con, một phần mười ê-pha. 22 Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi. 23 Đấy là các lễ vật phải dâng ngoài tế lễ thiêu thường xuyên vào buổi sáng. 24 Trong bảy ngày, mỗi ngày đều phải dâng tế lễ thiêu như thế, dùng lửa dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. Các lễ vật đó được dâng ngoài các tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ tưới rượu. 25 Vào ngày thứ bảy cũng phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc hằng ngày của mình.

Lễ Các Tuần

26 Vào ngày hoa quả đầu mùa, ngày thứ nhất trong lễ Các Tuần, khi dâng lên CHÚA ngũ cốc mới thu hoạch, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc thường ngày của mình. 27 Dâng hai con bò tơ đực, một con chiên đực và bảy con chiên một tuổi làm tế lễ thiêu dâng lên có mùi thơm đẹp lòng CHÚA. 28 Chung với mỗi con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai phần mười ê-pha. 29 Với mỗi chiên con, một phần mười ê-pha. 30 Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi. 31 Các lễ vật này cùng với các lễ tưới rượu phải dâng ngoài tế lễ thiêu thường xuyên, lễ dâng ngũ cốc và lễ tưới rượu. Phải dâng những sinh vật không tì vết.

Lễ Thổi Kèn

29 Vào ngày mồng một tháng bảy, các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA, không ai được làm công việc hằng ngày của mình. Ngày ấy sẽ là ngày thổi kèn. Tế lễ thiêu dâng lên, có mùi thơm đẹp lòng CHÚA gồm một con bò tơ đực, một con cừu đực và bảy con chiên đực một tuổi, không tì vết. Chung với con bò, dâng lễ vật ngũ cốc gồm ba phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với dầu. Với con cừu đực, hai phần ba ê-pha. Với mỗi con chiên con, một phần ba ê-pha. Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội cho các ngươi. Các lễ vật này dâng ngoài tế lễ thiêu dâng hằng tháng cùng lễ vật ngũ cốc, tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ vật ngũ cốc và lễ tưới rượu như đã quy định. Đấy là những lễ vật dùng lửa dâng lên có mùi thơm đẹp lòng CHÚA.

Ngày Chuộc Tội

Ngày mồng mười tháng bảy các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA. Mọi người phải kiêng ăn,[h] và không được làm việc gì hết. Tế lễ thiêu dâng lên có mùi thơm đẹp lòng CHÚA gồm một con bò tơ đực, một con cừu đực và bảy con chiên đực một tuổi, không tì vết. Chung với con bò, dâng một lễ vật ngũ cốc gồm ba phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với dầu. Với con chiên đực, hai phần mười ê-pha. 10 Với mỗi con chiên con, một phần mười ê-pha. 11 Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội. Lễ vật này được dâng thêm vào với tế lễ chuộc tội dâng trong ngày chuộc tội, tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ vật ngũ cốc và lễ tưới rượu.

Lễ Lều Tạm

12 Ngày rằm tháng bảy các con phải tập họp lại thờ phượng CHÚA. Không ai được làm công việc hằng ngày của mình. Dân chúng sẽ giữ lễ bảy ngày cho CHÚA. 13 Tế lễ thiêu dâng lên có mùi thơm đẹp lòng CHÚA gồm mười ba con bò tơ đực, hai con chiên đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không tì vết. 14 Chung với mỗi con bò, dâng một lễ ngũ cốc[i] gồm ba phần mười ê-pha bột mì mịn trộn với dầu. Với mỗi con chiên đực, hai phần mười ê-pha. 15 Với mỗi chiên con, một phần mười ê-pha. 16 Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ tưới rượu.

17 Vào ngày thứ hai, dâng mười hai con bò tơ đực, hai con chiên đực và mười bốn con cừu đực một tuổi, không tì vết. 18 Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc và rượu theo số lượng đã ấn định. 19 Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ tưới rượu.

20 Vào ngày thứ ba, dâng mười một con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không tì vết. 21 Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc và rượu theo số lượng đã ấn định. 22 Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ tưới rượu.

23 Vào ngày thứ tư, dâng mười con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không tì vết. 24 Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc và rượu theo số lượng đã ấn định. 25 Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ tưới rượu.

26 Vào ngày thứ năm, dâng chín con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không tì vết. 27 Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định. 28 Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ tưới rượu.

29 Vào ngày thứ sáu, dâng tám con bò tơ đực, hai con cừu đực và mười bốn con chiên đực một tuổi, không tì vết. 30 Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định. 31 Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ dâng ngũ cốc và lễ tưới rượu.

32 Vào ngày thứ bảy, dâng bảy con bò tơ đực, hai con chiên đực và mười bốn con cừu đực một tuổi, không tì vết. 33 Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định. 34 Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ dâng ngũ cốc và lễ tưới rượu.

35 Vào ngày thứ tám, sẽ có một cuộc hội họp thánh, không ai được làm việc gì cả. 36 Tế lễ thiêu có mùi thơm dâng CHÚA gồm một con bò đực, một con cừu đực và bảy con cừu đực một tuổi, không tì vết. 37 Chung với bò, cừu đực và chiên con, cũng dâng ngũ cốc theo số lượng đã ấn định. 38 Cũng dâng một con dê đực làm tế lễ chuộc tội, ngoài tế lễ thiêu thường xuyên cùng lễ ngũ cốc và lễ tưới rượu.

39 Đấy là các lễ vật dâng cho CHÚA trong các ngày lễ ấn định, gồm tế lễ thiêu, lễ dâng ngũ cốc, lễ tưới rượu và tế lễ cầu an mà các con dâng để giữ trọn lời hứa nguyện hoặc dâng cách tình nguyện.”

40 Môi-se truyền lại cho người Y-sơ-ra-ên mọi điều CHÚA phán bảo.

Hứa Nguyện

30 Môi-se nói với các nhà lãnh đạo các bộ tộc Y-sơ-ra-ên: “Đây là những điều CHÚA có phán dạy: ‘Nếu một người hứa nguyện với CHÚA điều gì hoặc thề sẽ giữ một lời nguyền, người ấy không được trái lời, phải làm theo lời mình đã nói.

Khi một thiếu nữ còn sống trong nhà cha mình có lời hứa nguyện với CHÚA hoặc thề nguyện điều gì, và khi người cha nghe được lời thề của con mình nhưng không nói gì cả; tất cả lời thề đó vẫn có hiệu lực. Nhưng nếu người cha cấm con gái mình ngay trong ngày người ấy biết được; không một lời thề nào của nàng còn có hiệu lực cả. CHÚA sẽ tha thứ cho nàng vì bị cha mình cấm đoán.

Nếu thiếu nữ lấy chồng sau khi đã có lời hứa nguyện hoặc đã buột miệng thề một điều gì, và khi người chồng nghe được lời thề nhưng không nói gì cả; lời thề vẫn có hiệu lực. Nhưng nếu người chồng cấm vợ mình ngay trong ngày người ấy biết được; người chồng đã hủy bỏ hiệu lực lời hứa nguyện, lời thề của vợ mình vì buột miệng nói ra. CHÚA sẽ tha thứ cho nàng.

Lời thề của một bà góa hoặc một bà ly dị có hiệu lực.

10 Nếu trong khi đang sống trong nhà chồng, một người đàn bà hứa nguyện hoặc thề sẽ giữ một lời nguyền, 11 và khi người chồng nghe được lời thề nhưng không nói năng cấm đoán gì cả; tất cả lời thề vẫn còn có hiệu lực. 12 Nhưng nếu người chồng hủy bỏ lời thề ngay trong ngày mình biết được, không một lời thề nào của nàng còn có hiệu lực cả. CHÚA sẽ tha thứ cho nàng vì chồng nàng hủy bỏ. 13 Vậy, người chồng có quyền xác nhận hay hủy bỏ lời hứa nguyện hoặc lời thề nguyền của vợ mình. 14 Nhưng nếu người chồng không nói gì trong một ngày tròn, tức là đã xác nhận lời thề của vợ mình. Người chồng xác nhận bằng sự yên lặng, dù đã biết được lời thề ấy. 15 Nếu người chồng biết được, nhưng đợi một thời gian mới hủy bỏ lời thề, người chồng phải gánh chịu trách nhiệm về lỗi vợ mình mắc phải.’ ”

16 Đấy là những quy tắc CHÚA truyền cho Môi-se về mối liên hệ giữa vợ chồng, cha con khi người con gái còn sống trong nhà cha mình.

Báo Thù Người Ma-đi-an

31 CHÚA phán bảo Môi-se: “Hãy báo thù người Ma-đi-an cho Y-sơ-ra-ên. Rồi con sẽ được về cùng tổ tiên.”

Vậy, Môi-se bảo dân: “Vũ trang một số dân chúng để đi đánh dân Ma-đi-an, thi hành lệnh báo thù của CHÚA. Mỗi bộ tộc sẽ gửi 1,000 quân ra trận.” Như vậy, trong Y-sơ-ra-ên, mỗi bộ tộc chọn 1,000 người, 12,000 người được vũ trang để ra trận. Môi-se ra lệnh xuất quân, một ngàn quân mỗi bộ tộc, cùng với Phi-nê-a, con thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, đem theo các dụng cụ thánh và cầm kèn đồng thổi báo hiệu.

Họ tấn công Ma-đi-an theo lệnh CHÚA truyền cho Môi-se, giết tất cả những người đàn ông, kể cả năm vua Ma-đi-an là Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ và Rê-ba. Ba-la-am, con trai Bê-ô cũng bị chém chết. Người Y-sơ-ra-ên bắt đàn bà, trẻ con Ma-đi-an, thu chiến lợi phẩm gồm bò, cừu và của cải. 10 Họ đốt hết các thành, trang trại của người Ma-đi-an. 11 Họ lấy các chiến lợi phẩm, người và súc vật, 12 đem tất cả người đã bắt được và của cải đã thu được về cho Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và dân chúng Y-sơ-ra-ên đang cắm trại tại đồng bằng Mô-áp, bên sông Giô-đanh, đối diện Giê-ri-cô.

13 Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và tất cả các nhà lãnh đạo hội chúng dân chúng đi ra bên ngoài trại đón họ. 14 Môi-se giận các sĩ quan chỉ huy quân đội lắm, những người chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm quân, vừa từ chiến trường về.

15 Ông hỏi họ: “Tại sao các ông tha chết cho những người đàn bà này? 16 Họ chính là những người theo mưu của Ba-la-am, dụ dỗ người Y-sơ-ra-ên từ bỏ CHÚA, cúng thờ Phê-ô, và vì thế dân CHÚA bị tai họa. 17 Bây giờ, phải giết hết những đứa con trai và những người đàn bà đã nằm với đàn ông. 18 Nhưng tha chết cho các trinh nữ, và có thể giữ họ cho mình.

19 Còn những ai đã giết người hoặc đụng vào xác chết, phải ở lại bên ngoài trại bảy ngày. Vào ngày thứ ba và ngày thứ bảy, phải tẩy uế mình và người mình bắt được. 20 Cũng phải tẩy sạch quần áo, đồ dùng bằng da, bằng lông dê và bằng gỗ.”

21 Thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nói với các chiến sĩ: “Đây là quy tắc CHÚA đã truyền cho Môi-se: 22 Vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, chì 23 và bất cứ vật gì không cháy, phải đưa vào lửa đốt; và cũng phải dùng nước tẩy uế cho sạch các vật ấy nữa. Còn vật gì không chịu được lửa thì chỉ cần tẩy cho sạch bằng nước tẩy uế. 24 Vào ngày thứ bảy, sau khi giặt quần áo, anh em sẽ được sạch và được vào trại.”

Chia Chiến Lợi Phẩm

25 CHÚA phán bảo với Môi-se: 26 “Con sẽ cùng thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các bộ tộc trưởng kiểm kê các chiến lợi phẩm, cả người lẫn súc vật. 27 Rồi đem chia các chiến lợi phẩm ra làm hai phần, một phần thuộc về các chiến sĩ đã ra trận, phần kia thuộc về dân chúng. 28 Trong phần của các chiến sĩ, phải lấy một phần năm trăm đem dâng cho Chúa, dù là người, bò, lừa hay cừu. 29 Đem phần thu được để dâng cho CHÚA, giao cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa. 30 Trong phần của dân chúng, lấy một phần năm mươi, dù là người, bò, lừa, cừu hay súc vật gì khác, giao cho người Lê-vi, là những người có trách nhiệm coi sóc Trại Hội Kiến của CHÚA.” 31 Vậy, Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa làm theo mọi điều CHÚA phán dạy Môi-se.

32 Số chiến lợi phẩm do các chiến sĩ thu được gồm có 675,000 con chiên, 33 72,000 con bò, 34 61,000 con lừa 35 và 32,000 trinh nữ.

36 Vậy, phân nửa thuộc các chiến sĩ gồm:

337,500 Con chiên,
37 Dâng cho CHÚA 675 con;
38 36,000 Con bò, dâng cho CHÚA 72 con;
39 30,500 Con lừa, dâng cho CHÚA 61 con;
40 16,000 Người, dâng cho CHÚA 32 người.

41 Môi-se giao cho thầy tế lễ Ê-lê-a-sa phần dâng cho CHÚA, như CHÚA đã dặn ông.

42 Phân nửa thuộc phần dân Y-sơ-ra-ên được Môi-se chia cho (phân nửa kia thuộc các chiến sĩ, 43 phân nửa này thuộc về dân chúng), gồm 337,500 con chiên, 44 36,000 con bò, 45 30,500 con lừa 46 và 16,000 người. 47 Môi-se lấy một phần năm mươi trong số chiến lợi phẩm thuộc dân chúng, cả người lẫn súc vật, giao cho người Lê-vi là những người có trách nhiệm coi sóc Trại Hội Kiến của CHÚA, như CHÚA đã dặn ông.

48 Các quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm quân sĩ đến gặp Môi-se, 49 nói: “Chúng tôi, là các đầy tớ của ông, có kiểm điểm quân số, và thấy không thiếu một ai cả. 50 Chúng tôi cũng có mang đến các nữ trang bằng vàng đã thu được: băng đeo tay, xuyến, nhẫn, hoa tai và dây chuyền. Chúng tôi xin dâng cho CHÚA để làm lễ chuộc tội.”

51 Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nhận số vàng. 52 Tổng số vàng do các quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm dâng cho CHÚA là mười sáu ngàn bảy trăm năm mươi sê-ken.[j] 53 Các chiến sĩ đều có thu chiến lợi phẩm riêng cho mình. 54 Môi-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa nhận số vàng từ tay các quan chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm, rồi đem để vào Trại Hội Kiến, để CHÚA luôn nhớ đến Y-sơ-ra-ên.

Người Ru-bên Và Gát Lãnh Xứ Ga-la-át

32 Người của hai bộ tộc Ru-bên và Gát có rất nhiều súc vật. Khi thấy đất Gia-ê-xe và Ga-la-át là nơi thích hợp cho việc chăn nuôi, họ đến gặp Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và các nhà lãnh đạo dân chúng, nói: “A-ta-rốt, Đi-bôn, Gia-ê-xe, Nim-ra, Hết-bôn, Ê-lê-a-sê, Sê-ham, Nê-ô và Bê-ôn, các miền CHÚA đã chinh phục trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, rất thuận lợi cho việc chăn nuôi, và chúng tôi lại có nhiều gia súc. Nếu chúng tôi được quý ông thương tình, xin cho chúng tôi đất này làm sản nghiệp, không cần phải đi qua sông Giô-đanh.”

Môi-se hỏi người Gát và Ru-bên: “Anh em muốn ngồi đây trong khi anh chị em khác đi chiến đấu sao? Sao anh em làm cho anh chị em Y-sơ-ra-ên nản lòng, không muốn đi vào đất CHÚA đã cho họ? Tại Ca-đê Ba-nê-a, cha ông của anh em cũng đã làm y như vậy khi tôi sai họ đi do thám xứ Ca-na-an. Sau khi đến thung lũng Ếch-côn nhìn thấy xứ, họ làm cho người Y-sơ-ra-ên nhụt chí, không muốn đi vào xứ mà CHÚA đã cho họ. 10 Ngày ấy, CHÚA nổi giận, thề rằng: 11 ‘Trong những người ra đi từ Ai-cập, không một ai từ hai mươi tuổi trở lên được thấy xứ mà Ta đã thề hứa cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, vì họ đã không hết lòng theo Ta; 12 ngoại trừ Ca-lép con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít, và Giô-suê con trai Nun, vì họ hết lòng theo Ta.’ 13 CHÚA giận Y-sơ-ra-ên nên Ngài bắt họ phải đi lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm, cho đến khi thế hệ làm điều tà ác trước mắt Chúa chết hết.

14 Và bây giờ, anh em là dòng giống của những người tội lỗi lại nổi lên, thay cho cha ông mình, làm cho CHÚA thêm giận Y-sơ-ra-ên. 15 Nếu anh em từ bỏ CHÚA, Ngài sẽ để cho toàn dân ở lại trong sa mạc, và chính anh em là nguyên do làm cho dân tộc bị tiêu diệt.”

16 Nhưng họ đến gần Môi-se, nói: “Chúng tôi chỉ xin dựng chuồng cho bầy súc vật và xây thành cho con cái chúng tôi ở đây. 17 Còn chúng tôi sẽ mang vũ khí đi trước toàn dân, cho đến khi mọi người đã vào đất mình. Trong khi đó gia đình chúng tôi được sống an toàn trong thành lũy kiên cố, không bị dân địa phương làm hại. 18 Chúng tôi sẽ không về nhà cho đến khi nào mọi người Y-sơ-ra-ên khác đều nhận được cơ nghiệp mình. 19 Vì chúng tôi đã nhận phần cơ nghiệp bên bờ phía đông sông Giô-đanh, nên sẽ không có phần gì với những người khác bên kia sông cả.”

New Vietnamese Bible (NVB)

New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)