Bible in 90 Days
Phê-ca Trị Vì Y-sơ-ra-ên
27 Năm thứ năm mươi hai triều vua A-xa-ria của Giu-đa, thì Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua trị vì tại Sa-ma-ri được hai mươi năm. 28 Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA. Vua chẳng từ bỏ những tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, là những tội lỗi mà vua ấy đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội.
29 Trong thời vua Phê-ca trị vì trên Y-sơ-ra-ên, Tiếc-lác Phi-lê-se, vua A-si-ri, đến và chiếm lấy I-giôn, A-bên Bết Ma-ca, Gia-nô-a, Kê-đe, Hát-so, Ga-la-át, và Ga-li-lê, cùng cả địa phận của Nép-ta-li. Vua ấy bắt dân những nơi đó dẫn về A-si-ri lưu đày. 30 Bấy giờ, Ô-sê, con trai Ê-la, lập mưu phản nghịch Phê-ca, con trai Rê-ma-lia. Ông ấy tấn công và giết hạ vua, rồi lên ngôi thế vị, nhằm vào năm thứ hai mươi triều vua Giô-tham, con trai Ô-xia.
31 Những việc khác của Phê-ca, tất cả những việc vua làm, đều được chép trong sách sử ký của các vua Y-sơ-ra-ên.
Giô-tham Trị Vì Giu-đa
32 Năm thứ hai triều vua Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, của Y-sơ-ra-ên, thì Giô-tham, con trai Ô-xia, lên ngôi làm vua Giu-đa. 33 Vua được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu của vua là bà Giê-ru-sa, con gái của Xa-đốc. 34 Vua làm điều lành trước mặt CHÚA, như thân phụ của vua là vua Ô-xia đã làm. 35 Dầu vậy, những tế đàn trên các nơi cao vẫn chưa được trừ bỏ. Dân chúng vẫn còn đến dâng tế lễ và dâng hương trên những tế đàn đó. Vua xây một cổng thượng cho đền thờ CHÚA.
36 Những việc khác của Giô-tham, tất cả những việc vua làm, há không được chép trong sách sử ký của các vua Giu-đa sao? 37 Trong thời ấy, CHÚA cho vua Rê-xin của A-ram, và vua Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, đến tấn công Giu-đa. 38 Giô-tham an giấc cùng các tổ phụ mình và được chôn bên cạnh các tổ phụ mình trong thành Đa-vít, tổ phụ của vua. A-cha, con trai vua, lên ngôi kế vị.
A-cha Trị Vì Giu-đa
16 Năm thứ mười bảy triều vua Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, thì A-cha, con trai Giô-tham, lên ngôi làm vua. 2 A-cha được hai mươi tuổi khi bắt đầu trị vì. Vua trị vì mười sáu năm tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm điều không đúng trước mặt CHÚA, là Đức Chúa Trời của vua, không như tổ phụ vua là Đa-vít đã làm, 3 nhưng vua đi theo đường lối của các vua Y-sơ-ra-ên. Thậm chí vua còn thiêu dâng con trai mình qua lửa, theo tập tục gớm ghiếc của các dân mà CHÚA đã đuổi ra trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. 4 Vua dâng tế lễ và dâng hương trên các tế đàn của những nơi cao, trên núi, và dưới những cây xanh.
5 Bấy giờ vua Rê-xin của A-ram, và vua Phê-ca, con trai Rê-ma-lia, của Y-sơ-ra-ên, kéo đến gây chiến với Giê-ru-sa-lem. Họ bao vây A-cha, nhưng không thắng được vua. 6 Lúc đó, vua của Ê-đôm lấy lại Ê-la cho Ê-đôm và đuổi người Giu-đa ở Ê-la đi, rồi đem người Ê-đôm đến chiếm ngụ, và họ cứ ở đó cho đến ngày nay.
7 A-cha sai các sứ giả đến nói với Tiếc-lác Phi-lê-se, vua của A-si-ri rằng: “Tôi là tôi tớ vua và là con trai vua. Xin hãy đến giải cứu tôi khỏi tay của vua A-ram và vua Y-sơ-ra-ên, vì họ đang vây hãm tôi.”
8 A-cha lấy những vật dụng bằng bạc bằng vàng trong đền thờ CHÚA và trong các kho tàng của hoàng cung mà làm quà biếu cho vua A-si-ri. 9 Vua A-si-ri nghe theo lời yêu cầu của vua A-cha và dẫn quân tiến đánh Đa-mách, chiếm lấy thành, bắt dân chúng ở đó đem về Kia để lưu đày, và giết chết vua Rê-xin.
10 Khi vua A-cha đến Đa-mách để hội kiến với vua Tiếc-lác Phi-lê-se của A-si-ri, thì vua có thấy một bàn thờ ở Đa-mách, vua A-cha bèn gửi về cho thầy tế lễ U-ri-a một mô hình của bàn thờ đó, với kiểu mẫu và kích thước giống hệt như bàn thờ vua đã thấy. 11 Thầy tế lễ U-ri-a bèn làm một bàn thờ đúng y như kiểu mẫu mà vua A-cha ở Sa-ma-ri gửi về. Thầy tế lễ U-ri-a thực hiện xong việc đó trước khi vua A-cha ở Đa-mách trở về. 12 Khi vua A-cha ở Đa-mách trở về, vua đến xem bàn thờ ấy. Vua đến gần bàn thờ mới, bước lên, 13 dâng tế lễ thiêu, tế lễ chay, đổ lễ tưới rượu xuống, và rảy huyết các con sinh tế thuộc tế lễ cầu an nơi bàn thờ này. 14 Vua cho di chuyển bàn thờ bằng đồng vốn ở trước đền thờ, tức là ở khoảng giữa bàn thờ vua mới làm và đền thờ CHÚA, mà đem đặt ở phía bắc của bàn thờ vua mới làm.
15 Vua A-cha truyền cho thầy tế lễ U-ri-a rằng: “Từ nay hãy dâng tế lễ thiêu buổi sáng và tế lễ chay buổi chiều, cùng với tế lễ thiêu của vua, tế lễ chay của vua, tế lễ thiêu của toàn dân trong nước, tế lễ chay của họ, tế lễ tưới rượu của họ, và hãy rảy huyết của các sinh tế dâng làm tế lễ thiêu trên bàn thờ lớn này; còn bàn thờ bằng đồng thì chỉ để dành cho ta cầu vấn mà thôi.” 16 Thầy tế lễ U-ri-a làm đúng theo mọi điều vua A-cha đã truyền cho ông.
17 Kế đó vua A-cha cho gỡ bỏ những chiếc xe bằng đồng và những bồn nước trên các xe đó xuống. Vua cũng lấy bể nước đặt trên lưng các con bò bằng đồng mà đem đặt trên một bệ bằng đá. 18 Vua cũng dẹp bỏ lều che nắng dùng trong ngày Sa-bát nơi sân đền thờ, còn cổng vào dành đặt biệt cho vua ở phía trước đền thờ CHÚA, vua cũng dẹp bỏ. Vua làm tất cả những việc ấy để làm vừa lòng vua A-si-ri.
19 Những việc khác vua A-cha đã làm há không được chép trong sách sử ký của các vua Giu-đa sao? 20 A-cha an giấc với các tổ phụ mình và được chôn bên cạnh họ trong thành Đa-vít. Ê-xê-chia, con trai vua, lên ngôi kế vị.
Ô-sê Trị Vì Y-sơ-ra-ên
17 Năm thứ mười hai triều vua A-cha của Giu-đa thì Ô-sê, con trai Ê-la, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên tại Sa-ma-ri. Vua trị vì được chín năm. 2 Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, nhưng không như các vua Y-sơ-ra-ên trước vua.
3 Vua Sanh-ma-na-se của A-si-ri kéo đến đánh vua. Vua Ô-sê trở thành một chư hầu của vua ấy và phải nộp triều cống cho vua ấy. 4 Nhưng vua của A-si-ri thấy vua Ô-sê có ý làm phản, vì vua Ô-sê có sai sứ giả đến cầu vua Sô của Ai-cập giúp đỡ. Vua Ô-sê cũng không nộp triều cống hằng năm cho vua A-si-ri như thường làm nữa. Vì thế vua của A-si-ri đến bắt vua Ô-sê và tống giam vào ngục.
Dân Y-sơ-ra-ên Bị Đưa Đi Lưu Đày
5 Bấy giờ vua A-si-ri xâm chiếm xứ và tiến đánh Sa-ma-ri. Vua ấy bao vây thành Sa-ma-ri ba năm. 6 Năm thứ chín triều vua Ô-sê, vua A-si-ri chiếm được thành Sa-ma-ri. Vua ấy bắt dân Y-sơ-ra-ên đem về A-si-ri. Vua cho họ định cư tại Cha-la, bên bờ sông Cha-bo, thuộc xứ Gô-sen, và trong các thành của xứ Mê-đi.
7 Việc này xảy ra vì dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội cùng CHÚA, là Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ai-cập, tức ra khỏi tay của Pha-ra-ôn, vua Ai-cập. Họ đã thờ phượng những thần khác, 8 và sống theo các tập tục của những dân mà CHÚA đã đuổi đi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, và vì họ theo các thói tục mà các vua Y-sơ-ra-ên đã bày ra. 9 Dân Y-sơ-ra-ên đã lén lút làm những việc không đẹp lòng CHÚA, là Đức Chúa Trời của họ. Họ đã xây dựng cho họ những tế đàn trên các nơi cao trong các thành của họ, từ những thành rất nhỏ cho đến những thành lớn và kiên cố. 10 Họ dựng cho mình những tượng thờ bằng đá và những trụ thờ nữ thần A-sê-ra trên các núi đồi và dưới những cây xanh. 11 Họ dâng tế lễ trên các tế đàn ở các nơi cao, giống như các dân tộc mà CHÚA đã đuổi đi trước mặt họ. Họ làm những điều tội lỗi, chọc giận CHÚA. 12 Họ thờ các hình tượng mà Chúa đã bảo: “Các ngươi chớ thờ chúng.” 13 Dầu vậy CHÚA đã sai các đấng tiên tri và các nhà tiên kiến đến cảnh cáo Y-sơ-ra-ên và Giu-đa rằng: “Hãy quay khỏi những đường lối tội lỗi của các ngươi, và hãy tuân giữ những điều răn và mạng lệnh Ta, tức là tất cả Kinh Luật Ta đã truyền cho tổ phụ các ngươi và mọi điều Ta đã sai các tôi tớ Ta là các tiên tri rao bảo cho các ngươi.”
14 Nhưng họ không chịu nghe và cứ ương ngạnh, giống như tổ phụ của họ đã làm, ấy là những người không tin vào CHÚA là Đức Chúa Trời của họ. 15 Họ khinh bỉ các mạng lệnh Ngài, họ khinh bỉ các giao ước Ngài đã lập với tổ phụ họ, và họ cũng khinh bỉ những lời cảnh cáo mà Ngài đã sai các sứ giả Ngài đến truyền cho họ. Họ đi theo những hình tượng giả dối và trở thành những kẻ giả dối. Họ bắt chước các dân tộc sống chung quanh họ, đó là những dân tộc mà CHÚA đã căn dặn họ không được làm như các dân tộc ấy.
16 Họ loại bỏ CHÚA là Đức Chúa Trời của họ mà đúc cho mình tượng hai con bò con, rồi dựng những trụ thờ nữ thần A-sê-ra lên mà thờ lạy. Họ thờ lạy các thiên binh trên trời, và thờ lạy thần Ba-anh. 17 Họ thiêu sống con trai và con gái họ trong lửa. Họ tin theo các phù thủy và xem bói. Họ bán chính mình để làm những tội lỗi gớm ghiếc trước mặt CHÚA, và chọc giận Ngài.
18 Vì thế CHÚA rất giận dân Y-sơ-ra-ên và Ngài đã cất bỏ họ khỏi trước mặt Ngài, chỉ còn lại bộ tộc Giu-đa mà thôi. 19 Nhưng dân Giu-đa cũng không vâng giữ các điều răn của CHÚA là Đức Chúa Trời của họ, mà lại đi theo các thói tục của dân Y-sơ-ra-ên đã bày ra. 20 Vì thế CHÚA đã từ bỏ toàn thể dòng dõi của Y-sơ-ra-ên. Ngài phạt họ và phó họ vào tay những kẻ cướp đoạt, cho đến khi Ngài loại hẳn họ ra khỏi trước mặt Ngài.
21 Khi Ngài tách rời dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi nhà Đa-vít, họ lập Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, làm vua. Giê-rô-bô-am đã lôi kéo Y-sơ-ra-ên xa cách CHÚA và xui cho họ phạm tội trọng. 22 Dân Y-sơ-ra-ên cứ tiếp tục đi theo những tội lỗi mà Giê-rô-bô-am đã phạm. Họ không chịu từ bỏ những tội lỗi ấy, 23 cho đến khi CHÚA cất bỏ họ khỏi trước mặt Ngài, như Ngài đã bảo trước qua các tiên tri là các tôi tớ Ngài. Vì thế, Y-sơ-ra-ên bị lưu đày khỏi xứ sở mình mà sang A-si-ri cho đến ngày nay.
Dân A-si-ri Định Cư Tại Sa-ma-ri
24 Vua A-si-ri bắt dân từ Ba-by-lôn, Cư-tha, A-va, Ha-mát, và Sê-phạt-va-im đến định cư trong các thành của Sa-ma-ri thế chỗ dân Y-sơ-ra-ên. Các dân ấy đến chiếm lấy Sa-ma-ri và định cư trong các thành của xứ ấy. 25 Khi mới đến định cư tại đó, họ không tôn thờ CHÚA, nên CHÚA đã sai các sư tử đến vồ chết một số người của họ. 26 Người ta bèn tâu với vua A-si-ri rằng: “Các dân tộc mà vua đã trục xuất và đày đến định cư trong các thành ở Sa-ma-ri không biết luật lệ phải tôn thờ vị thần của xứ, nên vị thần ấy đã sai các sư tử đến vồ chết một số người. Đó là vì họ không biết tôn thờ vị thần của xứ ấy vậy.”
27 Vua A-si-ri bèn truyền lệnh: “Các ngươi hãy chọn một người trong số những thầy tế lễ đã bị bắt qua đây. Hãy đưa người ấy trở về xứ và sống tại đó, để người ấy dạy cho chúng biết thờ phượng vị thần của xứ.” 28 Vậy một thầy tế lễ trong số những thầy tế lễ bị bắt đi lưu đày khỏi Sa-ma-ri được cho trở về và ngụ tại Bê-tên. Người ấy dạy cho họ biết phải thờ phượng CHÚA như thể nào.
29 Nhưng mỗi dân tộc đều dựng thần riêng của họ, đem để vào trong những trang thờ, đặt trong những đền miễu trên các nơi cao mà người Sa-ma-ri đã xây. Dân tộc nào cũng lập thần riêng cho mình trong các thành họ ở. 30 Dân Ba-by-lôn thì dựng tượng thần Su-cốt Bê-nốt, dân Cút thì lập tượng thần Nẹt-ganh, dân Ha-mát thì làm tượng thần A-si-ma, 31 dân A-vim thì làm tượng thần Níp-ca và Tạt-tác, dân Sê-phạt-va-im thì thiêu con thơ mình trong lửa cho thần A-tra-mê-léc và thần A-na-mê-léc, tức là các thần của dân Sê-phạt-va-im. 32 Các dân tộc ấy cũng thờ phượng CHÚA và tự chọn trong vòng họ đủ hạng người mà lập làm những thầy cúng cho các đền miếu trên những nơi cao; những thầy cúng ấy vì họ mà dâng các sinh tế trên các tế đàn ở những nơi cao. 33 Như vậy các dân tộc ấy thờ phượng CHÚA nhưng cũng thờ lạy các thần của họ, cứ giữ theo phong tục của dân tộc họ đã có, trước khi họ bị đem đi lưu đày.
34 Cho đến ngày nay họ vẫn tiếp tục theo các phong tục ngày trước của họ. Dân Y-sơ-ra-ên không thờ lạy CHÚA, và cũng không tuân giữ các quy tắc, mạng lệnh, luật lệ hay điều răn mà CHÚA đã truyền cho các con cháu Gia-cốp, là người Ngài đặt tên là Y-sơ-ra-ên. 35 CHÚA đã lập giao ước với họ và truyền cho họ rằng: “Các ngươi chớ thờ lạy các thần khác, chớ quỳ lạy chúng, chớ phục vụ chúng, và cũng chớ dâng của tế lễ cho chúng. 36 Nhưng các ngươi chỉ hãy thờ lạy CHÚA, là Đấng đã dùng cánh tay quyền năng Ngài giang ra mà đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập. Các ngươi chỉ quỳ lạy một mình Ngài và chỉ dâng của tế lễ cho Ngài. 37 Những quy luật, mạng lệnh, luật lệ và điều răn mà Ngài đã viết ra cho các ngươi, thì các ngươi phải cẩn thận tuân giữ. Các ngươi không được thờ lạy các thần khác. 38 Các ngươi không được quên giao ước mà Ta đã lập với các ngươi. Các ngươi không được thờ lạy các thần khác, 39 nhưng các ngươi chỉ hãy thờ phượng CHÚA là Đức Chúa Trời của các ngươi. Ngài sẽ giải cứu các ngươi khỏi tay mọi kẻ thù của các ngươi.”
40 Những dân tộc mới đến cũng không nghe, họ cứ tiếp tục thờ lạy theo phong tục trước kia của họ. 41 Vậy các dân tộc đó vừa thờ phượng CHÚA, nhưng cũng vừa thờ lạy các thần do họ đúc chạm tạo nên. Rồi con cháu họ và con cháu của con cháu họ cũng tiếp tục theo truyền thống như cha ông họ đã làm cho đến ngày nay.
Ê-xê-chia Trị Vì Giu-đa
18 Năm thứ ba triều vua Ô-sê, con trai Ê-la, của Y-sơ-ra-ên, thì Ê-xê-chia, con trai vua A-cha của Giu-đa lên ngôi làm vua. 2 Vua được hai mươi lăm tuổi khi bắt đầu trị vì. Vua trị vì hai mươi chín năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu của vua là bà A-bi, con gái của Xa-cha-ri. 3 Vua làm điều ngay lành trước mặt CHÚA như tổ phụ Đa-vít của vua đã làm. 4 Vua dẹp bỏ những nơi cao, đập vỡ các tượng thờ bằng đá, và đốn hạ những trụ thờ nữ thần A-sê-ra. Vua đập nát con rắn bằng đồng mà Môi-se đã làm. Vì cho đến lúc đó dân Y-sơ-ra-ên vẫn còn dâng hương cho con rắn bằng đồng ấy. Người ta gọi nó là Nê-hu-tan.
5 Vua tin cậy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Trong số những vị vua của Giu-đa sau vua thì không ai được như thế, còn trong số các vị vua trước vua thì cũng chẳng ai được như vậy. 6 Vì vua bám chặt lấy CHÚA. Vua chẳng rời bỏ Ngài, nhưng gìn giữ những điều răn mà CHÚA đã truyền cho Môi-se. 7 CHÚA ở cùng vua; vua làm điều gì cũng được thành công. Vua nổi dậy chống lại vua A-si-ri và không chịu thần phục vua ấy nữa. 8 Vua tiến đánh dân Phi-li-tin đến tận Ga-xa và những vùng phụ cận, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố.
9 Năm thứ tư triều vua Ê-xê-chia, tức là năm thứ bảy triều vua Ô-sê, con trai Ê-la, của Y-sơ-ra-ên, vua Sanh-ma-na-se của A-si-ri đến tấn công Sa-ma-ri và bao vây thành ấy. 10 Cuối ba năm, vua ấy chiếm được thành. Năm thứ sáu triều vua Ê-xê-chia, tức là năm thứ chín triều vua Ô-sê của Y-sơ-ra-ên, Sa-ma-ri bị thất thủ. 11 Vua A-si-ri bắt dân Y-sơ-ra-ên đem lưu đày ở A-si-ri, cho họ định cư ở Ha-la bên bờ sông Cha-bo, thuộc xứ Gô-sen, và trong các thành của xứ Mê-đi. 12 Bởi vì họ không vâng theo tiếng CHÚA là Đức Chúa Trời của họ, nhưng vi phạm giao ước Ngài, tức là tất cả những điều Môi-se, tôi tớ của CHÚA, đã truyền ban. Họ không nghe và cũng chẳng thi hành.
San-chê-ríp Xâm Lăng Giu-đa
13 Năm thứ mười bốn triều vua Ê-xê-chia, vua San-chê-ríp của A-si-ri, đến tấn công các thành kiên cố của Giu-đa và chiếm lấy. 14 Vua Ê-xê-chia của Giu-đa sai sứ đến gặp vua của A-si-ri tại La-chi và tâu rằng: “Tôi có lỗi. Xin vua hãy lui binh. Vua muốn điều chi, tôi cũng chịu cả.” Vua của A-si-ri đòi vua Ê-xê-chia của Giu-đa phải nộp ba trăm ta-lâng bạc[a] và ba mươi ta-lâng vàng.[b] 15 Vua Ê-xê-chia lấy tất cả bạc trong đền thờ CHÚA và trong các kho tàng của hoàng cung mà nộp cho vua ấy.
16 Bấy giờ vua Ê-xê-chia phải gỡ vàng bọc trên những cánh cửa của đền thờ CHÚA, và vàng mà vua đã cẩn trên những khung cửa ấy, để đem nộp cho vua A-si-ri.
17 Nhưng vua A-si-ri lại sai Tạt-tan, Ráp-sa-ri, và Ráp-sa-kê,[c] cùng một đạo binh rất lớn từ La-chi đến với Ê-xê-chia tại Giê-ru-sa-lem. Họ tiến lên và đến Giê-ru-sa-lem. Khi tiến gần, họ đến và dừng lại tại đầu kênh dẫn nước của hồ trên, tức là chỗ con đường dẫn đến cánh đồng của thợ nện. 18 Rồi họ yêu cầu được hội kiến với vua. Ê-li-a-kim con trai Hinh-kia, quan tổng quản hoàng cung, Sép-na, quan bí thư, và Giô-a con trai A-sáp, quan quản lý văn khố, ra gặp họ.
19 Ráp-sa-kê nói với họ: “Hãy về bảo Ê-xê-chia: Đại đế ta là vua của A-si-ri có phán như vầy: Ngươi dựa vào gì mà tự tin như vậy? 20 Bộ ngươi tưởng rằng trong chiến tranh mà lời nói suông có thể thay thế được mưu lược và sức mạnh sao? Ngươi dựa vào gì mà ngươi dám chống lại ta? 21 Kìa, ngày nay ngươi dựa vào Ai-cập chăng. Đó là một cây sậy gãy. Ai dựa vào nó ắt sẽ bị nó đâm thủng bàn tay. Bất cứ kẻ nào dựa vào Pha-ra-ôn, vua của Ai-cập, sẽ bị như vậy. 22 Nhưng nếu ngươi bảo ta rằng: ‘Chúng tôi tin cậy vào CHÚA là Đức Chúa Trời của chúng tôi,’ thì há chẳng phải Ê-xê-chia đã dẹp bỏ các tế đàn của Ngài trên các nơi cao, rồi bảo dân Giu-đa và dân Giê-ru-sa-lem rằng: ‘Các ngươi chỉ thờ phượng Ngài ở bàn thờ tại Giê-ru-sa-lem mà thôi’ sao? 23 Bây giờ hãy đánh cuộc với chủ ta là vua A-si-ri đi. Ta sẽ cho các ngươi hai ngàn con ngựa, nếu các ngươi có đủ kỵ binh để cỡi. 24 Liệu các ngươi nhờ cậy vào các xe chiến mã và các kỵ binh của Ai-cập mà có thể chống cự nổi một tiểu tướng trong đám đầy tớ của chủ ta chăng? 25 Hơn nữa, há không phải là ý CHÚA mà ta đến đây để hủy diệt xứ này sao? CHÚA bảo ta rằng: Hãy lên đánh xứ này và tiêu diệt nó đi.”
26 Bấy giờ Ê-li-a-kim con trai Hinh-kia, với Sép-na và Giô-a nói với Ráp-sa-kê rằng: “Xin hãy nói với các tôi tớ ông bằng tiếng A-ram, vì chúng tôi hiểu tiếng ấy. Xin đừng nói với chúng tôi bằng tiếng Giu-đa, kẻo dân trên tường thành nghe được.”
27 Nhưng Ráp-sa-kê đáp lại họ: “Há chủ ta chỉ sai ta đến nói những lời này với chủ các ngươi và với các ngươi, mà không nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, tức những người đang ăn phân và uống nước tiểu của mình, nữa sao?”
28 Đoạn Ráp-sa-kê đứng dậy và nói lớn bằng tiếng Giu-đa rằng: “Hãy nghe lời của đại đế ta là vua A-si-ri. 29 Vua phán như vầy: Chớ để Ê-xê-chia lừa gạt các ngươi, vì ông ấy không thể giải thoát các ngươi khỏi tay ta được đâu. 30 Chớ để Ê-xê-chia xúi giục các ngươi nương cậy nơi CHÚA, mà rằng: ‘CHÚA sẽ chắc chắn giải cứu chúng ta, và thành này sẽ không bị phó vào tay vua A-si-ri đâu.’
31 Chớ nghe theo lời của Ê-xê-chia, vì vua của A-si-ri có phán như vầy: Hãy làm hòa với ta và ra đây với ta, thì mỗi người trong các ngươi sẽ được ăn hoa quả của vườn nho và vườn vả mình, sẽ được uống nước của giếng mình, 32 cho đến khi ta đến đem các ngươi qua một xứ giống như xứ của các ngươi, một xứ có lúa và rượu, một xứ có bánh và vườn nho, một xứ có dầu ô-liu và mật, để các ngươi sẽ sống và không chết. Chớ để Ê-xê-chia dẫn dụ các ngươi đi sai lạc khi ông ấy nói rằng: ‘CHÚA sẽ giải cứu chúng ta.’ 33 Có thần của dân tộc nào đã giải cứu xứ họ thoát khỏi tay của vua A-si-ri chưa? 34 Các thần của dân Ha-mát và dân Ạt-bát ở đâu? Các thần của dân Sê-phạt-va-im, dân Hê-na, và dân Y-va ở đâu? Các thần ấy có giải cứu Sa-ma-ri thoát khỏi tay ta chăng? 35 Trong tất cả các thần của các nước, có thần nào đã giải cứu nước họ thoát khỏi tay của ta chăng? Thế thì CHÚA há có thể giải cứu Giê-ru-sa-lem thoát khỏi tay của ta sao?”
36 Nhưng dân chúng đều im lặng, chẳng ai đáp lại một lời, vì vua có truyền rằng: “Đừng trả lời hắn.”
37 Bấy giờ Ê-li-a-kim con trai Hinh-kia, quan tổng quản hoàng cung, Sép-na, quan bí thư, và Giô-a con trai A-sáp, quan quản lý văn khố, xé rách áo mình, đến với vua Ê-xê-chia tâu trình những lời Ráp-sa-kê đã nói.
Ê-xê-chia Tham Khảo Với I-sa
19 Khi vua Ê-xê-chia nghe những lời đó, vua xé áo mình, mặc vải gai, rồi đi vào đền thờ CHÚA. 2 Vua sai Ê-li-a-kim, quan tổng quản hoàng cung, Sép-na, quan bí thư, và những thầy tế lễ trưởng thượng, mặc vải gai mà đến gặp tiên tri I-sa, con trai A-mốt. 3 Họ nói với ông: “Vua Ê-xê-chia có nói như vầy: Ngày nay là ngày khốn quẫn, ngày bị trách phạt, và ngày tủi nhục. Các thai nhi đã đến ngày chào đời mà không có sức để sanh ra. 4 Có lẽ CHÚA là Đức Chúa Trời của ông đã nghe thấu tất cả những lời của Ráp-sa-kê, là kẻ được vua A-si-ri, chủ hắn, sai đến để phỉ báng Đức Chúa Trời hằng sống; ước gì CHÚA là Đức Chúa Trời của ông sẽ quở phạt những kẻ nói những lời Ngài đã nghe. Vậy xin ông hãy dâng lời cầu nguyện cho những người còn sót lại.”
5 Khi các tôi tớ của vua Ê-xê-chia đến với I-sa, 6 Tiên tri I-sa nói với họ: “Hãy về nói với chủ các ngươi: ‘CHÚA phán như vầy: Đừng sợ vì những lời các ngươi đã nghe, tức những lời các tôi tớ của vua A-si-ri đã xúc phạm đến Ta. 7 Chính Ta sẽ đặt một thần linh trong nó, để nó sẽ nghe tiếng đồn mà rút về xứ mình. Ta sẽ làm cho nó bị giết chết bằng gươm trong xứ của nó.’ ”
San-chê-ríp Hăm Dọa Ê-xê-chia
8 Ráp-sa-kê rút về và thấy vua của A-si-ri đang tấn công Líp-na, vì ông có nhận được tin rằng vua của ông đã rời khỏi La-chi.
9 Khi vua của A-si-ri nghe được tin báo về vua Tiệt-ha-ca của Ê-thi-ô-bi: “Kìa, vua ấy đang kéo quân ra chống lại vua,” thì vua sai các sứ giả đến nói với Ê-xê-chia rằng: 10 “Hãy nói với Ê-xê-chia, vua của Giu-đa như vầy: Chớ để Đức Chúa Trời của ngươi là Đấng ngươi nhờ cậy lừa gạt ngươi khi nói rằng Giê-ru-sa-lem sẽ không rơi vào tay vua A-si-ri đâu. 11 Kìa, hãy xem những gì vua A-si-ri đã làm cho mọi nước: tiêu diệt tất cả. Còn ngươi, ngươi sẽ thoát được sao? 12 Những thần của các dân mà tổ tiên ta đã tiêu diệt như dân Gô-dan, Ga-ran, Rê-xép, và dân Ê-đen ở Tê-la-sa có giải cứu được họ chăng? 13 Vua của Ha-mát, vua của Ạt-bát, vua của thành Sê-phạt-va-im, vua của Hê-na, và vua của I-va bây giờ ở đâu?”
Ê-xê-chia Cầu Nguyện
14 Khi Ê-xê-chia nhận được thư từ tay các sứ giả thì đọc, rồi vua đi lên đền thờ CHÚA và mở bức thư ấy ra trước mặt CHÚA. 15 Ê-xê-chia cầu nguyện với CHÚA rằng: “Lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng đang ngự trên các chê-ru-bim. Chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời của tất cả các nước trên thế gian. Chính Ngài đã dựng nên trời và đất. 16 Xin nghiêng tai và nghe, CHÚA ôi. Xin mở mắt và nhìn, CHÚA ôi. Xin nghe những lời của San-chê-ríp đã gửi đến để nhục mạ Đức Chúa Trời hằng sống.
17 Lạy CHÚA, thật sự là San-chê-ríp, vua của A-si-ri có hủy diệt các nước và xứ sở của họ, 18 có ném các thần tượng của họ vô lửa, vì chúng chẳng phải là thần, mà chỉ là sản phẩm của bàn tay loài người, chỉ là gỗ và đá, cho nên chúng đã bị hủy diệt. 19 Nhưng bây giờ, lạy CHÚA là Đức Chúa Trời của chúng con, con cầu xin Ngài, xin cứu chúng con khỏi tay của vua ấy, để mọi nước trên đất sẽ biết rằng chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời mà thôi, CHÚA ôi.”
20 Bấy giờ I-sa, con trai A-mốt, gửi lời đến nói với vua Ê-xê-chia rằng: “CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta có nghe lời cầu nguyện của ngươi về việc vua San-chê-ríp của A-si-ri. 21 Đây là lời của CHÚA đã phán về hắn:
Trinh nữ ở Si-ôn khinh dể ngươi, nhạo báng ngươi;
Sau lưng ngươi, con gái ở Giê-ru-sa-lem lắc đầu.
22 Ngươi đã nhục mạ và khinh bỉ ai?
Ngươi đã lên giọng
Và giương mắt kiêu căng với ai?
Ngươi nghịch cùng Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên ấy à!
23 Ngươi đã dùng các sứ giả mà phỉ báng CHÚA,
Ngươi nói rằng: ‘Với nhiều xe chiến mã,
Ta đã lên những đỉnh cao các núi,
Ta đã lên tận những nơi chót vót của núi Li-ban;
Ta đã đốn hạ những cây bá hương cao nhất, và những cây tùng tốt nhất;
Ta đã vào tới giữa rừng sâu, vào tận chốn rừng rậm thâm u.
24 Ta đã đào giếng, và uống nước nơi xứ lạ.
Ta đã làm khô cạn các sông suối ở Ai-cập bằng gót bàn chân ta.’
25 Ngươi há không nghe rằng Ta đã định từ lâu rồi sao?
Những gì Ta đã định từ thời thái cổ, giờ đây Ta cho thực hiện,
Đó là ngươi phải biến những thành trì kiên cố
Thành những đống vụn hoang tàn.
26 Dân cư ở những nơi đó đều yếu nhược,
Khiếp sợ và bối rối;
Họ trở nên như cây cỏ ngoài đồng,
Như cỏ non mới mọc,
Như cỏ mọc trên mái nhà,
Héo khô trước khi chưa kịp lớn.
27 Nhưng Ta biết ngươi,
Ta biết lúc ngươi đứng dậy và khi ngươi ngồi xuống,
Ta biết lúc ngươi đi ra và khi ngươi đi vào,
Ta cũng biết ngươi lúc ngươi nổi giận nghịch lại Ta.
28 Vì ngươi đã nổi giận nghịch lại Ta,
Những lời ngạo mạn của ngươi đã thấu đến tai Ta,
Nên Ta sẽ xỏ vòng vào lỗ mũi ngươi,
Tra hàm thiếc vào miệng ngươi;
Ta sẽ bắt ngươi phải trở về
Trên con đường mà ngươi đã ra đi.
29 Hỡi Ê-xê-chia, đây sẽ là một dấu hiệu cho ngươi:
Năm nay ngươi sẽ ăn hoa màu tự mọc,
Năm thứ hai ngươi sẽ ăn những gì mọc lên từ các hoa màu ấy,
Năm thứ ba ngươi sẽ gieo, gặt,
Trồng vườn nho và ăn trái.
30 Những gì còn sót lại của Giu-đa
Sẽ đâm rễ và đơm bông kết trái;
31 Vì từ Giê-ru-sa-lem những người sống sót sẽ tràn ra,
Từ núi Si-ôn sẽ tuôn ra một dòng người thoát nạn.
Lòng nhiệt thành của CHÚA Vạn Quân sẽ làm như vậy.”
32 Vậy nên, CHÚA phán về vua của A-si-ri như vầy:
“Nó sẽ không vào được thành này,
Nó sẽ không bắn một mũi tên vào thành,
Nó sẽ không núp sau thuẫn khiên mà xông tới,
Nó sẽ không đắp lũy tấn công thành.
33 Nó đã đi tới bằng đường nào, thì cũng sẽ trở về bằng đường đó;
Nó sẽ không vào được thành này, CHÚA phán vậy.
34 Vì Ta sẽ bảo vệ thành và cứu thành này,
Vì cớ Ta và vì Đa-vít, tôi tớ Ta.”
San-chê-ríp Thất Bại Và Bị Giết
35 Ngay trong đêm đó, một thiên sứ của CHÚA đi ra và giết chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân A-si-ri. Đến sáng, người ta thức dậy thì chỉ thấy toàn là xác chết. 36 Vua San-chê-ríp của A-si-ri rút lui về và ở tại Ni-ni-ve.
37 Khi vua đang quỳ lạy trước thần của mình trong đền thờ của Nít-róc, thì hai con trai của vua là A-tra-mê-léc và Sa-rết-se dùng gươm đâm vua chết, rồi bỏ trốn sang xứ A-ra-rát. Con trai vua là Ê-sa-ha-đôn lên ngôi kế vị.
Ê-xê-chia Bị Bệnh
20 Trong những ngày ấy, Ê-xê-chia bị bệnh và gần chết. Tiên tri I-sa, con trai A-mốt, đến thăm vua và nói: “CHÚA phán rằng: Hãy sắp đặt việc nhà của ngươi, vì ngươi sẽ qua đời. Ngươi sẽ không qua khỏi cơn bệnh này đâu.”
2 Nhưng Ê-xê-chia xây mặt vào tường và cầu nguyện với CHÚA: 3 “Lạy CHÚA, con cầu khẩn Ngài, xin nhớ đến con, thể nào con đã bước đi cách trung tín và hết lòng trước mặt Ngài, và con đã làm những gì đẹp lòng Ngài.” Rồi Ê-xê-chia khóc lóc thảm thiết.
4 Khi tiên tri I-sa ra đi chưa tới giữa sân thì có lời của CHÚA đến với ông: 5 “Hãy trở lại và nói với Ê-xê-chia, thủ lãnh của dân Ta rằng: CHÚA là Đức Chúa Trời của Đa-vít, tổ phụ ngươi, phán rằng: Ta có nghe lời cầu nguyện ngươi. Ta có thấy nước mắt ngươi. Quả thật, Ta sẽ chữa lành ngươi. Ngày thứ ba ngươi sẽ đi lên đền thờ CHÚA được. 6 Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa. Ta sẽ giải cứu ngươi và thành này khỏi tay vua A-si-ri. Ta sẽ bảo vệ thành này vì cớ Ta và vì Đa-vít, tôi tớ Ta.”
7 Rồi tiên tri I-sa bảo: “Hãy đem cho tôi một cái bánh làm bằng trái vả. Hãy đắp nó lên chỗ ung độc, thì vua sẽ được lành.”
8 Ê-xê-chia nói với tiên tri I-sa: “Nhờ dấu hiệu nào mà ta biết rằng CHÚA sẽ chữa lành ta và ngày thứ ba ta có thể đi lên đền thờ CHÚA được?”
9 Tiên tri I-sa đáp: “Đây là dấu hiệu của CHÚA ban cho vua, rằng CHÚA sẽ làm điều Ngài đã hứa. Vua muốn thấy bóng mặt trời ngã tới thêm mười độ hay ngã lui đi mười độ?”
10 Ê-xê-chia đáp: “Bóng ngã tới thêm mười độ là chuyện thường; vậy xin hãy cho bóng ngã lui đi mười độ.”
11 Tiên tri I-sa kêu cầu với CHÚA, và Ngài khiến bóng mặt trời chiếu trên các bậc thang vua A-cha đã xây ngã lui đi mười độ.
Tiếp Sứ Giả Từ Ba-by-lôn
12 Khi ấy, vua Mê-rô-đác Ba-la-đan, con trai của Ba-la-đan, ở Ba-by-lôn có sai các sứ giả đem thư và quà đến biếu Ê-xê-chia, vì vua có nghe Ê-xê-chia bị bệnh. 13 Sau khi Ê-xê-chia nghe các sứ giả tâu xong thì dẫn họ đi xem tất cả các kho tàng của mình, nào bạc, nào vàng, nào các hương liệu, dầu quý, kho vũ khí, và tất cả những gì chất chứa trong các kho tàng của vua. Chẳng có vật gì trong cung điện hoặc trong vương quốc mình mà vua Ê-xê-chia không cho họ xem.
14 Bấy giờ tiên tri I-sa đến gặp vua Ê-xê-chia và hỏi: “Những người ấy nói gì? Và họ từ đâu đến vậy?”
Ê-xê-chia đáp: “Họ đến từ một nước rất xa, ở tận xứ Ba-by-lôn.”
15 Tiên tri nói: “Họ đã xem thấy những gì trong cung điện của vua?”
Ê-xê-chia đáp: “Họ đã xem thấy tất cả những gì trong cung điện ta. Chẳng có vật gì trong các kho tàng của ta mà ta không chỉ cho họ.”
16 Bấy giờ tiên tri I-sa nói với vua Ê-xê-chia: “Xin vua hãy nghe lời của CHÚA: 17 Trong những ngày đến, khi tất cả những gì có trong cung điện của vua, và tất cả những gì tổ tiên của vua đã tích trữ cho đến ngày nay, sẽ bị mang qua Ba-by-lôn; chẳng còn vật chi chừa lại. CHÚA phán vậy. 18 Một số con cái của vua, do chính vua sinh ra, cũng sẽ bị bắt đi. Chúng sẽ trở thành những hoạn quan trong cung điện của vua Ba-by-lôn.”
19 Ê-xê-chia bèn nói với tiên tri I-sa: “Lời của CHÚA do ông truyền quả là tốt lành.” Vì vua nghĩ: “Không sao, miễn là trong đời ta có hòa bình và an ninh là được rồi.”
Vua Ê-xê-chia Băng Hà
20 Những việc khác của vua Ê-xê-chia, tất cả quyền thế của vua, thể nào vua xây hồ nước, làm ống dẫn nước, và dẫn nước vào kinh thành, há không được chép trong sách sử ký của các vua Giu-đa sao? 21 Ê-xê-chia an giấc với các tổ phụ mình, và Ma-na-se, con trai vua, lên ngôi kế vị.
Ma-na-se Trị Vì Giu-đa
21 Ma-na-se được mười hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Hép-si-ba. 2 Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, theo những cách gớm ghiếc của các dân mà CHÚA đã đuổi đi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. 3 Vì vua cho xây lại các tế đàn trên những nơi cao mà Ê-xê-chia đã phá hủy. Vua cho dựng tượng thần Ba-anh, làm một trụ thờ nữ thần A-sê-ra, giống như vua A-háp của Y-sơ-ra-ên đã làm. Vua thờ lạy tất cả các thần linh trên không trung và phục vụ chúng. 4 Vua xây thêm nhiều bàn thờ trong đền thờ CHÚA, là nơi CHÚA đã phán rằng: “Tại Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ đặt danh Ta ở đó.” 5 Vua xây cất bàn thờ cho các thần linh trên không trung trong hai sân của đền thờ CHÚA. 6 Vua thiêu dâng con trai mình trong lửa. Vua thực hành phép phù thủy và bói khoa. Vua cậy vào đồng bóng và thầy bói. Vua làm nhiều điều tội lỗi trước mặt CHÚA, chọc giận Ngài.
7 Vua tạc tượng nữ thần A-sê-ra rồi đem để trong đền thờ, là nơi CHÚA đã bảo Đa-vít và con trai người là Sa-lô-môn rằng: “Trong đền thờ này và trong Giê-ru-sa-lem là nơi Ta đã chọn trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên để đặt danh Ta ngự đời đời. 8 Nếu họ cẩn thận làm theo tất cả những gì Ta đã truyền cho họ, và vâng theo tất cả Kinh Luật mà Môi-se, tôi tớ Ta, đã truyền cho họ, thì Ta sẽ không để cho chân của dân Y-sơ-ra-ên phải lang thang ra khỏi xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ họ nữa đâu.” 9 Nhưng họ không chịu nghe. Ma-na-se đã dẫn dắt họ đi sai lạc, khiến họ phạm nhiều tội lỗi hơn tất cả các nước mà CHÚA đã hủy diệt trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
10 CHÚA đã dùng các tôi tớ Ngài là các tiên tri phán dạy họ: 11 “Bởi vì vua Ma-na-se đã làm những việc gớm ghiếc này, vua đã làm những việc gian tà hơn tất cả người A-mô-rít đã làm trước vua, vua đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội thờ các hình tượng của vua làm ra. 12 Vậy nên, CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Ta sẽ giáng những tai vạ xuống trên Giê-ru-sa-lem và Giu-đa đến nỗi ai nghe đến sẽ lùng bùng lỗ tai. 13 Ta sẽ giăng trên Giê-ru-sa-lem thước dây đã đo Sa-ma-ri, và sẽ dùng dây dọi đã áp dụng cho nhà A-háp. Ta sẽ chùi sạch Giê-ru-sa-lem như người ta chùi một cái dĩa, chùi sạch nó rồi úp nó xuống. 14 Ta sẽ vứt bỏ những gì còn sót lại của di sản Ta, mà phó chúng vào tay những kẻ thù của chúng. Chúng sẽ trở thành một miếng mồi, một chiến lợi phẩm cho những kẻ thù của chúng. 15 Bởi vì chúng đã làm những việc tội lỗi trước mặt Ta, chọc cho Ta giận, kể từ khi tổ tiên chúng ra khỏi Ai-cập và mãi cho đến ngày nay.’ ”
16 Ngoài ra, Ma-na-se còn làm đổ máu nhiều người vô tội, cho đến khi vua làm ngập Giê-ru-sa-lem với máu vô tội từ đầu này đến đầu kia, ngoài những tội vua đã làm để gây cho Giu-đa phạm tội, khiến cho họ làm những điều tội lỗi trước mặt CHÚA.
17 Những việc khác của Ma-na-se, tất cả những việc vua làm, những tội lỗi vua phạm, há không được chép trong sách sử ký của các vua Giu-đa sao? 18 Ma-na-se an giấc cùng các tổ phụ mình và được chôn trong vườn ngự uyển ở hoàng cung, tức trong vườn U-xa. A-môn, con trai vua, lên ngôi kế vị.
A-môn Trị Vì Giu-đa
19 A-môn được hai mươi hai tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì được hai năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Mê-su-lê-mết, con gái của Ha-rút, cháu của Giô-ba. 20 Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA như Ma-na-se, cha vua, đã làm. 21 Vua đi theo mọi đường lối mà cha vua đã đi, phục vụ các thần tượng mà cha vua đã phục vụ và vua thờ lạy chúng. 22 Vua lìa bỏ CHÚA là Đức Chúa Trời của tổ tiên vua, và không đi theo các đường lối CHÚA.
23 Các tôi tớ của A-môn lập mưu phản nghịch vua, và hạ sát vua ngay trong cung điện. 24 Nhưng dân trong xứ xử tử tất cả những người đã lập mưu và giết vua A-môn. Rồi dân trong xứ lập Giô-si-a, con trai vua, lên ngôi kế vị.
25 Tất cả những việc khác của vua A-môn làm, há chẳng được chép trong sách sử ký của các vua Giu-đa sao? 26 Vua được chôn trong mộ của mình, trong vườn U-xa. Rồi Giô-si-a, con trai vua, lên ngôi kế vị.
Giô-si-a Trị Vì Giu-đa
22 Giô-si-a được tám tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Giê-đi-đa, con gái của A-đa-gia, cháu của Bô-cát. 2 Vua làm điều ngay lành trước mặt CHÚA và bước đi trong mọi đường lối của tổ phụ vua là Đa-vít. Vua chẳng xây qua bên phải hay bên trái.
Hinh-kia Tìm Được Sách Kinh Luật
3 Vào năm thứ mười tám triều vua Giô-si-a, vua sai Sa-phan, con trai A-xa-lia, cháu của Mê-su-lam, là quan bí thư của vua đến đền thờ của CHÚA và dặn rằng: 4 “Hãy đi gặp thầy thượng tế Hinh-kia và nói với ông ta: Hãy đếm tất cả số tiền mà những người giữ cửa đã thâu nhận của dân khi họ vào đền thờ CHÚA. 5 Hãy trao số tiền đó cho những người có trách nhiệm bảo trì đền thờ CHÚA, để họ sửa sang đền thờ. 6 Đó là những thợ mộc, thợ xây cất và thợ nề, để họ mua gỗ, mua đá đã đẽo sẵn mà tu bổ đền thờ lại. 7 Nhưng không nên bắt họ phải khai báo về số tiền đã giao vào tay họ, vì họ làm việc rất chân thật.”
8 Thầy thượng tế Hinh-kia nói với Sa-phan, quan bí thư, rằng: “Tôi có tìm được cuốn sách Kinh Luật trong đền thờ CHÚA.” Đoạn, Hinh-kia trao cuốn sách đó cho Sa-phan. Ông ta lấy đọc. 9 Sau đó, Sa-phan, quan bí thư, đến gặp vua và tâu: “Bầy tôi của vua có đến lấy tất cả số tiền có trong đền thờ và giao cho những người có trách nhiệm sửa sang đền thờ CHÚA rồi.” 10 Sa-phan, quan bí thư, tâu tiếp: “Thầy thượng tế Hinh-kia có trao cho tôi một cuốn sách.” Rồi Sa-phan đọc lớn tiếng cho vua nghe.
11 Khi vua nghe xong những lời trong sách Kinh Luật thì vua xé áo mình. 12 Rồi vua truyền cho thầy thượng tế Hinh-kia, cho A-hi-cam con trai Sa-phan, cho Ạc-bồ con trai Mi-ca-gia, cho Sa-phan quan bí thư, và cho A-sa-gia đầy tớ của vua, mà rằng: 13 “Hãy đi, cầu vấn CHÚA cho ta, cho dân chúng, cho cả Giu-đa, theo những lời trong sách mới tìm được. Vì cơn thịnh nộ của CHÚA đang nhen lên nghịch lại chúng ta thật lớn thay. Bởi vì tổ tiên chúng ta đã không vâng theo những lời trong sách này, mà làm theo những điều đã viết cho chúng ta.”
14 Vậy thầy thượng tế Hinh-kia, A-hi-cam, Ạc-bồ, Sa-phan, và A-sa-gia đi gặp nữ tiên tri Hân-đa, vợ của Sa-lum, con trai Ti-va, cháu của Hạt-ha, Sa-lum là người giữ áo lễ. Nữ tiên tri Hân-đa ngụ ở Giê-ru-sa-lem, trong Quận Nhì. Họ đến tham khảo ý kiến của bà.
15 Bà nói với họ: “CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán rằng: Hãy về nói với người đã sai các ông đến gặp tôi như vầy: 16 CHÚA phán: ‘Ta chắc chắn sẽ giáng tai họa trên nơi này và trên dân cư của nó y theo những lời trong sách mà vua Giu-đa đã đọc. 17 Bởi vì họ đã lìa bỏ Ta mà dâng tế lễ cho các thần khác. Họ đã chọc giận Ta bằng công việc của bàn tay họ. Vậy nên cơn thịnh nộ của Ta đã nhen lên nghịch lại chốn này, và nó sẽ không bị dập tắt được.’ 18 Còn về vua của Giu-đa, là người đã sai các ông đi cầu vấn CHÚA, hãy nói với người ấy rằng: CHÚA là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán rằng: ‘Về những lời mà ngươi đã nghe, 19 thì vì lòng ngươi đã ăn năn, và ngươi biết hạ mình xuống trước mặt CHÚA, khi ngươi nghe Ta nói nghịch lại chốn này, nghịch lại dân này, rằng chúng sẽ bị hoang vu và sẽ thành nơi nguyền rủa, nhưng vì ngươi đã xé áo mình và khóc lóc trước mặt Ta, Ta đã nghe ngươi. CHÚA phán vậy. 20 Vậy nên, Ta sẽ cho ngươi được về với các tổ phụ ngươi, ngươi sẽ được an giấc bình an trong mộ; mắt ngươi sẽ không thấy những tai họa mà Ta sẽ giáng xuống trên chốn này.’ ”
Họ về tâu lại cho vua sứ điệp ấy.
Giô-si-a Cải Cách
23 Bấy giờ Giô-si-a cho vời tất cả các trưởng lão của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đến gặp vua. 2 Vua đi đến đền thờ CHÚA; đi theo vua có mọi người Giu-đa, toàn dân Giê-ru-sa-lem, các thầy tế lễ, các vị tiên tri, và hết thảy mọi người, cả nhỏ lẫn lớn. Vua đọc cho họ nghe mọi lời trong sách giao ước đã tìm được trong đền thờ CHÚA. 3 Vua đứng nơi bục cao và lập một giao ước trước mặt CHÚA, quyết tâm đi theo CHÚA, gìn giữ các điều răn, sắc lệnh, và quy luật Ngài với tất cả tấm lòng và hết cả linh hồn; vua cam kết thực hiện những điều khoản giao ước đã ghi trong sách ấy. Toàn dân đồng tuyên thệ thực hiện giao ước ấy.
4 Vua truyền cho thầy thượng tế Hinh-kia, những thầy tế lễ, và những người canh cửa đền thờ phải đem ra khỏi đền thờ tất cả những vật dụng đã làm cho thần Ba-anh, cho thần A-sê-ra, và cho tất cả những thần linh trên không trung. Vua đốt tất cả những thứ đó trong cánh đồng ở trũng Kết-rôn, bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem, rồi bảo đem tro chúng đến Bê-tên. 5 Vua cách chức và đuổi hết các thầy cúng hình tượng mà các vua Giu-đa đã phong chức để dâng tế lễ trên các tế đàn ở những nơi cao trong các thành của Giu-đa hoặc ở xung quanh Giê-ru-sa-lem. Vua cũng cách chức và đuổi đi các thầy cúng chuyên dâng tế lễ cho thần Ba-anh, mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, và các thiên binh trên trời. 6 Vua cất khỏi đền thờ CHÚA trụ thờ thần A-sê-ra, đem nó ra ngoài thành Giê-ru-sa-lem, đến khe Kết-rôn, đốt nó tại khe Kết-rôn, nghiền nát nó thành bụi, rồi ném bụi nó trên mồ mả của thường dân. 7 Vua cũng phá hủy tất cả nhà cửa của bọn đàn ông làm điếm trong đền thờ CHÚA, là nơi các phụ nữ dệt vải cho nữ thần A-sê-ra.
8 Vua đem tất cả các thầy tế lễ trong các thành ở Giu-đa ra, rồi làm ô uế tất cả tế đàn ở những nơi cao, là nơi các thầy tế lễ đã dâng hương, từ Ghê-ba cho đến Bê-e Sê-ba. Vua phá hủy tất cả các miếu thờ thần ngoài cổng thành, gần bên cổng Giô-suê, quan thị trưởng, các miếu ấy ở bên trái của cổng thành. 9 Tuy nhiên, các thầy tế lễ của các tế đàn ở những nơi cao không được đến với bàn thờ CHÚA ở Giê-ru-sa-lem, nhưng chỉ ăn bánh không men ở giữa anh em của họ mà thôi.
10 Vua cũng làm ô uế Tô-phết trong thung lũng Bên Hi-nôm, để từ đó về sau không ai sẽ dùng nó thiêu dâng con trai hay con gái mình trong lửa cho thần Mo-lóc nữa. 11 Vua dẹp bỏ khỏi cổng vào đền thờ CHÚA những tượng ngựa mà các vua Giu-đa đã dâng cho mặt trời, ở trong sân, kề bên phòng của hoạn quan Na-than Mê-léc. Vua cũng đốt các xe chiến mã dâng cho mặt trời trong lửa.
12 Vua phá hủy các bàn thờ trên sân thượng lầu của vua A-cha, mà các vua Giu-đa đã lập; còn các bàn thờ mà Ma-na-se đã xây trong hai sân của đền thờ CHÚA thì vua kéo xuống và đập vỡ ra từng mảnh, rồi đem quăng các mảnh vụn đó xuống khe Kết-rôn. 13 Vua làm ô uế các tế đàn trên những nơi cao phía đông Giê-ru-sa-lem, phía nam của núi Hủy Diệt, mà vua Sa-lô-môn của Y-sơ-ra-ên đã xây cho Át-tạc-tê thần gớm ghiếc của dân Si-đôn, cho Kê-mốt thần gớm ghiếc của dân Mô-áp, Minh-côm thần gớm ghiếc của dân Am-môn. 14 Vua đập nát các tượng thờ bằng đá thành từng mảnh, đốn ngã các trụ thờ nữ thần A-sê-ra, và chất đầy xương người vào những nơi đó.
15 Ngoài ra, bàn thờ ở Bê-tên, tế đàn ở nơi cao do Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, đã gây cho Y-sơ-ra-ên phạm tội, vua hủy phá bàn thờ ấy cùng với tế đàn ở nơi cao đó. Vua thiêu hủy tế đàn ở nơi cao đó, nghiền nó ra thành bụi. Vua cũng đốt luôn trụ thờ nữ thần A-sê-ra. 16 Khi vua Giô-si-a quay lại thì thấy những ngôi mộ trên núi. Vua cho người đến lấy những xương cốt ra khỏi những ngôi mộ ấy, rồi đem đốt chúng trên bàn thờ, để làm ô uế bàn thờ, y như lời của CHÚA mà người của Đức Chúa Trời đã tuyên bố trong dịp Giê-rô-bô-am đứng bên bàn thờ trong kỳ lễ. Vua cũng quay lại, nhìn lên và thấy lăng mộ của người Đức Chúa Trời, là người đã báo trước những điều này.
17 Vua hỏi: “Lăng mộ ta thấy đó là lăng mộ của ai vậy?”
Dân trong thành ấy đáp: “Tâu đó là lăng mộ của người Đức Chúa Trời từ Giu-đa đến, để nói trước những điều này, mà vua đã làm hầu nghịch lại bàn thờ ở Bê-tên.”
18 Vua phán: “Hãy để người an nghỉ ở đó. Đừng ai lấy xương cốt của người đi.” Vậy họ để yên xương cốt vị tiên tri ấy ở đó, cùng với xương cốt của ông tiên tri ở Sa-ma-ri.
19 Ngoài ra, Giô-si-a cũng phá dỡ tất cả các đền miếu trên những nơi cao trong thành Sa-ma-ri, mà các vua Y-sơ-ra-ên đã xây dựng, để chọc giận CHÚA. Vua làm cho những nơi ấy giống như những gì vua đã làm tại Bê-tên. 20 Vua đem tất cả các thầy cúng của các tế đàn trên những nơi cao có mặt tại đó mà giết hết trên các bàn thờ, rồi đốt xương người ta trên các bàn thờ đó. Xong rồi vua trở về Giê-ru-sa-lem.
Giữ Lễ Vượt Qua
21 Vua truyền cho toàn dân: “Hãy tổ chức lễ Vượt Qua cho CHÚA là Đức Chúa Trời của chúng ta như đã chép trong sách giao ước.” 22 Từ thời các thẩm phán đoán xét trên dân Y-sơ-ra-ên, hay trong thời của các vua Y-sơ-ra-ên hay trong thời các vua Giu-đa, người ta chưa hề thấy một lễ Vượt Qua nào được tổ chức như vậy. 23 Nhưng vào năm thứ mười tám triều vua Giô-si-a lễ Vượt Qua này đã được tổ chức cho CHÚA tại Giê-ru-sa-lem.
24 Ngoài ra, Giô-si-a cũng diệt trừ những đồng bóng, những thầy bói, những thần riêng của mỗi nhà, những hình tượng, và mọi điều gớm ghiếc đã thấy trong xứ Giu-đa và tại Giê-ru-sa-lem. Vua làm vậy để thực hiện đúng theo những lời đã viết trong sách Kinh Luật mà thầy thượng tế Hinh-kia đã tìm được trong đền thờ CHÚA. 25 Trước vua, không có vua nào làm như vua; vua hướng về CHÚA hết lòng, hết linh hồn, và hết sức mà vâng theo mọi điều trong Kinh Luật của Môi-se; sau vua cũng chẳng có vua nào được như thế.
26 Dầu vậy CHÚA vẫn không nguôi cơn thịnh nộ của Ngài. Cơn giận Ngài đã nhen lên nghịch lại Giu-đa, vì tất cả những việc khiêu khích mà Ma-na-se đã làm. 27 CHÚA phán: “Ta sẽ dẹp bỏ Giu-đa khỏi mặt Ta, như Ta đã dẹp bỏ Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ loại bỏ thành Giê-ru-sa-lem này mà Ta đã chọn, cùng loại bỏ đền thờ này mà Ta đã nói: Danh Ta sẽ ngự tại đó.”
Giô-si-a Tử Trận
28 Những việc khác của Giô-si-a, tất cả những việc vua làm, há không được chép trong sách sử ký của các vua Giu-đa sao?
29 Trong thời của vua, Pha-ra-ôn Nê-cô, vua của Ai-cập, đem quân đi giúp đỡ vua của A-si-ri bên bờ sông Ơ-phơ-rát. Nhưng vua Giô-si-a kéo quân ra nghênh chiến. Vừa khi gặp vua Giô-si-a tại Mê-ghi-đô, vua Nê-cô liền giết chết vua Giô-si-a. 30 Các tôi tớ của vua từ Mê-ghi-đô mang xác vua về Giê-ru-sa-lem trên một xe chiến mã và chôn vua trong mộ của vua. Dân trong xứ lập Giô-a-cha, con trai vua Giô-si-a, xức dầu cho, và tôn người ấy lên làm vua kế vị cho cha.
Giô-a-cha Trị Vì Và Bị Lưu Đày
31 Giô-a-cha được hai mươi ba tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Ha-mu-ta, con gái của Giê-mê-mi ở Líp-na. 32 Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA như các tổ tiên vua đã làm. 33 Pha-ra-ôn Nê-cô bắt giam vua tại Ríp-lát, trong xứ Ha-mát, hầu cho vua không trị vì tại Giê-ru-sa-lem được nữa, và bắt xứ phải nộp triều cống gồm một trăm ta-lâng bạc và một ta-lâng vàng.[d] 34 Pha-ra-ôn Nê-cô lập Ê-li-a-kim, con trai Giô-si-a, lên ngôi làm vua kế vị cho cha là Giô-si-a và bắt đổi tên lại là Giê-hô-gia-kim. Còn Giô-a-cha thì bị bắt đem đi lưu đày ở Ai-cập và qua đời tại đó. 35 Giê-hô-gia-kim nộp cho Pha-ra-ôn số bạc vàng vua ấy yêu cầu, nhưng vua phải đánh thuế dân trong xứ để có số bạc vàng mà Pha-ra-ôn đòi hỏi. Vua bắt dân đóng thuế bằng bạc vàng tùy theo tài sản mỗi người, rồi lấy đó mà nộp cho Pha-ra-ôn Nê-cô.
Giê-hô-gia-kim Trị Vì Giu-đa
36 Giê-hô-gia-kim được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Xê-bi-đa, con gái của Phê-đa-gia ở Ru-ma. 37 Vua làm điều tội lỗi truớc mặt CHÚA, như các tổ phụ vua đã làm.
Giu-đa Bị Ngoại Bang Xâm Chiếm
24 Trong thời vua Giê-hô-gia-kim trị vì, vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn đi lên xâm chiếm xứ và vua Giê-hô-gia-kim phải thần phục trong ba năm. Nhưng sau đó vua đổi ý và chống lại vua Ba-by-lôn. 2 CHÚA sai các đạo quân Canh-đê, A-ram, Mô-áp, và Am-môn đến tấn công để hủy diệt Giu-đa theo như lời của CHÚA mà các tôi tớ Ngài là các vị tiên tri đã nói trước. 3 Việc này xảy đến cho Giu-đa quả hẳn là do lệnh của CHÚA, để dẹp bỏ họ khỏi trước mặt Ngài, vì cớ những tội lỗi của Ma-na-se, và vì mọi điều vua ấy đã làm, 4 và cũng vì những máu vô tội đã đổ ra nữa; vì vua ấy đã làm cho Giê-ru-sa-lem đầy tràn những máu vô tội, và CHÚA không muốn bỏ qua chuyện đó.
5 Những việc khác của Giê-hô-gia-kim, tất cả những việc vua làm, há không được chép trong sách sử ký của các vua Giu-đa sao? 6 Rồi Giê-hô-gia-kim an giấc với các tổ phụ mình, Giê-hô-gia-kin là con trai vua lên ngôi kế vị.
7 Vua của Ai-cập không dám ra khỏi xứ của mình nữa, vì vua của Ba-by-lôn đã chiếm tất cả lãnh thổ thuộc về vua Ai-cập từ khe Ai-cập cho đến sông Ơ-phơ-rát.
Giê-hô-gia-kin Trị Vì Và Bị Lưu Đày
8 Giê-hô-gia-kin được mười tám tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì được ba tháng tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Nê-hu-ta, con gái của Ên-na-than ở Giê-ru-sa-lem. 9 Vua làm điều tội lỗi trước mặt CHÚA, như các tổ tiên vua đã làm.
10 Trong lúc đó các tôi tớ của Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, kéo lên bao vây thành Giê-ru-sa-lem. 11 Vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn đến trước thành, đang khi quân đội của vua đang bao vây nó. 12 Vua Giê-hô-gia-kin của Giu-đa ra đầu hàng vua Ba-by-lôn; vua, mẹ vua, bầy tôi của vua, các tướng lãnh của vua, và các triều thần của vua. Vua Ba-by-lôn bắt vua Giê-hô-gia-kin đem giam trong ngục vào năm thứ tám của triều mình.
Giê-ru-sa-lem Thất Thủ
13 Vua Ba-by-lôn mang đi tất cả các kho tàng của đền thờ CHÚA, và các kho tàng của hoàng cung. Vua đập vỡ mọi khí cụ bằng vàng mà vua Sa-lô-môn đã làm cho đền thờ CHÚA, y như mọi lời mà CHÚA đã bảo trước. 14 Vua bắt đi mọi người dân Giê-ru-sa-lem, tất cả các tướng lãnh, tất cả những chiến sĩ dũng mãnh; gồm tất cả là mười ngàn người bị đem đi lưu đày. Tất cả các chuyên viên và những thợ rèn đều bị bắt đi hết, không chừa lại ai, ngoại trừ những người nghèo khó cùng cực trong xứ.
15 Vậy vua Ba-by-lôn bắt vua Giê-hô-gia-kin đem về Ba-by-lôn; cùng với mẹ của vua, các vợ của vua, các quan chức, và những người quyền quý trong xứ mà đem lưu đày họ từ Giê-ru-sa-lem qua Ba-by-lôn. 16 Vua Nê-bu-cát-nết-sa bắt đem về Ba-by-lôn bảy ngàn chiến sĩ, một ngàn chuyên viên và thợ rèn. Hết thảy đều là những người có khả năng chiến đấu. 17 Rồi vua ấy lập Ma-tha-nia, chú của Giê-hô-gia-kin, lên ngôi làm vua thế vị, và bắt đổi tên là Sê-đê-kia.
Sê-đê-kia Trị Vì
18 Sê-đê-kia được hai mươi mốt tuổi khi lên ngôi làm vua. Vua trị vì được mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Thân mẫu vua là bà Ha-mu-ta, con gái của Giê-rê-mi ở Líp-na. 19 Vua làm điều tội lỗi truớc mặt CHÚA, giống như Giê-hô-gia-kim đã làm. 20 Thật vậy, Giê-ru-sa-lem và Giu-đa đã chọc giận CHÚA đến độ Ngài phải loại bỏ chúng khỏi trước mặt Ngài.
Lúc ấy vua Sê-đê-kia nổi lên chống lại vua Ba-by-lôn.
Giê-ru-sa-lem Sụp Đổ
25 Năm thứ chín triều Sê-đê-kia, vào ngày mồng mười, tháng mười, vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn đem hết đạo quân mình đến tấn công Giê-ru-sa-lem và bao vây thành. Vua đóng trại bên ngoài và đắp lũy bao vây thành. 2 Vậy thành bị vây cho đến năm thứ mười một triều vua Sê-đê-kia. 3 Vào ngày mồng chín, tháng tư, nạn đói hoành hành trong thành dữ dội; dân chúng không có bánh ăn. 4 Trong khi đó thì quân Canh-đê phá được một lỗ thủng nơi vách thành. Ban đêm, vua và quân lính bỏ thành chạy trốn. Họ bỏ trốn qua cổng giữa hai bức tường, gần nơi vườn ngự uyển. Mặc dù biết có quân Canh-đê đang bao vây, họ vẫn nhắm hướng A-ra-ba mà chạy. 5 Nhưng quân đội Canh-đê rượt theo vua. Họ bắt sống được vua trong đồng bằng Giê-ri-cô. Quân đội của vua bèn tan rã. Họ bỏ vua mà đào thoát. 6 Vua bị bắt sống và đem về nộp cho vua Ba-by-lôn tại Ríp-lát. Chúng tuyên án vua. 7 Quân Canh-đê giết các con trai của vua Sê-đê-kia trước mắt vua; chúng móc mắt vua Sê-đê-kia, lấy xích đồng mà xiềng vua lại, rồi dẫn vua về Ba-by-lôn.
8 Vào ngày bảy, tháng năm, tức là năm thứ mười chín triều vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn, thì Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy quân thị vệ, tôi tớ của vua Ba-by-lôn, vào thành Giê-ru-sa-lem. 9 Ông phóng hỏa đốt đền thờ CHÚA, cung điện nhà vua, và tất cả nhà cửa trong thành Giê-ru-sa-lem. Ông cũng đốt hết thảy những dinh thự của các nhà quyền quý trong thành. 10 Rồi toàn quân Canh-đê theo lệnh của quan chỉ huy quân thị vệ đập phá những tường thành bao quanh Giê-ru-sa-lem. 11 Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy quân thị vệ, bắt đem lưu đày tất cả những người còn lại trong thành, những người đào ngũ theo vua Ba-by-lôn, và những chuyên viên còn sót lại trong dân, mà đem đi hết thảy. 12 Nhưng quan chỉ huy quân thị vệ có chừa lại một ít người nghèo khổ nhất trong xứ để trồng nho và làm ruộng.
13 Những trụ đồng trong đền thờ CHÚA, những giàn xe đồng, và chiếc bể đồng nơi đền thờ CHÚA đều bị quân Canh-đê cắt ra từng mảnh, rồi chở cả thảy số đồng đó về Ba-by-lôn. 14 Chúng cũng lấy đi những nồi đồng, vá đồng, dao, chén, và mọi vật dụng bằng đồng để dùng vào việc tế lễ trong đền thờ. 15 Quan chỉ huy quân thị vệ cũng lấy đi các lư hương, các chậu, và tất cả những dụng cụ bằng vàng và bằng bạc.
16 Còn hai trụ đồng, cái bể đồng, và các giàn xe đồng mà vua Sa-lô-môn đã làm cho đền thờ CHÚA, thì số đồng này quá nhiều, không thể cân được. 17 Mỗi trụ cao mười tám am-ma,[e] bên trên đầu trụ có táng bằng đồng, cao ba am-ma;[f] xung quanh táng được bao bằng lưới đồng và những trái thạch lựu đồng. Trụ đồng thứ nhì cũng thế, cũng có lưới đồng như vậy.
18 Quan chỉ huy quân thị vệ bắt thầy trưởng tế Sê-ra-gia, thầy phó trưởng tế Sô-phô-ni, ba viên chức canh cửa đền thờ, 19 lại cũng bắt một tướng chỉ huy quân đội trong thành, năm người trong bộ tham mưu của vua còn sót lại trong thành, quan bí thư là phụ tá của quan tổng tư lệnh quân đội, cũng là người đặc trách việc chiêu mộ quân binh trong xứ, cùng sáu mươi người của xứ bắt được trong thành. 20 Nê-bu-xa-ra-đan, quan chỉ huy quân thị vệ, bắt họ và dẫn họ đến vua Ba-by-lôn ở Ríp-ba. 21 Vua Ba-by-lôn truyền giết họ tại Ríp-ba, trong xứ Ha-mát. Như vậy, dân Giu-đa bị bắt đi lưu đày khỏi xứ sở họ.
Ghê-đa-lia Làm Tổng Trấn Giu-đa
22 Vua Nê-bu-cát-nết-sa chỉ định Ghê-đa-lia, con trai A-hi-cam, cháu của Sa-phan, làm tổng trấn trên dân cư còn sót lại trong xứ Giu-đa; đó là những người mà vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn còn chừa lại. 23 Khi các tướng lãnh chỉ huy quân kháng chiến và lực lượng của họ hay rằng Ghê-đa-lia đã được vua Ba-by-lôn bổ nhiệm làm tổng trấn, thì họ kéo nhau đến gặp Ghê-đa-lia tại Mích-ba. Đó là các ông Ích-ma-ên con trai Nê-tha-nia, Giô-ha-nan con trai Ca-rê-át, Xê-ra-gia con trai Tan-hu-mết ở Nê-tô-pha, và Gia-a-xa-nia con trai Ma-ca-thít. 24 Ghê-đa-lia thề với họ và những đội quân của họ rằng: “Đừng sợ các viên chức người Canh-đê. Cứ ở trong xứ, thần phục vua Ba-by-lôn, thì các ông sẽ bình an.”
25 Nhưng đến tháng bảy thì Ích-ma-ên con trai Nê-tha-nia, cháu của Ê-li-sa-ma, thuộc dòng hoàng tộc, đến tại Mích-ba, cùng với mười người theo ông. Họ vào giết chết Ghê-đa-lia, cùng với những người Giu-đa và Canh-đê đang ở với Ghê-đa-lia lúc đó. 26 Đoạn cả dân chúng, từ nhỏ đến lớn, cùng với các tướng lãnh và quân kháng chiến, đứng dậy, đi đến xứ Ai-cập, vì họ sợ người Canh-đê báo thù.
Vua Giê-hô-gia-kin Được Ân Xá
27 Năm thứ ba mươi bảy kể từ khi vua Giê-hô-gia-kin của Giu-đa bị lưu đày, tức là năm thứ nhất triều vua Ê-vin Mê-rô-đác, vào ngày hai mươi bảy, tháng mười hai trong năm đầu trị vì, vua phóng thích Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa, ra khỏi ngục. 28 Vua dùng lời tử tế nói với vua Giê-hô-gia-kin, và ban cho vua một ngôi vị cao hơn ngôi vị các vua cùng bị quản thúc tại Ba-by-lôn. 29 Vua cho Giê-hô-gia-kin cởi bỏ áo tù ra và hằng ngày được ngồi ăn đồng bàn với vua trọn đời mình. 30 Về việc cấp dưỡng cho vua Giê-hô-gia-kin thì vua Ba-by-lôn cấp dưỡng đều đặn và đầy đủ mỗi ngày cho đến khi vua ấy sống hết đời mình.
New Vietnamese Bible. Used by permission of VBI (www.nvbible.org)